DĨ VÃNG
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh

Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh

Hình 10: Hình vẽ lại các chân dung theo các ảnh chụp của Gsell, đăng trong
“La conquête du delta du Tong-kin” của Romanet de Caillaud (10).
Trong hình là Jean Dupuis, quan nhà Thanh và lính Vân Nam đi theo Jean Dupuis,
người Việt thượng lưu và người dân thường ở Bắc kỳ (Tonkin).

Hình 12: Cảng Saigon và nhà của ông Vương Thái, cột cờ Thủ Ngữ,
và rạch Bến Nghé ở bên trái (hình do Gsell chụp năm 1866)

Hình 13: Mộ người An Nam ở Saigon (1866)

Hình 14: Cảng Saigon, bức hình này sau đó được khắc vẽ lại
trong sách “La France illustrée” (1884) của V. A. Malte-Brun(2) và
bài của bác sĩ Albert Morice trong Tour du Monde, 1875.

Hình 15: Emile Gsell 1866, chụp ở Angkor trong chuyến đi thám hiểm sông Mekong
của Pháp do thuyền trưởng Doudart de Lagrée làm trưởng đoàn.

Hình 16: Emile Gsell, 1870. “Natives indochinois”. Hình trên giấy albumen.
Một trong những bức hình cổ xưa nhất về người dân tộc. Đây có lẽ là hình người Stieng hay Mạ
sống chung quanh Saigon hay ở Lâm Đồng (Tây Nguyên).
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh

Hình 20: Pun Lun (Tân Luân) –
Một viên chức ở Nam Kỳ (khoảng năm 1880).

Hình 22: Pun Ky (Tân Kỳ) – Tu viện St Enfance khoảng năm 1860. Để ý so sánh bức hình này
với hình của Émile Gsell chụp vào năm 1866 thì có thể thấy bức ảnh này xưa hơn
vì tu viện vẫn chưa có tường bao quanh tu viện như lúc Gsell chụp.

Hình 24: Các đứa bé dùng giỏ để mang hàng ở chợ
– carte postale in lại từ ảnh của Aurélien Pestel.

Hình 25: Những bà bán trái cây ở gần chợ Cũ Saigon
– carte postale in lại từ ảnh của Aurélien Pestel.
Hình 26: George Planté – Cảnh bên trong Bưu điện Saigon.
Ngày nay bản đia đồ trên tường vẫn còn nhưng tượng nữ thần đã biến mất.

Hình 27: George Planté – Công nhân trong nhà máy xay lúa, Chợ Lớn
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh

Hình 28: Khánh Ký (Saigon) – Chân dung một người Pháp, Portrait d'homme – vers 1920 –
Épreuve gélatino-argentique d'époque montée sur support cartonné.
Nom du photographe imprimé sur le montage. Ảnh bán đấu giá năm 2009. Nguồn

Hình 29: Khánh Ký (trước cổng ở giữa mặc tây phục áo đen)
và các thợ ảnh làng Lai Xá (20)

Hình 30: Khánh Ký – Đám tang Phan Châu Trinh, Saigon 1926 (20).
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh

Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20
ở Việt Nam và Saigon - Chợ Lớn
(Phần 1)
Nguyễn Đức Hiệp
“Quand je prends des
photos, ce n’est pas moi
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)
Từ khi bức ảnh
đầu tiên được chụp ở
Pháp vào năm 1826 bởi nhà phát
minh Joseph Nicéphore Niépce, thì cho đến
nay kỹ thuật nhiếp ảnh đã trải
qua nhiều giai đoạn phát triển lý
thú. Và qua những cố gắng và
sự đam mê của nhiều nhà nhiếp
ảnh từ giai đoạn đầu cho đến
ngày nay, chúng ta đã được
để lại nhiều di sản không những
có giá trị về lịch sử kỹ
thuật mà còn có giá trị to
lớn về văn hóa và xã hội.
Mục đích của
bài biên khảo này là tìm hiểu
về lịch sử nhiếp ảnh tại Việt
Nam bắt đầu từ khi kỹ thuật nhiếp
ảnh ra đời và phổ thông vào
giữa thế kỷ 19 ở Âu châu (đặc
biệt là Pháp), sau đó lan đến
Đông Dương do những nhà nhiếp
ảnh tiên phong người Pháp đến
Nam Kỳ (Cochinchine), Trung Kỳ (Annam) và Bắc
Kỳ (Tonkin) làm việc hay lập nghiệp,
cho đến các thập niên đầu
thế kỷ 20 khi các nhiếp ảnh gia người
Việt bắt đầu xuất hiện.
Họ là
những nhà nhiếp ảnh Pháp, Thụy
Sĩ, Bỉ - Hòa Lan, Hoa, Việt, Algérie
mà đa số là chuyên nghiệp, hoàn
toàn sống vào nghề mới mẻ này
và đa số cũng có văn phòng
chụp ảnh và rửa ảnh ở Saigon. Có
thể kể đến ông Émile Gsell với
các bức ảnh nổi tiếng ở Cam Bốt,
Nam Kỳ, Bắc Kỳ vào các năm trong
thập niên 1860, 1870 trong chuyến thám hiểm
Angkor, sông MeKong, và những ngày đầu
của Pháp khi họ đến ở Nam Kỳ,
Bắc Kỳ. Ông Pun Lun (繽 綸,
Tân Luân)
người Hoa từ Hồng Kông có văn
phòng nhiếp ảnh ở Saigon với các
bức ảnh Saigon cực kỳ hiếm có
trong thập niên 1860, 1870 và 1880; ông
Aurélien Pestel với các hình ở
Saigon vào cuối thế kỷ 19, và ông
Khánh Ký (Nguyễn Đình Khánh)
với các ảnh chụp trong các thập
niên 1920, 1930 của các nhà cách
mạng Việt Nam như Phan Châu Trinh, Nguyễn
An Ninh, Nguyễn Ái Quốc, hoặc cho tổng
thống Pháp Raymond Poincaré (1913), toàn
quyền Pierre Pasquier và các phóng sự
ảnh đăng trên báo L'Illustration
(1933) (1).
Ta cũng không quên
nhắc đến nhà nhiếp ảnh Thụy
Sĩ nổi tiếng Martin Hürlimann đã có
ghé Việt Nam năm 1926 và đã chụp
tại đây các bức ảnh đầy
nghệ thuật về đền tháp, tượng,
cảnh trí Champa ở miền Trung, và Hà
Nội ở miền Bắc Việt Nam.
Những hình ảnh
họ chụp từ giữa thế kỷ 19 đến
giữa thế kỷ 20 là những tư liệu
vô cùng quý giá cho nhiều đề
tài nghiên cứu lịch sử và xã
hội học ở Việt Nam. Hiện nay chúng
ta chưa khai thác hết được các
hình ảnh đã có hay vẫn còn
nằm ở các kho chứa dữ liệu hay
trong những bộ sưu tập tư nhân.
Như một ngạn
ngữ người Anh thường nói: một
tấm hình có giá trị bằng cả
ngàn chữ (A
picture is worth a thousand words),
các hình ảnh sinh hoạt đời sống
xã hội thường ngày và những
cảnh quan, nhà cửa, kiến trúc...
trong thời quá khứ do đó là cơ
sở mà tự nó có thể chứa
rất nhiều thông tin cho các công trình
nghiên cứu khoa học xã hội.
Đi đôi với
lịch sử nhiếp ảnh là lịch sử
phim ảnh. Cuốn phim được quay đầu
tiên ở Việt Nam có tên là “Le
Village de Namo – Panorama pris d’une chaise à
porteurs” do
hai anh em Lumière (Auguste và Louis) thực hiện
vào năm 1896 ở một làng gọi là
Namo (Nam Ô) gần Đà Nẳng, ngay sau khi
hai anh em người Pháp này sáng chế
ra máy quay phim vào năm 1895. Hai anh em trước
đó đã phụ giúp cha mình
trong nghề nhiếp ảnh, và từ đó
tìm ra được cách dùng cuộn
phim chạy liên tục trong camera. Sau sự kiện
lịch sử sáng chế máy quay phim (1895)
của mình, Ausguste và Louis Lumière đã
cho người đi đến nhiều nơi trên
thế giới để quay các phim ảnh,
mang lại những kỳ thú quan xa lạ ở
những xứ sở ngoại quốc (kể cả
các xứ thuộc địa) đến các
diễn giả ở Pháp (1).
Bài biên khảo này không có mục
đích đi sâu vào lịch sử
phim ảnh mà mục tiêu chủ yếu là
nhiếp ảnh và vì thế sẽ đề
cập đến lịch sử phim ảnh ở
Việt Nam trong một bài nghiên cứu sau.
Vài nét về lịch sử kỹ thuật nhiếp ảnh và nhiếp ảnh ở Việt Nam
Kỹ thuật nhiếp
ảnh từ thế kỷ 19 đến cuối
thế kỷ 20 có thể được tóm
tắt như sau:
Kỹ thuật Daguerreotype:
Năm 1837, Louis Daguerre
tìm ra phương pháp nhận hình ảnh
trên bảng đồng đã được
phủ trước đó trên mặt một
lớp “phim” với hóa chất silver
iodine (AgI2,
bạc iodine) hay silver
chloride (AgCl2,
bạc choride). Ảnh “chụp” sau đó
được tráng bằng hơi thủy ngân
(Hg) trên mặt phim, qua đó hơi thủy
ngân tụ lại trên hình, ở nơi
có phô ra ánh sáng và phản
ứng với hợp chất đẩy bạc ra
bám vào nền đồng. Cường độ
phản ứng tùy thuộc vào độ
ánh sáng đã đến trên mặt
phim. Phần còn lại hóa chất được
rửa đi bằng hóa chất sodium
thiosulphate.
Năm 1839, chính phủ
Pháp công bố phương pháp chụp
ảnh Daguerre
như một món quà cho nhân loại.
Các hình trên bảng đồng được
bảo vệ bằng một tấm kiếng phủ
trên mặt hình đặt trong khung gỗ
hay kim loại chung quanh. Vì có chất bạc
trên mặt hình nên mặt ảnh giống
như gương phản chiếu khi nhìn xoay
nghiêng theo nhiều góc độ. Các
ảnh dùng phương pháp daguerreotype
rất bền, nếu khung kính bảo vệ
trên mặt bảng đồng không bị
hư hại qua thời gian.
Trong giai đoạn sau
đó, máy ảnh không những đã
ghi lại những hình ảnh quen thuộc, các
sự kiện xảy ra ở Pháp, mà máy
ảnh còn làm ngạc nhiên nhiều
người ở Paris, gây nhiều ấn tượng
và khơi dậy sự tò mò của
quần chúng, khi các hình ảnh được
mang về từ những miền đất xa xôi,
những đất nước với phong tục
văn hóa kỳ lạ đối với họ,
do những nhiếp ảnh gia dùng máy ảnh
kỹ thuật daguerreotype
đã dày công sức mang theo trên
đường du hành (2).
Hình 1: Trang
quảng
cáo máy Dubroni, khoảng năm 1866 (trích
từ Le Monde
Illustré N°
462 - 17/02/1866) (8), cho thấy lúc này nhiều
người du hành đã đi đến
nhiều nơi trên thế giới như Trung
Đông để chụp ảnh.
Ký giả Hippolyte
Gaucheraud đã viết một đoạn như
sau trên một tờ báo, một ngày
trước khi ông Daguerre trình bày khám
phá của mình trước Hàn Lâm
Viện Khoa Học của Pháp ngày 7 tháng
1 1839 về tương lai của nhiếp ảnh
daguerreotype
(11): "Những
người du hành, không lâu nữa các
bạn sẽ có được, với một
giá tiền chỉ vài trăm francs, một
máy ảnh do ông Daguerre sáng chế, và
với máy này các hình ảnh sẽ
được mang trở lại Pháp, về
các công trình, các tượng, các
kỳ quan tuyệt đẹp, hay những cảnh
đẹp nhất thế giới. Các bạn
sẽ nhận thấy các viết chì và
các cọ của các bạn không thể
tạo ra hình nào bằng được
các hình ảnh do máy dùng kỹ
thuật daguerreotype mang lại.”
Tiên đoán của
ông Gaucheraud quả thật đúng. Chưa
đầy một năm sau thì những người
du hành đã đi đến các tinh
thành trong nước Pháp và đến
những xứ sở nước ngoài xa xôi,
mang theo các máy do Daguerre sáng chế.
Mặc dầu có khó khăn về sự
cồng kềnh và trong vấn đề tiếp
liệu các mảnh đồng để chụp
ảnh, cũng như sự hiểu biết và
sự thích hợp của kỹ thuật
Daguerre
ở những nơi đầy ánh sáng
như vùng Địa Trung Hải, khí hậu
rất nóng trong sa mạc ở Ai Cập hay
thiếu thốn hoá chất ở những cảng
xa như tại Viễn Đông; nhưng những
hình ảnh trên mảnh đồng mà
họ mang được về Pháp là
những hình ảnh quí hiếm cho phép
ta thấy được một khoảnh khắc
đời sống, hay sự kiện xảy ra ở
nhiều vùng trên thế giới vào
giữa thế kỷ 19.
Hình ảnh đầu
tiên rất hiếm chụp ở Việt Nam và
Đông Dương là thuộc phương
pháp Daguerre (gọi là daguerreotype).
Nhiếp ảnh gia Pháp Alphonse Jules Itier đi
theo phái đoàn Théodore de Lagrenée
trên đường qua Trung Quốc để
chụp hình ghi lại sự kiện ký
hiệp ước giữa Pháp và Trung quốc
vào năm 1844, đã có ghé Đà
Nẵng, để lại một bức ảnh
chụp đồn lính Việt Nam.
Kỹ thuật Ambrotype
Đây là phương
pháp dùng hóa chất “collodion”
phủ trên trên nền kính thủy
tinh. Phương pháp này được
sáng chế ở Anh, nó lần lần thay
thế phương pháp daguerreotype
vì giản tiện hơn, độ nhạy và
thời gian ghi ảnh (exposure) cũng nhanh hơn. Ở
Pháp phương pháp này gọi là
“Collodion
Positif”.
Phương pháp ambrotype
phát triển mạnh trong thời gian 1855 đến
1865. Phương pháp Daguerreotype
không còn thông dụng vào khoảng
thập niên 1860s.
Hình
2: Máy ảnh Ambrotype
hiệu Darlot, khoảng 1885, modèle: Chambre de voyage(8)
hiệu Darlot, khoảng 1885, modèle: Chambre de voyage(8)
Ở nhiều nơi như
Pháp, phương pháp “ambrotype”
vẫn còn được dùng cho đến
thập niên 1880, gần cuối thế kỷ
19 trước khi được hoàn toàn
thay thế bởi kỹ thuật “tintype”
trên sắt và kỹ thuật mới trên
phim và giấy.
Năm 1851, Frederick Scott
Archer tìm ra phương pháp làm ảnh
qua quá trình “bảng ướt”
(wet plate process), đôi khi gọi là quá
trình “collodion”
(collodion process) dựa theo tên hóa chất
được dùng trên nền (bảng)
kính. Hóa chất là bromide,
iodine hay chloride
(halogen gas) được hòa tan vào
collodion
(dung dịch pyroxylin
trong cồn hay ester). Dung dịch này sau đó
được chế lên mặt kính, sau
khi dung dịch đông lại nhưng vẫn
còn ướt thì người ta nhúng
kính vào một dung dịch khác gọi
là silver
nitrate. Iodine
và vì thế bromide
trên mặt kính sẽ phản ứng với
silver nitrate.
Kết quả là hợp chất chất silver
iodide (iốt
bạc) hay silver
bromide (bromit bạc)
sẽ được hình thành trên
kính.
Khi phản ứng hoàn
tất, kính được lấy ra khỏi
dung dịch silver
nitrate và
được đặt vào camera để
chụp trong khi vẫn còn ướt. Khi tia ánh
sáng chiếu lên mặt kính chứa
silver iodide
thì kim loại bạc (silver) sẽ trầm tích
làm tối lại và tùy theo cường
độ ánh sáng, độ tối (lượng
bạc) sẽ khác nhau. Vì mặt kính
sẽ mất đi độ nhạy nếu chất
đông chứa silver
iodide khô đi
nên cần phải dùng ngay càng sớm
càng tốt. Sau khi chụp ảnh xong trên
mặt kính, mặt kính còn ướt
chứa ảnh được rửa bằng dung
dịch có chứa sắt
sulphate (FeSO4),
acetic acid
và cồn.
Vì thế người chụp ảnh phải
mang theo hóa chất dung dịch để sửa
soạn trước khi và sau khi chụp.
Kỹ thuật Calotype (hay Talbotype)
Khoảng cùng thời
gian với kỹ thuật daguerreotype
và ambrotype
là kỹ thuật chụp và rửa ảnh
trên giấy gọi là “calotype”
do ông William Fox Talbot sáng chế. Quá
trình calotype,
mặc dầu hình ảnh không rõ qua
độ phân giải thấp so với
daguerreotype
nhưng nó có một lợi điểm
đặc biệt quan trọng: từ một ảnh
âm giấy duy nhất, hàng chục hay trăm
ảnh giống nhau được rửa ra. Vì
trên giấy nên dễ đuợc các
nghệ sĩ liên kết chung vào với
nghệ thuật họa hình, dễ gắn vào
các album, đóng khung như tranh hay mang vào
trong sách in. Vì thế vào đầu
thập niên 1850, kỹ thuật chụp ảnh
calotype
trên giấy bắt đầu thay thế kỹ
thuật daguerreotype.
Mặc dầu ở Mỹ daguerreotype
còn hiện diện lâu hơn nhưng ở
Pháp nó hầu như biến mất vào
đầu năm 1860. Kỹ thuật calotype
dùng ảnh âm giấy (paper-negative) rất
phổ biến và được dùng nhiều
nhất là cho những người đi du hành
hay du lịch.
Phương pháp
ambrotype
dùng kính cho hình ảnh rõ hơn
phương pháp calotype
trên giấy. Cả hai đều dùng ảnh
âm (negative) rồi từ ảnh âm mới
rửa ra hay nhân ra thành nhiều ảnh. Có
thể xem ambrotype
là kết hợp đặc tính tốt
nhất của daguerreotype
là rõ, có độ phân giải
cao và của calotype
là dễ nhân bản ra nhiều ảnh từ
ảnh âm, và phóng đại được
hình.
Trong thập niên
1850, có hai trường phái, một ủng
hộ ambrotype
và một ủng hộ calotype
và cả hai đều phổ thông trong
thời gian này trong khi daguerreotype
biến mất dần
vào khoảng thập niên 1860. Ambrotype
dùng kính rất phổ thông trong các
hình chụp chân dung vì ảnh rất
rõ, đủ nhanh trong khi calotype
dùng giấy âm được dùng
nhiều bởi các nghệ sĩ hay những
người đi du hành hay du lịch vì
sự tiện lợi của nó. Nói chung
ambrotype
được dùng trội hơn so với
calotype
trong thập niên 1860.
Sự phổ thông
của nhiếp ảnh đã được
hỗ trợ và thúc đẩy thêm
bởi sự thành lập của hội nhiếp
ảnh đầu tiên trên thế giới
vào năm 1851 ở Paris. Đó là hội
“Société
Héliographique”
(sau này gọi là “Société
Francaise de Photographie”,
SFP, và vẫn còn tồn tại cho đến
ngày nay). Hội này tổ chức các
buổi triển lãm ảnh, kỹ thuật
nhiếp ảnh, hội thảo, các sách
và tạp chí về nhiếp ảnh được
xuất bản (như tạp chí Lumière).
Hội viên không những từ khắp nước
Pháp mà còn có từ các nước
châu Âu khác.
Một vài thí du các ảnh chụp theo kỹ thuật ambrotype và calotype
Sau các ảnh chụp
ban đầu rất hiếm, dùng kỹ thuật
daguerreotype,
những bức ảnh chụp ở Việt Nam
dùng phương pháp ambrotype
(trên kính) và calotype
(trên giấy). Bức ảnh chân dung đầu
tiên của người Việt Nam là ảnh
của ông Phan Thanh Giản chụp ở Paris,
dùng phương pháp ambrotype
(collodion) trên kính, khi ông dẫn đầu
sứ bộ sang Pháp năm 1863 để hy
vọng chuộc lại ba tỉnh miền Đông
Nam bộ.
Trong bản tường
trình của chuyến đi này, “Tây
Hành Nhật Ký”,
Phó sứ Phạm Phú Thứ đã
viết như sau về kinh nghiệm của phái
đoàn tiếp xúc lần đầu với
máy ánh:
“...Còn phương
pháp chụp ảnh thì trước hết
lấy nước thuốc xoa vào miếng kính
rồi đặt vào ống; người đứng
phía trước nhìn thằng vào miệng
ống; hình người sẽ do ánh sáng
mặt trời in vào miếng kính, tơ
tóc không sai mảy may. Người Tây
rất thích chụp hình. Phàm mới
quen biết nhau, họ đều muốn được
bức ảnh của nhau để tỏ ý
nhớ nhau mãi mãi. Người sang kẻ
hèn cũng đều một một ý thức
như nhau. Vì thế, rồi từ hôm ấy
trở đi, các quan chức luôn luôn
đem thợ đến quán, yêu cầu
Thần đẳng để cho họ chụp mấy
tấm để tặng thần đẳng và
bạn hữu… “ (7)
Hình 3: Ảnh Phan
Thanh Giản chụp ở Paris dùng kỹ thuật
ambrotype
Ta cũng có thể
thấy các hình ảnh của nhà
nhiếp ảnh Gsell chụp năm 1866 ở Saigon,
miền Nam và Cam Bốt là thuộc kỹ
thuật ambrotype
hoặc calotype.
Hình 4: Tu viện
Sainte Enfance của các soeurs dòng thánh
Phao Lô (St Paul de Chartres) là tu viện nữ
tu đầu tiên ở Việt Nam Hai nữ tu
đầu tiên đến Saigon năm 1860, và
tòa nhà được xây dựng xong
vào năm 1864 theo thiết kế của Nguyễn
Trường Tộ. Hình trên của Émile
Gsell chụp năm 1866 tức hai năm sau khi xây
xong. Tòa nhà này sau đó vào
cuối thế kỷ 19 được thay thế
xây lại như còn lại hiện nay
(tháp chuông không còn) –
(Collection Gsell,
1866, ancien fonds du musée des colonies).
Sau đây là một
vài hình ảnh do thống đốc
Charles le Myre de Viliers, vị thống đốc dân
sự đầu tiên ở Nam Kỳ đã
chỉ thị là các công trình xây
dựng trong nhiệm kỳ của ông phải
được chụp ảnh để làm
tài liệu (4). Các ảnh này được
tồn trữ ở kho tư liệu Bộ Ngoại
giao Pháp, Quai d’Orsay, hơn 120 năm không
ai để ý cho đến năm 2002 thì
Tòa lãnh sự Pháp ở Saigon mới
mang ra triển lãm. Hình ảnh rất chi
tiết, máy ảnh thuộc loại lớn
(4), ảnh có màu đỏ có thể
là do chất hóa học phai màu hay cũng
có thể là do nền bằng kính
(ambrotype)
có nền đỏ sau lưng.
Hình 5: Kênh
Charner chụp năm 1882, sau này (1887) được
lấp thành đường Kinh lấp mà
ngày nay gọi là đường Nguyễn
Huệ. Bức hình này rất có thể
do nhiếp ảnh gia Émile Gsell chụp.
Hình 6: Bức hình
này thực sự là do Émile Gsell chụp
(thông tin theo một hình albumen
rửa từ bảng âm như hình này
được bán đấu giá năm
2007). Như vậy là ảnh phải được
chụp trước năm 1879 (năm ông mất)
chứ không phải là năm 1882 như
được ghi trong triển lãm của Tổng
Lãnh Sự Pháp ở Saigon.
Hình 7: Nhà thờ
Đức Bà, Notre Dame, năm 1882 (chưa có
tháp chuông, tháp chuông chỉ được
xây hai bên vào năm 1895). Hình này
gần giống như bức hinh của nhà
nhiếp ảnh Aurélien Pestel chụp.
Hình 8: Trại lính
bộ binh thuộc hải quân thuộc địa,
năm 1882. Con đường phia trước hinh
và tòa nhà ở giữa nay là
đường Đinh Tiên Hoàng. Một
phần của tòa nhà bên trái (nay
là thuộc trường Đại học Dược
khoa) và bên phải vẫn còn. Độ
phân giải của ảnh rất cao, nếu
“zoom” lớn sẽ thấy một người
lính quân phục trắng ở giữa tầng
trệt đang nhin về phia người chụp
ảnh và dưới gốc cây bên
trái là một người làm vườn
đang tưới cây.
Sáng chế rửa ảnh trên giấy tráng albumen
Ở cuộc triển
lãm kỹ nghệ các quốc gia (Great
Exhibition of the Works of Industry of All Nations) được
tổ chức ở London, Hyde Park năm 1851 trong lâu
đài kính ("Crystal
Palace"), có
hai sự kiện đáng chú ý là
sự ra đời của phương pháp
ambrotype
của Frederick Archer và sáng chế mới
của Désiré Blanquart-Evrard rửa in ảnh
nhanh chóng qua ánh sáng mặt trời
trên giấy tráng albumen.
Qua sáng chế giấy albumen
thay kính với giá thành các ảnh
rất rẻ, Blanquart-Evrard đã mở hãng
in ảnh “Imprimerie
Photographique”
đầu tiên ở Pháp (Lille) năm 1851
và in nhiều album ảnh.
Ảnh rửa trên
giấy albumen
nhanh chóng trở thành phổ thông được
ưa chuộng. Từ một ảnh âm, nhiều
ảnh được rửa và in ra trên
giấy. Các ảnh trên giấy này
cũng được dùng dễ dàng như
minh họa trong các sách in vì chúng
không cồng kềnh và không phản
chiếu ánh sáng làm chóa như
ảnh trên kính.
Cho đến thập
niên 1850, những nhà chụp ảnh chuyên
nghiệp dùng kỹ thuật daguerreotype
hay ambrotype
với độ phân giải cao trong khi những
người nghiệp dư dùng calotype
với độ phân giải thấp. Sự ra
đời của giấy in ảnh albumen
đều được đón nhận hồ
hởi bởi cả hai giới và đã
thành công vượt bực. Khoảng cách
kỹ thuật và giới hạn giữa các
nhà chụp ảnh nghiệp dư và chuyên
nghiệp đã được thâu ngắn
lại.
Ảnh âm dùng
để rửa ra ảnh trên giấy albumen
thường là thuộc loại calotypes
(talbotype)
trên giấy hay thuộc loại "colladion âm"
(colladion-negative
tức ambrotype)
trên kính. "Bảng âm ướt
colladion" (colladion wet-plate negative) dùng ngay sau
khi người chụp ảnh vừa tráng xong
chất hóa học lên mặt kính và
gắn kính vào trong camera để sửa
soạn chụp. Vì bảng "colladion âm"
có độ phân giải cao nên chúng
thay thế dần ảnh âm trên giấy.
Ảnh trên giấy
albumen
được rửa từ bảng "colladion
âm" đặt trên khung gỗ, bằng
phản ứng hóa
học khi đưa thẳng ra ánh sáng mặt
trời. Nếu trong ngày có mây và
ít ánh nắng, thì phải mất
khoảng 1 đến 5 phút để bức
ảnh được hoàn thành. Sau đó
giấy albumen
có ảnh vừa tạo, được tân
trang thêm trong phòng sáng; thường
thì các ảnh được viền khung
chung quanh trước khi đưa cho khách hàng.
Ta có thể nhận
thấy các ảnh in dùng albumen
lâu ngày thường bị ngả màu
vàng nâu như đa số các “carte
postales” chụp
và rửa trên giấy albumen
vào đầu thế kỷ 20.
Kỹ thuật Tintype (hay ferrotype)
Kỹ thuật “tintype”
được sáng chế vào năm 1856 ở
Mỹ bởi giáo sư hóa học Hamilton
Smith. Phương pháp này không mới,
chỉ là cải tiến trên phương
pháp ambrotype:
thay vì hình trên mặt kính thì
đổi qua trên mặt kim loại sắt hay
thiếc. Phương pháp này rất phổ
thông ở Mỹ bắt đầu từ thời
nội chiến Nam - Bắc cho đến cuối
thế kỷ 19.
Mặt trên tấm
kim loại làm bằng sắt (Fe) được
phủ bởi một chất hóa học màu
đen (chúng thường được dùng
trong sơn mài), chất hóa học này
có xuất xứ từ Nhật nên được
gọi là japan.
Chất này làm mặt tấm sắt không
bị rỉ sét và làm mặt kim loại
trở thành nhẵn, dựa trên đó
hình ảnh sẽ được in rửa ra
Carte de Visite (CDV)
Cuối
thập niên 1850, Andre Disdéri đưa ra các
ảnh dạng Carte
de Visite
(CDV) (3). Đây là một loại ảnh
trên giấy có tính chất thương
mại phổ thông. CDV dễ sản xuất
hàng loạt và rẻ so với tintype và
dùng albumen
(chất trong lòng trắng của trứng gà)
tráng trên giấy sau đó là lớp
silver
chroride.
Mặc dầu không bền như ambrotype
hay tintype
nhưng độ phân giải cũng cao và
giá lại rẻ cho người tiêu dùng
và quan trọng là không cồng kềnh,
dễ dùng vì vậy nên phổ thông
trong mọi tầng lớp.
CDV sản
xuất dễ và rẻ so với tintype
và phẩm chất cũng tốt nên vì
thế đến với quần chúng tiêu
thụ rộng rãi hơn, mặc dầu không
bền như tintype vì hình trên giấy
(thay vì trên sắt) và khi để lâu
albumen
ngả màu vàng nâu.
Kỹ thuật nhiếp ảnh trên phim nhựa
Năm
1884, ông George Eastman ở Mỹ sáng chế
ra phương pháp chụp ảnh trên giấy
và phim nhựa dùng chất hóa học
nhờn khô. Năm 1888, máy chụp ảnh
Kodak ra đời dùng cuộn phim, người
chụp ảnh không cần phải mang theo các
bảng (plate) và chất hóa học. Chỉ
cần bấm để chụp ảnh, còn
việc tráng, rửa là do công ty
"Eastman
Dry Plate Company"
đảm nhiệm. Đến cuối thế kỷ
19 và đầu thế kỷ 20 thì nhiếp
ảnh tân thời như ta biết hiện nay
thực sự ra đời và đi đến
quần chúng rộng rãi (trước khi
có nhiếp ảnh số, digital photography, vào
đầu thế kỷ 21).
Hình 9: Máy ảnh
hiệu Demaria-Lapierre, model: caleb. Ra đời khoảng
năm 1914 (8)
Nguyễn Đức Hiệp
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20
ở Việt Nam và Saigon - Chợ Lớn
(Phần 2-1)
Nguyễn Đức Hiệp
“Quand je prends des
photos, ce n’est pas moi
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)
Phần này
phác họa về tiểu sử và tác
phẩm nhiếp ảnh của một vài nhà
nhiếp ảnh tiên phong ở Việt Nam và
thành phố Saigon-Chợ Lớn vào thế
kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 và
qua đó ta sẽ thấy rõ lịch sử
nhiếp ảnh Việt Nam trong giai đoạn đầu.
Émile Gsell (1838-1879)
Émile Gsell là nhà nhiếp
ảnh chuyên nghiệp và thương mại
đầu tiên ở Saigon. Ông được
gởi đến Nam kỳ vì nghĩa vụ
quân sự, nhưng sau đó ông được
giải ngũ khi được thuyền trưởng
(capitaine de frégate) Ernest Doudart de Lagrée tuyển
dụng vào đoàn thám hiểm sông
Mekong (Commission d’exploration du Mékong) cùng
với trung úy (lieutenant de vaisseau) Francis Garnier,
năm 1866-1868. Ông là người đầu
tiên chụp ảnh đền Angkor với các
đoàn thám hiểm. Sau chuyến đi
này, ông mở văn phòng nhiếp ảnh
ở Saigon, Gsell Photographie,
bán các hình ảnh đền Angkor rất
thành công. Ông còn chụp rất
nhiều hình ảnh về cảnh quan, đời
sống ở Saigon và các nơi khác ở
Nam Kỳ...
Năm 1873 ông trở lại Angkor
cùng với trung úy Louis Delaporte (người
cùng đi với ông trong chuyến thám
hiểm trước của Doudart de Lagrée). Ông
cũng chụp hình cảnh quân Pháp
(Francis Garnier) đánh thành Hà Nội
vào năm 1873. Trong thời gian 11/1876-1/1877, ông
theo chân trung úy hải quân Kergadarec trở
lại sông Hồng. Trong hai dịp này cùng
đi với ông là nhà nhiếp ảnh
chuyên nghiệp Jean Baptiste Pellissier. Ông là
người đầu tiên chụp chân dung
của một phụ nữ Việt Nam ở Bắc
kỳ (Tonkin).
Hình 10: Hình vẽ lại các chân dung theo các ảnh chụp của Gsell, đăng trong
“La conquête du delta du Tong-kin” của Romanet de Caillaud (10).
Trong hình là Jean Dupuis, quan nhà Thanh và lính Vân Nam đi theo Jean Dupuis,
người Việt thượng lưu và người dân thường ở Bắc kỳ (Tonkin).
Ông có triển lãm hình ở hội
chợ thế giới Vienne (Áo) và được
huy chương triển lãm. Ông tìm
hiểu, tập trung để ý đến
chụp hình về đời sống, tập
tục của người dân bản xứ.
Phòng studio chụp hình của ông ở
Saigon gần nhà những người Việt
giàu có và họ thường đến
để được ông chụp chân
dung cho họ (1).
Hình 11: Émile Gsell, Ảnh
chân dung một
phụ nữ Bắc Kỳ (Tonkin). Để ý
nón quai thao rộng thời bấy giờ ở
các miền từ Bắc đến Nam như
nhau, bình và đôi hài trước
phông hình.
Gsell mất khi vẫn còn trẻ,
lúc 41 tuổi, ở Saigon vào ngày 16
tháng 10 năm 1879. Lúc gần cuối đời
ông có chụp ảnh các công trình
kiến trúc và công chánh ở
Saigon. cho thống đốc dân sự Le Myre De
Viliers.
Sau khi ông mất, các tư
liệu ảnh ông để lại được
ông O.Wegener dùng, và sau đó là
ông Vidal kế thừa. Ông Vidal dùng tư
liệu này trong mục đích thương
mại cho đến khi ông mất vào năm
1883. Những hình ảnh của Gsell cũng
được đăng trong một bài viết
của Francis Garnier về Angkor (Le
Tour du Monde, 1870-1871), của
ông Romanet de Caillaud trong “
La conquête du delta du Tong-kin”
(Le Tour du Monde,
1877/2), và trong bài của Brossard de Corbigny về
“Tám ngày trong đoàn ngoại giao
ở Huế” (“Huit
jours d’ambassade à Hué”) đăng trong Le Tour du
Monde,1878/1, trong bài có
ghi chú là Gsell được hoàng đế
An Nam cho phép chụp ảnh.
Cách đây không lâu trong tháng
12 năm 2007, bộ album ảnh gồm khoảng 350
tấm của Gsell được đưa ra bán
đấu giá bởi Galerie Bassenge ở
Berlin trong đó có vài ảnh có
chữ ký của Gsell ghi trong bảng âm,
vài ảnh có ghi chú bằng bút
chì ở dưới ảnh và tất cả
các ảnh chụp ở Angkor đều có
tựa hàng chử in bên dưới trên
khung ảnh (14).
Trang đầu của bộ album ảnh là
hình do Gsell chụp toàn bộ, khoảng
120 tấm ảnh carte-de-visite (CDV), ở giữa
ảnh có tên studio phòng ảnh của
ông ở Saigon, Gsell Photographie. Đây
là nguồn thông tin để có thể
nhận ra được tác giả một số
ảnh ở Đông Dương mà trước
đây không ai biết người chụp.
Trong bộ ảnh này có các hình
chụp ở cảng Saigon, tàu buồm đậu
ở bến, dinh thống đốc ở Saigon,
các ảnh tòa nhà, dinh thự ở
Đông Dương khi Pháp mới đến
và bắt đầu xây dưng thành
phố Saigon. Nhiều ảnh các quan chức
cao cấp, giám mục, diễn viên kịch,
hát bội, lính cũng như các chùa
đền, tượng, các khu định cư
và các làng mạc của người
bản xứ.
Hình 12: Cảng Saigon và nhà của ông Vương Thái, cột cờ Thủ Ngữ,
và rạch Bến Nghé ở bên trái (hình do Gsell chụp năm 1866)
Hình 13: Mộ người An Nam ở Saigon (1866)
Hình 14: Cảng Saigon, bức hình này sau đó được khắc vẽ lại
trong sách “La France illustrée” (1884) của V. A. Malte-Brun(2) và
bài của bác sĩ Albert Morice trong Tour du Monde, 1875.
Hình 15: Emile Gsell 1866, chụp ở Angkor trong chuyến đi thám hiểm sông Mekong
của Pháp do thuyền trưởng Doudart de Lagrée làm trưởng đoàn.
Hình 16: Emile Gsell, 1870. “Natives indochinois”. Hình trên giấy albumen.
Một trong những bức hình cổ xưa nhất về người dân tộc. Đây có lẽ là hình người Stieng hay Mạ
sống chung quanh Saigon hay ở Lâm Đồng (Tây Nguyên).
Xem tiếp theo...
Chú thích
(2) V. A
Malte-Brun là người đầu tiên
gọi Việt Nam- Lào–Cam Bốt là Indochine (Đông Dương).
(3) Sau hơn
2000km thám hiểm sông
MeKong, Doudart de Lagrée đã chết vì kiệt sức và bệnh gan ở Vân Nam,
ông Carné sau chuyến thám hiểm cũng chết vì kiệt sức. Trên đường bộ đi
đến Côn Minh, đoàn thám hiểm gần như tình cờ khám phá ra nguồn của sông
Hồng chảy ra vịnh Bắc Việt. Thay vì theo ngã sông Mekong từ cảng Saigon
(lúc đó thuộc Pháp) đến Vân Nam, thì đường từ cảng Hải Phòng lên Vân
Nam theo sông Hồng ngắn và dễ dàng hơn hết. Đây chính là cơ sở để Pháp
đánh chiếm Bắc Kỳ. Lịch sử sẽ khác đi nếu không có sự tình cờ này. Từ
Côn Minh, đoàn đi lên phía bắc ở tỉnh Tứ Xuyên, thượng nguồn của sông
Dương Tử. Và từ đây đoàn xuôi dòng ra bờ biển gần Thượng Hải, rồi từ đó
trở về Saigon theo đường biển. Sau chuyến đi thám hiểm nổi tiếng này,
Garnier được Hội địa lý Hoàng gia Anh tặng thưởng và so sánh cuộc thám
hiểm của ông như cuộc thám hiểm đầy gian truân của Bác sĩ Livingstone
trên sông Congo ở Phi Châu (19).
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20
ở Việt Nam và Saigon - Chợ Lớn
(Phần 2-2)
Nguyễn Đức Hiệp
“Quand je prends des
photos, ce n’est pas moi
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)
Pun Lun (繽 綸)
Pun Lun (Tân Luân) là nhiếp ảnh gia
người Hồng Kông nổi tiếng thuở
ban đầu ở Hồng Kông trong thập
niên 1860. Văn phòng và cơ sở
thương mại của ông ở trung tâm
thành phố Hồng Kông, số 56 Queens
Street, đối diện với Oriental Bank.
Ngoài nhiếp ảnh ông có nghề
thương mại vẽ và trạm hình
trên ngà voi.
Ông có chi nhánh văn phòng nhiếp
ảnh ở Saigon, Phúc Châu, Singapore. Ông
hoạt động từ thập niên 1860 đến
1880, cùng thời với cơ sở của nhà
nhiếp ảnh A Fong (華 芳,
Hoa Phương) ở Hong Kong (1859 đến 1941).
Ông được coi là nhà nhiếp
ảnh tiên phong trong lịch sử nhiếp ảnh
Trung Quốc hiện nay.
Một số ảnh văn phòng nhiếp ảnh
của ông chụp ở Saigon là những
ảnh xưa nhất ở Saigon, xưa hơn cả
các ảnh của Gsell.
Hình 18: Pun-Lun (Tân
Luân) –
Một người Hoa ở Saigon, chụp khoảng năm 1870 – Ảnh CDV |
Hình 19: Pun Lun (Tân Luân) - 1880 Chân dung người Saigon (một phụ nữ buôn bán người Việt đội hàng trên đầu và có lẽ một thương nhân người Hoa đang cầm dù) – Ảnh loại CDV |
Tân Luân có nhiều ảnh chụp ở
Saigon, trong đó có ảnh đẹp, chụp
rất nghệ thuật một viên chức ở
Nam Kỳ “Un notable Indochinois” (chụp
khoảng năm 1880. Hình trên giấy
albuminé, kích thước 16 x 20 cm) như
hình dưới đây.
Hình 20: Pun Lun (Tân Luân) –
Một viên chức ở Nam Kỳ (khoảng năm 1880).
Bức ảnh chân dung tuyệt diệu “Một
viên chức ở Nam Kỳ” chụp cách
đây hơn 130 năm là tuyệt tác
của Tân Luân, có thể so sánh
bức ảnh này với bức ảnh nghệ
thuật không kém, chụp chân dung người
phụ nữ Bắc Kỳ do Émile Gsell chụp
khoảng năm 1876.
Một số ảnh khác ở Saigon, có đề
tên Pun Ky (Tân Kỳ) đằng sau ảnh
có thể là người đại diện
cho ông Tân Luân (Pun Lun) ở Saigon và
chắc cũng có liên hệ gia đình
với ông Tân Luân ở Hồng Kông.
Hình 21: Pun Ky (Tân
Kỳ) - Thượng
tọa
với hai đệ tử |
Hình 23: Pun Ky (Tân
Kỳ) –
Một vị lãnh đạo người Cam
Bốt – khoảng năm 1880 – hình CDV
trên giấy albuminé
|
Hình 22: Pun Ky (Tân Kỳ) – Tu viện St Enfance khoảng năm 1860. Để ý so sánh bức hình này
với hình của Émile Gsell chụp vào năm 1866 thì có thể thấy bức ảnh này xưa hơn
vì tu viện vẫn chưa có tường bao quanh tu viện như lúc Gsell chụp.
Aurélien Pestel (1855-1897)
Có thể nói ông Pestel là nhà
nhiếp ảnh tiên phong tài ba nhất vào
cuối thế kỷ 19 ở Saigon. Lúc ban đầu
công việc của ông Pestel không có
liên hệ trực tiếp đến nhiếp
ảnh, nhưng sau đó ông trở thành
nhiếp ảnh chuyên nghiệp lúc ông
ở Cam Bốt, sau đó là Saigon, nơi
ông mất năm 1897 ở số 10 Đại
lộ Charner.
Chất lượng những hình ảnh ông
chụp đã làm ông trở thành
như một sứ giả đại diện cho
Đông Dương trong Triển lãm Thế
giới năm 1894 ở Lyon (1). Ông đã
trưng bày một bộ album đầy ấn
tượng hiếm quí về Nam Kỳ và
Cam Bốt. Bộ album này chính nó cũng
là một tác phẩm nghệ thuật, về
phương diện dán những hình ảnh
lại dùng kỹ thuật sơn mài truyền
thống Việt Nam. Một số tác phẩm
của Pestel có thể được xem tại
kho chứa dữ liệu bộ ngoại giao Pháp
(13).
Các hình của Pestel đã được
Pierre Barrelon dùng minh họa trong bài viết
"Saigon" của Barrelon đăng trong "Le
Tour du Monde", năm 1893 và bởi E.
Aymonier trong bài về Cam Bốt trong số năm
1900. Những hình của ông về kỹ
nghệ thuốc phiện trong bộ ảnh năm
1894 đã được tạp chí nổi
tiếng "L' Illustration" công bố
vào năm 1896.
Những ảnh của ông Pestel được
đăng trong các thông báo liên
quan đến Đông Dương nhân dịp
Hội chợ thế giới năm 1900, cùng
với các hình ảnh của bác sĩ
Victor Le Lan, và của ông Fernand Blanchet. Bộ
sưu tập series ảnh CDV "Les éditions La
Pagode", ở Saigon có dùng một số
ảnh của Pestel, nhất là bộ ảnh
"Main de lettré annamite". Ông có
chụp các ảnh bên trong nhà của
ông tổng đốc Phương ở Chợ
Lớn (nhà này ở đường Châu
Văn Liêm và hiện nay không còn
nữa). Người kế nhiệm Pestel, ông
Planté cũng in lại trên các "carte
postales" (édition La Sarcelle) những ảnh đẹp
nhất của Pestel.
Văn phòng studio, số 10 Đại lộ
Charner, của ông sau khi ông mất được
Négadelle xử dụng, sau đó là
Paullussen, và cuối cùng là ông
Planté. Tất cả đều là nhiếp
ảnh gia có tiếng ở Saigon sau này.
Hình 24: Các đứa bé dùng giỏ để mang hàng ở chợ
– carte postale in lại từ ảnh của Aurélien Pestel.
Hình 25: Những bà bán trái cây ở gần chợ Cũ Saigon
– carte postale in lại từ ảnh của Aurélien Pestel.
George Victor Planté (1847-1921)
Planté sinh ngày 2 tháng 3 1847 ở Pháp
và mất ở Saigon năm 1921. Lúc đầu
khi đến Nam Kỳ, năm 1867, ông làm
ở Sở quan thuế và kiểm hoạt
(Service des Douanes et Régies de l’Indochine, sở
này có xưởng làm thuốc phiện
ở đường Paul Blanchy, Hai Bà Trưng
ngày nay, sau Nhà hát thành phố).
Sau đó vào năm 1893, ông trở
thành nhà nhiếp ảnh và biên
tập in các ảnh cartes postales (1).
Sau năm 1905, ông dời đến số 10 đại
lộ Charner, cùng địa chỉ với các
ông Aurélien Pestel, Négadelle và
Paullussen trước đó: trong niên giám
Đông Dương "Annuaire de l’Indochine
de 1907" (trang 188) có hình chân dung
ông và ghi các hoạt động của
ông là "Portraits en tous genre. Agrandissements
au gélatino-bromure. Vues de Cochinchine et des ruines
d’Angkor (sur papier gélatino-bromure). Grande
collection de cartes postales illustrées" ("Chụp
chân dụng đủ loại. Phóng lớn
trên giấy gélatino-bromure. Cảnh Nam
Kỳ và di tích Angkor (trên giấy
gélatino-bromure). Bộ sưu tập lớn
các ảnh cartes postales")
Ông làm việc theo cách riêng biệt
tùy theo mỗi khách hàng, và bán
các cartes postales từ năm 1905. Trong số
các cartes postales này có hình
chân dung của vua Thành Thái, và các
hình chụp của ông Pestel. Người
thay thế Planté sau này là ông
Crespin. Trong niên giám Đông Dương
năm 1922 có ghi một người tên
Jules Louis Planté, sinh năm 1891, làm việc
ở sở Quan thuế và kiểm hoạt Đông
Dương (Douanes et régies de l'Indochine), có
thể đó là con ông.
Hình 26: George Planté – Cảnh bên trong Bưu điện Saigon.
Ngày nay bản đia đồ trên tường vẫn còn nhưng tượng nữ thần đã biến mất.
Hình 27: George Planté – Công nhân trong nhà máy xay lúa, Chợ Lớn
Xem tiếp theo...
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20
ở Việt Nam và Saigon - Chợ Lớn
(Phần 2-3)
Nguyễn Đức Hiệp
“Quand je prends des
photos, ce n’est pas moi
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)
Nguyễn Đình Khánh (tự Khánh Ký) (1884-1946)
Ông Nguyễn Đình Khánh, tên thật
là Nguyễn Văn Xuân tự Khánh Ký,
sinh năm 1884 ở làng Lai Xá, Hà Đông
(nay thuộc Hà Nội). Sau tiệm ảnh đầu
tiên của người Việt Nam “Cảm
Hiếu Đường” ở phố Thanh Hà,
Hà Nội năm 1869, do ông Đặng Huy
Trứ làm chủ thì tiệm ảnh Khánh
Ký khai trương năm 1892 ở Phố Hàng
Da, Hà Nội là tiệm ảnh thứ hai.
Nhưng khác với tiệm ảnh trước,
ông Khánh Ký ngoài chuyên về
chụp hình chân dung, ông còn mướn
và huấn luyện cho nhiều người mà
đa số là từ làng Lai Xá nghề
chụp ảnh và mở nhiều tiệm nhiếp
ảnh ở Nam Định (1905), Saigon (1907) sau này
ở Toulouse (1910 khi ông mới sang Pháp) và
ở Paris. Khi trở về Việt Nam năm 1924
ông mở tiệm ảnh ở Hà Nội,
Quảng Châu, Hải Phòng, Nam Định,
Saigon. Làng Lai Xá ngày nay có truyền
thống nghề nhiếp ảnh là nhờ ông
Khánh Ký (20).
Ông hoạt động nhiếp ảnh ở
Saigon nhiều nhất trong các năm 1924 đến
năm 1933. Văn phòng Saigon của ông ở
số 54 Boulevard Bonard (Lê Lợi). Cơ sở
của ông Khánh Ký ở Saigon năm
1934 mướn 27 nhân viên kể cả những
người trong phòng chụp ảnh, phòng
rửa hình, chỉnh hình và bán
hàng. Từ năm 1917, ông là người
chụp ảnh chân dung cho tất cả các
viên toàn quyền Pháp ở Đông
Dương, cũng như hoàng đế Việt
Nam, vua Cam Bốt và Lào (4).
Các hình của cơ sở ảnh của
ông có mang dấu ấn “Khanh Ky
photo, Hanoi”, “Photo Khanh Ky Saigon”
(1). Ông cũng chụp ảnh cho Hội nghiên
cứu Đông Dương (Société des
études indochinoises). Một số ảnh của
ông cũng có đăng trên báo
“Monde colonial illustré (1931)” trong số
đặc biệt nhân dịp Hội chợ
triển lãm thuộc địa (Exposition
coloniale, 1931) và số năm 1932 sau khi Bộ
trưởng thuộc địa, Paul Reynaud, đến
viếng Đông Dương.
Hình 28: Khánh Ký (Saigon) – Chân dung một người Pháp, Portrait d'homme – vers 1920 –
Épreuve gélatino-argentique d'époque montée sur support cartonné.
Nom du photographe imprimé sur le montage. Ảnh bán đấu giá năm 2009. Nguồn
Ông cũng chụp một bức ảnh chân
dung toàn quyền Đông Dương, Pierre
Pasquier, người bảo trợ hoàng đế
Bảo Đại và nhà cách mạng
Nguyễn An Ninh. Trên báo “L'Illustration”
số 4740, năm 1933 “Le voyage de l'empereur
d'annam du Tonkin”, ông có các ảnh
phóng sự của ông về chuyến viếng
thăm của hoàng đế Bảo Đại
ở Bắc Kỳ.
Hình 29: Khánh Ký (trước cổng ở giữa mặc tây phục áo đen)
và các thợ ảnh làng Lai Xá (20)
Hình 30: Khánh Ký – Đám tang Phan Châu Trinh, Saigon 1926 (20).
Ông có trong Ủy ban tổ chức lể
an táng Phan Châu Trinh (4) ở Saigon
năm 1926. Bộ ảnh tang lễ cùng quang
cảnh Saigon lúc đám tang là do Khánh
Ký thực hiện. Năm 1932, ông sang Nhật
có tiếp xúc với những người
trong phong trào Đông Du lúc trước,
khi về nước ông cổ xúy cho phong
trào và bị Pháp bắt với tội
liên hệ với Cường Để và
các thế lực thân và phục vụ
Nhật.
Hình 31: Quảng cáo cơ sở
nhiếp
ảnh của ông Khánh Ký ở Saigon
vào thập niên 1930 – nguồn
vào thập niên 1930 – nguồn
Hình 32: Những người múa,
danseuses –
Góc ảnh có ghi hàng chữ nổi
“Khanh Ky et Cie, 54 Bd Bonnard Telephone No. 410”. Nguồn
“Khanh Ky et Cie, 54 Bd Bonnard Telephone No. 410”. Nguồn
Cơ sở thương mại của ông sau
đó bị phá sản. Ông Khánh
Ký trở lại Pháp vào năm 1934,
tiếp tục kinh doanh trong nghề ảnh và
mất ở Pháp năm 1946. Ông Hồ Chí
Minh khi qua Pháp dự hội nghị Fontainebleau
vào năm 1946 đã có đến
viếng thăm mộ Khánh Ký, người
đã giúp đỡ Hồ Chí Minh
trong những ngày khó khăn tìm việc
ở Paris khi mới đến Pháp.
Gabriel Auguste Paullussen
Bộ hình dưới đây (trong đó
có chụp hình Thống tướng Joffre
đi đến Chợ Lớn trước trạm
điện tín nối Đông Dương
với Marseille) là do nhà nhiếp ảnh
Auguste Gabriel Paullussen chụp năm 1921. Trong hình
là văn phòng studio "Saigon-photo"
của ông ở số 10 Boulevard Charner (nay là
đường Nguyễn Huệ). Ông Paullussen
mướn 1 người Hoa và 5 người
Việt làm việc cho studio của ông (1)
Ông nối nghiệp nhà nhiếp ảnh
George Victor Planté mà văn phòng ở
cùng địa chỉ như trên. Ông
Planté đã có nhiều bộ ảnh
"carte postale" Saigon nổi tiếng trước
đó. Sau khi ông Planté mất vào
năm 1921, ông Paullussen nối nghiệp.
Năm sinh và ngày mất của Paullusen
cũng như cuộc đời và sự
nghiệp của Pallussen không được
biết rõ so với các nhà nhiếp
ảnh khác. Trong bộ sưu tập nhiếp
ảnh và lịch sử ảnh của nhà
nhiếp ảnh và nhà sáng chế nghệ
thật ảnh Gabriel Cromer, hội viên của
hội đồng quản trị “Société
Française de la Photographie” có còn
giữ bức thư của Paullussen gởi Cromer
khen một sáng chế của Cromer (bộ sưu
tập này hiện nay thuộc bảo tàng
nhiếp ảnh của công ty Kodak, George Eastman
House).
Hình 33: Gabriel Paullussen
– “Saigon-photo",
số 10 Boulevard Charner
Hình 34: Gabriel Paullussen
– Thống tướng
Joffre;
Chợ Lớn, trước trạm điện tín nối Đông Dương qua Marseille tới Tour Eiffel.
Chợ Lớn, trước trạm điện tín nối Đông Dương qua Marseille tới Tour Eiffel.
Martin Hürlimann (1897-1984)
Hürlimann là nhiếp ảnh gia nổi tiếng
người Thụy Sĩ. Ông đi nhiều
vùng trên thế giới trong những thập
niên 1920, 1930, 1940 và chụp những bức
ảnh đền đài, cung điện, cảnh
vật, tác phẩm văn hóa tại nhiều
thành phố, di tích ở Âu châu,
hay ở Tích Lan, Miến Điện, Siam (Thái
Lan), Cam Bốt, Trung Kỳ, Bắc Kỳ… Ông
dùng máy ảnh hiệu Sinclair và
phim của hãng Kodak. Những bức ảnh
của ông sau đó thường được
chuyển sang bảng đồng theo phương
pháp “photogravure” dùng để
in ra thành các bộ sách nhiếp ảnh
rõ, đẹp và nghệ thuật. Ngày
nay những bức ảnh của ông chụp
vào đầu thế kỷ 20 rất có
giá trị nghệ thuật được ưa
chuộng ở nhiều nước Âu châu.
Cũng như các bộ ảnh về các
nước Âu châu, bộ ảnh album của
ông về Á châu và Đông
Dương có tựa đề “Ceylan et
l’Indochine: Architecture, paysages, scenes populaires”
(Paris, 1930). Các ảnh chụp đa số
về các tháp, tượng, cảnh ở
Angkor, Chieng Mai, Lamphun, Bangkok, Phnom Penh, Champa (Trung kỳ)
và Bắc Kỳ. Nhiều nhất ở Việt
Nam, là ảnh các tháp, tượng
cảnh trí của vương quốc xưa
Champa (21).
Hình 35: Martin Hürlimann –
1926, Annam Tháp
đồng (tức tháp Cánh Tiên)
ở giữa di tích thành Trà Bàn (Đồ Bàn) – Photogravure,
ảnh từ bảng khắc đồng được chế từ ảnh âm hay dương của phim chụp.
ở giữa di tích thành Trà Bàn (Đồ Bàn) – Photogravure,
ảnh từ bảng khắc đồng được chế từ ảnh âm hay dương của phim chụp.
Hình 36: Martin Hürlimann,
1926, Annam Champa Cha Ban
– Tượng voi đá ở di tích thành Trà Bàn
– Tượng voi đá ở di tích thành Trà Bàn
Nguyễn Đức Hiệp
Chú thích
(4) Cụ Phan Châu
Trinh cũng có lúc làm
nghề rửa ảnh ở cơ sở nhiếp
ảnh của ông Khánh Ký trong thời
gian ở Pháp khi cụ vừa ra tù ở
ngục Santé (1915). Chính Phan Châu
Trinh cũng dẫn Nguyễn Ái Quốc đến
tiệm ảnh Khánh Ký để học
nghề kiếm sống lúc còn khó
khăn ở Paris.
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20
ở Việt Nam và Saigon - Chợ Lớn
(Phần 3)
Nguyễn Đức Hiệp
“Quand je prends des
photos, ce n’est pas moi
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)
Alexandre Francis Decoly
Ông
Decoly có xuất bản các hình ảnh
ở Saigon từ năm 1905 đến 1924. Ông
biên tập các ảnh cartes postales, và
trú ngụ ở số 10 đại lộ
Charner cùng chỗ với nhà nhiếp ảnh
Planté. Decoly và Planté là hai người
cùng thời nhưng ông Decoly không phải
là nhà nhiếp ảnh mà chỉ là
một nhà thương mại. Một vài
ảnh cartes postales có ký hiệu tháp
ngôi chùa (pagode) ở góc ảnh là
của công ty ông Decoly, sau đó ngôi
chùa trở thành thương hiệu
"Edition La Pagode Saigon". Theo niên giám
Đông Dương 1910 (25) thì Decoly cư
trú tại số 36 đường Legrand de la
Liraye, “Decoly, employé de commerce” (nay là
đường Điện Biên Phủ)
Ông
biên tập và in ảnh đen trắng và
màu. Ông có in ảnh về nước
Lào, đặc biệt là các ảnh
của ông Raquez, cũng như ảnh về Cam
Bốt và tất cả các nơi khác
ở Đông Dương. Trong những năm
đầu, có thể là các ảnh
cartes postales có ký hiệu A.F.D. là
những ảnh của Decoly. Ở những ảnh
xuất bản tương đối mới hơn,
đằng sau có ghi: B.Frey et Cie., Saigon et
Phnom-Penh (1920-1924).
Ảnh
của Decoly vẫn còn được bán
cho đến các năm đầu của thập
niên 1930, nhưng địa chỉ số 10 đại
lộ Charner sau năm 1922 không còn là
phòng ảnh nữa mà là trụ sở
của công ty "Compagnie commerciale et
industrielle de l'Indochine", nên ta có thể
cho rằng những ảnh cartes postales này
là những ảnh cuối cùng của
Decoly (1).
Hình
37: Alexandre Decoly - Bồn nước Saigon, nay là
Hồ con rùa
Hình
38: Palais du Gouvernement de la Cochinchine - Dinh thống đốc
Nam Kỳ (trước đó là Palais de
Lieutenant-Gouverneur - Dinh phó sứ). Ngày nay là
Viện Mỹ Thuật thành phố. Cổng
gác ở cửa ra vào và hai tượng
hai bên cửa vào dinh không còn.
(“Edition La pagoda Saigon” của Alexandre
Francis Decoly)
Hình
39: Những người "mọi" ở cao
nguyên Lang Bian - Di Linh (“Edition La pagode Saigon”
của Alexandre Francis Decoly). Những người
trong hình có lẽ là người
Mnong, thuộc hệ ngôn ngữ Mon-Khmer. Họ
hiện diện nhiều ở Lâm Đồng,
Dak Lak
Hình
40: Chùa người Hoa ở Chợ Lớn. Có
thể đây là chùa Bà Thiên
Hậu
và Hội quán Tuệ Thành của bang Quảng Đông
(“Edition La pagode Saigon” của Alexandre Francis Decoly)
và Hội quán Tuệ Thành của bang Quảng Đông
(“Edition La pagode Saigon” của Alexandre Francis Decoly)
Poujade de Ladevèze
Ông
Poujade de Ladevèze được biết đến
qua các hình ảnh Saigon từ 1908-1922 với
bộ sưu tập "Collection Poujade de Ladevèze".
Poujade de Ladevèze có tên trong niên giám
các địa chỉ thương mại ở
Saigon năm 1922, kế tục thương gia C.
David, sản xuất ảnh cartes postales rất
sớm và đặc biệt bằng màu.
Ông
Poujade de Ladevèze chắc chắn cũng không
phải là nhà nhiếp ảnh; ông thâu
thập nhiều ảnh mà ông in ra nhưng
không bao giờ ghi tên tác giả thực
sự của các ảnh này (1). Niên
giám Đông Dương năm 1909 (25) ghi
như sau: Poujade de Ladevèze, 7 rue Vannier, commerçant
(số 7 đường Vannier tức Ngô Đức
Kế ngày nay và làm nghề buôn
bán) và niên giám năm 1910 ghi địa
chỉ là 173bis rue Catinat, marchand (cũng
là nghề buôn).
Hình
41: Câu lạc bộ sĩ quan – nay là
trụ sở của Ủy ban nhân dân quận
1 (Collection Poujade de Ladevèze)
Hình
42: Hình trạm hai rồng (song long) với ngọc
ở trong sân trước cửa đền
chùa Bà Thiên Hậu trong Chợ Lớn (Collection Poujade de Ladevèze)
chùa Bà Thiên Hậu trong Chợ Lớn (Collection Poujade de Ladevèze)
Ludovic Crespin (1873-?)
Ludovic
Crespin là nhà nhiếp ảnh có cơ
sở, gọi là “Photo studio”, tại
số 136-138 rue Catinat (đường Đồng
Khởi ngày nay) vào năm 1910. Trước
đó, số 136 rue Catinat là của bà
Verray, một nhà nhiếp ảnh nghệ thuật,
mà trong niên giám Đông Dương
1908 và 1909 có ghi như sau: “136 rue
Catinat, Mme Verray, photographe artistique”.
Như
vậy có lẽ bà Verray đã sang lại
cơ sở nhiếp ảnh này cho ông
Crespin.
Sau
thế chiến thứ nhất, ông sở hữu
thêm một phòng phim ở số 10 Boulevard
Charner. Điều này có nghĩa là có
thể ông đã mua lại cơ sở của
nhà nhiếp ảnh Pestel (trước đó)
và Planté (sau này). Vì vậy có
thể ông sở hữu các di sản của
nhiều nhà nhiếp ảnh, kể cả các
ảnh của ông Pestel. Điều này giải
thích nhiều sản phẩm rất phong phú
và đa dạng mà ông phát hành
sau này. Ông tự biên tập nhiều
ảnh cartes postales nhưng ông cũng mướn
nhiều người, trong đó có Joseph
Brignon, người biên tập trong những năm
1925-1930 một bộ cartes postales (1).
Ông
Crespin cũng xuất bản các sách in lại
các ảnh đã có, như bộ ảnh
về thành phố Chợ Lớn năm 1909.
Năm 1921, Crespin chụp buổi lễ hạ thủy
tàu hơi nước “Albert Sarraut” do
toàn quyền Maurice Long chủ tọa. Ông
xuất bản bộ ảnh tên là “Souvenir
de Cochinchine et du Cambodge”, do Phòng Thương
mại Saigon biên tập, trong đó có
các ảnh của thống tướng
(marechal) Joffre khi ông này viếng Đông
Dương chính thức vào năm 1923. Sau
đây là vài hình trong bộ ảnh
“Souvenir de Cochinchine et du Cambodge”
Hình
43: Ludovic Crespin - Saigon đầu thập niên
1920: Place de l'hôtel de ville, boulevard Bonnard,
boulevard Charner. Quảng trường tòa đô
chính, góc đại lộ Bonnard (Lê
Lợi) và Charner (Nguyễn Huệ). Chính
giữa đường Lê Lợi là công
viên, và có tượng của Francis
Garnier nhìn về phía nhà hát thành
phố. Bên phải hình là tiệm
“Auto-Hall” bán các loại xe hơi.
Bên trái hình là nhà hàng
Pancrazi mở đến tối khuya (5).
Những người kéo xe, phía phải
hình, đang nhìn về phía người
chụp ảnh (Crespin).
Hình
44: Ludovic Crespin - Saigon đầu thập niên
1920: Rond point entre le boulevard Charner et le boulevard
Bonnard. Vòng xoay giữa đại lộ
Nguyễn Huệ (Charner) và đại lộ Lê
Lợi (Bonnard). Giữa vòng xoay là vòng
bệ nơi chiều thứ bảy, có đoàn
nhạc chơi nhạc giao hưởng hay quân
nhạc chơi kèn giải trí cho dân
chúng. Người Việt gọi ngã tư
này là ngã tư “Bồn Kèn”.
Để ý xe buýt chở khách giữa
hình và trên đầu xe có biển
quảng cáo coiffre-art “Le Gaulois”.
Bên phải hình là “auto-hall”
nơi bán các loại xe hơi (kể cả
xe hãng Citroen) và garage xe. Đối diện
với “auto-hall”, bên kia đường
là nhà hàng Pancrazi (5). Đằng
xa phía trái hình là tòa thị
sảnh.
Crespin
và vợ cũng là chủ đồn điền
cao su ở Tam May (Biên Hòa). Do ông Crespin
là giám đốc xưởng nhiếp ảnh
và có nhiều kinh nghiệm hoạt động
từ nhiều năm, nên nghị viên đại
diện Nam Kỳ ở Quốc hội Pháp, ông
Ernest Outrey năm 1921 có đề nghị ông
Crespin là người có trách nhiệm
trưng bày và truyền bá những
hình ảnh ở Nam Kỳ trong Hội chợ
các xứ thuộc địa ở Marseilles năm
1922.
Mặc
dù được sự ủng hộ của
Phòng thương mại Saigon, Hội đồng
quản hạt, Hội đồng thành phố
Saigon và mặc dù tất cả chi phí
ông Crespin sẽ bỏ ra cho các hình ảnh
phóng lớn, các bộ ảnh, cũng như
sẽ phân phát miễn phí 1 triệu
ảnh cartes postales ở hội chợ; nhưng
có sự ngần ngại và chống đối
trong chính quyền và Bộ thuộc địa
ở Pháp về tư cách ông Crespin
đại diện chính thức thay thế cơ
quan Sở nhiếp ảnh và phim ở Đông
Dương (Service photo-cinématographique de
l’Indochine) (1).
Tuy
không được đại diện tổ
chức trưng bày hình ảnh, nhưng
năm 1922, ông cũng có mặt với tư
cách cá nhân ở Hội chợ triển
lãm Marseilles và có bộ 16 hình ảnh
tổng quan về lục tỉnh đặt trong
trong nhà triển lãm Nam Kỳ. Theo ông
thị trưởng thành phố Saigon thì
Crespin là nhà nhiếp ảnh duy nhất có
một bộ sưu tập đầy đủ
tất cả những tòa nhà, tượng
và những địa điểm đầu
tiên xưa nhất của thành phố.
Nguyễn Đức Hiệp
Chú thích:
(5)
Theo ông Vương Hồng Sển thì nhà
hàng Pancrazi này là một trong bốn
nhà hàng ở gần ngã tư đường
Nguyễn Huệ và Lê Lợi, và ông
đã tả như sau: “Góc Bồn
Kèn tứ diện có bốn nhà hàng
rượu tây, ăn khách từ sáu
giờ chiều đến hai giờ khuya, sau dẹp
dần chỉ còn lại quán Pancrazi là
giỏi chịu đựng nhứt. Quán Café
de la musique ở góc đường Tự Do và
Lê Lợi ngang Nhà Hát Tây, năm
1905 sang cho lão quán Pancrazi, kế biến
thành nhà thuốc tây Solirène, rốt
lại là nhà bán kem Givral” (17).
Ông và bà Pancrazi còn là chủ
khách sạn Grand-Hôtel des Nations ở 104-106
Boulevard Charner trên lầu ở ngay tại nhà
hàng này.
Vài nét về
các nhà nhiếp ảnh
từ cuối
thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ
20
ở Việt Nam và Saigon - Chợ Lớn
(Phần 4)
Nguyễn Đức Hiệp
“Quand je prends des
photos, ce n’est pas moi
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
qui photographie, c’est quelque chose en moi qui appuie
sur le déclencheur sans que je décide vraiment...”
Pierre Verger (1902-1996)
Fernand Nadal
Ông Nadal là người Ả
Rập, sinh ở Algérie (Hussein-Dey năm 1898 ?
hay El Affroun năm 1902?). Ông Nadal đến Đông
Dương trong năm đầu của thập
niên 1920. Năm 1921, thì ông trú ngụ
ở số 150 đường Catinat, Saigon (1). Có
thể ông là người Algérie đầu
tiên đến và lập nghiệp ở
Saigon.
Một vài ảnh của ông
được đăng trong báo "Le
Monde colonial illustré"
giữa các năm 1929 và 1931, và chính
phủ toàn quyền ở Đông Dương
cũng dùng ảnh của ông. Ông thực
hiện nhiều phóng sự ảnh chính
thức cho chính quyền Pháp ở Nam Kỳ
như ảnh của trung đoàn 11 bộ binh
thuộc địa, các tòa nhà công
sở, tượng đài ở Saigon.
Trong các địa chỉ thương mại
ở Saigon năm 1922, cơ sở của ông là
nơi chụp hình, bán các dụng cụ
và phụ tùng nhiếp ảnh. Ông
Nadal mướn một người Âu và 6
người Việt cho công ty ông. Ông
làm việc nhiếp ảnh có lúc cho
chính quyền, còn lúc khác thì
chụp hình cho các chủ những biệt
thự, cho các khách sạn ở các
nơi du lịch như Angkor, chụp những loạt
hình quảng cáo cho các thương
gia ở Saigon. Ngoài ra ông còn in các
album ảnh, các cartes postales, và là
chủ một cơ sở nhiếp ảnh ở
Phnom Penh tương tự như ở Saigon.
Hình 45: Fernand Nadal, trong “album
Nadal”
năm 1926 – Rue de Canton. Đường Canton
(nay là Triệu Quang Phục), hình này
cũng có in lại trên carte postale. Có
lẽ đây là ngày lễ quốc
khánh của Cộng hòa Trung quốc (10
tháng 10). Ở đầu đường và
cuối đường có cổng chào
mừng, trên cổng có đề hàng
chữ “cung chúc dân quốc vạn tuế”
(6). Bên phía trái cổng, có
treo cờ “tam tài” của Pháp.
Ông có chụp ảnh những cơ sở
kỹ nghệ thương mại lớn ở
Saigon và vùng phụ cận, và trong năm
1923-1924 các ảnh "La Bien-Hoa Industrielle"
của công ty gỗ “La Société
forestiere”, lúc đó có độc
quyền xuất khẩu gỗ ở Đông
Dương. Năm 1930, ông làm phóng sự
ảnh cuộc viếng thăm chính thức
của thống đốc Philippines (lúc này
vẫn còn là thuộc địa của
Mỹ), ông Dwight Davis, ở Hà Nội.
Năm 1935, các ảnh cartes postales của
ông đề địa chỉ là số
120 đường Catinat. Trong những năm của
thập niên 1950, ông vẫn còn sản
xuất in các cartes postales.
Võ An Ninh (1907-2009) (12)
Võ An Ninh, tên thật là Vũ An Tuyết,
sinh ngày 16 tháng 6 năm 1907 tại phố
Hàng Gai, Hà Nội. Ngay từ hồi còn
trẻ, Võ An Ninh đã mê chụp ảnh.
Đạp xe đạp khắp Hà Nội chụp
ảnh. Dưới thời Pháp thuộc, ông
làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở
Kiểm Lâm. Năm 1935, bức ảnh “Buổi
sáng trên đê sông Hồng”
đoạt Giải ngoại hạng trong cuộc
thi do Hội khuyến khích Mỹ thuật và
Kỹ nghệ Việt Nam SADAEI (Société
Annamite d’encouregement à l’Art et l‘Industrie)
tổ chức. Năm 1938, ảnh “Đẩy
thuyền ra khơi” được giải
thưởng ngoại hạng triển lãm ảnh
Paris – Pháp.
Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất
nước Bắc-Trung-Nam để chụp ảnh
với cái camera của Đức hiệu Zeiss
Ikon (1928) và ngay mãi tới gần cuối
đời (2000) ông vẫn dùng độc
chiếc máy này trong tay với phim đen
trắng.
Ở Hà Nội, ông có nhiều ảnh
nổi tiếng về Hồ Gươm như Hồ
Gươm buổi sương mai (1935), Hồ Gươm
trong bốn ảnh "Hà Nội bốn mùa".
Ngoài ra ông có những bức ảnh
gợi nhớ về Hà Nội của những
ngày thanh lịch xa xưa: Trong vườn si
đền Voi Phục (1942), Gió nồm (Đê
sông Hồng, 1948), Nhớ xưa (1944), Cúc
Nghi Tàm (1956), Thiếu nữ Hà Nội
(1960), Bậc đá đền Voi Phục
(1956), Chùa Láng (1941), Cụ đồ viết
câu đối Tết (1940), Tranh Tết làng
Hồ (1941), Phố Hàng Buồm (1940), Mái
nhà cổ phố Hàng bạc (1956), Cửa
Ô Quang Chưởng (1940), Gò Đống Đa
(1942), Lầu Khuê Văn và bia Tiến sĩ
ở Văn Miếu (1945), Bình Minh trên bãi
Phúc Xá (1944), Xe tay ngoại thành (1935),
Thu hoạch vụ chiêm (1935), Đông về
(Từ Liêm, 1935), Bến thuyền cầu đất
(1935), Chợ bán nồi đất (Bưởi,
1935), Chợ Đồng Xuân (1956), Sen Tây Hồ
(1941),
Hình 46: Võ An Ninh - Chiều hè ở Hồ
Tây, Hà Nội (1954). Lúc này khu vực
Hồ Tây vẫn còn hoang vắng. Các
thiếu nữ mặc áo dài đi hóng
mát vào buổi chiều hè. Một nét
thanh lịch của Hà Nội đầu thập
niên 1950.
Một số những bức ảnh nghệ thuật
ở Saigon có giá trị về nghệ
thuật và tư liệu xã hội như
"Chợ bến thành và bến xe thổ
mộ" (1949), "Cụ đồ viết câu
đối Tết" (Saigon, 1950), "Lăng ông
ngày tết" (1952), "Nhà thờ Hồi
giáo" (1950), "Khói hương chùa
Bà, Chợ Lớn" (1953), “Thiếu nữ
Saigon” (1951), “Qua Cầu” (Thủ Đức,
1953), "Lẻ loi" (1941), "Sóng đôi"
(1942), "Vườn Tầm Vông ngoại thành"
(1950), "Ngày xá lợi" (1951), "Đêm
phục sinh" (1950), "Bình minh trên sông"
(1952).
Một bộ tư liệu quí giá khác
trong bộ sưu tập ảnh của cụ là
những cảnh trong nạn đói năm Ất
Dậu 1945 mà cụ ghi lại như một
chứng nhân những gì mà thực dân
Nhật-Pháp đã gây nên ở
miền bắc nước ta. Cảnh người
chết đói ở đường phố Hà
Nội, trên đường từ các tỉnh
(mà nặng nhất là Thái Bình)
vào thủ đô, xác người đầy hốt trên xe đẩy. Đây là bộ sưu tập duy nhất và đầy đủ ở Việt Nam về nạn đói năm 1945.
vào thủ đô, xác người đầy hốt trên xe đẩy. Đây là bộ sưu tập duy nhất và đầy đủ ở Việt Nam về nạn đói năm 1945.
Pierre Verger (1902-1996)
Người gốc Bỉ-Hòa Lan, Pierre Verger,
sinh năm 1902 ở Paris, và mất năm 1996 ở
Salvador (Ba Tây), nơi ông định cư
và được ông xem như là quê
hương thứ hai của mình. Ông là
nhà nhiếp ảnh và dân tộc học
nổi tiếng và là một trong những
người sáng lập ra “Alliance Photo”
năm 1935 ở Pháp, một tổ chức của
các nhà nhiếp ảnh tự do, trong đó
có những nhà nhiếp ảnh huyền
thoại sau này như Henri Cartier-Bresson, Pierre
Boucher và Robert Capa.
Bị đuổi học lúc 17 tuổi vì
thiếu kỷ luật, ông làm việc
trong cơ sở thương mại in ấn của
gia đình, nhưng lúc nào ông cũng
cảm thấy nhàm chán. Sau khi ông được
Pierre Boucher giới thiệu về nghệ thuật
nhiếp ảnh vào năm 1932, ở tuổi
30, ông cho rằng mình chỉ sống đến
tuổi 40 nên ông quyết định sống
một cuộc đời đầy hứng khởi,
tận hưởng mỗi phút giây trong
cuộc sống. Cũng năm này, mẹ ông
mất, ông và nhà nhiếp ảnh
Pierre Boucher đã đi bộ toàn bộ
chu vi đảo Corse dài 1500 km để chụp
ảnh và suy nghĩ về cuộc sống
(24).
Sau đó, ông rời Pháp đi khắp
thế giới chụp ảnh với chỉ rất
ít đồ trong va ly và máy ảnh
Rolleiflex. Ở Nhật (1934) và kế đó
Trung Hoa, ông chụp nhiều hình ảnh ở
Kyoto, Nara, Tokyo, Bắc Kinh, Thượng Hải, Sán
Đầu, Hồng Kông, Nam Kinh,... Ông đạp
xe đạp khắp các nước Pháp,
Tây Ban Nha, Ý và vượt sa mạc
Sahara bằng lạc đà đến vùng
mà ngày nay là các nước Mali,
Burkana Faso, Niger, Benin. Ở đây ông chụp
ảnh và có liên hệ sâu đậm
với sắc dân Yoruba, đây là khởi
đầu của sự đam mê của ông
về văn hóa Phi châu da đen.
Ông viếng Mỹ, Mexico và các đảo
ở Trung Mỹ. Và trong dịp thứ hai băng
qua Liên Xô đến Trung Hoa, ông đã
chứng kiến và chụp hình ảnh
cuộc chiến tranh Trung-Nhật (1937). Sau đó
ông đến Đại Hàn, Phi Luật
Tân và đến Đông Dương
(1938). Ông chụp nhiều hình về con
người cảnh sinh hoạt ở Saigon, Hà
Nôi, Ban Mê Thuột, Hội An, Huế, Đà
Nẵng, Kontum, Pleiku, Mỹ Sơn, Nha Trang, Qui Nhơn,
Lai Châu, Mộc Châu, Hòa Bình... nhiều
hình ảnh ở Cam Bốt như Angkor, Phnom
Penh, Battambang, ở Thái Lan, và ở Lào
(Vietiane, Luang Prabang, Savanakhet).
Trong lúc ở Đông Dương năm
1938, vẫn còn lo nghĩ là mình chỉ
sống đến 40 tuổi và tính lại
là chỉ còn 1500 ngày nữa để
sống. Ông vội đi mua ngay một dây
thước dài đúng 1.5 mét. Quyết
định là mỗi ngày ông sẽ
cắt đi 1 mm để nhắc nhở là
khi dây thước hết cũng là lúc
mình không còn trên cõi đời
này nữa. Và khi dây thước càng
gần hết thì phải quyết sống cho
mỗi ngày thật trọn, kích thích
mình phải làm gì hay nhất, đam
mê, sáng tạo và hữu ích nhất
trong mỗi giây phút còn lại (23). Ông
là người tự học, đọc nhiều
và ham muốn học hỏi chìm sâu
vào nhiều vấn đề và trở
thành chuyên gia về phim, ảnh, âm
nhạc, lịch sử, nghệ thuật, dân
tộc học... Sau này các nhà nghiên
cứu xem ông là ‘”l’homme de
Renaissance” (người của thời Phục
Sinh, biết và tìm hiểu mọi vấn
đề tri thức).
Các hình ảnh của ông không
những có giá trị nghệ thuật mà
còn mang nhiều thông tin về con người,
phong tục ở các xứ sở ông đến.
Ông có những triển lãm và hợp
tác nhiều lần với Viện bảo tàng
Con người (Musée de l’Homme) ở
Paris từ những năm của thập niên
1930 đến thập niên 1980.
Hình 47: Saigon
(1938) – Nguồn
Pierre Verger
Foundation (22)
|
Hình 48: Saigon
(1938) – Nguồn
Pierre Verger
Foundation (22)
|
Hình 49: Ban Mê Thuột
(1938) – Người
Rhadé – Nguồn Pierre Verger Foundation (22)
Sau Đông Dương, năm 1939 ông đến
Trung Mỹ (Mexico, Guatemala) và khi chiến tranh
thế giới thứ hai xảy ra, ông trở
lại Dakar (Phi châu) qua các nước Nam
Mỹ (Peru, Brazil, Argentina, Bolivia) nhập ngũ vào
quân đội trong đội nhiếp ảnh.
Tại đây ông gặp Théodore Monod,
giám đốc Viện nghiên cứu Phi Châu
da đen của Pháp (Institute Francais de l’Afrique
Noir, IFAN) và từ đó say mê nghiên
cứu một tôn giáo Phi châu - Ba Tây
đặc biệt của người da đen
thuộc sắc dân Yoruba ở Tây Phi và
Ba Tây (Bahia, Salvador, Sao Paulo) gọi là
Condomblé khi họ di dân qua Nam Mỹ.
Giải ngũ, ông trở lại Nam Mỹ và
làm nhiếp ảnh (1942-1946) cho Viện bảo
tàng quốc gia ở Lima (Peru). Ở Peru, cũng
chính là lúc đoạn milimét cuối
cùng của thuớc dây “đời
sống” của ông hết, lúc ấy
ông đọc quyển “The Importance of
Living” (Sự quan trọng của cuộc
sống) của nhà văn và triết gia
Lâm Ngữ Đường (Lin Yu Tang). Lâm
Ngữ Đường đã thay đổi tư
duy của ông về tiếp tục cuộc sống
(23).
Ông trở thành chuyên viên về văn
hóa Phi Châu - Ba Tây và định cư
ở Salvador. Ông dạy ở các đại
học Ba Tây và năm 1971 là Giám
đốc nghiên cứu Phi châu ở Trung
tâm nghiên cứu quốc gia Pháp (CNRS)
(24). Mặc dầu không được biết
tiếng nhiều ở Pháp, nhưng ông là
người trở thành huyền thoại trong
giới nghiên cứu và người dân
ở Salvador, Bahia và Tây Phi, nhất là
từ khi ông mất. Vào đạo của
người Yoruba, ông có tên là
“Fatumbi”, và trong đạo Ifa, ông
có chức vụ cao “Babalawo” (“cha
của bí mật”) mang trọng trách
không bao giờ tiết lộ bí mật của
đạo cho người ngoại đạo (23).
Pierre Fatumbi Verger cũng là một nhà nhiếp
ảnh huyền thoại với hơn 65,000 tấm
ảnh quí giá chụp ở khắp nơi
trên thế giới vào thế kỷ 20.
Tổng Luận
Bài này chỉ nêu lên sơ lược
về lịch sử nhiếp ảnh và sự
cống hiến về tư liệu của các
nhà nhiếp ảnh ở Việt Nam vào
cuối thế kỷ 19 và đầu thế
kỷ 20. Họ là các nhà nhiếp ảnh
Pháp, Hoa, Việt và các nước
khác; chỉ với mục đích ban đầu
là say mê nhiếp ảnh và sống với
nghề chụp ảnh nhưng những gì họ
để lại là những tư liệu
không những có giá trị nghệ
thuật, như đa số họ ước muốn,
mà còn có giá trị lịch sử,
văn hóa và xã hội mà hiện
nay chúng ta chưa khai thác hết.
Tác giả bài biên khảo này cho
rằng còn có rất nhiều tư liệu
ảnh rải rác ở các sưu tập
tư nhân nhiều nơi trên thế giới
cũng như các kho ảnh như kho ảnh
của Pháp ở “Archives nationales d’outre
mer” (ANOM) hay ở Việt Nam hiện nay chưa
được để ý đến đúng
mức. Một viện bảo tàng nhiếp ảnh
nếu được thành lập ở Việt
Nam sẽ là nơi hội tụ các tư
liệu ảnh mà các nhà sưu tập
tư nhân có thể đóng góp sẽ
rất bổ ích cho các nhà nghiên
cứu trong và ngoài nước về những
vấn đề và đề tài lịch
sử, văn hóa và xã hội ở
Việt Nam vào thế kỷ 19 và 20.
Nguyễn Đức Hiệp
Chú thích:
(6) Lúc này trong Chợ Lớn người
Hoa (trừ người Minh Hương) được
coi là ngoại kiều và có các
chi nhánh của Quốc Dân đảng hoạt
động công khai. Thời này, đường
Triệu Quang Phục là một trong những
trung tâm thương mại ở Chợ Lớn,
người Hoa ở đây đa số là
gốc Quảng Đông. Góc đường
Triệu Quang Phục và Nguyễn Trãi (rue
de Cay-mai) có chùa Bà Thiên Hậu,
một trong những ngôi chùa cổ nhất
ở Chợ Lớn, và cũng là Hội
quán của bang Quảng Đông (Tuệ
Thành Hội quán).
Nhận xét
Đăng nhận xét