Cụ Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi mù
lấy hiệu Hối Trai, sinh ngày 1.7.1822 tại làng Tân Khánh, huyện Bình
Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Ông đỗ tú tài ở trường thi Gia Định
năm 1843. Năm 25 tuổi, ông trở ra Huế học tập, chờ khoa thi năm Kỷ Dậu
( năm 1849 ) nhưng chưa kịp thi thì có tin mẹ mất. Trên đường trở về
chịu tang mẹ vì quá lo buồn khóc thương ông lâm bệnh và bị mù hai mắt.
Khi 3 tỉnh miền Đông rơi vào tay quân Pháp, không chịu sống trong vùng
chiếm đóng của giặc, cụ Nguyễn Đình Chiểu cùng gia đình chạy về làng An
Đức, tổng Bảo An, tỉnh Vĩnh Long ( nay là huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre ).
Tại đây ông dạy học trò, bốc thuốc chữa bệnh cho dân và sáng tác thơ
văn. Ông có mối liên hệ chặt chẽ với những sĩ phu yêu nước như Phan Văn
Trị, Nguyễn Thông…
Ngày 3.7.188
8 cụ Nguyễn Đình Chiểu qua đời tại làng An Bình Đông, gần chợ Ba
Tri nay thuộc xã An Đức, huyện Ba Tri.
Hơn một phần tư thế kỷ sống trên đất Bến Tre, cụ Nguyễn Đình Chiểu đã
để lại cho nhân dân ở đây một ảnh hưởng to lớn và một di sản tinh thần
vô cùng qúy báu, góp phần tạo nên truyền thống kiên cường, bất khuất của
một vùng đất anh hùng. Cụ đã dùng ngòi bút để ca ngợi các cuộc khởi
nghĩa của nghĩa quân, tố cáo tội ác của giặc Pháp. Cụ kiên quyết chống
bọn vua quan bán nước, không hợp tác với giặc, giữ vẹn tấm lòng yêu nước
thương dân. Hai câu thơ “Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm/ Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”
trong truyện thơ nôm Dương Từ - Hà Mậu của cụ như một lời tuyên ngôn,
khẳng định một chính kiến, một chân lý ngời sáng đến muôn đời. Tác phẩm
thơ văn của cụ như truyện thơ Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngư tiều y
thuật vấn đáp hay các bài thơ điếu, văn tế như Văn tế nghĩa dân chết
trận Cần Giuộc, Văn tế lục tỉnh sĩ dân trận vong, Văn điếu Trương Định,
thơ điếu Phan Tòng, Phan Thanh Giản… đã thấm sâu vào tâm hồn của nhiều
thế hệ. Người Bến Tre và nhân dân cả nước kính trọng lòng yêu nước, quý
mến tiết tháo và phẩm chất của cụ - một người đã nâng đạo lý yêu nước,
thương dân, trọng nhân nghĩa, không khuất phục cường quyền thành sức
mạnh tinh thần đánh giặc cứu nước.
Đặc biệt, truyện thơ Lục Vân Tiên được phổ biến rộng rãi trong dân
gian, nhiều người dù không biết chữ nhưng vẫn đọc thuộc làu và nghệ
thuật “nói thơ Lục Vân Tiên” đã ra đời, hình thức diễn xướng này làm cho
truyện Lục Vân Tiên thêm hấp dẫn và đi vào lòng người.
Trên tạp chí Văn học ( tháng 7.1973 ) nhân kỷ niệm lần thứ 75 ngày
mất của cụ, cố Thủ tướng Phạm văn Đồng đã có một nhận xét tinh tế, sống
động “Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trên bầu trời đầy sao nhưng là
vì sao có ánh sáng khác thường mà con mắt của chúng ta phải chăm chú
nhìn thì mới thấy và càng nhìn càng thấy sáng. Cái ánh sáng khác thường,
sáng hơn hết, rực rỡ hơn hết và bao trùm hơn hết của ngôi sao sáng
Nguyễn Đình Chiểu là tính chiến đấu bàng bạc trong các tác phẩm của
người để lại”.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Hội Văn nghệ Giải phóng Miền Nam
đã lập ra giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu công bố năm 1965 dành tặng cho
các tác giả, tác phẩm nổi bật trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật ở miền
Nam. Hiện nay nhiều con đường, trường học, bệnh viện ở Bến Tre và các
thành phố lớn trong nước đã được vinh dự mang tên cụ, từ năm 1946 đến
1948, tỉnh Bến Tre được đổi tên là tỉnh Đồ Chiểu.
Khu mộ và đền thờ của cụ Nguyễn Đình Chiểu cách trung tâm thị trấn Ba
Tri 2km về phía nam, nay thuộc ấp Giồng Cụt, xã An Đức, huyện Ba Tri.
Trong khu di tích có mộ của cụ, mộ bà Lê Thị Điền - người vợ hiền của
cụ, mộ bà Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ.
Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của một nhà thơ lớn yêu nước của dân
tộc đồng thời cũng là nhà giáo, người thầy thuốc của nhân dân nửa sau
thế kỷ XIX. Di tích được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích
lịch sử - văn hóa cấp quốc gia ngày 27. 4. 1990.
Nhằm tỏ lòng thành kính đối với cụ Đồ, vừa để phục vụ cho
việc tham quan, nghiên cứu, giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế
hệ, năm 1999, Bộ Văn hóa Thông tin và tỉnh Bến Tre đầu tư xây dựng đền
thờ mới, mở rộng khu di tích, khởi công vào ngày 1.7.2000, khánh thành
ngày 1.7.2002 với tổng diện tích khu mộ và đền thờ là 13.000m2.
Trước cổng đền, phía trái có nhà tiếp đón các đoàn khách, các cá nhân
từ mọi miền đất nước về viếng cụ. Từ cổng đền đến nhà bia có sân rộng
lát đá chẻ viền cỏ xanh rất khoáng đạt, khu vực đền còn trồng nhiều cây
kiểng qúy, được uốn tỉa công phu. Cả khu vực thành một hệ thống liên
hoàn hòa nhập với quang cảnh xanh tươi vốn có của vùng quê An Đức. Đền
thờ hình tròn với 3 tầng mái tượng trưng cho ba nghề nghiệp của cụ Đồ
Chiểu ( nghề dạy học, bốc thuốc và làm thơ ). Tượng cụ Đồ được làm bằng
đồng thau, nặng 1,2 tấn. Mảng phù điêu bên trái tả cảnh cụ Đồ đọc văn
tế “Lục tỉnh sĩ dân trận vong” tại chợ Đập (Ba Tri) năm 1883. Mảng phù
điêu bên phải miêu tả trận đánh của Phan Ngọc Tòng tại Giồng Gạch ( xã
An Hiệp – Ba Tri ). Nhà bia với 2 tầng mái tượng trưng cho hai cống hiến
nổi bật, đó là những áng thơ văn yêu nước kiệt xuất “đã đạt đến độ toàn
bích” của cụ, là ngọn cờ đầu của thơ văn yêu nước chống Pháp và những
tác phẩm văn học dân gian xuất sắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
của thơ ca Nam Bộ.
Hàng năm vào ngày 1.7, ngày sinh của cụ, đã trở thành ngày
hội truyền thống văn hóa của người Bến Tre để tưởng nhớ nhà thơ yêu nước
vào bậc nhất của Nam Bộ nói riêng, của Việt Nam nói chung trong thời kỳ
chống Pháp. Lễ hội 1.7 được tổ chức long trọng, trang nghiêm nhưng
không kém phần sôi nổi với những hoạt động như biểu diễn võ thuật, múa
lân, đánh trống hội, liên hoan đờn ca tài tử, thi hóa trang các nhân vật
trong truyện Lục Vân Tiên, thi nấu mâm cơm ngày giỗ, triển lãm ảnh nghệ
thuật, thi viết thư pháp, ngâm thơ, diễn cải lương, tuồng cổ…
Nhưng trên hết, ngày hội này là để nhắc nhở mọi người nhớ
đến tài năng, đức độ của bậc hiền tài. Tấm gương Nguyễn Đình Chiểu đã đi
vào sử sách, đi vào lòng người, không chỉ ở Bến Tre mà đã in sâu, lan
rộng khắp vùng, vang xa cả nước. Nhiều nhà nghiên cứu văn học, nghiên
cứu lịch sử đã viết về ông, không tiếc lời ca ngợi, đánh giá cao những
áng văn chương tuyệt tác của ông, nhưng hơn hết chính là nó xuất phát từ
tâm hồn, tư tưởng của một con người yêu nước thương dân đến cực độ.
Chính vì thế, ngày 1.7 đã trở thành ngày hội lớn. Người hành hương viếng
cụ hàng ngày vốn đã đông nay càng thêm đông đảo. Thu Thảo
Ngưỡng mộ danh tiếng cố trụ trì Viên Ngộ, trên đường
chạy giặc từ thành Gia Định về Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã tìm đến
chùa Tôn Thạnh làm nơi viết văn và họp bàn quốc sự cùng lãnh tụ các
nghĩa quân chống giặc. Tại đây, ông đã sáng tác Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc.
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong gia đình quan lại. Cha
ông, Nguyễn Đình Huy theo Tả quân Lê Văn Duyệt và làm thư lại ở Văn hàn
ty thuộc dinh Tổng trấn Gia Định Thành. Thế nhưng, cuộc đời ông sớm chịu
nhiều thăng trầm, mất mát. Lớn lên trong gia đình
nho học, Nguyễn Đình Chiểu sớm biểu hiện những phẩm chất của một anh
tài. Theo đó, 21 tuổi, ông thi đỗ tú tài ở trường thi Gia Định. Năm
1847, ông ra
Huế học để chờ khoa thi năm Kỷ Dậu nhưng được tin mẹ mất, Nguyễn Đình Chiểu đau đớn bỏ thi, dẫn em theo đường bộ trở về Nam chịu tang.
Bia di tích về Nguyễn Đình Chiểu tại chùa Tôn Thạnh.
Trên đường, thương khóc mẹ, vất vả và thời tiết
thất thường, nên đến Quảng Nam, Nguyễn Đình Chiểu bị ốm nặng. Ông được
một thầy thuốc thuộc dòng dõi ngự y tận tình chữa trị. Tuy nhiên, bệnh
quá nặng, Nguyễn Đình Chiểu thoát cửa tử nhưng mất đi đôi mắt. Tuy
nhiên, vốn là một người ham học hỏi, trong thời gian chữa bệnh, dù không
thấy ánh sáng mặt trời, Nguyễn Đình Chiểu vẫn tận tụy học hỏi nghề y.
Cuối cùng, ông cũng học được cách cứu mình, cứu người. Lâm cảnh
đui mù, hôn thê bội ước, cửa nhà sa sút... Nguyễn Đình Chiểu đóng cửa
chịu tang mẹ cho đến năm 1851 mới mở trường dạy học và làm thuốc ở Bình
Vi (Gia Định).
Được biết, sau lễ cưới của anh giáo mù Nguyễn Đình Chiểu với
cô Lê Thị Điền, con gái rượu của một gia đình giàu có nhất Thanh Ba,
tiếng tăm về chàng rể mù có tài văn thơ, có tấm lòng quảng đại, phong
thái uy nghi sớm làm người dân ngưỡng mộ. Đặc biệt, sau những tác phẩm
để đời như Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu nêu cao nghĩa khí của bậc
quân tử, tấm lòng trung quân ái quốc, Nguyễn Đình Chiểu nhanh chóng được
các lãnh tụ nghĩa quân tin tưởng tìm gặp, trao đổi việc kháng giặc cứu
nước.
Vì vậy, từ rất sớm, dù mù lòa, ông đã có mối liên hệ với các
phong trào nghĩa quân. Biết được những hiểm nguy mình phải đương đầu,
để tránh hậu họa cho gia đình ông Lê Tăng Quýnh cũng như che mắt giặc
Pháp cùng bọn tay sai, Nguyễn Đình Chiểu tìm đến gần chùa Tôn Thạnh sinh
sống.
Tại đây, ban ngày ông vào chùa bốc thuốc, mở trường học,
viết thơ văn và gặp gỡ, cố vấn cho nghĩa quân. Theo những ghi nhận trong
tài liệu "Sưu tập Nguyễn Đình Chiểu" của tác giả Châu Anh Phụng thì tại
chùa Tôn Thạnh, Nguyễn Đình Chiểu giữ vai trò là một cố vấn trong bộ
tham mưu kháng Pháp của Trương Công Định.
Khẳng định thêm sự việc trên, Hòa thượng Thích Tắc Ngộ, trụ
trì chùa Tôn Thạnh cho biết: "Các sư đời trước truyền lại rằng, ông
Nguyễn Đình Chiểu ở chùa này 3 năm, từ năm 1859 đến năm 1861. Khi về
chùa, ông nhuận sắc nhiều tác phẩm của mình và đóng thành cuốn. Thường
ngày, tại chùa, ông viết sách, làm thơ rồi dạy học và bốc thuốc cho
người dân mà không lấy tiền. Ngoài ra, ông còn gặp gỡ bàn bạc việc cứu
nước với các nghĩa quân. Cũng chính nơi đây, kiệt tác văn học Văn tế
nghĩa sĩ
Cần Giuộc ra đời.
"Đêm 16/12/1861, nghĩa quân tụ họp tại chùa Tôn Thạnh họp
bàn và quyết định kéo quân tập kích vào đồn Pháp ở Cần Giuộc. Tuy dũng
mãnh, quyết liệt, quả cảm và thu được một số thắng lợi nhất định, nhưng
vì trang bị thô sơ, thiếu kinh nghiệm chiến đấu, nghĩa quân dần bị đánh
lui và bị chết rất nhiều. Cảm kích trước sự hy sinh anh dũng của những
nghĩa quân vốn là những người nông dân chân lấm tay bùn, Nguyễn Đình
Chiểu đã sáng tác bài văn tế trên", Đại đức Thích Tắc Nhàn, chùa Tôn
Thạnh
cho biết thêm.
Bản sao Hán Nôm bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Đi tìm "dân ấp, dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ"
Về nguồn gốc của những nghĩa binh được nhà thơ Nguyễn Đình
Chiểu ca ngợi trong tác phẩm văn tế, các bậc lão niên giàu hiểu biết tại
xã Mỹ Đức, Mỹ Lộc thuộc huyện Cần Giuộc, Long An, cho biết: Sau khi
không thể kháng cự lại quân Pháp, Hộ đốc thành Gia Định Võ Duy Ninh cho
quân lui về vùng Cần Giuộc.
Tại đây, ông cũng không cản được bước chân man rợ của giặc
ngoại xâm nên đã tuẫn tiết. Sau cái chết của Võ Duy Ninh, quân lực tiêu
tán, giặc Pháp tràn ra cướp bóc, giết chóc. Trước cảnh nước mất nhà tan,
người anh hùng Trương Công Định đứng lên tụ nghĩa, lãnh đạo nghĩa binh
chống giặc và phong ông Bùi Quang Diệu làm đốc binh và chọn chùa làm nơi
chỉ huy, bàn bạc quốc sự.
Tại đây, nghĩa quân đã gặp gia đình Nguyễn Đình Chiểu và
được người chí sĩ hết lòng phò tá. Các bậc lão nhân khẳng định trong
công cuộc chống giặc không chỉ mỗi cụ Đồ Chiểu góp công và còn có cả
người vợ hiền của ông là bà Lê Thị Điền. Được biết, khi Pháp dồn binh
tấn công Cần Giuộc, trên đất liền chúng đóng đồn và đóng tàu chiến dưới
sông.
Các cụ khẳng định: Bà Lê Thị Điền là người đã nảy ra sáng
kiến hạn chế kyạ̊ binh của giặc để quân ta chiếm lợi thế trong chiến đấu
giáp lá cà. Theo đó, bà tìm hái trái mù u đợi khi kyạ̊ binh giặc vào
làng, bà đem mù u ra đổ đầy đường. Giặc lao tới, đạp phải mù u ngã nhào,
nghĩa quân lợi dụng lúc ấy mà ùa ra đánh.
Tuy nhiên, do tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghĩa
binh không thể đẩy lùi giặc ngoại xâm. Ngày 16/12/1861, Bùi Quang Diệu
quyết định dốc sức, dẫn binh công đồn giặc tại Cần Giuộc và thất trận
trong bi tráng. Ghi nhận sự việc trên, các tài liệu lịch sử có ghi: Mặc
dù thất trận nhưng nghĩa quân cũng tiêu diệt được một lượng lớn lính Mã
Tà, Ma Ní, đâm bị thương tên Giám đốc quân sự người Pháp tên
Dumont (tên này cũng bỏ mạng không lâu sau đó).
Nhưng những thiệt hại cụ thể của nghĩa quân không hề được
ghi nhận một cách chính xác, hệ thống trong các tài liệu lịch sử. Cho
đến hiện nay, danh tính các nghĩa quân hi sinh vẫn nằm trong vòng bí ẩn,
số lượng các nghĩa sĩ thiệt mạng cũng chỉ là những con số chưa được
thống nhất.
Theo đó, trong tác phẩm của mình, nhà văn hóa, ngôn ngữ
Huỳnh Tịnh Của cho rằng trong trận đánh oai hùng trên có 25 nghĩa binh
hy sinh. Tuy nhiên, những tài liệu được tuần phủ Gia Định ghi chép thì
nghĩa quân có 27 người thiệt mạng. Cùng quan điểm trên, nhà nghiên cứu
Châu Anh Phụng cũng khẳng định có 27 nghĩa binh hy sinh. Ngoài ra bà còn
cho biết, bà đã cất công tìm kiếm danh tính, nơi chôn cất tập thể các
nghĩa binh năm xưa trong một thời gian rất dài. Theo đó, bà Châu Anh
Phụng
khẳng định: Có 27 nghĩa sĩ hy sinh.
Cũng theo lời bà Châu Anh Phụng, hiện nay, việc xác định lại
danh tính, tuổi tác của những người anh hùng được cụ Đồ Chiểu ca ngợi
trong bản hùng ca trên là điều rất khó. Theo đó, người dân nơi đây
truyền rằng trong số nghĩa binh hy sinh một phần lớn là người dân Mỹ
Lộc, do đó họ đã lập đền thờ chung. Thông tin cùng chúng tôi xung quanh
việc định danh nghĩa sĩ Cần Giuộc, các lão nhân tại khu vực đình Mỹ Lộc
cho biết: Các cụ xưa kể lại rằng, sau khi thất trận, người ta cũng có
lập
danh sách các nghĩa binh nhưng thời gian quá lâu, trải qua chiến
tranh, loạn lạc có lẽ danh sách đã thất lạc hoặc bị phá hủy từ lâu.
Khẳng định lại vấn đề trên, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng
cho biết: Qua quá trình tìm hiểu về cụ Đồ Chiểu, về văn tế cũng như
những nghĩa sĩ, tôi chỉ biết chính xác khu vực chôn cất những người đã
hy sinh. Thi hài nghĩa quân công đồn được nhân dân mang về mai táng
trọng thể tại nghĩa trang khu vực. Tuy nhiên, sau khi Pháp chiếm khu vực
này, do việc mở rộng đường, đắp đồn, chúng đã đào nghĩa trang lên. Lâu
ngày, nơi yên nghỉ của những anh hùng áo vải trở thành một cái ao rất
sâu. Đến
nay, ao đã được lấp để xây nhà mất rồi".
Nói thêm về cuộc đời cụ Đồ Chiểu sau khi viết đại kiệt
tác văn tế, nhà nghiên cứu Châu Anh Phụng cho biết: "Sau khi nghĩa quân
thất trận, ông Đồ mù lòa lại theo vợ con xuống Ba Tri, Bến Tre sinh
sống. Dù ở đâu, ông cũng vẫn là người có nhân cách cao đẹp, lấy văn
chương là vũ khí chống giặc với tư tưởng: Văn dĩ tải đạo. Tuy nhiên, sẽ
là vô cùng thiếu sót nếu nói đến cuộc đời vĩ đại của người chí sĩ trên
mà không đề cập tới những đóng góp thầm lặng của bà Lê Thị Điền, người
vợ
hiền của Nguyễn Đình Chiểu.
Tạo ngày 26/07/2005 12:49 bởi Vanachi, đã sửa 2 lần, lần cuối ngày 10/04/2007 18:54 bởi Vanachi, số lượt xem: 26985
Nguyễn Đình Chiểu 阮廷沼 (1822-1888) tự Mạnh
Trạch, hiệu Trọng Phủ (sau khi mù lấy hiệu Hối Trai), sinh ngày 12,
tháng 5, năm Nhâm ngọ (1822), ở làng Tân Khánh, tổng Bình Trị thượng,
huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Cụ mất ngày 24 tháng 5,
năm Mậu Tý (1888) ở làng An Đức, tổng Bảo An, quận Ba Trị, tỉnh Bến Tre.
Cha là Nguyễn Đình Huy, mẹ là Trương Thị Thiệt. Ông là con cả của bà
Thiệt, tuy vậy thuộc dòng thứ của ông Huy. Dòng chính của ông Huy với
bà Phan Thị Hữu có 2 con: Đình Lân và Thị Phu. Bà họ Trương có 7 con:
các em của ông Đình Chiểu là Thị Thục, Thị Nữ, Thị Thành, Đình Tựu, Đình
Tự, và Đình Huân.
Ông đỗ tú tài trong kỳ thi hương 1843 tại Gia Định. Năm 24 tuổi ông
ra Huế để thi hội dọc đường nghe tin mẹ mất (10.12. 1848) ông phải trở
về cư tang. Trên đường về ông b…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét