Thứ Năm, 17 tháng 12, 2015

DU LỊCH QUÁ KHỨ 6/a (Nam Kỳ Lục Tỉnh)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Mùng bảy hạ nêu, phong tục tết xưa ở miền Tây Nam bộ

authorMinh Khuyên Thứ Ba, ngày 24/02/2015 15:54 PM (GMT+7)

(Dân Việt) Ngày xưa, theo tập tục, cứ đến ngày mồng bảy tháng Giêng, "ngày của con Người", người ta tiến hành làm lễ cúng Trời, Đất để ghi nhớ.


   
Nhà nghiên cứu Toan Ánh cho rằng nguồn gốc lễ khai hạ như sau: Lễ khai hạ, người Trung Hoa gọi là lễ Nhân nhật, nghĩa là "ngày của người".

Sách Phương sóc chiêm thú còn cho biết thêm những ngày đầu năm, mỗi ngày thuộc riêng về một loài phụ trách: mồng một thuộc giống Gà; mồng hai thuộc Chó; mồng 3 thuộc Heo; mồng bốn thuộc Dê; mồng 5 thuộc Trâu; mồng 6 thuộc về Ngựa; mồng 7 thuộc về Người nên được gọi là Nhân.
Từ đó, ngày xưa cứ đến ngày mồng bảy tháng Giêng, ngày của con Người, người ta tiến hành làm lễ cúng Trời, Đất để ghi nhớ.

Cư dân miền Tây Nam bộ xưa cũng mang phong tục ấy. Sáng mùng bảy, hương chức tụ tập ở đình sau khi cúng Trời, Phật mâm trái cây bánh mứt nhang đèn, ông chánh bái (hay bồi bái) đánh ba hồi mõ, gọi là “khai mõ” và ba hồi trống, gọi là “khai trống” để báo hiệu dân làng biết đình làm lễ khai hạ rồi hạ nêu xuống.
Đoạn ông chánh bái ra sân đào một cục đất và chặt một nhánh cây tượng trưng. Từ giờ phút ấy dân làng mới được phép móc đất bẻ cây làm lụng đồng áng rẫy vườn, ai bất tuân lỡ cuốc đất chặt cành trước khi ông chánh bái làm lễ khai hạ sẽ bị làng phạt vạ, đóng trăn (hình phạt trói chặt vào cọc).
mung bay ha neu, phong tuc tet xua o mien tay nam bo hinh anh 2
Tranh dân gian về cây nêu trong Tết xưa (ảnh mang tính minh họa cho bài viết; Nguồn: Internet)
Gặp những năm, công việc ruộng rẫy quá thúc bách không thể chờ đến mùng bảy thì mùng ba theo lời yêu cầu của dân làng, ban Hội tề nhóm tại đình làng ký tên thỏa thuận cho ông chánh bái làm lễ khai hạ sớm hơn thường lệ, bấy giờ dân làng mới dám làm lụng, ruộng vườn.
Còn tại tư gia, chủ nhà làm gà vịt cơm canh cúng các bàn thờ rồi cũng hạ nêu. Ở thôn quê miền Nam, trong nửa thế kỷ XX, còn duy trì tục trồng nêu vào đêm 30 Tết. Nên ngày khai hạ còn duy trì. Nhưng sau đó, nhiều nhà không dựng nêu, nên lễ khai hạ bị lãng quên dần, họa may dựng nêu và khai hạ chỉ còn có ở chùa, đình mà thôi.
Những năm gần đây, người ta chỉ chú trọng ngày xuất hành, và do điều kiện kinh tế thị trường tác động, đời sống người bình dân đã dần thay đổi, nhiều nhà, nhiều người chọn ngày mùng hai, hay mùng ba, mùng bốn, … để bắt tay vào công việc của một năm mới, ít khi họ chờ tới mùng bảy. Cũng từ đây, phong tục này cũng dần lui vào quá khứ. Có chăng nó chỉ còn lại trong ký ức của những bậc cao niên, và được họ truyền miệng lại cho thế hệ sau như kể chuyện xưa tích cũ mà thôi!

Trang phục xưa của người ĐBSCL

Thứ ba, 19/05/2015 10:14
Ngay từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa thì trang phục của cư dân vùng này không có gì khác biệt so với trang phục ngoài Bắc. Nhưng dần dần càng tiến về phương Nam thì trang phục của cư dân Đàng Trong càng có những đặc điểm khác biệt so với trang phục của cư dân Đàng Ngoài. Đặc biệt là, từ khi người Hoa vào Đàng Trong năm 1680 thì trang phục của cư dân bản địa đã có những ảnh hưởng nhất định.

Điều này đã được Trịnh Hoài Đức ghi lại trong Gia Định thành thông chí như sau: “Duy có người Việt ta noi theo tục cũ Giao Chỉ: người quan chức thì đội khăn cao sơn, mặc áo phi phong, mang giày bì đà, hạng sĩ thứ thì bới tóc, đi chân trần, con trai con gái đều mặc áo vắn tay bâu thẳng, may kín hai nách, không có quần, con trai dùng một miếng vải buộc từ sau lưng thẳng đến dưới háng quanh lên đến rún, gọi là cái khố, con gái có người không mặc váy, đội nón lớn, hút điếu binh, ở nhà thấp, trải chiếu ngồi dưới đất, không có bàn ghế. Năm Mậu ngọ (1738) Thế tôn Hiếu võ Hoàng đế định lại sắc phục, các quan văn võ châm chước theo chế độ của đời Hán Đường, đến Đại Minh thì hình thức mới chế như phẩm phục quan chế ngày nay đã ban hành theo trong Hội điển, gồm đủ cả văn chất. Còn y phục gia thất khí dụng của hàng sĩ thứ đại lược như thể chế đời Minh”.
spvl-anh-dep-vn-30.jpg
Đến đời chúa Thế Tông Nguyễn Phước Khoát lại có một biến động lớn xảy ra trong việc cải cách trang phục. Triều đình quy định cư dân Đàng Trong phải ăn mặc như người Tàu, phụ nữ mặc quần chứ không còn mặc váy như người Đàng Ngoài, nhằm tạo nên sự khác biệt trong trang phục so với Đàng Ngoài.
Cho đến nay, về cơ bản, cách mặc của cư dân ĐBSCL có sự thống nhất với các vùng miền khác trong nước. Nhưng do đặc điểm địa hình, thời tiết, khí hậu, mà cư dân ĐBSCL đã chọn cho mình những bộ trang phục phù hợp, mang tính đặc trưng.
Cư dân ĐBSCL sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Làm nông nghiệp thì buộc con người suốt ngày phải bán mặt cho đất bán lưng cho trời, quanh năm chân lấm tay bùn, trong điều kiện thời tiết hai mùa mưa nắng rõ rệt màu sắc trong trang phục của người dân ĐBSCL ngày xưa thường chọn gam màu chủ đạo là màu đen, nâu sậm, ít khi mặc màu trắng, trừ khi đám tiệc, lễ hội. Ngày xưa, để nhuộm vải, người ta dùng lá bàng, vỏ trâm bầu, trái mặc nưa… làm nguyên liệu. Chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn từng là phục sức hết sức phổ biến của cư dân. Cho đến nay, chưa thấy có tư liệu nào xác định rõ nguồn gốc của chiếc áo bà ba. Người ta chỉ biết rằng, vào đầu thế kỷ XX loại áo này đã được mặc khá phổ biến của cả vùng Nam bộ. Theo nhà văn Sơn Nam thì “Bà Ba là người Mã Lai lai Trung Hoa. Chiếc áo bà ba mà người miền Nam ưa thích, vạt ngắn không bâu chính là kiểu áo của người Bà Ba”. Một quan niệm khác lại cho rằng, “Có thể áo bà ba ảnh hưởng, cách tân từ áo lá và áo xá xẩu may bằng vải buồm đen của người Hoa lao động, là kiểu áo cứng, xẻ giữa, cài nút thắt… Phải chăng do thời tiết quanh năm nóng bức, họ bỏ luôn chiếc cổ thấp của áo lá và áo xá xẩu, mang thêm áo quanh chân cổ cho chắc. Áo xẻ giữa thay vì cài nút thắt đã được làm khuy, cài nút nhựa do ảnh hưởng phương Tây”.
ao-ba-ba3.jpg
Người nông dân ở ĐBSCL ngày xưa thường vận bộ bà ba đen. Bởi, nó vừa sạch vừa dễ giặt giũ. Vải may là loại vải một, vải ú, vải sơn đầm… rất mau khô sau khi giặt. Bên cạnh đó, chiếc áo bà ba còn có nhiều tiện dụng khác như: Áo được xẻ ở hai bên hông làm cho người mặc cảm thấy thoải mái, gần vạt áo lại có thêm hai túi to khá tiện lợi cho việc đựng những vật dụng nhỏ như thuốc rê, diêm quẹt, tiền bạc… Chính vì tính tiện dụng và sự thoải mái này mà chiếc áo bà ba được cả nam lẫn nữ ở ĐBSCL mặc ngay cả lúc đi làm đồng, đi chợ, đi chơi… Tuy nhiên, khi đi chơi, họ thường chọn màu sắc nhẹ hơn, như màu trắng, màu xám tro. Còn các cô, các bà thì chọn màu mạ non, xanh lơ nhạt… với chất liệu vải đắt tiền hơn…
“Thời Pháp thuộc, nhất là thời trước 1975, áo bà ba là truyền thống được phụ nữ thành thị cải tiến, vừa giữ được tính dân tộc, vừa đẹp và hiện đại hơn. Áo dài, bà ba hiện nay không thẳng và rộng như xưa, mà được may hẹp, nhấn thêm eo bụng, eo ngực cho ôm sát lấy thân hình. Ngoài ra, những người dụng công cải tiến áo dài, bà ba tập trung vào việc sáng tạo các kiểu chắp vai, cổ tay, cửa tay… Những cải tiến này trong điều kiện sử dụng áo bà ba rộng rãi hơn, may bằng nhiều mặt hàng vải ngoại, đặc biệt, lúc này người phụ nữ đã tiếp thu và sử dụng khá phổ biến chiếc nịt ngực tân thời. Áo bà bà cải tiến chú ý tới các kiểu bâu (cổ), như lá sen, cánh én, đan tôn… là các loại cổ có ve lật, tiếp thu từ kiểu y phục nước ngoài.
Các kiểu ráp tay cũng được cải tiến. Từ kiểu may áo cánh xưa, liền thân với tay, người ta nghĩ tới cách ráp tay rời ở bờ tay áo. Đặc biệt, trong những năm 1970 thành thị miền Nam phổ biến kiểu ráp tay raglan, đã tạo nên dáng vẻ đẹp hiện đại cho chiếc áo dài và bà ba truyền thống. Với kiểu vai raglan này, hai thân áo trước và sau tách với vai và tay áo, trong khi tay và áo lại liền từ cổ tới nách. Bà ba vai raglan này chỉ cần may khít, vừa vặn với eo lưng, không quá thắt như kiểu áo trước. Tay áo dài hơn nhưng hơi loe, có khi bỏ cả hai túi ở vạt trước để tạo cho thân áo nhẹ nhõm, mềm mại hơn.
Đây cũng là thời kỳ các loại vải ngoại đẹp tràn lan vào thị trường miền Nam với nhiều màu sắc đa dạng. Các bà, các cô thường chọn hàng tétơrông, soa, mousơlin… để may loại áo bà ba này. Để kết hợp với bà ba, người ta cũng chọn những hàng soa để may quần kiểu nối đáy, may hơi sát mông, ống hơi loe, để tạo dáng đẹp mềm mại, kín đáo, hiền thục của người phụ nữ”.
Chiếc khăn rằn cũng là hình ảnh hết sức quen thuộc ở ĐBSCL. Không biết nó ra đời từ bao giờ, mà người ta chỉ biết nó xuất hiện đồng hành cùng những con người thời khai hoang mở cõi vào phía Nam của Tổ quốc. Chiếc khăn rằn cùng chiếc áo bà ba đã trở thành một hình tượng hết sức quen thuộc và gần gũi với mọi người. Và nó cũng là một biểu tượng cho người phụ nữ ĐBSCL rất cần cù và cũng rất đáng yêu.
trangphuc.jpg
Theo các nhà nghiên cứu thì chiếc khăn rằn có nguồn gốc từ người Khmer. Chính sự tiện ích của nó mà chiếc khăn rằn phổ biến mà không hề có sự phân biệt về dân tộc, giới tính khi sử dụng nó. Khăn rằn có chiều dài khoảng 1,2 m, rộng chừng 40 đến 50 cm không có các màu sắc cầu kỳ, sặc sỡ mà rất đỗi bình dị và giản đơn. Chiếc khăn rằn thường có hai màu đen và trắng hoặc nâu và trắng. Hai màu này được kẽ thành hai lằn ngang, đan chéo vào nhau tạo thành ô vuông nhỏ, trải dài khắp mặt khăn. Không chỉ có những người lao động lam lũ mà những điền chủ, những người giàu có cũng sử dụng nó. Khăn được vắt gọn trên đầu đối với người phụ nữ; hoặc cột ngang trán, chừa hai đuôi khăn nhô lên đầu, nút khăn nằm ở phía trước đối với nam. Khăn rằn cũng thường được quàng trên cổ, một đầu thả trước ngực, một đầu thả sau lưng. Đôi khi hai đầu buông xuôi xuống phía trước, đi kèm theo thường là bộ quần áo bà ba làm nên nét đặc trưng của cư dân xứ này.
Bên cạnh chiếc áo bà ba và chiếc khăn rằn, một số thành phần khá giả ở ĐBSCL ngày xưa như công chức, thương gia, điền chủ… thì ăn mặc có phần sang trọng hơn, nhất là ở giai đoạn cuối thế kỷ XX khi mà Việt Nam đã bắt đầu có phong trào Âu hóa thì những tầng lớp này đã chịu ảnh hưởng cách phục sức của phương Tây. Họ ít mặc các trang phục truyền thống hơn, mà thay vào đó là áo vét-tông, giày mỏ vịt, sơ mi cổ cồn, thắt cà vạt… Còn giới điền chủ giàu có thì “khăn đóng, áo dài đen, quần trắng, đi giày hàm ếch, tay chống ba-toong, để râu trái ấu vuốt sáp”.
Trong các ngày lễ thì trang phục đã trở thành lễ phục nên cần được ăn mặc chỉnh tề, ngay ngắn, lịch sự. Bộ trang phục được xem là lễ phục phổ biến ngày xưa là bộ khăn đóng áo dài. Thường thì áo dài bằng xuyến hay lương đen, còn quần thì màu trắng bằng lụa hay vải. Bộ trang phục này thường được mặc khi dự lễ cúng đình hay đám cưới, các dịp hiếu, hỉ… Còn nếu như nhà có tang thì trang phục lễ tang thường chọn màu trắng làm màu chủ đạo, được may bằng loại vải thô thưa rẻ tiền, biểu thị tình cảm của mình đối với người đã khuất với ý nghĩa: cha mẹ hoặc ông bà mất rồi, con cái quá đau buồn không thiết gì đến việc ăn mặc nữa. Áo tang phải được may trở sống ra ngoài. Con là nam thì đầu đội mũ rơm, nữ thì đội mấn, những người họ hàng thân thích thì chỉ quấn vòng khăn tang ngang đầu.
Ngày nay, xã hội phát triển, đời sống con người được nâng lên. Từ nhu cầu mặc ấm đã được nâng lên thành mặc đẹp. Người ta sắm cho mình những bộ cánh ưng ý nhất, đắt tiền nhất trong khả năng mình có thể. Trong quá trình giao lưu với văn hóa phương Tây đã xuất hiện nhiều loại trang phục mới,… Dù vậy, chiếc khăn rằn và chiếc áo bà ba không hề mất đi bởi đó là biểu tượng đặc trưng riêng của người dân vùng ĐBSCL - nhất là phụ nữ. Và nó cũng là một biểu tượng của bản sắc văn hóa cần lưu giữ.
Theo Báo Cần Thơ
  1. Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh


    Nam Kỳ Lục Tỉnh
    theo dòng thời gian



    Bài viết : Lâm Văn Bé

    * 1834: Vua Minh Mạng đổi tên Gia Định Thành gồm 5 trấn (Phiên An, Biên Hòa,Định Tường, Vĩnh Thanh và Hà Tiên) thành 6 tỉnh và đặt tên Nam Kỳ Lục Tỉnh gồm có : Phiên An ( năm 1836 đổi là Gia Định, lỵ sở là thành Saigon), Biên Hòa ( lỵ sở là thành Biên Hòa), Định Tường ( lỵ sở là thành Mỹ Tho), Vĩnh Long (lỵ sở là thành Vĩnh Long), An Giang (lỵ sở là thành Châu Đốc), và Hà Tiên (lỵ sở là thành Hà Tiên).

    * 1876: Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chánh (circonscription administrative), mỗi khu vực lại được chia thành nhiều địa hạt (arrondissement) như sau:
    - Khu vực Saigon có 5 địa hạt: Tây Ninh, Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Bà Rịa, Gia Định
    - Khu vực MỹTho có 4 địa hạt : MỹTho, Gò Công, Tân An, Chợ Lớn
    - Khu vực Vĩnh Long có 4 địa hạt: Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Sa Đéc
    - Khu vực Bassac có 6 địa hạt: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Cần Thơ, Sốc Trăng.

    * 1882: Địa hạt Bạc Liêu được thành lập gồm 2 tổng của Sốc Trăng và 3 tổng của Rạch Giá. Như vậy, tới năm nầy, Nam Kỳ có 20 địa hạt.

    * 1895: Cap Saint-Jacques được tách ra khỏi Bà Rịa để trở nên thị xã tự trị (commune autonome).

    * 1899: Địa hạt được đổi thành tỉnh (province), và từ đây Nam Kỳ có 20 tỉnh theo vần vè như sau :
    - Gia (Định) Châu (Đốc) Hà (Tiên) Rạch (Giá) Trà (Vinh)
    - Sa (Đéc) Bến (Tre) Long (Xuyên) Tân (An) Sốc (Trăng)
    - Thủ (Dầu Một) Tây (Ninh) Biên (Hòa) Mỹ (Tho) Bà (Rịa)
    - Chợ (Lớn) Vĩnh (Long) Gò (Công) Cần (Thơ) Bạc (Liêu)


    * 1929: Cap Saint-Jacques trở thành một tỉnh.

    * 1956: Chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa tổ chức Nam Kỳ (Nam Phần) thành 22 tỉnh và Đô Thành Saigon. Nhiều tỉnh được đổi tên, nhiều tỉnh mới được thành lập :
    - Bình Tuy, Phước Long (Bà Rá), Bình Long (Hớn Quản) cả hai trước thuộc Thủ Dầu Một (tên mới :Bình Dương), Long Khánh ( Xuân Lộc), Phước Tuy (Bà Rịa-Vũng Tàu), Long An (Chợ Lớn +Tân An), Định Tường (MỹTho +Gò Công), Kiến Hòa (Bến Tre), Kiến Phong (Phong Thạnh), Kiến Tường (Mộc Hóa), An Giang (Long Xuyên+Châu Đốc), Kiên Giang (Rạch Giá Hà Tiên), Ba Xuyên (BạcLiêu +Sốc Trăng), An Xuyên (Cà Mau), Phong Dinh (Cần Thơ), Vĩnh Bình (Trà Vinh). Năm 1959 có lập thêm tỉnh Phước Thành (gồm một phần đất của Biên Hòa, Bình Dương, Tây Ninh), nhưng bị giải thể năm 1965.

    * 1961: Tỉnh Chương Thiện được thành lập (gồm một phần đất của Ba Xuyên, Kiên Giang, và Phong Dinh)

    * 1963 : Thêm tỉnh Hậu Nghĩa (gồm một phần đất của Long An, Gia Định và Tây Ninh)

    * 1975: Trước ngày 30 tháng 4, Nam Phần có 27 tỉnh và Đô Thành Saigon.
  2. Mặc định Re: Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh

    Được hình thành theo dòng Lịch sử:

    Gia Ðịnh, Ðịnh Tường, Biên Hòa, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên thuộc Lục Tỉnh Nam Kỳ ngày xưa (được vua Minh Mạng đổi Trấn thành Tỉnh vào năm Tân Mão 183. Theo hòa ước Pháp - Việt được ký vào năm Nhâm Tuất 1862, giữa thiếu tướng Bonard (phía Pháp) với Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp (phía Việt Nam), theo đó thì triều đình Huế phải nhường cho Pháp 3 tỉnh thuộc Lục Tỉnh Nam Kỳ là: Biên Hòa, Gia Ðịnh và Ðịnh Tường. Ba tỉnh còn lại là An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên đã bị Pháp lấy theo hòa ước Pháp - Việt được ký kết vào năm Giáp Tuất 1874 giữa thiếu tướng hải quân Dupré (phía Pháp) với Lê Tuấn và Lâm Duy Tiếp (phía Việt Nam). Pháp đã chia 6 tỉnh Nam kỳ ra làm 20 tỉnh và Gia Ðịnh có số thứ tự là 1; sau đó thành 21 tỉnh, khi Vũng Tàu tách ra khỏi Bà Rịa.

    Khi nói đến vùng đất Nam Kỳ, là phải nhớ đến công ơn khai thác bờ cõi của các đời Chúa Nguyễn. Nguyễn Hoàng (1524 - 1613, tục gọi là Chúa Tiên) người huyện Tống Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hóa (Trung phần), là thứ nam của An Thành Hầu Nguyễn Kim, làm đến chức Ðoàn Quận Công đời vua Lê Anh Tông (1556 - 1573).

    Khi thân phụ hàng tướng Dương Chấp Nhất và sau đó bị đánh thuốc độc chết, rồi đến người anh cả là Nguyễn Uông bị anh rể là Trịnh Kiểm (lấy chị ruột tên là Ngọc Bảo) ám hại, chỉ vì sợ bị họ Nguyễn tranh mất quyền. Nguyễn Hoàng lo sợ sớm muộn gì cũng sẽ bị Trịnh Kiểm ám hại, nên Ông tìm cách nói với chị là Ngọc Bảo xin với chồng, cho phép ông vào trấn giữ ở phía Nam.

    Vào năm Mậu Ngọ 1558, Ông được đề cử vào trấn đất Thuận Hóa. Khi đi, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã mang theo gần hết bà con họ hàng ở huyện Tống Sơn. Cùng đi còn có thêm số quân lính và vợ con, dân chúng ở vùng Bắc Bố Chính cũng tình nguyện theo Chúa Tiên vào Nam để khai khẩn đất đai và sinh cơ lập nghiệp.

    Năm Nhâm Thân 1592, ông đưa quân ra Bắc rồng rả suốt 8 năm, giúp Trịnh Tùng chống lại tướng Lập Bạo của nhà Mạc ở làng Hồ Xá và Lang Uyển, thuộc Quảng Trị. Ðến Năm 1600 Ông trở về Thuận Hóa, lập ra nghiệp nhà Nguyễn, khởi đầu cho cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn.

    Vào Năm Tân Hợi 1611, Chúa Tiên Nguyễn Hoàng đã lấy phần đất của Chiêm Thành lập ra phủ Phú Yên, rồi chia ra làm hai huyện Ðồng Xuân và Tuyên Hòa. Ông mất năm Quý Sửu 1613, thọ 89 tuổi; được truy tôn là Thái Tổ Gia Dụ Hoàng Ðế.

    Nhân cơ vua nước Chiêm Thành cho quân sang quấy nhiễu Phú Yên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (hay là Nguyễn Phước Tần 1619 - 1687, vị Chúa thứ 4 đời nhà Nguyễn) bèn sai quân đi dẹp loạn. Vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm phải đầu hàng. Ở phía Nam, Chúa Hiền lại lấy thêm được phần đất của Chiêm Thành, từ Phan Rang trở ra làm Thái Ninh phủ, sau đổi thành phủ Diên Khánh (tức Khánh Hòa ngày nay) và đặt dinh Thái Khang để coi việc cai trị.

    Vào năm Kỷ Mùi 1679, củng với nhóm người Việt di dân vào Nam lập nghiệp, còn có hai nhóm người Trung Hoa khoảng 3.000 quan quân và 50 chiến thuyền ở Quảng Tây. Vì muốn tỏ lòng trung thành với nhà Minh, không chịu hàng phục nhà Thanh, nên họ xin được gia nhập làm dân nước Nam. Trong nhóm người Hoa có hai vị Thiền Sư nổi tiếng là Quả Bổn và Nguyên Thiêu.

    Nhân có ý định muốn khai khẩn thêm phần đất của Chân Lạp, Chúa Hiền đã cho những người Hoa vào những vùng đất ở Ðông Phố (tức Gia Ðịnh), ở Lộc Dã và Ba Lân (tức Biên Hòa thuộc Ðồng Nai), ở đất Mỹ Tho (trước thuộc tỉnh Ðịnh Tường, nay thuộc tỉnh Tiền Giang). Chúa Hiền mất năm Ðinh Mão 1687, thọ 68 tuổi; được truy tôn là Thái Tôn Hiếu Triết Hoàng Ðế.

    Nguyễn Phúc Chu (hay Nguyễn Phước Chu 1674 - 1725, vị Chúa thứ 6 của đời Nguyễn), nối nghiệp Chúa Nguyễn Phúc Trăn từ năm Tân Mùi 1691, người đương thời còn gọi là Quốc Chúa. Ngoài việc lo sửa sang chánh trị, mở các khoa thi để kén chọn nhân tài, Quốc Chúa còn có công quan trọng trong việc mở rộng thêm bờ cõi phía Nam cho nước ta.

    Năm Quí Dậu 1693, nhân cớ vua nước Chiêm Thành bỏ lệ tống cống cho nước ta, Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan Tổng Binh là Nguyễn Hữu Kính mang quân đi chinh phạt. Vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh bị bắt, phần đất cuối cùng của nước Chiêm Thành bị chiếm và được đổi thành Thuận phủ. năm Gáp Tuất 1694 đổi Thuận Phủ làm Thận Thành trấn và đặt ra phủ Bình Thuận (Phan Thiết) gồm có huyện Yên Phúc (Phan Rí) và huyện Hòa Ða (Phan Rang). Kể từ đấy, nước Chiêm Thành xem như đã hoàn toàn bị thôn tính.

    Ðến năm Mậu Dần 1698, Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu lại cử Nguyễn Hữu Kính làm kinh lược đất Chiêm Thành. Lấy xứ Ðồng Nai làm huyện Phúc Long, xứ Sài Côn (sau này là Sài Gòn) làm huyện Tân Bình; đặt Trấn Biên dinh (tức Biên Hòa ngày nay) và Phiên Trấn dinh (tức Ðịa Dinh). Những lưu dân từ Quảng Bình trở vào, được đưa đến vùng đất mới để khai khẩn đất đai, sinh cơ lập nghiệp. Quốc Chúa có được 146 người con, mất năm Ất Tỵ 1725, thọ 51 tuổi; được truy tôn là Hiếu Tôn Ninh Hoàng Ðế.

    Chúa Nguyễn Phúc Trú (hay Nguyễn Phước Trú 1685 - 1738, vị Chúa thứ 7 đời nhà Nguyễn, kế nghiệp Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu) đã tiếp tục mở mang thêm vùng đất Gia Ðịnh và bảo hộ đất Chân lạp: Chúa nguyễn Phúc Trú mất năm Mậu Ngọ, thọ 43 tuổi; được truy tôn là Túc Tôn Hiếu Ninh Hoàng Ðế.

    Vào năm Ðinh Sửu 1759, vua Chân Lạp là Nặc Nguyên chết, Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (hay là Nguyễn Phước Khoát, vị Chúa thứ 8 đời nhà Nguyễn, kế nghiệp Chúa Nguyễn Phúc Trú) đã che chở và giúp đỡ cho Nặc Tôn lên làm vua. Nặc Tôn đã dâng đất Tầm Phong Long (hiện là đất Vĩnh Long, Sa Ðéc, Châu Ðốc) cho Võ Vương để tạ ơn. Nặc Tôn còn trao cho tướng Mạc Thiên Tứ (người mà trước kia đã từng cầm quân giúp cho Nặc Tôn) 5 phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, sài Mạt và Linh Quỳnh. Nhưng sau đó mạc Tứ Thiên đã dâng lại cho Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát và sau đó đã được sáp nhập vào trấn Hà Tiên. Võ Vương mất năm Ất Dậu 1765, được truy tôn là Thế Tôn Hiếu Võ Hoàng Ðế.

    Thời đó, đất đai vùng Lục tỉnh Nam kỳ còn hoang dã, khắp nơi chỗ nào cũng có rất niều thú dữ, nhưng rất là phì nhiêu, khí hậu thuận lợi cho những người di dân lập nghiệp. Thiên nhiên đã ban bố cho những vùng đất đai ở miền Nam rất là phì nhiêu, không những chỉ trồng được có nhiều thứ lúa gạo ngon, mà người nông dân còn trồng ra được rất nhiều thứ trái cây ngon, ngọt.

    Khi những bàn chân khai khẩn đất hoang kéo đến vùng Lục tỉnh nam kỳ, họ đã dùng hết nghị lực, cùng với tính cần cừu nhẫn nại sẵn có, để tận dụng sự ưu đãi của thiên nhiên và họ đã tìm được hạnh phúc ấm no. Có rất nhiều bài ca dao đã nói lên cuộc sống rất phồn thịnh của những lưu dân đến sinh cư lập nghiệp nơi vùng đất mới.

  3. Mặc định Re: Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh


    Các vị khách mời tham quan xem bộ sách Lịch sử Nam bộ kháng chiến vừa được công bố sáng 31/3

    Phát biểu tại lễ tổng kết và công bố sách, ông Trương Tấn Sang - ủy viên Bộ Chính trị, thường trực Ban Bí thư - ghi nhận: “Bộ sách Lịch sử Nam bộ kháng chiến của tập thể tác giả, trong đó hầu hết là các đồng chí cán bộ lãnh đạo chủ chốt của các cấp ủy đảng và các tướng lĩnh, những người lãnh đạo, chỉ đạo, tham gia trực tiếp trong hai cuộc kháng chiến là một công trình đồ sộ, chứa đựng nhiều tư liệu quý, phản ánh khá đầy đủ, toàn diện về hai cuộc kháng chiến anh hùng, kiên cường, thông minh, sáng tạo của nhân dân Nam bộ. Qua bộ sách, chúng ta vui mừng thấy không một chiến công nào, một sự hi sinh nào, một sự kiện lịch sử nào ở Nam bộ bị lãng quên”.

    Ngay tại buổi lễ, ông Lê Thanh Hải, ủy viên Bộ Chính trị, bí thư Thành ủy TP.HCM, cũng cho biết TP.HCM sẽ mua ngay 200 bộ sách để cung cấp cho các cấp ủy và cán bộ lãnh đạo.

    Biên soạn Lịch sử Nam bộ kháng chiến là ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư từ năm 2001. Lúc đó, hội đồng chỉ đạo biên soạn Lịch sử Nam bộ kháng chiến được thành lập gồm 32 thành viên, do Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt làm chủ tịch hội đồng. Sau đó, ban biên soạn được thành lập gồm 14 thành viên do nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng làm chủ biên.

    Công trình biên soạn trong thời gian dài, lần lượt chứng kiến sự ra đi của cả chủ tịch hội đồng chỉ đạo biên soạn Võ Văn Kiệt và chủ biên Trần Bạch Đằng.

    Trong mười năm biên soạn, công trình này nhận được nhiều ý kiến, tài liệu góp ý, bổ sung từ các ban tuyên giáo của 19 tỉnh thành, Bộ tư lệnh Quân khu 7 và Quân khu 9.

    Ngoài ra, để phục vụ công tác biên soạn, hội đồng chỉ đạo và ban biên soạn đã tổ chức cuộc tọa đàm vào ngày 30-10-2006 với những người thuộc lực lượng thứ ba và cán bộ liên quan tổ chức hội thảo quốc tế về “Những khía cạnh chọn lọc trong lịch sử và nhận thức về phong trào kháng chiến 1954-1975 ở Nam Việt Nam”, có 40 nhà nghiên cứu, khoa học trong nước và 13 nhà nghiên cứu, khoa học nước ngoài tham dự.

    Công trình đã được Hội đồng khoa học cấp nhà nước nghiệm thu và bỏ phiếu cho điểm ở mức xuất sắc. Công trình đã hai lần nhận Giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu về lịch sử Nam bộ (năm 2006: tập 1 và năm 2010: tập 2).

    Sách in 1.800 bản, lưu hành trên toàn quốc.

    Trung tướng Nguyễn Thới Bưng: Hi vọng giới sử học sẽ tiếp tục bổ sung

    Có mặt trong hội đồng chỉ đạo biên soạn bộ sách Lịch sử Nam bộ kháng chiến ngay từ đầu khi Bộ Chính trị vừa có quyết định thực hiện công trình này, trung tướng Nguyễn Thới Bưng giữ vị trí ủy viên thường trực, lúc đó ông 73 tuổi. Nay tuổi đời ông vừa bước sang năm thứ 83, công trình mới hoàn thành.

    Trung tướng Nguyễn Thới Bưng ngồi trên chiếc ghế trong phòng khách nhà riêng, bồi hồi nhớ lại công trình biên soạn lịch sử trải ngót mười năm, và điều đầu tiên ông tâm đắc chính là những dòng di bút của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt:

    “Nỗ lực chủ quan của hội đồng chỉ đạo công trình dù sao cũng có giới hạn. Khả năng của ban biên soạn nhất định thấp hơn hiện thực quá lớn lao của một giai đoạn lịch sử cô đặc vấn đề, sự kiện, con người... đánh dấu một giai đoạn rất đậm nét và cực kỳ phong phú của lịch sử Việt Nam và của cả thế giới đương đại”.

    * Thưa ông, được biết khi hoàn tất bản thảo và chuyển đến nhà xuất bản, vẫn còn 12 vấn đề được hội đồng biên tập - xuất bản bộ sử này nêu ra đề nghị làm rõ chứ chưa đồng ý đưa vô sách. Như vậy, với những chỗ nội dung về lịch sử “chưa gặp nhau” giữa những người biên soạn và phía xuất bản, cách thức giải quyết là như thế nào?

    - Chúng tôi phải ngồi lại họp để trả lời các vấn đề nêu ra của hội đồng biên tập - xuất bản, thảo luận về các vấn đề đều khách quan, dân chủ. Với từng sự kiện lịch sử, nếu có cách nhận thức khác nhau chủ yếu là do chưa hiểu nhau thôi. Chúng tôi chấp nhận cách đặt vấn đề và giải quyết bằng cách sửa lại một số câu chữ cho phù hợp.

    Ví dụ những người biên soạn đã có những tranh luận rất dài về giai đoạn 1956-1959 ở Nam bộ. Lâu nay khi viết về cách mạng trong giai đoạn này người ta dùng chữ “thoái trào”, nay chữ đó không được đồng ý và chúng tôi chuyển sang dùng chữ “thời kỳ khó khăn”.

    Sở dĩ chữ “thoái trào” không được đồng ý vì trong nội bộ những người lãnh đạo kháng chiến còn ý kiến khác nhau. Có người lập luận giai đoạn này chúng ta vẫn còn tỉnh ủy, liên tỉnh ủy nên không dùng chữ “thoái trào”.

    * Theo ông, từ vị trí một người trực tiếp tham gia chiến trường Nam bộ, đến vai trò một thành viên trong ban soạn thảo Lịch sử Nam bộ kháng chiến, có vấn đề nào của Nam bộ trong thời kỳ kháng chiến lâu nay còn lấn cấn nhưng đến giờ đã được giải quyết “một cách ưng ý” trong bộ sử này?

    - Đó là cách ghi nhận phong trào kháng chiến Nam bộ giai đoạn trước Đồng khởi. Lâu nay, mọi người viết về giai đoạn này đều cho rằng cách mạng miền Nam chậm chuyển hướng từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang.

    Sự thật trong giai đoạn này phong trào cách mạng miền Nam bị đàn áp, thiệt hại lớn. Khoảng cuối năm 1960, Xứ ủy Nam bộ đã có kiểm điểm về việc chậm chuyển hướng sang đấu tranh vũ trang. Nhưng điều này có lý do là vì lúc đó ta phải nghe ngóng tình hình thế giới xung quanh.

    Dù vậy trước năm 1960 khi chưa có nghị quyết 15 về Đồng khởi, Nam bộ vẫn lâm râm vũ trang: như trận đánh giồng Thị Đam, gò Quảng Cung diệt cả tiểu đoàn địch. Rồi khắp nơi từ Kiên Giang, Cà Mau cũng có vũ trang. Tuy nhiên, phong trào kháng chiến Nam bộ lúc này cũng giống như đang “tức nước”, và khi có nghị quyết 15 thì Nam bộ “vỡ bờ” - vũ trang được ngay.

    Do vậy, trong bộ sử này chúng tôi ghi nhận Nam bộ giai đoạn trước đồng khởi có cả nguyên nhân vì sao chậm đấu tranh vũ trang, và cũng khắc họa được cái thế “tức nước vỡ bờ” của cách mạng miền nam giai đoạn trước và sau Đồng khởi là như vậy.

    * Lịch sử luôn có những vấn đề tế nhị, và với bộ sử này có vấn đề nào trong dòng lịch sử kháng chiến của Nam bộ phải để lại, chưa nói được?

    - Đó là khi biên soạn về chiến tranh biên giới Tây Nam. Cách xử lý của chúng tôi là dẫn lại từ nguồn các báo quốc tế viết về sự kiện đó. Lúc đó báo chí các nước có nói, nhà báo Wilfred Burchett cũng có nói, mình dẫn lại các ý kiến đó để cho thấy ai đã đứng sau lưng Khmer Đỏ. Như cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã nói, chúng tôi cũng không dám nói là mình đã nói đầy đủ.

    Chỉ hi vọng nhân dân trong và ngoài nước góp ý, phản biện để chúng tôi ghi nhận lịch sử được chất lượng hơn. Hi vọng giới nghiên cứu sử học sẽ tiếp tục thêm vào cho những lần in ấn sau.

  4. Mặc định Re: Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh

    Em có tấm bản đồ Nam Kỳ Lục Tỉnh thời xưa từ net gom dzìa bỏ vào TK photobucket giờ cũng hổng nhớ gốc tích lụm nó ở đâu lun:

  5. Mặc định Re: Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh

    - Trước khi dựng nên triều đại nhà Nguyễn, các chúa Nguyễn đã trải 9 đời làm Chúa phương Nam.

    - Nguyễn Hoàng (1558 - 1613) - vị chúa đầu tiên, được dân gian tôn xưng là Chúa Tiên.

    - Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635) tính hiền hòa, mộ đạo Phật, dựng và sửa nhiều chùa chiền, nên được gọi là Chúa Sãi.

    - Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648) lấy hiệu là Thượng Vương, nên được gọi là Chúa Thương.

    - Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) lấy hiệu là Hiền Vương, nên được gọi là Chúa Hiên.

    - Nguyễn Phúc Thái (1687 - 1691). Do Chúa chăm lo cho dân trăm họ nên từ quan tới dân gọi chúa là Chúa Ngãi (Chúa Nghĩa).

    - Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) được gọi là Chúa Minh vì khi lên ngôi lấy hiệu là Minh Vương.

    - Nguyễn Phúc Thụ (1725 - 1738) lấy hiệu là Ninh Vương, nên gọi là Chúa Ninh.

    - Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) hiệu là Võ Vương, nên được gọi là Chúa Võ.

    - Nguyễn Phúc Thuần (1765 - 1777) hiệu là Định Vương, nên được gọi là Chúa Định.

    Dĩ Nguyên
  6. Mặc định Re: Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh




    Theo dấu Sơn Nam - Kỳ 2: Cây huê xà bí ẩn

    Bí ẩn huê xà
    Ở rạch Thuồng Luồng vừa có thầy Hai Rắn nổi danh do tài nghệ siêu phàm trị rắn độc cắn, điều khiển được mãng xà vương. Năm Điền là thầy rắn lừng danh nay lu mờ trước Hai Rắn đã nảy sinh mối thâm thù. Năm Điền nào biết điều khiển rắn, bèn xúi con gái là Lài yêu đương với Lợi, con trai Hai Rắn để moi “bùa” quy phục rắn. Lợi tiết lộ cha nó dùng 5 thứ thuốc nhưng thứ chính là cây huê xà nên rắn độc ngửi hơi sợ, ê răng ê mỏ. Nghe con thuật lại, Năm Điền thấy tên cây lạ quá ngỡ thằng Lợi nói gạt. Vì háo danh, thầy Năm kéo theo con Lài thử độc và cả hai bị rắn cắn chết do thiếu vị thuốc huê xà (trích Cây huê xà - Hương rừng Cà Mau).
    Trong truyện, Sơn Nam thông qua nhân vật tiết lộ cây huê xà hiếm có, mọc trên chót núi Cấm (nay thuộc xã An Hảo, H.Tịnh Biên, An Giang). Ông Nguyễn Thiện Chung, Chủ tịch Hội Đông y H.Tịnh Biên, nói: “Cây huê xà trị rắn cắn có thật, nó mọc rất ít trên núi, nên khó ai tìm”. Miệt Thất Sơn ngày đó hoang vu lắm, loài rắn độc như chàm quạp, hổ mây, cạp nong, hổ chuối, lục đuôi đỏ... tung hoành tạo nên cuộc chiến sinh tồn âm thầm giữa người và rắn. Tùy theo loài rắn mà các thầy rắn dùng thuốc, dùng ngải, dùng bùa, dùng sừng dinh... chống trả. Bây giờ rừng rú nhường bước dân cư đông đúc nhưng năm nào cũng có người tử vong, bị trúng độc do rắn cắn. Thế nhưng, nghe tả cây trị rắn độc tên huê xà màu sắc vằn vện như da rắn, dây mút tròn, người già, thầy rắn đều lấy làm lạ. Họ trầm ngâm nếu có biết cây thần sầu đó thì nhiều người sống trên núi Cấm và miệt Thất Sơn đâu uổng mạng vì rắn.

    Theo dấu Sơn Nam - Kỳ 2: Cây huê xà bí ẩn - ảnh 1
    Cây huê xà bông trắng - Ảnh: Thanh Dũng
    Mấy cụ khuyên đâu thử về Ba Chúc (H.Tri Tôn) hỏi các thầy rắn có trồng cây ấy. Những năm 1990 vùng này rắn còn lềnh khênh, ban đêm rắn rượt chuột chạy trên mái nhà. Nhiều rắn lớn nằm sau nhà gáy le te như gà nghe lạnh người, con nít mà chiều tối huýt sáo rắn độc nghe bò vào nhà cả bầy... Một thầy rắn tên T. vừa giải nghệ nhà ở núi Dài thú thực ông và nhiều thầy rắn có nghe nhưng chưa đủ “nhỡn lực” tìm ra cây huê xà. Ông T. kể mỗi người theo nghề rắn có “bí kíp” và thờ tổ theo cách riêng. Như bản thân ông đã nuôi cặp rắn hổ mây để phù hộ, lần đó như thường lệ cho rắn ăn bất ngờ chúng đớp lại, biết “rắn phản chủ” báo điềm dữ nên ông tạ tổ, phóng sinh cặp rắn vào rừng, đoạn tuyệt với rắn.
    Hỏi nhiều thầy rắn, cụ lão người ta chỉ dẫn mơ hồ. Tưởng không có duyên với Sơn Nam thì có người khuyên nên gặp Bảy Phong (Lê Thanh Phong,  55 tuổi), người đi săn thuốc rừng số một ở An Giang. Nếu ông Phong không biết nơi cây huê xà mọc thì nên bỏ cuộc, hỏi thêm ai cũng vô ích. Nhưng gặp ông Phong cũng khó vì ông đi rừng nhiều hơn ở nhà và đó là người rất kiệm lời, bí hiểm...
    Cây tổ trị rắn
    Sau nhiều lần hẹn mới gặp được cao nhơn săn thuốc rừng.  Ông Phong chậm rãi: “Huê xà có nhiều loại, trong đó cây huê xà có bông trắng và bông đỏ là công dụng nhất. Cây huê xà bông đỏ được những người bắt rắn, thầy rắn gọi là “cây tổ” vì rắn độc rất sợ cây này”. Ông Phong cho biết nơi có cây huê xà mọc gần đó rắn độc không dám bò, ở vùng trung du người ta gọi nó là cây gió lửa vì bông huê xà màu đỏ rực rất đẹp, cách 4 tháng chúng lại trổ bông. Ông Phong nói: “Huê xà ghê gớm lắm, người đang bị rắn cắn nhai lá hay bông không sao, còn người thường nhai huê xà bị bỏng lưỡi, bỏng miệng như nuốt nước sôi. Tôi từng dùng huê xà giúp một số người bị rắn cắn, cho họ nhai lá xong thấy người mát lạnh, sau đó lấy xác lá đắp lên vết cắn, phối vài vị thuốc thì nọc độc tan hết. Cây hiếm và khó tìm nên tôi đã lấy giống đưa bạn bè ở An Giang nghiên cứu trồng thử, tìm hiểu thêm công dụng trị các bệnh khác”.
    Ông Phong phục lắm, nói các thầy rắn giấu tuyệt kỹ, bí truyền phương thuốc cho đệ tử ruột để giữ danh “thầy rắn” hay cao nhơn trị rắn, vậy không hiểu sao Sơn Nam vẫn moi được bí mật vị thuốc cây huê xà. Ngoài ra, cây huê xà bí ẩn và ít được biết do các thầy rắn không phổ biến vì sợ có lỗi với “tổ”, vì công dụng thần bí của chúng làm người ta hám lợi, hám danh đi săn lùng làm “bùa hộ thân” tàn sát rắn gây sát nghiệp. Rắn nào thù oán với người, tạo hóa ban cho các loài cây thuốc để khắc chế nộc độc chứ không dùng chúng lạm sát rắn, những người lợi dụng nghiệp tổ rốt cuộc bị quả báo phản bùa, phản thuốc, chết vì rắn cắn là cái oán nghiệt của nghề rắn. Ông Phong nói ngày xưa miệt vườn sinh đẻ có bà mụ đỡ, bệnh có thầy lang lo, rắn độc có thầy rắn trị. Ông Phong nghiêm túc: “Bây giờ khoa học tiến bộ nên bị rắn độc cắn đưa vào bệnh viện điều trị, cách trị rắn như cây huê xà bị xem là huyền hoặc. Nhưng hàng chục năm trước, miền Tây rừng rú, rắn độc có khắp nơi, nó vào tận nhà, vào tận buồng ngủ, nó cắn người tước đi bao nhiêu nhân mạng. Thời buổi đó các thầy rắn xuất hiện là thuận lẽ tự nhiên, họ dùng các cây cỏ, cây thuốc giành giật mạng sống với nhiều phương cách bí hiểm, dị thường nên người đời cho là huyền bí, siêu nhiên”.
    Cây huê xà cùng thầy rắn miệt vườn là những người bằng xương bằng thịt đã trở thành huyền thoại cho một thời khẩn hoang “dưới sông sấu bắt, lên rừng cọp tha, ra đồng rắn cắn”...
    Truyện Cây huê xà được dựng thành phim do VTV3 phát sóng. Thầy Năm do diễn viên Thương Tín đóng, Lê Bình vai Hai Rắn, ca sĩ Hứa Vĩ Văn vai thằng Lợi... Trong phim, con Lài không chết mà gả cho thằng Lợi, hóa giải mối oán thù. Hương rừng Cà Mau của Sơn Nam được in năm 1962, còn phim Cây huê xà được dựng trong năm 2002, với khoảng cách thời gian 40 năm nên kịch bản có khác so với nguyên tác để phù hợp thời đại cũng không có gì lạ.
    Thanh Dũng
     


    Theo dấu Sơn Nam: Đi tìm “Con trích ré”


    Sinh thời, nhà văn Sơn Nam luôn được nhiều người thắc mắc những chuyện ông viết có thiệt hay hư cấu. Ông chỉ cười, nụ cười hàm chứa nhiều ẩn ý. Lần theo vết chân của ông, chúng tôi tìm thấy biết bao điều thú vị... 
    Từ câu chuyện trong sách…
    Con trích ré là truyện ngắn trong tập Hương rừng Cà Mau, nhân vật bé Kiều mê con trích ré là loài chim đẹp nhứt rừng xanh nên ba em là cai tổng Báu bảo các tá điền cho Kiều con trích ré nuôi. Sơn Nam tả trích ré rất khôn nên chủ cưng nuôi thả trong nhà như chó, trích múa đẹp và đá hay như gà. Rồi ngày nọ cai tổng Báu khao tiệc rình rang đón tiếp quan phó tham biện là người Lang Sa (Pháp). Con trích thấy quan phó biện cứ kêu ré chói tai, nhào tới đá mổ làm quan thầy trầy trụa, chảy máu. Cai tổng Báu sợ nên bắt chim trích cho quan tham biện bẻ gãy cổ làm rô ti ăn hả giận, bất chấp lời nài nỉ của con. Chuyện kết thúc đắng ngắt, bé Kiều hận cha giết con trích nên chui vào ao nước trong góc nhà trốn và em chết ngạt...
    Theo dấu Sơn Nam: Đi tìm “Con trích ré” 1
    Trích thả lang thang như gà

    Theo dấu Sơn Nam: Đi tìm “Con trích ré” 2
    Trích non được dưỡng từ nhỏ để thuần dưỡng - Ảnh: Thanh Dũng
    Con trích ré là chuyện thâm thúy vì loài chim cũng biết yêu ghét, phân biệt xua đuổi kẻ thù. Nhưng lắng đọng sự băn khoăn có nói quá không bởi nơi nào nuôi chim trích thả rông như chó mèo, chim là chim sao biết giữ nhà! Câu chuyện không đề cập đến địa danh, xóm làng, con người cụ thể, ấy vậy nhưng ông Nguyễn Nhứt Thống, Trưởng ban Tuyên giáo TX.Sa Đéc (Đồng Tháp), xác nhận ngày xưa các miệt vườn người ta nuôi chim trích giữ nhà bởi chúng rất khôn và ông cũng từng nuôi nhiều con.

    Nhà văn Sơn Nam để lại cho đời những tác phẩm có giá trị lịch sử văn hóa về vùng Nam bộ xưa như: Hương rừng Cà Mau, Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Văn minh miệt vườn, ĐBSCL nét sinh hoạt xưa...
    Tập truyện Hương rừng Cà Mau được ấn bản từ năm 1962, tới nay qua nhiều lần tái bản vẫn luôn bán chạy. Tập sách này được NXB Trẻ xem là “trấn sơn chi bảo” trong các đầu sách hay đã tái, xuất bản.

    Về Miệt Thứ (Kiên Giang) qua các huyện An Minh, An Biên quê hương của Sơn Nam mới rõ trong miệt này có nhiều nhà nuôi trích cồ, trích ré. Quả là loài chim dữ, thấy người lạ bước vào nhà nó kêu điếc tai, chạy xáng tới xù lông há mỏ mổ... Nhưng nuôi trích nhiều thì chỉ có một nơi.
    ...đến xóm trích
    Anh Huỳnh Văn Sơn, ngụ H.Tịnh Biên (An Giang), là dân thương hồ kể hồi đó anh thích đọc sách Sơn Nam và tưởng chuyện cây huê xà, con trích ré, bắt sấu rừng U Minh... là chuyện phịa đọc chơi. Nhưng rồi chạy ghe theo kinh T4, qua ấp Lung Lớn, xã Kiên Bình (H.Kiên Lương, Kiên Giang), Sơn ngạc nhiên thấy trên bờ kinh bóng trích lố nhố đi cùng gà vịt, chó mèo. Sơn nói: “Hiếu kỳ tôi tấp ghe vào nhưng bị bầy trích xù lông đe dọa, chủ la chúng mới bỏ đi. Tôi nể ông Sơn Nam quá, chuyện ở xứ khỉ ho cò gáy mà ổng viết rành rẽ như lòng bàn tay”.
    Tới ấp Lung Lớn hỏi xóm trích, người địa phương ai cũng biết. Muốn vào xóm trích phải thuê đò chạy vào vì chưa có đường xe. Đó là một xóm nhỏ nằm chơ vơ dưới cái nắng hầm hập. Gương mặt đen bẻm, ông Cao Văn Lợi, một người nuôi trích cho biết xóm này nuôi trích đã mấy chục năm nay. Ông Lợi khoe: “Ngẫm lại trích khôn hơn chó, phải chính tay chủ bắt chúng mới được, còn kẻ khác dù lạ hay quen thò tay bắt là chúng đá, mổ lại. Trích lì lợm lắm, nó đã rượt mổ thì hù dọa, xua đuổi nó vẫn sấn vào, khi chủ la nó mới thôi, bị trích mổ trúng đau thấu trời”. Theo ông Lợi, lúc trích ấp trứng, giữ con còn dữ hơn chó đẻ, gặp người lạ hay loài thú, gia cầm nào tới gần ổ là chim mẹ, chim bố nhảy tới đá tới tấp cho tới khi kẻ thù bỏ chạy.
    Ông Lợi cho biết để nuôi trích giữ nhà phải nuôi từ lúc trích mới nở, chăm sóc đã quen hơi chúng mới quyến luyến chủ không bỏ đi. Có hai loại trích là trích ré và trích cồ, người nuôi thích trích cồ hơn vì lông chúng sặc sỡ, khôn và to con hơn trích ré. Ông Lợi nói: “Trích múa đẹp lắm, chủ túc tay ra hiệu là chúng múa theo”. Theo ông Lợi, trích cồ là loài chim đẹp nhứt rừng xanh, lại biết múa, biết đá như gà nên hiện nay rất nhiều người ở trong và ngoài tỉnh lần tới đây mua trích nuôi như chim kiểng làm thú vui mới. Ông Lợi nói: “Xóm heo hút nhưng sống được là nhờ nuôi trích, nuôi cuốc bán cho người chơi chim. Khi bán trích, tụi tôi cũng dặn trước chúng dữ lắm nên thuần dưỡng từ từ, những ngày đầu hạn chế cho con nít tới gần không chúng mổ là nguy. Trích làm quen chủ mới cũng nhanh, nuôi chừng vài hôm chủ mới kêu gì chúng cũng nghe”. Rồi ông bông đùa, dân xóm trích nghèo nuôi trích là để dành giữ nhà cho người khác.
    Xóm trích đồng không mông quạnh nên ban trưa tiếng trích kêu nghe nẫu ruột. Những căn nhà lá thấp ngày ngột ngạt nóng rát da, đêm leo lét đèn dầu, đèn bình tối mò... Ông Lợi nói xóm này nhiều người nuôi trích nhưng nay họ lội rừng săn trích rừng, trích bổi bởi đã vào mùa săn chim. Một con trích rừng bán thịt vài chục đến vài trăm ngàn đồng, chim nhỏ nuôi dưỡng làm chim mồi, bán lại người chơi chim kiểng. Ông Lợi than giờ trích rừng ít dần, phải đi xa đặt bẫy mới có miếng ăn, âu cũng là nghiệp báo của nghề sát sinh muông thú.
    Trích là loài chim đẹp nhứt rừng xanh nhưng chủ nó bao đời vẫn đen đúa, nhà cửa trống trước hụt sau. Trích có cánh nhưng không biết bay, chỉ chạy lủi trốn trong bụi cây. Nó như thân phận người săn chim luôn thập thò, thậm thụt đi săn trộm với cái vòng lởn vởn đói nghèo... (Còn tiếp)
    Thanh Dũng
    Theo dấu Sơn Nam - Kỳ 4: “Cọp nước” miền Tây

    13/06/2013 03:30
    Màu da vằn vện của nó chờn vờn xuyên qua bóng nước nhìn hung tợn như cọp beo nên người dân gán cho cái tên là cọp nước hay beo nước.

    Cá nào rình bắt chim ăn thịt ?
    Khi biên khảo tập sách Đồng bằng sông Cửu Long nét sinh hoạt xưa, nhà văn Sơn Nam có nhắc đến chuyện khó tin, rằng con ó đáp xuống sông, dùng móng nhọn bắt cá, nhưng bị cá to đớp lại, ó bị trói chân kêu la thảm thiết làm mồi cho cá. Còn trong truyện Con cá chết dại ông miêu tả cái xứ mà cá lóc đớp mồi đùng đùng nhưng gặp ngay mùa cá dại, lũ cá lóc chết trôi lờ đờ đen cả bờ sông gây hiếu kỳ người đọc.
    Miệt sông nước thiếu gì cá to nhưng là cá hiền, vậy loài cá nào rình bắt chim dữ ăn thịt? Ông Võ Xên, ngụ ở An Giang được phong tặng “thần đèn” do có biệt tài chỉnh nhà nghiêng lún cho biết ông Sơn Nam đâu có viết quá, cá dữ đó là cá bông gấm hay còn gọi là “cọp nước”. Ông cười: “Tôi đã già nhưng vẫn mê chuyện con cua, con cá đồng quê bởi nó là phần hồn, là thời thơ ấu khó phai”. Ký ức xưa cuộn trào đưa ông già 73 tuổi về thời niên thiếu. Ngày ấy, ông Võ Xên mê tôm cá nên hay theo các lão ngư ở H.Thoại Sơn đi rình đâm cá bông gấm trong mùa nước nổi. Ông Xên nhớ lại: “Nó dài hơn 1 thước như khối gỗ súc, da vằn vện, khi bơi lội nhìn sắc bông nó chờn vờn đáng sợ nên người ta gọi là cọp nước. Nó dữ lắm, gặp vật gì đang lội nó sấn lại táp”. Để bắt được cá, người ta lấy lao phóng, bị lao ghim vào da thịt, cá bỏ chạy kéo theo cây lao có buộc dây thừng dài đã cột chặt vào thùng to. Khi cá đuối sức người ta mới vây bắt, xẻ thịt bán bởi thịt cá rất ngon. Theo ông Xên, mật cá bông gấm càng lớn càng ngọt, người ta lấy mật chà lên thịt cá nào thì miếng thịt cá đó đem nấu ăn ngọt lự.

    Ngư dân Sáu Kỷ (ngụ thị trấn Chợ Vàm, H.Phú Tân, An Giang) nhớ lại ngày xưa người ta quây cái tum trên cánh đồng ngập nước, sau đó lấy dây buộc chân con vịt to và thả ra cho vịt bơi lội gần tum. Khi thấy nước tự nhiên đục người săn cá núp trong tum biết cá bông gấm đang lội tới ăn vịt bèn cầm cây mũi chĩa thủ thế chuẩn bị đâm...
    Nhà biên khảo Liêm Châu (89 tuổi), người được xem là pho sách sống vùng Thất Sơn (An Giang) nghi vấn cá bông gấm hay còn gọi là cá hồng vện là loài thủy quái từng gây kinh hoàng sông nước. Theo ông Châu, nếu người ta tin rằng con lươn sống lâu mặt hóa thành chồn thì hồng vện sống lâu năm mặt dữ như cọp beo. Ông Liêm Châu nhớ lại: “Té sông hay bơi qua sông gặp bầy hồng vện chừng vài con là bị chúng bu tới xâu xé. Mũi chúng thính nhạy với mùi máu, để diệt chúng người ta lấy trái bí đao già luộc chung với dây thuốc cá liệng xuống sông. Ruột bí đao giữ nhiệt độ lâu nguội, cá nuốt vào vừa bị trúng độc dây thuốc cá vừa bị cháy ruột chết. Những con hồng vện khác bu lại xâu xé xác cá cũng bị trúng độc chết theo...”. Theo ông Liêm Châu, ngày nay ở kinh rạch còn hồng vện nhưng cá rất nhỏ do lớn chưa kịp đã bị bắt.
    Khiếp con bống mú
    “Thần đèn” Võ Xên nói nhắc đến cá dữ mà bỏ qua cá bống mú là thiếu sót. Ông Xên nói lúc đọc truyện Cá bống mú của nhà văn Đoàn Giỏi (nổi tiếng với truyện Đất rừng Phương Nam), ông ngạc nhiên cá bống Vàm Rầy bộ dữ lắm sao mà nuốt cả người. Sau đó, ông Xên cùng bạn bè xuống Vàm Rầy, Hà Tiên công việc. Trong đoàn có người làm rơi vật dụng xuống kinh Vàm Rầy, anh này toan nhảy xuống kinh vớt thì nghe người dân la bài hải: “Coi chừng cá bống mú táp chết”. Theo ông Xên, trong truyện Đoàn Giỏi tả cá bống mú Vàm Rầy to bằng gian nhà một căn, hớp một hơi nuốt người vào bụng như cá lia thia đớp lăng quăng là hơi quá. Thực tế chúng dài khoảng 2 - 4 thước, chó mèo, gà vịt rớt xuống kinh làm mồi ngon cho chúng, còn người ta đang tắm thấy bóng chúng nhảy lên bờ liền.
    Tôi ra Vàm Rầy, cái xứ mà xưa kia người dân thưa thớt, cọp đi để lại dấu chân, rắn hổ mây bò thành lằn, voi ỉa cứt còn nóng nay đã thành đường lộ, đường làng lót đan. Người dân chỉ bà Nguyễn Thị Út (63 tuổi, ngụ ấp Giồng Kè, xã Bình Sơn, H.Hòn Đất, Kiên Giang) là dân cố cựu xứ này từng sống bằng nghề bắt cá. Bà Út gật gù nhớ lại ngày xưa người dân xóm này rất sợ cá mập, bống mú. Bà Út nói: “Hồi còn trẻ tôi cùng nhiều người trong xóm đi bắt cá, neo mình dưới nước bị bống mú, cá mập đớp bị thương hoài, có người bị cá táp cụt tay, cụt ngón chân...”.
    Theo ông Võ Xên, cá lóc bông ngày nay là hậu duệ cá bông gấm được người ta nuôi bán thịt, con vài ký là bán nên tính hoang dại cũng giảm dần. Còn cá bống mú ngày nay nhỏ hiền như truyện Tấm Cám ngày xưa chẳng dọa được ai. Những con cá từng gây kinh hoàng cho người dân nay ẩn tích dưới đáy sâu.
    Mà đâu gì con bống mú hay bông gấm, truyện Con cá chết dại mà Sơn Nam viết ở xứ nước mặn ngọt U Minh mỗi năm có một mùa cá dại nay cũng lạ dần. Vào mùa đó nước mặn cuối năm tràn vô rạch, bao nhiêu cá lóc nước ngọt bị say nước mặn, cuống cuồng bơi trốn không kịp chết trôi lờ đờ cho người ta vớt xác. Nhà báo Phan Trọng Ân (Báo An Giang) nhớ lại: “Câu chuyện trên đâu lạ gì với người dân Bảy Núi, bởi mùa cá dại ở miệt này xảy ra vào khoảng tháng 10 âm lịch, do nước cỏ có chứa phèn chua chảy ra làm cá tôm bị xốn, bị nổ mắt nên chúng ngoi đầu nổi lờ đờ trên nước cho người ta xúc, lấy chĩa đâm...”. Bây giờ mùa cá dại ở An Giang mới đó đã là chuyện xưa, con cá chết dại giờ còn chăng ở miệt nào đó trong cõi tâm thức của những người yêu mến Sơn Nam.
    Thanh Dũng

    Theo dấu Sơn Nam - Kỳ 3: Thầy võ và tướng cướp

    Võ sĩ Sáu Cường
    Truyện Vẹt lục bình trong tập truyện ngắn Biển cỏ miền Tây miêu tả địa danh Tràm Trốc là nơi lục bình trôi thành dề dày bịt trên sông rạch làm thối lòng dân thương hồ qua giáp sông này. Nhân vật là Hai Cần và lão Ngượt chèo tới đây đuối quá bỏ xuồng lội vào bờ. Dân địa phương an ủi Hai Cần dù anh khỏe, nhưng bậc võ sĩ vô địch Trà Vinh là Sáu Cường cũng thua lục bình. Nghe đồn ông từng xuống đây, thử chạy như bay qua chỗ giáp lục bình, bị sụp chân té xuống uống nước tưởng chết luôn...

    Ông Liêm Châu - người có mối duyên với Sơn Nam - d
    Ông Liêm Châu - người có mối duyên với Sơn Nam - Ảnh: T.D
    Nhiều thầy võ đọc tới đoạn này nói ông già gan trời dám bẹo gan Sáu Cường, ông Cường mà sống lại, tung vài cước hồn vía Sơn Nam chẳng còn. Nhưng Sơn Nam đâu dám “vuốt râu hùm” bởi hồi trẻ ông đã kính trọng thầy võ này. Trong hồi ký từ U Minh đến Cần Thơ, Sơn Nam bày tỏ: “Năm ấy ở Rạch Giá bày ra hội chợ có tiết mục cuộc đánh võ khiêu khích, võ sĩ quyền anh người da màu là Kid Chocolat đấu với võ sĩ Sáu Cường. Chocolat tìm cách nhập nội đánh những đòn móc quai hàm rất lợi hại, nhưng Sáu Cường đã dùng ngón đá ngàn cân, phòng thủ từ xa. Chocolat trúng cước té lăn cù nhưng ngồi dậy nhanh chóng, xốc tới đánh móc. Rốt cuộc, Sáu Cường thắng điểm rồi đi một đường quyền khá đẹp”. Nhà văn hâm mộ: “Cường cao ráo, tay chân khá dài, thỉnh thoảng nhảy cao như con chim đại bàng. Xem ông đấu, tôi và bao khán giả khác lấy làm hãnh diện cho dân tộc”.
    Vậy Sáu Cường là ai? Đó là Nguyễn Phước Cường, quê ở Tiểu Cần (Trà Vinh), được mệnh danh là “thần cước” Nam kỳ. Tên tuổi Sáu Cường vang dội khắp Nam kỳ khi liên tục thượng đài hạ gục các đấu sĩ bằng đòn liên hoàn cước dũng mãnh. Một trong những trận đấu với võ sĩ khét tiếng Anthuong Chay (Thái Lan) rất giỏi đòn tay và chân đã tô điểm thanh danh Sáu Cường khi ông hạ gục đối phương bằng cước pháp. Các thầy võ đoán sở dĩ Sáu Cường giỏi tảo phong cước vì trời phú cho ông hai bàn chân to lớn dị thường.
    Thầy giỏi có trò hay nhưng không ai biết Sáu Cường thọ giáo từ đâu. Theo nhà báo Lê Thanh Nguyên, nguyên Trưởng phòng Báo Lao Động khu vực ĐBSCL, thì: “Sáu Cường mê võ thuật và tự luyện tập, ông đào hố trồng cây chuối trong hố rồi tập phóng mình nhảy lên hố. Khi đôi chân búng đất bay vọt khỏi miệng hố như chim, ông tập đá quét các thân chuối, luyện đến lúc tung cú đá liên hoàn gãy rạp hàng loạt thân cây chuối ông Cường xuất môn đấu võ đài”.
    Võ sĩ Sáu Cường sau  tham gia cách mạng chống Pháp trở thành cái gai trong mắt nhà cầm quyền. Sợ các thầy võ khác bị ông tác động nên Pháp cho người theo dõi. Năm 1946, mật thám dọ được nơi ông ẩn náu đã huy động lực lượng vây bắt. Sáu Cường tả xung hữu đột nhưng sức người thua súng đạn, ông bị Pháp tử hình tại Trà Vinh sau vài tháng biệt giam.
    Tướng cướp Đơn Hùng Tín
    Thời Pháp thuộc, đồng bào miền Tiền Giang, Hậu Giang đều nghe danh Đơn Hùng Tín. Trước khi đánh cướp, Tín báo trước ngày giờ để gia chủ đề phòng. Khi quân cướp rút, chẳng ai dám hó hé tố cáo hoặc truy nã. Du đãng Tín thường vượt ngục phá khám hoặc được quan trên... tha bổng. Vì vậy dư luận cho rằng có nhiều ông hương chức hội tề hoặc ông cò Tây đã bí mật làm tay chân cho Tín vì sợ anh ta, vì tham của hoạnh tài (trích Đơn Hùng Tín chào đời - Hương rừng Cà Mau).
    Theo nhà văn Trịnh Bửu Hoài, lúc viết bài này Sơn Nam đã nhiều lần tới Châu Đốc trốn Pháp. Tại đây nhà văn đã ở nhờ nhà bạn học cũ là Liêm Châu. Lúc đó Đơn Hùng Tín là nhân vật lục lâm cát cứ vùng Bảy Núi, nhưng chỉ cướp của nhà giàu giúp người nghèo, không sát nhơn đoạt của, không đánh cướp trong vùng Bảy Núi.
    Giữa Liêm Châu và Sơn Nam có mối lương duyên. Liêm Châu sinh năm 1924, lớn hơn Sơn Nam 2 tuổi, nhưng một người vùng biển, một người vùng núi lại cùng học chung Trường Collège de Cantho kể từ năm 1940. Sau đó, Sơn Nam lên Sài Gòn đi viết báo, viết văn, còn Liêm Châu về dạy học ở Châu Đốc và viết biên khảo. Ông Châu kể: “Tôi mê tướng cướp hào hiệp này nên hay kể Sơn Nam đây là tướng cướp khinh tài trọng nghĩa. Bản thân tôi hồi đó đã viết thiên truyện Ngũ hổ Đơn Hùng Tín lấy bút danh là Châu Sơn Lâm và nhờ Sơn Nam, nhà thơ Kiên Giang gửi báo Điện Tín đăng nhiều kỳ, bạn đọc thích lắm. Sau này tôi tổng hợp truyện Ngũ hổ Đơn Hùng Tín gồm 5 tập viết theo phong cách kiếm hiệp, một tập hơn 300 trang đem in, năm 1991 một nhà xuất bản ở TP.HCM đã in trước 3 tập trả tôi nhuận quyền là 1 triệu đồng. Nhưng sau đó, gặp ngay đợt sách kiếm hiệp Kim Dung in lậu ồ ạt nên bộ sách này chựng lại”.
    Ngày nay Đơn Hùng Tín vẫn là đề tài cho sách báo, tạp văn khai thác như Tín bị Pháp bắt thủ tiêu ở Cù lao Rồng, Tiền Giang hay Tín ẩn náu trên núi Cấm và chôn giấu kho báu trong hang, Tín luyện bùa thiên linh cái, luyện phép gồng nên đao thương bất nhập... Những tư liệu ấy đều trích dẫn từ Sơn Nam và Liêm Châu rồi pha trộn phóng đại thêm. Nhưng Sơn Nam với sự tinh tế và chứng nghiệm thực tế nên không sa đà các tiểu tiết, hư cấu. Ông hóm hỉnh viết Tín là người nông dân bình thường nhưng yêu nước, đi làm tướng cướp vì không chịu cúi đầu trước Pháp, bị súng bắn nhưng đạn xuyên qua mà không chết nên đàn em tin Tín có bùa linh. Sơn Nam thừa biết Tín là người khinh tài, giúp đỡ dân nghèo thì làm gì có châu báu giấu ở núi Cấm, nơi Tín ẩn cư là núi Trà Sư sát biên giới chứ nào ở núi Cấm như đồn đoán...
    Thanh Dũng

  7. Mặc định Re: Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh

    Nhơn tiện có lần bác Xesieula có hỏi về người Chăm và người Khmer ở Nam kỳ lục tỉnh, mà em lại giải thích tôn giáo của người Chăm là Bà La Môn, nay bằng bài viết này em xin đính chính lại, tôn giáo của người Chăm chủ yếu là Hồi gíao Islam.

    Bài viết của tác giả bản thân là người Chăm, Dohamide, dân tộc Chăm, sinh năm 1934 tại Kok Taboong, Châu Đốc.

    Tốt nghiệp Thủ khoa Ban Cao Nguyên và Ban Đốc Sự Hành Chánh, Học Viện Quốc Gia Hành Chánh.
    M.A. chánh trị học, Đại học Kansas Hoa Kỳ.
    Sáng lập Hiệp Hội Chàm Hồi giáo Việt Nam.

    Đại biểu Islam Việt Nam tham dự Hội Nghị các nước Islam Đông Nam Á và Viễn Đông tại Kuala Lumpur 1964, Hội nghị Islam Thế giới tại Thánh địa Makkak, A Rạp Sau Đi 1972.

    Hiện định cư tại OC, Nam California.
    Đã xuất bản:
    Dân Tộc Chăm Lược sử,
    Bangsa Champa: Tìm Về Với Một Cội Nguồn Cách Xa...
    Viết cho các báo Bách Khoa, Thế Kỷ 21.

    ------------




    Người Chăm ở Nam Bộ
    Dohamide
    Một trong những đặc điểm nổi bật của miền châu thổ sông Cửu Long ở Tây nam Việt Nam là có khá nhiều địa danh nghe khác lạ, và còn có thể nói là rất xa lạ với tiếng Việt thông dụng. Đi từ điểm cực Nam nơi chín cửa sông Cửu Long trổ ra biển khơi, ngược dòng Tiền giang và Hậu giang tiến trở vào đất liền, hướng về vùng biên giới Việt-Kampuchea ở phía Bắc, người ta gặp ngay địa danh “Cà Mau,” “Sóc Trăng,” “Sa Đéc” v.v... vốn là những địa danh, được dùng quen thuộc trong dân gian từ một thời xa xưa, và có khi còn được nhà cầm quyền chánh thức đặt thành tên gọi các đơn vị hành chánh địa phương nữa.



    Đối với mọi cái gì gần gũi đã trở thành quá quen thuộc, hiếm thấy có ai tự hỏi về nội dung ý nghĩa đích thực của các địa danh này là gì, và như vậy là người ta đã chấp nhận cho chúng lặng lẽ hoà đồng với các địa danh hoàn toàn gốc tiếng Việt quen thuộc như Bến Tre, Gò Công, Vĩnh Long, Long Xuyên, An Giang, v.v...rồi.



    Tuy nhiên, khi có ai tình cờ chợt nêu lên thắc mắc, thì chắc chắn là không ít người dân bình thường sẽ phải ngỡ ngàng và băn khoăn không biết trả lời thế nào.

    Những người am tường hoặc có tìm hiểu cạn cùng mới làm rõ, chẳng hạn như:


    - Cà Mau thực sự vốn là từ ngữ đọc trại từ Tưc Khmâu, (Tức là nước, Khmâu là đen), chỉ định một vùng đất bồi phù sa màu đen.


    - Sóc Trăng là do chữ Srok có nghĩa là khu vực làng xã; còn Trăng là do chữ Tlăng có nghĩa kho vàng: Xứ kho vàng.


    - Về địa danh Sa Đéc, thì Sa là do chữ Phsar có nghĩa là chợ, và Đéc có nghĩa là sắt, được suy diễn có thể nguyên là địa điểm chợ bán hàng đồ sắt.


    Còn nhiều và nhiều nữa.

    Các địa danh nghe lạ tai được diễn giải kể trên, sự thực, mang dấu vết văn hóa của người Khmer trong dân gian còn được gọi là người Miên, hoặc nếu có cảm thấy chút phân cách hơn là nói người Đàng Thổ, một sắc dân bản địa, sanh sống tại chỗ trước đó, khi các đoàn quân và lưu dân Việt tháp tùng Nguyễn Hữu Cảnh được Chúa Nguyễn cử vào Nam mở mang bờ cõi trong vùng châu thổ sông Cửu Long. Người Khmer ở châu thổ sông Cửu Long được các nhà cổ học - chủ yếu ban đầu là các nhà cổ học Pháp như George Coedes, Malleret, v.v. - xác định thuộc nền văn hoá Óc Eo mà các di chỉ kiến trúc cổ đã và vẫn đang được các nhà cổ học Việt Nam sau này tiếp tục khai quật.



    Tiền nhân của người Khmer đã xây dựng nên Vương quốc Phù Nam, được tiếp nối với nước Thủy Chân Lạp.

    Trải qua những giai đoạn lịch sử tiếp xúc, va chạm, đối đầu, và an bình cộng cư với người Việt, người Khmer có khuynh hướng sống tập trung trên các khu đất giồng (khu đất cao hơn mực nước dâng trong mùa nước nổi) ở các vùng ven biển ở Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, và Thất Sơn, có địa danh Tri Tôn (nguyên là Sway Toong) giáp giới Kampuchea, đã góp phần vào quá trình khai khẩn và canh tác đất đai cho đến ngày nay.



    Hiện tượng hội nhập mang tính cân bằng hai chiều được thể hiện bằng phương thức Việt hoá ngữ âm du nhập các từ Khmer để duy trì địa danh thông dụng trong dân gian Việt nói chung mà không đặt vấn đề nội dung ý nghĩa cũng như gốc nguồn.


    Bên cạnh người Khmer, không thể không kể đến người Hoa.

    Người Hoa hẳn nhiên không phải thuộc thành phần dân bản địa như người Khmer. Họ vốn là tầng lớp người không chịu thắt bím cạo đầu làm tôi nhà Thanh ở Trung Hoa, nên vào khoảng cuối thế kỷ 17, đã theo Mạc Cửu, đến tìm nơi ẩn trú, sẵn đà, khai khẩn đất và định cư lập nghiệp tại vùng đất Hà Tiên.



    Trong một thời gian không lâu, nhóm người Hoa lưu dân này đã mang nguồn vốn văn hoá cùng kỹ năng từ nước mẹ của mình, góp phần phát triển Hà Tiên thành một thương cảng tấp nập, trù phú, giao dịch thương mại với bên ngoài.


    Lướt qua nét đặc thù của vùng châu thổ sông Cửu Long qua khía cạnh địa danh và đóng góp khai hoang phát triển, ghi nhận sự hiện diện của người Khmer và người Hoa là hai sắc dân bản địa và lưu vong tỵ nạn cùng với người Việt cộng cư khai phá khẩn hoang như trên, chúng tôi muốn gợi lên một toàn cảnh để lồng vào đó hình ảnh làng quê nhỏ bé thân thương của bản thân, trong tầm nhìn của người trong cuộc, từ đó, giúp soi sáng về gốc nguồn của tôi là sắc dân Chăm mà hoàn cảnh lịch sử đã đưa đẩy, lưu lạc đến định cư bên cạnh người Khmer, người Hoa, người Việt tại một góc trời ở vùng châu thổ sông Cửu Long trù phú bao rộng này.


    Ngôi làng sanh quán của tôi có tên khác lạ đối với ngôn ngữ Việt: làng Koh Ta Boong, trong sử sách Việt được phiên âm thành Cỏ Đầm Bôn, dưới thời Pháp thuộc là Ka Tam Bong, tên gọi chánh thức của một đơn vị hành chánh cấp Xã. Dịch theo tiếng Chăm, Koh có nghĩa là cồn, là cù lao, còn Ta-boong thì là cây gậy, ngụ ý hình dáng của cù lao này giống như một cây gậy.


    Châu thổ sông Cửu Long ở miền Tây Nam Nam Việt Nam là vùng đất bồi do phù sa từ thượng nguồn và vùng Biển hồ trôi xuống, hàng năm đều có mùa nước nổi (mùa lũ lụt), mực nước tùy năm ở một số nơi có thể dâng cao lên đến ba thước, khởi đầu mùa lúa sạ; nước tràn vào các cánh đồng tạo môi trường cho các loài cá nước ngọt đẻ trứng sanh sôi nẩy nở, rồi đến mùa nước giựt, nước chảy ngược ra các vàm kinh rạch để đổ ra biển.



    Dưới tác động chu kỳ của thiên nhiên, dòng chảy sông Cửu Long thay đổi theo thời gian, hai bên bờ thường diễn ra hiện tượng bên lở bên bồi. Koh Ta-boong đã hình thành từ một cồn cát nhô lên dọc theo một bên bờ Hậu giang, được vun bồi lần hồi thành một cù lao, ngăn cách với đất liền bằng một con rạch.


    Vào thập niên 1940, thời thuộc Pháp, hệ thống giao thông bằng đường bộ chưa được mở mang, con tàu “sà-lúp” chạy bằng hơi nước do lò củi, kéo những chiếc ghe chài (địa phương gọi là ghe chành) đầy ắp hàng hóa từ Sài Gòn về vẫn rẽ vào con rạch này để tạm tránh những dòng nước ngược chảy siết bên ngoài sông cái.



    Kỷ niệm khó quên của tuổi niên thiếu là mỗi khi nghe còi tàu văng vẳng từ xa, tôi thường hối hả cùng các bạn đồng lứa tuổi ù chạy ra bờ sông, cùng ngắm nhìn đoàn ghe tàu chạy qua như là một biến cố đến từ một thế giới xa lạ.



    Hấp dẫn và hồi hộp nhứt là ban đêm, mỗi khi chiếc tàu dòng đứng một chỗ vì dòng nước ngược chảy quá mạnh, phải bỏ thêm củi vào lò. Trên ống khói, thình lình phụt lên những luồng bụi than đỏ ửng, cả bọn trẻ tái mặt giựt mình, nhưng liền đó, lại thích thú vỗ tay reo hò vang dội. Trong phút chốc, đoàn ghe tàu lại mất hút ra ngoài vàm sông cái, trả lại sự yên tĩnh cho thôn ấp.


    Từ bên này bờ sông nhìn sang bên kia, không xa lắm, chỉ vào khoảng 50 thước, tiếng trẻ em vui đùa vẫn vọng mồn một sang bên này bờ, nhưng thực tế là hai thế giới khác biệt.

    Thật vậy, nhà cửa bên kia sông, thường đắp nền cao rồi dựng cột và vách lên, bên trong nhà có bàn thờ tổ tiên, bày biện bàn ghế, giường ngủ có chân cao. Hầu như trước nhà nào cũng đều có một bàn thờ nhỏ gọn gọi là “bàn ông Thiên” buổi chiều khói hương nghi ngút.


    Bên này sông, trái lại, nhà nhà đều có sàn, cột thường bằng gỗ nguyên cây tước hết vỏ và bào nhẵn, cao khỏi đầu người để phù hợp với mùa nước nổi dâng cao; mặt tiền nhà nào cũng có một cái thang rắn chắc bằng gỗ, và bên trong nhà hầu như không có bàn ghế, nên khi khách đến nhà thì chủ nhà thường trải chiếc chiếu hoặc tấm thảm, để chủ khách cùng ngồi xếp bằng trên sàn gỗ, nhưng phải đặc biệt lưu ý không được tự động vượt qua khung cửa có màn che được trang trí tuỳ theo mức độ giàu nghèo của chủ nhà, ngăn cách với gian nhà trong, theo tập tục, hoàn toàn dành cho đàn bà con gái sanh hoạt không lẫn lộn với đàn ông con trai.



    Nhà cửa cất phần lớn sát vào nhau, mở cánh cửa sổ bên này, có thể chuyện trò với nhà bên kia được, nên tạo cảm giác như con người đang hợp quần co cụm lại.

    Cả làng hầu như không có nhà nào trồng rau quả, vườn tược.

    Ở những nhà khá giả thì hầu như luôn luôn có dưới sàn một khung dệt vải cổ truyền, được kín đáo che sau một bức màn,vốn là nơi làm việc của con gái trong gia đình, vừa dệt hoặc quay tơ, vừa cất lên những tiếng hát trong trẻo vừa đủ nghe, nhưng hấp dẫn mãnh liệt những cặp mắt hiếu kỳ từ ngoài đường.



    Người dân bên nây bờ thường vận chăn Sa-rong vấn quanh mình, dài đến gót chân.

    Tưởng cần giải thích rõ, Sà-rong là cái chăn mặc của đàn ông; còn phụ nữ Chăm cũng mặc chăn che phủ đến gót chân nhưng không gọi là Sa-rong như được nhận thấy ở một vài bài viết về Chăm, mà đúng ra thì gọi là Khanh ngui, tức cái chăn mặc, trong số, có Khanh kăk là một thứ chăn dệt công phu bằng hàng tơ lụa rất được phụ nữ mến chuộng.


    Người dân bên này bờ bình thường gọi người dân bên đất liền là Yuôn, và ngược lại, những người Yuôn này lại gọi người dân bên cù lao là Chàm, có khi là Chà, và khi có chút gì không bằng lòng nhau thì gọi là Chà và, gây cấn hơn nữa, thì là Bọn Chà và!


    Người dân bên cù lao tự gọi mình là Chăm, trong sanh hoạt hằng ngày, sử dụng một ngôn ngữ riêng không phải tiếng Việt mà là tiếng Chăm.

    Riêng chính người Chăm thì cảm thấy tinh thần nhẹ nhàng tương kính trong giao dịch khi được người đối thoại gọi mình là Chăm.

    Do đó, cách gọi Chăm một lúc sau này được thông dụng thay vì Chàm.


    Loáng thoáng trong giới nghiên cứu người Việt được tiếp chuyện, có vị cảm thấy dị ứng về từ Yuôn, và nói theo lối thời thượng, cho là “mang tính tiêu cực,” “có vấn đề.”

    Một đôi lần, tôi còn được nghe một quan điểm thủ cựu, mang sắc thái đại dân tộc, diễn dịch từ Yuôn là do chữ Vương, thể hiện quan hệ triều cống chư hầu giữa triều đình Đại Việt và triều đình Champa trong lịch sử.

    Ngược lại, quan điểm mang tính đấu tranh thì cho rằng từ Yuôn mang tính hiềm khích oán hờn từ phía người Chăm nặng tinh thần dân tộc cực đoan, cũng không còn thích hợp với bây giờ nữa.

    Một công trình biên soạn công phu mà bản thân tôi rất trân quý, dưới quyền chủ biên của giáo sư Bùi Khánh Thế với Nhóm biên tập gồm hai học giả trẻ người Chăm gốc Ninh Thuận, quyển “Từ điển Việt Chăm,” do Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội xuất bản năm 1996, đã ghi là Piệt- Chăm thay vì Yuôn-Chăm đúng theo từ ngữ được lưu truyền trong dân gian.



    Thực tế, trong câu chuyện trao đổi hằng ngày với nhau, người Chăm khắp các vùng tại Việt Nam và cả người Chăm ở Kampuchea vẫn gọi người Việt là Yuôn một cách hồn nhiên, không thấy có chút mặc cảm khác lạ gì xen vào cả.


    Vào cuối thập niên 1940, thời thuộc Pháp, xã hội người Chăm ở Koh Taboong còn rất khép kín; không có nghĩa khép kín về mặt địa lý, bởi lẽ làng Koh Taboong quê tôi không có hàng rào bao quanh, cách biệt với xã hội bên ngoài như một số thôn làng Chăm còn tồn tại ở Ninh Thuận và Bình Thuận, nguyên đã trải qua những giai đoạn đối đầu xung đột với quan quân triều đình Đại Việt, gây chết chóc đẫm máu kết liễu sự hiện tồn của vương quốc Champa vào đầu thế kỷ 19.



    Hiện tượng khép kín ở đây thực chất là do nhu cầu hiện tồn căn sắc truyền thống Chăm, vốn được gắn chặt trong tim óc, phát xuất từ nề nếp sinh hoạt Islam, tập tục, tín ngưỡng, nói chung, vào nền văn hoá của riêng sắc dân mình, không hoàn toàn tương đồng với nền văn hoá của xã hội bao quanh.



    Do thiếu giao lưu về văn hóa và xã hội, giữa người Chăm bên này bờ và người Yuôn bên kia bờ rạch, dưới tác động của tinh thần phân chia “ta và họ” nói chung, đều có ít nhiều thành kiến với nhau về một số mặt thực tế trong nề nếp sinh hoạt hằng ngày.



    Cụ thể, người Yuôn dùng đũa ăn cơm thì bị người Chăm chê là Đấng Tạo hóa đã tạo ra bàn tay cho con người sử dụng, thì tại sao lại đi dùng hai chiếc đũa để gắp thức ăn, tựa hồ như xeo nạy (cha-kơh) khó coi trong khi các thức ăn này đều phải được xem là rizki, tức ân phước của Đấng Tạo Hóa Allah ban cho như vậy?

    Ngay cả bản thân tôi, ở buổi đầu khi có điều kiện ra khỏi xóm làng đi sanh sống hội nhập vào xã hội bên ngoài, tôi vẫn cảm thấy có những mặt không ổn trong vấn đề này.
    Mãi về sau này, tôi mới lấy lại được phần nào tự tin trong đánh giá tập tục, nhất là vào năm 1964 khi có dịp tham dự buổi tiếp tân khoản đãi chánh thức nhân Hội nghị các nước Hồi Giáo Đông Nam Á và Viễn Đông lần đầu tiên do Chánh Phủ Malaysia tổ chức ở Kuala Lumpur, cả chủ nhà bao gồm cả cố Thủ Tướng Malaysia Tungku Abdul Rahman và khách các nước đều cùng ngồi xếp bằng trên nền nhà, cùng thoải mái ăn bốc theo một phong cách tự nhiên không khác gì tập tục ăn bốc của người Chăm tại làng quê Koh Taboong của tôi cả.

    Các mặc cảm trong người tôi lúc ấy mới nhẹ nhàng được giải toả và tôi mới được rõ dứt khoát không thể nói bên nào văn minh bên nào lạc hậu cả; người Yuôn và người Chăm thuộc hai nền văn minh khác biệt nhau, một bên được mệnh danh là nền văn minh đôi đũa, một bên là nền văn minh bốc tay.
    Ngoài ra, còn một nền văn minh khác đã được ghi nhận trong một buổi tiếp chuyện nhân Hội nghị quốc tế kể trên, đó là nền văn minh muổng nĩa của Âu Tây.


    (còn tiếp
  8. Mặc định Re: Kể Chuyện Xưa : Nam Kỳ Lục Tỉnh

    (tiếp theo)

    Trở lại với làng quê Koh Taboong thời thơ trẻ của tôi, cả làng từ đầu vàm trở vào, đều chỉ có khoảng một ngàn ngôi nhà người Chăm cất san sát nhau hai bên đường, và đến cuối làng mới có nhà người Việt.

    Toàn bộ thế giới thời thơ trẻ của tôi hầu như hoàn toàn gói ghém trong ngôi làng bình dị thôn dã này.


    Ông thân sanh của tôi là giáo viên duy nhứt trường sơ học phổ thông trong làng nên một mình phải phụ trách luôn cả ba lớp một, hai và ba [vào thời đó, gọi là lớp đồng ấu (cours enfantin), lớp dự bị (cours préparatoire) và lớp sơ đẳng (cours élémentaire)].



    Sau đó, muốn tiếp tục học thì học sinh phải lên trường tỉnh Châu Đốc, cách làng khoảng bốn cây số.

    Trong số học sinh đến trường, dĩ nhiên chỉ học Pháp văn, có một số học sinh người Việt nhà ở đầu làng, cho nên trong các trò chơi ngoài lớp, tôi có dịp học và nói bập bẹ tiếng Việt, một thứ tiếng Việt thường được diễn dịch theo từng chữ tiếng Chăm, chẳng hạn, chúng tôi nói “tắm nước” thay vì “tắm,” “đứt tim” thay vì “gan dạ,” các bạn học người Việt nghe lâu ngày rồi cũng quen.


    Tại các lớp trong làng kể trên, tôi cũng được học một thứ chữ Chăm viết theo mẫu tự la tinh, ráp vần theo tiếng Pháp, tôi thấy rất dễ đọc và dùng để diễn dịch ý tưởng bằng tiếng Chăm cội nguồn.

    Thứ chữ này được hình thành do óc sáng tạo của một nhân vật nổi tiếng trong giới người Chăm Châu Đốc vào thập niên 1940 là cụ cố Kim Sop, nhờ gia đình giàu có, được học trường Tây, làm Thông phán tại Tòa Án Châu Đốc.



    Vì chữ Chăm thông dụng phiên âm bằng mẫu tự A Rạp đang được thông dụng, thứ chữ Chăm la tinh này không mấy được các bậc phụ huynh quan tâm, nên không tích cực khuyến khích các con em học.

    Nhưng riêng phần tôi và một vài bạn học thì thấy thích thú, nhứt là trong tập sách, cố Kim Sop đã cho in một vài mẫu chuyện làm bài đọc thêm, và sau này lớn lên tôi mới biết là thuộc văn học dân gian Chăm, như bài “Chim Chhơng” đồng thời cũng là một thể ca ngâm chất chứa nhiều thi vị mà tôi nhớ nằm lòng cho mãi đến tuổi thất thập này.


    Hầu như tất cả các bạn học Chăm đều nghỉ học khi hoàn tất lớp cuối cùng trong làng.

    Bị ám ảnh trong mặc cảm e sợ con cái jưng yuôn (biến thành người Việt), phần lớn các bậc cha mẹ đều e ngại, khi cho chúng lên học trường tỉnh, thì sẽ sống theo người Việt, không còn theo nề nếp sống của xóm làng, nặng về tín ngưỡng Islam, trong đó, có một số kiêng cữ rất nghiêm ngặt như tuyệt đối cấm (harăm) ăn thịt heo, cấm uống rượu, cấm trai gái vụng trộm ngoài hôn nhân, v.v...



    Thực tế hơn nữa, đàn ông bé lớn đều cạo đầu và khi tham gia sanh hoạt trong làng thì đều đội mũ bằng nỉ màu đen, còn người lớn thì đội mũ trắng hoặc chit khăn Haji chứng tỏ là người đã đi hành hương ở Thánh địa Makkah bên nước A Rạp Sau Đi, được thôn làng tôn kính như các bậc trên trước.



    Cho nên, khi một người đi làm ăn xa mà để tóc dài trở về làng mang theo một ít phong cách phóng túng không thích hợp thì không phải chỉ bản thân người đó mà còn cả gia đình phải chịu những lời đàm tiếu, bà con lên án.


    Sanh hoạt thường ngày của xóm làng xoay quanh một ngôi giáo đường gọi là masjid nằm giữa làng, kiến trúc có những nét gợi nhớ quang cảnh bên kia trời Trung Đông, bao gồm một nóc vòm và đài tháp lạ mắt, được nhận ra từ xa.



    Ngôi giáo đường này, người Việt sống ở lân cận vẫn quen gọi là “chùa Chàm,” nhưng ở đây, kiến trúc và trang trí bên trong cho thấy chỉ là một ngôi nhà khang trang để bổn đạo tụ họp dâng lễ nguyện tập thể và nghe thuyết giảng vào ngày thứ sáu trong tuần, thể hiện sự tôn thờ Đấng Tạo Hóa Allah nên không có pho tượng thờ nào cả ngoài chiếc bục đơn giản có ba bậc như nấc thang nằm sát bên trong cùng.



    Mỗi ngày năm lần, khi trời rựng sáng, trưa ngọ, xế chiều, chạng vạng và trở về khuya, chính từ ngọn tháp kể trên, phát ra một hồi trống và tiếp theo là lời ngân nga kêu gọi đến giáo đường dâng lễ nguyện vang đi rất xa, điều hòa cuộc sống hằng ngày của người dân.


    Bên cạnh giáo đường, có một trường gọi là Madrasah dạy đọc kinh Qur’An bằng chữ A Rạp nguyên gốc và có cả lớp dạy chữ Mã Lai giảng giải nội dung kinh sách và giáo lý Islam.

    Các bậc phụ huynh thích cho con em mình học các trường lớp này, và thường hãnh diện về thành tích con em đạt được nhứt là khi chúng trổ tài đọc Thiên kinh Qur’An trong các sanh hoạt tập thể của xóm làng.


    Bản thân tôi đã bị trì kéo giữa hai khuynh hướng, nhứt là khi đã đến lúc phải chuyển lên trường tỉnh tiếp tục học lớp nhì (cours moyen).

    Mẹ tôi là một người đàn bà Chăm không biết một chữ a, b, c... nhưng lại rất thông thạo kinh Qur’An viết bằng chữ A Rạp.

    Được hậu thuẫn của ông bà ngoại, mẹ tôi muốn cho tôi nghỉ học trường phổ thông và chuyển sang học ở trường lớp tại giáo đường như các đứa bé Chăm khác trong làng.

    Ngược lại, cha tôi, có chút ít căn bản Tây học, nhứt quyết phải cho tôi lên trường tỉnh tiếp tục học.

    Sự bất đồng ý kiến giữa cha mẹ chúng tôi khá gay go và kéo dài, sau cùng đã chấm dứt bằng một giải pháp dung hòa; tôi được tiếp tục đi học trường tỉnh, nhưng những ngày nghỉ cuối tuần hoặc ngày lễ, tôi phải đi học chữ Mã Lai và A Rạp tại trường lớp của giáo đường.


    Lên trường Tỉnh học, vì vào cuối thập niên 1940 chưa có cây cầu bắt ngang con rạch như sau này, người lớn trong nhà, thường là bà ngoại hoặc mẹ tôi phải bơi xuồng đưa tôi sang bên kia bờ rạch, một bước kế tiếp tạo điều kiện cho tôi mở rộng môi trường tiếp xúc với thế giới bên ngoài với những kỷ niệm khó quên.


    Koh Taboong là một trong bảy làng Chăm Châu đốc.

    Ngoài Koh Taboong là làng chôn nhau cắt rún của tôi, còn có sáu làng Chăm khác là Mat chruk, Koh Kaboak, Plây Kênh, Plao Ba, Koh Ghoi, Koh Kaghia, Sabâu, với địa danh Việt tương ứng là Châu Giang, Đa Phước, Châu Phong, La Ma hoặc Vĩnh Trường, Búng lớn hoặc Búng Bình Thiên, Đồng Cô Ky.


    Phần lớn các địa danh tiếng Chăm kể trên khởi đầu bằng từ “Koh” có nghĩa là cù lao, cho thấy phần lớn các làng Chăm Châu Đốc đều nằm trên các cù lao trên ven sông Cửu Long:


    - Gọi là Koh Kaghia vì cù lao này được đánh dấu bằng hàng cây sao, một giống cây, gỗ rất chắc mà người Chăm dùng làm cột nhà sàn hoăc đóng ghe xuồng.


    - Về Koh Goi, có vài lối diễn dịch khác nhau tại địa phương, cần được nghiên cứu xác định sau này.


    - Sở dĩ gọi là Koh Kaboăk vì xóm này chuyên dệt và mua bán tơ lụa, hầu hết dân cư đều từ Plây Kênh ở bên bờ đối diện chuyển qua, do nạn bên lở bên bồi của dòng sông Cửu Long.


    Về địa danh Plây Kênh, dịch nghĩa là “xứ con kênh,” do nhà cửa làng này nằm dọc hai bên bờ một con kênh đào dẫn nước từ bờ Hậu giang trổ ra phía Tân Châu.



    Trong dân gian, người ta thường gọi là Gah Kênh thay vì Plây Kênh; Gah là “bên.” Cùng thuộc Gah kênh này, có một ấp nằm ngoài bờ sông cái gọi là Puk Pa-ok; Pa-ok tiếng Chăm là cây xoài, nên trong tiếng Việt gọi là “Hàng xoài.”

    Và cũng từ tiêu chuẩn để nhận diện bằng hàng cây xoài này, mà tên làng Plây kênh thời Pháp thuộc mới được ghi trên giấy tờ hành chánh là Phum Soài (“soài” viết s).



    Phum là từ ngữ khmer có nghĩa là làng, cho thấy xuất xứ Khmer của làng này. Địa danh Phum soài, về sau, đã dược đổi thành tên Việt là Châu Phong.


    Trong số các tên làng kể trên, có lẫn lộn Mat Chruk là chữ Khmer chớ không phải chữ Chăm, có nghĩa là “mõm con heo,” do địa thế của làng này nằm ở một bên bờ sông Cửu Long đổ từ Nam Vang xuống, tẻ ra làm hai nhánh, khiến một bên bờ trông tợ như mõm con heo vậy.



    Mặc dầu người Chăm không ăn thịt heo, trong dân gian vẫn dùng tên gọi này.

    Sự lẫn lộn từ ngữ khmer vào tên gọi làng Chăm càng gợi thêm cho tôi sự tò mò tìm hiểu, để biết rằng đất Mat Chruk cũng như các làng Chăm khác tại đây ngày xưa là vùng đất Thủy Chân Lạp và từ “Mat Chruk” là địa danh đã sẵn có từ trước khi người Chăm đến định cư.



    Địa thế bảy làng Chăm kể trên không liền nhau, nhưng cùng nằm dọc theo hai bên bờ sông Cửu Long trải dài đến giáp giới với Kampuchea cho thấy đã được bố trí theo mục tiêu chiến lược phòng thủ, có tính toán và cân nhắc rõ rệt.


    Vào thập niên 1940 thuộc Pháp, làng Koh Taboong về mặt hành chánh, được đặt dưới quyền cai trị của một Ban Hội tề như các làng xã khác, gồm đủ các chức việc.

    Tất cả đều là người Chăm ngoại trừ Chánh lục bộ chuyên trách bộ đời là một cụ già người Việt nhà ở đầu làng.

    Cố thân sinh tôi do là giáo viên làng, thực tế phải trở thành một nhân vật trung tâm được xóm làng đến nhờ thảo dùm từ các văn thư giao dịch với chánh quyền.


    Sáu làng Chăm khác cũng ở vào tình trạng tương tự, đều thiếu người rành chữ Pháp và chữ Việt, nhưng điều nghịch lý là làng nào cũng thừa người có trình độ đào tạo về chữ A Rạp và chữ Mã Lai.


    Thêm một điều nghịch lý nữa, nhưng lần này lại là do nhà cầm quyền thuộc địa Pháp.

    Đó là việc bổ nhiệm vào năm 1943 một chức vụ lãnh đạo cộng đồng người Chăm tại bảy làng này với chức vụ Saykhol Islam, Chef des Malais.



    Saykhol Islam là một chức vụ lãnh đạo do nhà cầm quyền thuộc Anh đặt ra ra tại bang Trengganu, Malaysia, nay nhà cầm quyền thuộc địa Pháp mang áp dụng tại Châu Đốc, nhưng ghi là Chef des Malais, lờ đi không nhắc gì đến căn sắc Chăm cả.



    Sự thực, tại một khu vực mệnh danh là Mubarak của làng Châu Giang ở ngay tại bến phà từ tỉnh lỵ Châu Đốc ngó qua, có một tập thể gốc Mã Lai trong dân gian gọi là người Java Ku mà ngôn ngữ thường ngày không phải tiếng Chăm mà là tiếng Khmer trộn lẫn với tiếng Mã Lai.



    Cố Haji Tangkhao Mat là người Java Ku này đã được bổ nhiệm làm Saykhol Islam đã được chọn trong số những người có sản nghiệp và có uy tín, trên nguyên tắc, có vai trò phối hợp các vị lãnh đạo Islam của từng làng Chăm gọi là Hakim điều hành cộng đồng, chuyên trách xử lý các tranh chấp về giáo lý Islam.



    Do cộng thêm ảnh hưởng từ Mã lai về khuôn mẫu hành đạo Islam thông qua các Tuôn là các thầy dạy kinh sách, có một thời gian nhiều thập niên, căn sắc Chăm của các làng Chăm bề ngoài bị lu mờ, tạo nên một khuynh hướng trong dân gian đa số ít học, chỉ muốn tự coi mình là người Mã Lai, nhất là trong giới phụ nữ trong chăn áo, khăn đội đầu, mỗi mỗi đều cùng nhau hướng về Mã Lai, chạy theo thời trang để mua sắm.


    Trong bối cảnh bề ngoài chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hoá Mã Lai, nặng về tôn giáo Islam như trên, tinh thần dân tộc Chăm ở đây vẫn còn rất mãnh liệt, nhưng âm thầm lặng lẽ trong dân gian.



    Qua sự tôn kính dành cho một vài nhân vật Chăm nổi danh với một số thành tích đôi khi được chuyển thành huyền thoại ly kỳ hấp dẫn trong một số tình huống mang tính phò trợ hoặc cứu nguy người dân. Sự tôn kính này được thể hiện ở sự đặc biệt chăm sóc bảo trì một vài nấm mồ gọi là Maqam chẳng hạn như ở Koh Taboong có Maqam Tôk Ahmad nằm ở vị trí bên ngoài sông cái Hậu giang cách xa làng này khoảng hai cây số, chỉ có dân cư Việt sống kế cận, được suy đoán có lẽ người Chăm trước có cư ngụ tại đây nhưng sau đó đã dời cư về vị trí hiện nay, để được bảo vệ an toàn trước thiên nhiên sông nước hơn.


    Trong sinh hoạt dân gian, ngoài những buổi lễ nguyện tập thể ở giáo đường, nhiều đêm dưới ánh đèn dầu, bên cạnh khung quay sợi, hoặc một vài ngưòi lớn lặng lẽ đan vá lưới, trên nhà sàn, bọn trẻ thường tụ họp đến nghe các cụ già kể chuyện đời xưa rất thích hợp với khối óc dồi dào tưởng tượng của thời thơ trẻ.

    Không biết bao nhiêu lần, tôi đã theo dõi, với những tình tiết đầy sống động, câu chuyện ông vua say mê sắc đẹp mỹ nhân ra đốn cây krêk là cây thần thủ giữ nền tảng Nagar Chăm để rồi phải bị nước mất nhà tan. Hấp dẫn với nhiều pha gây cấn nhứt là các đoạn mô tả thời chiến chinh phải bồng bế nhau trốn giặc cùng những trận chiến ác liệt làm nổi bật một số nhân vật anh hùng người Chăm, nhưng giặc đó là giặc nào thì người kể không bao giờ nói rõ.


    Trong xóm, chỉ có một vài cụ già, khi được hỏi, mới trang trọng đưa ra cho xem những tờ giấy vàng xưa cũ có những dòng chữ nói là akhar tapuk, chữ Chăm cổ không còn thông dụng nữa, nhưng được cất rất kỹ, hiếm thấy cho con cháu biết, vì hầu như đã trở thành một thời trang, con cháu chỉ được khuyến khích học kinh sách viết bằng chữ A Rạp và chữ Javi Malayu.


    Trong hành trình soi rọi cội nguồn dân tộc, tôi đã được các bô lão ngồi say sưa kể cho nghe những giai thoại bi thương còn được lưu truyền về cuộc dời cư lịch sử của người Chăm từ vùng Phan Rí (Ninh Thuận) dưới trào của một vị vua cuối cùng là Pô Chơn, không chịu nổi chánh sách đàn áp khắc nghiệt của Vua Yuôn là Minh Mạng nhà Nguyễn để sang lánh cư trên đất Kampuchea, buổi đầu xoay quanh vùng lấy tên là Kampong Cham, đa số tiếp tục nghề đánh cá vùng Biển Hồ, nguyên là nghề truyền thống của cha ông. Nghề truyền thống này không còn điều kiện tồn tại trên mảnh đất quê hương cội nguồn Chăm ở miền Trung Việt Nam ngày nay nữa.



    Những thôn làng người Chăm ngày nay tại Ninh Thuận và Bình Thuận đều ở sâu vào vùng đất liền, xa bờ biển. nên đa số người dân chuyên về canh tác nông nghiệp hoặc chăn nuôi.


    Có một chi tiết mà tôi được nghe lặp đi lặp lại nhiều lần là: “Ngày xưa, người Chăm mình có đất nước (tanưh ea) tên là Chămpa, người yuôn gọi là Chiêm Thành.”

    Có cụ già còn xác định một cách thật thà, và được một vài cụ khác gục gặc đầu thích thú tán đồng với rất nhiều chân tình và tự hào, hẳn nhiên là bằng tiếng Chăm mẹ đẻ của tôi: “Thật ra, không phải Chiêm Thành đâu, mà là ‘Chiến thắng’ đó; người Chăm mình ngày trước đánh giặc giỏi lắm, đánh trận nào là thắng trận đó, nên gọi là ‘Chiến thắng’!”


    Bọn trẻ nghe, đứa nào cũng lấy làm thích thú. Đến khi lớn khôn tìm hiểu, tôi mới biết lời khẳng định đó vốn sai lạc do nhiều tưởng tượng. Nhưng điều làm cho tôi xúc động khắc ghi mãi trong lòng và nghĩ ngợi miên man là sự tưởng tượng đó thực sự đã xuất phát từ tận đáy lòng, từ con tim, của những con người bản tánh chơn chất mộc mạc, đã cùng các đồng tộc trải qua bao giai đoạn thăng trầm của cuộc sống, nghĩ sao nói vậy về gốc nguồn cách xa của mình.

    Sau này, khi có điều kiện tiếp xúc và hội nhập vào xã hội bên ngoài, tôi càng thấy thấm thía hơn khi nhận ra đó là niềm tự hào hồn nhiên tiềm ẩn sâu đậm trong tận tim óc về bản sắc dân tộc Chăm của mình, và niềm tự hào đó là chung cho mọi người, cho toàn nhân loại, chớ không phải cho riêng một dân tộc với một trình độ văn minh nào.


    Cuộc dời cư của người Chăm từ đất Kampuchea về đến đất Châu Đốc vốn là một cuộc hành trình gian nan đã được các nhà biên khảo Pháp ghi lại một phần trong lịch sử Vương quốc Khmer, cho thấy người Chăm dời cư sang đất Khmer bao gồm nhiều thành phần lãnh đạo, đã từng cầm quân chiến đấu, nên xoay sở tác động vào nội tình hoàng gia Khmer khi thắng khi bại.



    Đến năm 1782, một lãnh đạo Champa là Đon Set xua quân từ Thabaung Khmum tiến đánh kinh đô U-đong khiến Hoàng gia Khmer phải lánh chạy sang nước Xiêm, tạo điều kiện cho người Chăm thiết lập các khu định cư riêng biệt tại Phnom Penh, Chruy Chagwar là một cù lao nằm chắn ngang sông Mekong và Tonle Sap, tồn tại đến ngày nay.



    Nhưng sau đó Đon Set đã bị giết chết. Năm 1858, vua Khmer đóng đô ở U Đong lại bị người Chăm giết chết, khiến vua Hariraks điều quân đến Thabaung Khmum đánh phá giết hại, người Chăm phải nương nhau theo dòng sông Cửu Long thoát thân về phía Nam, xuống đến tận Mat Chruk tức Châu Giang trước còn thuộc lãnh thổ Khmer lúc đó đang bị quân Việt chiếm đóng.



    Sau đó không lâu, vẫn trong năm 1859, người Chăm ở Mat Chruk đã quay trở lại đất Kampuchea tổ chức di chuyển khá nhiều đồng tộc Chăm về sanh sống tại Mat Chruk, được hiểu là “đất lành, chim đậu,” người Chăm đã được triều đình Đại Việt chấp nhận cho định cư tại địa phương vùng giáp giới Kampuchea, giao bố trí thiết lập một số đồn luỹ mang tính phòng thủ chiến lược, đúng như các vị trí thường ở các đầu vàm còn tồn tại đến ngày nay.



    Nhiều người Chăm đã được triều đình nhà Nguyễn tuyển dụng làm thân binh sẵn sàng vận dụng tài thao lược truyền thống của mình khi cần.

    Khi Thoại Ngọc Hầu khởi công đào kinh Vĩnh Tế chạy dài dọc theo biên giới Miên-Việt, trổ ra đất Hà Tiên, người Chăm đã được huy động sung vào lực lượng bảo vệ an ninh tạo điều kiện cho dân phu có thể làm việc cực lực suốt ngày đêm, và họ đã chứng tỏ hoàn thành tốt nhiệm vụ trọng yếu này.


    Vì làng Châu Giang nằm bên kia bờ Hậu giang đối diện với Châu Phú, tỉnh lỵ Châu Đốc, nên trong dân gian, người Việt còn gọi chung người Chăm ở đây, là “Chà Châu Giang.”
    Những người Chăm mưu sinh bằng nghề quảy trên vai gói hàng vải tơ lụa đi bán dạo khắp cùng các nẻo đường vùng châu thổ sông Cửu Long cũng thường được dân gian gọi như vậy.

    Sự thực, tên gọi “Chà Châu Giang” không đúng, vì Châu Giang chỉ là tên một làng.
    Tên gọi mang tính phổ biến và được chấp nhận và sử dụng rộng rãi trong dân gian xưa nay là tên gọi “Chăm Châu Đốc” dân số trước năm 1975 được ghi nhận là 12.000 người, nay được cho biết đã tăng lên đến khoảng 20.000 người..


    Vốn được tiếp xúc với nhà văn Bình Nguyên Lộc ở toà soạn Bách Khoa do anh Lê Ngộ Châu làm chủ nhiệm, tôi đã có dịp trao đổi sôi nổi nhưng vô cùng hữu ích và lý thú về văn hoá, ngôn ngữ người Chăm, có đề cập đề tài “Chà Châu Giang” nhất là sau khi tôi có bài góp ý về quyển “Lột trần Việt ngữ” đã được xuất bản tiếp sau quyển “Nguồn gốc Mã Lai của Dân tộc Việt Nam.”


    Nhân cuộc trao đổi trên, học giả Nguyễn Văn Hầu vốn là tác giả quyển ký sự có giá trị biên khảo trung thực nói về chuyến viếng thăm vùng Thất Sơn Châu Đốc cũng đã dựa vào sử sách Việt, xác định một số người Chăm đã có mặt tại Châu Đốc bên cạnh người Việt trước khi nhóm người Chăm từ Nam Vang kéo xuống.

    Vì chế độ xuất bản vào năm 1973 không cho phép tờ Bách Khoa Thời Đại đánh số xuất bản định kỳ và ngày tháng như thường lệ, nên không thể ghi nguồn các bài viết kể trên.
    Chỉ xin nhắc lại ở đây như là một kỷ niệm trong khung tản mạn biểu tỏ chút tâm tư của đề bài.
Các Giai Thoại Nam Kỳ Lục Tỉnh - Hứa Hoành
« vào: 09/04/2011, 23:01:00 »
Năm 1984 tôi đến trại tỵ nạn Mã Lai. Tình cờ tôi có quen với cụ Nguyễn văn Vực, nguyên Chánh Sự Vụ Sở Thông Tin Đô Thành Sài Gòn dưới thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lúc đó cụ Vực ngoài 60 tuổi, vượt biên có một mình, sống cuộc đời hiu quạnh của người già, gợi trí tò mò của tôi, nên tôi bắt đầu làm quen, bắt chuyện với cụ. Mối giao tình lần lần đậm đà. Khi chuyển qua trại ở Philippines, cụ bị bịnh “hở valve tim”, phải ra điều trị tại bịnh viện Manila. Lại cũng tình cờ nữa, tôi được cử theo giúp đỡ trong khi cụ bịnh hoạn.

Từ đó, chúng tôi một già một trẻ ăn chung, ngủ gần nhau. Hằng ngày cụ thường kể chuyện xưa tích cũ cho qua ngày đoạn tháng. Thấy cụ minh mẫn và cường kỳ, tôi xin phép ghi chép các chi tiết cụ kể ra. Có lẽ tự biết mình mắc một chứng bịnh khó trị, xung quanh không có thân nhân, lại tuổi cao, nên cụ sẵn sàng cho phép tôi sử dụng các chi tiết mà cụ đã kể với tôi trong thời gian chung sống nhà rỗi ở Manila. Thỉnh thoảng tôi có dịp hầu chuyện với nhiều vị lớn tuổi ở miền Nam, tôi không quên kín đáo học hỏi thêm. Do đó, tôi có một số tư liệu tương đối ít người biết, hoặc không có sách vở đề cập tới.

Trong một ngày rảnh rỗi, tôi lang thang ngoài phố. Tình cờ thấy trên vỉa hè trước tiệm bày bán sách báo cũ giá 10c một quyển. Tôi lựa một hồi tìm gặp một quyển sách bụi bặm nhăn nheo nói về thời kỳ Pháp mới chiếm Nam Kỳ với nhiều chi tiết mới lạ với tựa đề “The French present in Cochinchina and Cambodia 1859-1909″ của Milton Osborn. Trong sách có nhiều bức ảnh minh hoạ chân dung các nhơn vật tiếng tăm lừng lẫy ở Nam Kỳ mà từ trước đến giờ chúng tôi chỉ nghe nhắc tới, chớ chưa thấy được hình ảnh.

Quan niệm rằng xã hội nào cũng có người tốt kẻ xấu, chớ không thể thuần nhứt được, cho nên nhắc lại những kẻ đã nổi danh một thời trong lịch sử cận đại với mọi khía cạnh tốt xấu của nó, đều góp phần làm sống lại một thời kỳ đen tối của lịch sử. Các câu chuyện ấy gần như những giai thoại, một loại ngoại sử thiếu chính xác, nhưng không có cách gì khác hơn để kiểm chứng. Chúng tôi sưu tầm và viết lại người bài ký sự này như một loại kể chuyện đời xưa, còn việc khen chê để dành cho sử gia và các bậc thức giả. Với suy nghĩ như thế, tôi mạnh dạn viết loạt bài nầy cống hiến độc giả. Đây là tâm huyết của một người lưu vong còn nặng tình với quê hương. Mong rằng với lòng rộng lượng sẵn có, qúy độc giả sẽ sẵn lòng tha thứ cho những điều sai lầm, thiếu sót.

Pháp đem quân gây hấn ở Bắc và Trung Kỳ, nhưng thật sự đặt chưn lên được phần đất Việt Nam trước tiên là ở Nam Kỳ. Điều đó có nhiều lý do:

Thứ nhứt, Nam Kỳ ở xa kinh đô Huế, chắc sự phòng bị lỏng lẻo. Thứ nhì, đối với Pháp, Nam Kỳ là vị trí chiếm lược. Chiếm lược Nam Kỳ là khai thông sông Cửu Long để chiếm Miên, Lào và dọn đường đến Hoa Nam. Đó là mục tiêu của Pháp để chạy đua với công ty Đông Ấn Anh đang chiếm Ấn Độ, bành trướng qua Miến Điện, tràn xuống Mã Lai. Sự thành công của Pháp ở Nam Kỳ dễ dàng một phần do nhơn tâm ly tán. Nam Kỳ là đất mới, Nho học chưa đủ thời gian để bắt rễ. Khoa cử chỉ mới tổ chức hoàn bị vài khoá tại trường thi Hương Gia Định thì người Pháp đến. Số ông Nghè, ông Cử đại diện cho Nho giáo ở miền Nam rất hiếm, chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

So với miền Trung và Bắc, dân trí miền Nam thấp, và họ cũng ít hưởng được ơn vua lộc nước như dân ở miền ngoài. Có đọc truyện “Giai Thoại Làng Nho” của cụ Lãng Nhân Phùng Tất Đắc mới thấy trong khoảng gần 100 giai thoại mà cụ sưu tập, chỉ có 4 hay 5 người miền Nam, còn bao nhiêu là những ông Cống, ông Nghè ở miền Trung và Bắc. Các đại thần ra giúp Nguyễn Ánh trung hưng cũng đều phát xuất từ Thanh Hoá trở vào. Chính những người đó vào Nam với khí tiết của kẻ sĩ, học vấn uyên bác của người đất kinh kỳ văn vật để pha trộn với lòng thẳng thắn bộc trực của người Nam.

Pháp chiếm được miền Nam rồi, Nho học suy tàn mau chóng. Sĩ khí của người miền Nam phần lớn không phát xuất từ những tay khoa bảng, hay giữ những chức vụ cao trong triều đình. Các lãnh tụ chống Pháp như Nguyễn văn Lịch (Nguyễn Trung Trực), Thiên Hộ Dương, Lê Công Thành, Đoàn Công Bửu, Nguyễn Xuân Phụng, Đỗ Thừa Luông, Đỗ Thừa Tự …đều là những người ít học. Dân Nam Kỳ rất phân hoá vì nhiều nguyên nhân kể trên. Hơn nữa, Nam Kỳ có nhiều họ đạo, mọc gốc rễ từ lâu đời ở những nơi khuất lấp, bất tiện về giao thông như cù lao Giêng, Bồ Ót (Long Xuyên), Cái Mơn, Cà Nhum (Vĩnh Long) là những chỗ dựa tin cẩn của người Pháp khi mới chiếm được miền Nam. Thi hành chính sách cấm đạo của triều đình, các quan lại địa phương bắt bớ, tra tấn, giam cầm và lưu đày các giáo dân, vô tình gây chia rẽ lương, giáo. Trường hợp ra cộng tác với người Pháp của Trần Bá Lộc, Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Trần Tử Ca là những thí dụ điễn hình.

Năm 1862, khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ đã được nhượng cho Pháp rồi, gây ra biết bao cảnh tượng thương tâm: nhiều nghĩa quân bị sát hại, gia đình tan nát. Có những gia đình bỏ cả nhà cửa ruộng vườn, bồng bế nhau qua ba tỉnh còn lại tá túc. Trong khi đó, một số người có đạo Thiên Chúa, sẵn mối ác cảm với triều đình, âm thầm ở lại, hoặc mạnh dạn ra hợp tác. Có lẽ bài “Thơ Nam Kỳ” của tác giả vô danh là áng văn cổ nhứt miền Nam, viết bằng chữ quốc ngữ, nội dung rõ ràng cổ võ cho sự hợp tác với Pháp vì sự bạc đãi của triều đình. Nội dung không có nói tới lý do tôn giáo, nhưng chúng ta có thể hiểu ngầm rằng chính lý do ấy đã làm cho một số giáo dân ở miền Nam ngả theo Pháp. Pháp tìm ra được bài thơ này, nhờ Michel Đức Chaigneau, con ông Chaigneau, một phụ tá đắc lực cho vua Gia Long, dịch ra tiếng Pháp. Nội dung bài thơ tố cáo chính các quan lại địa phương làm cho mất nước vì chủ trương hẹp hòi, chia rẽ và khinh mạn họ. Trong “Thơ Nam Kỳ” có những câu:

“…Các quan lại là những nhà hiền triết, những bậc anh hùng tài đức,
“Họ coi chúng ta (dân) như cỏ cây, như rác rến,
“Họ hay dùng roi vọt đánh đập chúng ta, hơn là kháng chiến chống Pháp.
“Chúng ta như sống trong cảnh cá chậu chim lồng…nên chúng ta (phải như chim khô) tránh lưới, tránh dò.
“Hãy để chúng tôi bày tỏ lòng tôn kính đối với cường quốc Pháp, vì ‘tứ hải giai huynh đệ’ …”

Bài “Thơ Nam Kỳ” tiếp theo do nhà in Tân Định tái bản lần thứ nhất năm 1903. Bài thơ đầu được dịch từ văn vần chữ quốc ngữ ra chữ Pháp, rồi tác giả khác dịch ra Anh văn. Chúng tôi căn cứ vào bản dịch tiếng Anh để quảng diễn lại nội dung. Tam sao thất bổn nhưng chắc chắn có những nét chính còn giữ lại, để chúng ta có một ý niệm rõ ràng: vì bạc đãi, chia rẽ, nghi kỵ giữa lương giáo của triều đình Huế, vô tình làm mất đi một hậu thuẩn lớn của dân chúng. Thấy rõ đó là cơ hội tốt, Pháp liền nắm lấy. Họ dùng người Việt cai trị người Việt ngay từ buổi đầu . Pháp mở rộng vòng tay đón những người bất mãn ra hợp tác, đặt họ vào địa vị có tiền bc để họ tận tâm phục vụ.

Để có thêm lý do vững chắc tin rằng người Công giáo đóng một vai trò quan trọng trong cuộc xâm lăng của người Pháp vào Nam Kỳ, chúng tôi xin dẫn chứng một khía cạnh khác. Khi đồn Chí Hoà thất thủ, triều đình Huế liền cử hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào thương thuyết với Pháp tại Sài Gòn Phái đoàn Pháp ngoài đại diện chính thức là người Pháp , còn có mấy người Việt sau đây: John Liễu, Trần Tử Ca và một người nữa không rõ tên họ, có đạo Thiên Chúa. Vừa thấy mấy người bản xứ đứng trong hàng ngũ kẻ thù, cụ Phan Thanh Giản giận lắm. Phía họ, khi thấy cụ Phan đại diện cho triều đình vừa bước vào phòng họp thì đứng dậy và chắp tay xá theo lối chào kính nhà vua bằng lễ nghi truyền thống. Cơn giận của cụ Phan tạm nguôi ngoai khi người Pháp giải thích rằng những người Việt này theo Thiên Chúa giáo (có nghĩa là họ trung lập).

Người Công giáo ngả theo Pháp từng giai đoạn. Buổi đầu họ đứng trung lập trong cuộc tranh chấp. Rồi các hội truyền giáo khuyến khích, giải thích với họ rằng người Pháp sẽ có mặt lâu dài ở đây để bảo vệ họ, quyền lợi của họ và con cái họ khi có sự trả thù của quan lại triều đình. Từ đó, lớp người ra cộng tác với Pháp càng ngày càng đông. Những khuôn mặt bản xứ mới xuất hiện hồi cuối thế kỷ 19 trên chính trường miền Nam hầu hết là Công giáo.

Ngoài ra còn có một hạng người khác cũng sớm ra đầu thú để xin hợp tác vì họ là những thành phần điền chủ giàu có. Gia đình họ trước đây nhờ các chức vụ như bá hộ, hộ trưởng, đội trưởng các đồn điền mà làm giàu mau chóng. Có thế lực dễ kiếm ra tiền. Có vốn cho vay sanh lời mau chóng. Có tiền họ mua thêm ruộng đất, hoặc siết ruộng đất của những người cầm cố không trả nổi. Họ cảm thấy cần được cái dù che chở của Pháp để bảo vệ quyền lợi cho gia đình và dòng họ. Nhớ lại những năm loạn lạc dưới thời Lê Văn Khôi chiếm cứ thành Phiên An, cũng như nhiều lần quân Xiêm cướp phá, vơ vét sạch tài sản của họ mà không ai can thiệp. Cho nên lần này họ rút kinh nghiệm và tìm một con đường mới để tiến thân và bảo vệ tài sản. Họ tự biết vốn không học nhiều chữ Hán, chỉ biết chữ Nôm và quốc ngữ, chắc chắn không được triều đình trọng dụng . Vì lẽ đó, họ đổi hướng, mạnh dạn ra hợp tác với tân triều cho hợp với thời thế. Hơn nữa luật pháp của triều đình quá phong kiến và khắt khe. Hằng năm triều đình ra lịnh hành quyết từ 200 đến 300 người riêng tại Nam Kỳ… Nhưng khi người Pháp đã làm chủ ở đây, họ áp dụng luật nước Pháp tiến bộ hơn. Tình trạng xử tử các tội nhơn cũng giảm gần hết, chỉ trừ những trường hợp trực tiếp giết họ, bị họ bắt. Có lẽ đó cũng là dụng ý của thực dân trong giai đoạn đầu để mua chuộc những bản xứ.

Trong phạm vi bài này, chúng tôi đề cập đến các nhơn vật tiêu biểu là Trần Bá Lộc và con là Trần Bá Thọ, Trần Tử Ca, và Đỗ Hữu Phương.

Tôi tin chắc rằng quý độc giả từng đọc qua những quyển danh nhơn tự điển nước nhà xuất bản từ trước tới nay, không dễ gì tìm ra tiểu sử các ông ấy. Lý do rất giản dị là vì quan niệm “văn dĩ tải đạo” (văn chương chở đạo lý) của người xưa. Các người trước tác sách vở ngày trước chỉ nhắc đến những gương danh nhơn, anh hùng liệt nữ mà thôi. Dụng ý của họ để răn dạy thế hệ mai sau. Đối với những nhơn vật kể trên, sĩ phu nước ta cho là những kẻ có tội với đất nước và dân tộc, nên không ghi chép lại những tấm gương xấu đó. Ngày nay, chúng ta quan niệm khác. Chúng ta muốn tìm hiểu sự thật và thành tâm, thiện chí làm công việc đó. Chúng ta muốn nhìn thấy những sự việc y như chúng đã xảy ra, dầu tốt hay xấu. Trong khi viết về những nhơn vật kể trên, chúng tôi lược bỏ những chi tiết mà các sách sử thường nhắc tới để tránh sự nhàm chán cho người đọc.

TỔNG ĐỐC TRẦN BÁ LỘC (1838-1900)

Các bạn có biết trong tỉnh Mỹ Tho có hai ngôi mộ chôn đứng là của ai không ? Xin thưa rằng ngôi mộ thứ nhất của một người con bất hiếu bị “trời trồng” chôn trong xã Khánh Hậu, sau này thuộc tỉnh Long An. Ngôi mộ thứ hai là của Trần Bá Lộc, đi tàu gần tới Mỹ Tho thấy ngôi mộ sừng sững ở đầu ngã ba sông.

Trần Bá Lộc là một trong những người oán hận triều đình Huế chỉ vì gia đình ông có đạo, đã bị ngược đãi. Thân phụ Lộc là Trần Bá Phước, người Quảng Bình, đổ Tú Tài vào Nam lập nghiệp với tư cách một thầy đồ. Ban đầu cụ Phước dạy học tại Cái Nhum Rau Má (Vĩnh Long) sau đó đổi lên cù lao Giêng (Châu Đốc). Đây là các xứ đạo lâu đời nhờ vào vị trí khuất lấp với bên ngoài, nên các giáo sĩ vẫn lén lút truyền đạo. Trần Bá Lộc chào đời tại đây năm 1838, cuối đời vua Minh Mạng. Lớn lên nhằm lúc triều đình cho thi hành một chánh sách cấm đạo khắt khe vì sự khiêu khích của người Pháp. Nhiều cố đạo bị bắt giam, có vị bị hành quyết như Thánh Minh bị giết năm 1854 tại bến đò Đình Khao (Vĩnh Long). Nhiều tín đồ bị đánh đập tàn nhẫn buộc phải bỏ đạo. Có kẻ bị lưu đày. Thân phụ Lộc, cụ Trần Bá Phước bị bắt giam tại Châu Đốc một thời gian rồi đày đi Bình Định. Năm đó Lộc 16 tuổi. Bao nhiêu thù hận Lộc đổ trút lên đầu quan lại địa phương và triều đình Huế. Càng thương cha bao nhiêu, Lộc càng căm thù bấy nhiêu.

Theo nhận xét của người Pháp lúc còn học ở trường nhà dòng, người Pháp nhìn nhận rằng Lộc tỏ ra thông minh, có chí khí, học hành tiến bộ. Trong thời gian cha bị phát lưu tại Bình Định, giáo hội tiếp tục nuôi nấng và dạy dỗ Lộc. Mối cảm tình với thực dân phát sinh từ đó. Sau khi cưới vợ, một người có đạo Công giáo, được hơn một năm Lộc bị quan lại địa phương bắt bớ, đánh đập rồi giam luôn. Nhưng sau đó Lộc trốn thoát được. Lúc đó Pháp cũng vừa làm chủ tình thế ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cần mua chuộc người bản xứ ra hợp tác. Khai thác hận thù trong tâm của Lộc, giáo hội khuyên Lộc nên gia nhập hàng ngủ Pháp để tránh bị trả thù. Lộc âm thầm đem gia đình lên Mỹ Tho, rồi nhờ một ông cố đạo gọi là cha Marc che chở để sống trong lãnh thổ của Pháp.

Cũng do sự tiến dẫn và giới thiệu của Marc, Lộc xin vào làm lính mã tà. Lộc lập nhiều thành tích nhờ dọ thám, điềm chỉ cho Pháp bắt các thân hào nhân sĩ ủng hộ nghĩa quân, nên Lộc được thăng Cai, rồi lên Đội rất nhanh. Năm sau, Lộc đã lập nghiệp vững chắc ở đây rồi, Pháp cấp cho Lộc một căn nhà lá, vợ thì nuôi heo kiếm thêm tiền. Từ đó, tiền bạc và địa vị của Lộc thăng tiến nhanh như diều gặp gió. Vốn có ác cảm với quan quân của triều đình, Lộc đàn áp các nghĩa quân không nới tay. Nhờ biểu lộ lòng trung thành với thực dân qua các vụ đánh dẹp, chém giết, lại biết chữ quốc ngữ, chữ Hán, cho nên mới 26 tuổi, Lộc được bổ làm tri huyện, tức chủ quận Cái Bè năm 1865. Lộc là người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận Nam Kỳ. Hai năm sau, Lộc được thăng Đốc Phủ Sứ. Lúc nầy Lộc vừa đóng vai trò võ quan để bình định các cuộc khởi nghĩa cho Pháp, vừa giữ vai trò cố vấn cho Pháp về vấn đề an ninh lãnh thổ, hành chánh và chánh sách cai trị nữa.

Kinh nghiệm cho biết rằng hễ kẻ có tài hay tự phụ. Lộc không thoát khỏi thông lệ đó. Khi đã thăng phủ, vẫn còn ngồi ở quận Cái Bè, Lộc lấn quyền cả người Pháp. Lộc coi như mình có quyền hành trên những người Pháp đang phục vụ tại đây. Ông ta viết đơn gởi cho Giám Đốc Nội Vụ đề nghị thăng cấp cho người Pháp trong quận, và coi đó như nhiệm vụ của mình. Ngồi quận Cái Bè trong 30 năm, công lao hãn mã đã nhiều, mà vẫn không còn tiến thân được nữa, điều đó chứng tỏ người Pháp không thích ông và dùng người có giai đoạn. Những cuộc đánh dẹp trong Đồng Tháp Mười, Vũng Liêm, Cầu Ngang, Rạch Giá, Phú Quốc…có thể nói bất cứ cuộc khởi nghĩa nào ở Nam Kỳ cũng có Lộc dẫn quân đi đàn áp dã man.

Có một lần Lộc họp cùng Phủ Đức, ruồng bắt cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân ở vùng Gò Công lên đến Chợ Gạo, khiến cho cọp, chồn, nai chạy tán loạn vào các thôn xóm. Khi ngồi chủ quận Cái Bè, mỗi lần báo cáo điều gì lên Thống Đốc Nam Kỳ, Lộc luôn luôn dùng chữ “Phụng lệnh quan lớn Nguyên Soái”, nịnh bợ cấp trên hết lòng. Theo Lộc, nhà cầm quyền cần dạy dân chúng về luân lý, đạo đức của Pháp. Lộc nói người Công Giáo luôn luôn trung thành với Pháp, chỉ có các phần tử theo Nho giáo mới làm loạn.

Ông Durrwell nhận xét về Trần Bá Lộc như sau: “Lộc đàn áp dã man các cuộc khởi nghĩa, và thẳng tay dùng bạo lực để dẹp các cuộc bạo động. Dưới con mắt của người Pháp, Lộc là một trong những viên chức Việt Nam ra hợp tác đáng tín nhiệm nhứt, và là một thí dụ điển hình để những người Việt khác noi gương!”

Lúc chém giết các nghĩa quân dã man hơn cả người Pháp rất nhiều, nên dân chúng oán hận mà không làm gì được. Có một lần Lộc đi dự lễ khánh thành một nhà việc làng ở Mỹ Tho, bị ám sát, nhưng thoát chết. Để dẹp tan các cuộc khởi nghĩa và dụ hàng, Lộc bắt cha mẹ, vợ con các lãnh tụ phải chỉ chỗ họ ẩn núp, kêu họ ra đầu thú, nếu không đạt mục đích, Lộc sẵn sàng hạ sát họ. Đối với Lộc, phương tiện nào cũng tốt miễn đạt tới mục tiêu thì thôi.

Nhìn về nông thôn, theo báo cáo của Lộc với Thống Đốc Nam Kỳ, thì đó là một bức tranh ảm đạm: “Các viên chức làng xã thường thụt két, biển thủ tiền bạc để ăn xài riêng, hút á phiện và lạm dụng quyền hành. Mỗi khi bắt dân chúng làm sưu thì họ hàng với những người ấy được miễn, không ai dám kêu ca. Tiền bạc thâu góp trong các dịp lễ lạc, họ bỏ túi xài riêng” . Lộc nói thêm: “Các món tiền trợ cấp cho dân quê đều vô túi mấy ông làng. (Nên nhớ đây là tiền trợ cấp tử tuất cho gia đình những người lính đã theo Pháp bị tử trận). Khi trả lương cho họ, phải làm sổ sách hẳn hòi. Mỗi lần có lễ lạc như cúng đình là đóng góp tự nguyện, không bắt buộc. Sau cùng , làm sưu phải đồng đều”. Với báo cáo đó, Lộc tỏ ra nắm vững tình hình ở thôn quê và am hiểu luật lệ hành chánh, vì lẽ đó nên Pháp rất tin cậy.

Năm 1886, Lộc được Pháp điều động ra Bình Định để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng. Xong việc, Lộc được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh và thăng hàm Tổng Đốc Thuận Khánh, nên dân chúng gọi ông là Tổng Đốc Lộc. Sau đó, Lộc về quê tại Cái Bè và Mỹ Tho. Lộc rất tự phụ, chê cả người Pháp là bất lực, kém hiểu biết tình hình địa phương. Cũng chính vì thế người Pháp không ưa ông ta, nhưng phải nhìn nhận rằng:”Lộc là người dùng phương tiện cẩu thả, nhưng đạt mục đích chắc chắn”. Tham Biện Mỹ Tho phê bình Lộc như sau: “người ta có thể phàn nàn lão già nầy về hành động dã man lúc trước nhưng tôi nghĩ trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện nay, khó tìm được người biết kính bề trên và tận tụy với quyền lợi của nước Pháp như hắn” . (Hồ sơ Trần Bá Lộc của Durrwell, năm 1931)

Toàn quyền Paul Doumer vào Nam nhiều lần. Lần nào ông ta cũng có xuống nhà thăm Lộc. Theo P.Doumer vào những năm cuối đời của ông ta, Lộc là một trong những người giàu nhứt ở Nam Kỳ. Trước khi chết, Lộc còn hơn hai ngàn mẫu ruộng và làm chủ cả cù lao Qưới Thiện. Để tưởng thưởng công lao hãn mã của Lộc, năm 1899, P.Doumer cho Lộc làm thành viên của phái đoàn, tháp tùng với P.Doumer viếng thăm Bangkok. Ân huệ đó làm cho Lộc rất hãnh diện. Ngoài ra P.Doumer còn cất nhắc Lộc trước khi chết được vào Hội Đồng Tối Cao Đông Dương, có nhiệm vụ lo về an ninh lãnh thổ.

Lộc mất năm 1900 trong sự lãnh đạm của Pháp lẫn Việt. Trước khi chết, Lộc dặn con phải chôn đứng. Đám ma của Lộc quàn đủ 100 ngày để khách khứa xa gần viếng thăm. Mỗi ngày đều có làm heo, bò đãi khách khứa rần rần. Lễ động quan có binh lính bắt súng chào và đưa tới huyệt. Lộc chết không ai tưởng nhớ, nhưng người Pháp cho lấy tên Lộc để đặt tên cho một con kinh từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng do chính Lộc chỉ huy dân phu đào. Công việc đào kinh rất nặng nhọc, giữa đồng nhiều muỗi, vắt, đĩa và thiếu nước uống, khiến cho nhiều người chết vì bệnh sốt rét và dịch tả. Kinh Tổng Đốc Lộc đã góp phần làm cho vùng hai bên bờ kinh được phong phú.


TRẦN BÁ THỌ

Phải chăng cây độc không trái, hay ít trái, nên Trần Bá Lộc chỉ có một người con duy nhứt là Trần Bá Thọ. Theo cuốn “Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt” thì từ năm 1886 trở đi Nam Kỳ đã bắt đầu gởi người du học qua Pháp. Bốn năm sau số du học sinh lên đến 90 người . Thọ là một trong những người du học đầu tiên đó, cùng với Huỳnh Công Miêng con Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn. Thọ và người chú ruột là Trần Bá Hựu theo học trường Laseyne ở Pháp. Những người đi Pháp học trong buổi đầu không phải để lấy bằng cấp, mà chỉ học chữ Pháp đủ sức làm thông ngôn, giao dịch với Pháp mà thôi.

Sau khi ở Pháp về, Trần Bá Thọ vừa làm Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, vừa lo quản lý ruộng đất khổng lồ của cha để lại. Cũng giống như cha, khi ra làm việc với Pháp, Thọ vẫn nóng tánh, hay có những ý kiến trái ngược với quyền lợi của Pháp. Trần Bá Thọ có một người con gái gả cho con trai út của cụ Trương Vĩnh Ký là Trương Vĩnh Tống. Trong thời gian làm hội đồng, Trần Bá Thọ có nhiều hoạt động đáng lưu ý.

Trước hết, trong các phiên họp hội đồng, Thọ đưa ra nhận xét: “Vai trò cai tổng trong mỗi quận rất quan trọng, nhờ họ làm trung gian truyền lệnh từ quận xuống xã, và đốc xuất việc thâu thuế. Cai tổng do các làng bầu ra, nhưng phải được nhà cầm quyền cấp tỉnh hợp thức hóa. Mỗi cai tổng có phó tổng phụ tá. Thọ nói tìm và bổ nhiệm một cai tổng có khả năng không phải dễ, và Thọ cũng phàn nàn lương cai tổng quá thấp, nên khó kiếm người có khả năng, mà còn làm cho họ tham nhũng, hối lộ. Còn các ông làng, mỗi lần đi công tác lên tỉnh, lên quận mất nhiều ngày mà không có công tác phí, khiến họ phải ăn hối lộ” .

Trong một phiên họp hội đồng, Thọ nêu ý kiến báo chí sẽ tường thuật các phiên họp ấy cho dân chúng biết. Viên Thống Đốc Nam Kỳ chủ tọa trả lời rằng:

- “Me-sừ Thọ rất thông minh, nhưng không hiểu biết nội bộ. Nếu cho dân chúng biết mọi cuộc thảo luận của Hội Đồng Quản Hạt, chúng ta sẽ khó đạt mục đích. Cần phải giấu họ.”

Đã từng nghe dân chúng phàn nàn về việc làm của cha trước đây nên vào năm 1908, Trần Bá Thọ cho xuất bản quyển:”Nhị Thập Tứ Hiếu” bằng Pháp văn và Quốc ngữ để giáo dục dân chúng về luân lý, đạo đức của Nho giáo. Trong lời tựa sách, Thọ viết:

“người Việt không kính trọng các kẻ hợp tác với Pháp và nói tiếng Pháp vì họ bị cô lập không nói được tiếng ấy và cũng không được giáo dục nữa.”

Trước kia, Lộc đã từng chủ trương dạy chữ Quốc ngữ cho người Công giáo . Thọ nói rằng vì thiếu sách nên ông phải soạn ra. Lập luận này bị ông Diệp Văn Cương không tán thành bằng cách nói rằng không có lý do gì mà không dạy Nho giáo bằng Pháp văn, trong khi tiếng Pháp chính là công cụ để khai hoá. Còn Hội Đồng Lê Văn Phát thì cho rằng cần duy trì tiếng Pháp để người Pháp hiểu sinh hoạt, lịch sử Nam Kỳ mà họ đang cai trị. Trong khi đó, Giám Mục Mossand phàn nàn nhờ hấp thụ văn hoá Pháp do nhu cầu cai trị, mà một số người tỏ ra ít trung thành với Pháp. Ông Diệp Văn Cương, du học Pháp, đổ Tú Tài 2, về làm Hội Đồng đã phản đối:

- “Lời tuyên bố xuất phát từ một vị đứng đầu Giáo Hội Truyền Giáo Nam Kỳ như một sự tố cáo tất cả người Việt du học bên Pháp đều chống lại Pháp, trong đó có tôi chẳng hạn. Điều đó không đúng.”

Dư luận Nam Kỳ cho rằng Trần Bá Thọ giống cha, lúc làm Hội Đồng dám ăn nói, tỏ ra cứng đầu, không nể nang ai hết. Về sau Thọ qui dân lập ấp, xây chợ, cất nhà ở Sa Đéc, lúc ấy thuộc phủ Tân Thành, nơi Lộc từng trấn nhậm và có rất nhiều đất đai. Dân chúng Sa Đéc còn nhắc đến Trần Bá Thọ bằng hai câu liễn đối:

Tân thị Mỹ Thành, chánh bổ Lục na sáng tạo
Quy dân lạc lợi, Hùng đường, Trần Bá Thọ kinh dinh

Về sau, không biết buồn việc gia đình ra sao, Thọ dùng súng lục tự tử.

Trần Bá Lộc còn hai người em trai khác là Trần Bá Tường và Trần Bá Hựu. Cả hai đều ra cộng tác với Pháp rất sớm, vì nhờ lập được nhiều thành tích đàn áp, bắn giết các nghĩa quân, nên được Pháp rất tin cậy. Trần Bá Hựu làm chủ quận Long Thành, còn Trần Bá Tường ngồi quận tại Long Xuyên. Năm 1875, Trần Bá Tường tham gia vào cuộc càn quét nghĩa quân trong cuộc khởi nghĩa Làng Linh do Phó Quản Cơ Trần Văn Thành lãnh đạo. Pháp nhiều lần dụ hàng, đem quan chức ra làm mồi câu nhử, mua chuộc nhưng Trần Văn Thành khẳng khái:

Thà thua xuống láng, xuống bưng
Bỏ ra đầu giặc, lỗi chủng quân thần
Trong trận nầy, Trần Bá Tường có người dọ thám trước, rồi tự mình dẫn một cánh quân, phối hợp với quân của Quản Hiếm (một người Việt theo Pháp) đánh úp đồn Bảy Thưa là bản doanh của lãnh tụ Trần Văn Thành. Khu vực này được tổ chức phòng thủ kiên cố, và tinh thần chiến đấu của binh sĩ rất cao. Từ đó về sau người ta không còn nghe nhắc tới Trần Bá Tường nữa.

Có một giai thoại về Trần Bá Thọ như sau:

“Tại Gia Định có một sĩ phu tên Nguyễn Văn Thạnh quê quán ở Định Tường, đậu khoá thi Hương (cử nhân) làm quan tại Bình Thuận. Ông Thạnh là một nhà Nho có khí tiết. Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ , Cử Thạnh từ quan trở về tìm cách liên lạc với nghĩa quân để tham gia. Ghe bầu của ông vừa vào cửa Cần Giờ thì bị quân Pháp khám xét. Sau khi lục soát, chúng tìm được nhiều mã tấu, gươm giáo giấu dưới khoang hầm. Âm mưu bại lộ , Cử Thạnh bị bắt giải về Sài Gòn . Nghe tin, Tôn Thọ Tường tới xin bảo lãnh, mời về nhà đãi tiệc để dụ dỗ. Thạnh khẳng khái từ chối. Tường không dám ép mà chỉ nói:

- Nhân các hữu kỳ chí (Ai có chí hướng của người nấy)

Mấy tháng sau, Cử Thạnh về quê sống ẩn dật. Lúc nầy Trần Bá Lộc đã ngồi chủ quận Cái Bè, nghe danh Cử Thạnh nên mời ông ta về nhà làm gia khách dạy con là Trần Bá Thọ. Cha nào con nấy, Trần Bá Thọ tuy còn là học trò, nhưng cũng bộc lộ nhiều cử chỉ ngang ngạnh. Một hôm thấy thầy đồ Nguyễn Văn Thạnh rậm râu, hay hút thuốc, Trần Bá Tọ liền tới gần và nói:

- Thưa thầy, thầy có thể cho phép con ra một câu đối?

- Được, trò cứ làm trước .- Cử Thạnh trả lời.

Trần Bá Thọ liền đọc:

“Râu ba chòm lém dém, miệng hút thuốc phì phèo”.

Nhìn lại thấy Thọ tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đầu hói, tóc thưa, đi đâu cũng cầm ba-ton ra vẻ hống hách, nên Cử Thạnh ứng khẩu đối ngay:

“Tóc vài sợi le the, tay cầm gậy ngúc ngắc.”

Chưa thoả mãn, Thọ xin thầy đối một câu nữa của hắn:

“Phụ từ, tử hiếu, sanh con thế ấy là vàng”

Bực mình, thấy đứa học trò ngạo mạn, Cử Thạnh liền đáp:

“Tham phú, phụ bần, đụ mẹ thằng nào ở bạc!”

Xấu hổ, từ đó Trần Bá Thọ không còn xấc láo với thầy học nữa.

HÓC MÔN, BÀ ĐIỂM VỚI 18 THÔN VƯỜN TRẦU

Địa danh Hóc Môn, cho tới nay vẫn còn nhiều ý kiến giải nghĩa khác nhau. Theo cách hiểu thông thường, người ta nói:” Hóc là chỗ xa xôi vắng vẻ (như ‘hóc bà tó’) có nhiều cây môn nước mọc”. Nhà văn Lê Trung Hoa trong tiểu luận phó tiến sĩ văn chương có cách giải thích khác: “Hóc là cổ ngữ, có nghĩa là dòng nước nhỏ. Hóc đồng nghĩa với ‘hói’ để chỉ nơi đấy sâu lõm xuống thành bãi dài có nước đọng”.

Theo một vị cao niên là cụ Lương Văn Nên (1857-1937) ở Hóc Môn kể lại rằng:”Cách nay trên 100 năm, Hóc Môn là một khu rừng đất cao, có nhiều cọp và thú dữ. Ban đêm chúng thường ra con rạch ở gần chợ Hóc Môn ngày nay uống nước”. Lời kể ấy củng cố giả thuyết: “Hóc Môn là dòng nước nhỏ, có mọc nhiều cây môn nước”. Tưởng cũng cần nói thêm về cây môn nước. Môn là loai cây thân cao như cây bạc hà, lá lớn trên ngọn, mọc theo chỗ trũng hoặc bờ sông, bờ ruộng có nước. Có hai loại môn: Môn ngọt ở chính giữa lá có chấm đỏ, có thể xào thịt ăn, hoặc làm dưa giống như dưa cải hay dưa mái dầm. Còn môn ngứa chỉ dùng lá gói đường, đậu mà thôi. Hóc Môn nằm phía Bắc Sài Gòn.

Từ Phú Nhuận có đường cái quan đi lên Bà Điểm, Hóc Môn, Trảng bàng, cho tới Tây Ninh và biên giới Cam Bốt. Con đường này do Lê Văn Duyệt trong lúc làm Tổng Trấn Gia Định thành, chỉ huy dân phu đắp. Về sau Pháp mở rộng lên Gò Dầu gọi là quốc lộ số 1. Khi người từ miền ngoài tới, Hóc Môn còn là rừng rậm. Họ phải chặt cây làm chỗ trồng trọt, rồi làm ruộng, rẫy. Dần dần nơi đây có thôn ấp. Sản phẩm được trồng nhiều nhất vùng Hóc Môn Bà Điểm là cau, trầu để ăn kèm với thuốc trồng rất nhiều ở Gò Vấp. Thuốc ở Gò Vấp nổi danh khắp Nam Kỳ một thời gọi là thuốc Gò. Trầu , cau Hóc Môn Bà Điểm cũng nổi danh khắp miền Đông.

Thuở đó, trầu, cau, thuốc lá rất cần thiết hằng ngày, vừa để ăn, vừa dùng trong việc xã giao. “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, điều đó chứng tỏ trầu,cau, thuốc là món hàng rất có giá trị. Trầu là loại dây leo, phải cắm nọc cho nó bò lên. Hồi cuối thế kỷ 19, ở đây có một cái chợ chuyên môn bán nọc để trồng trầu, do ghe xuồng từ các nơi chở đến. Chợ đó là xã Tân Thới Nhì, có chợ Bến Nọc. Trầu và cau phải trồng lên liếp , nhưng không xẻ mương như ở miền giữa sông Tiền và sông Hậu, vì ở đây đất cao, chỉ có thể đào giếng lấy nước tưới mà thôi. Thị trường tiêu thụ trầu cau là chợ Bến Thành, chợ Bà Chiểu.

Mấy thập niên cuối của thế kỷ 19, dân chúng Bà Điểm, Hóc Môn thường gánh trầu xuống Gia Định bán. Họ đi thành đoàn hai, ba chục người để khỏi bị cọp vồ. Những năm sau đó, có xe ngựa chở trầu, cau và đồ hàng bông xuống bán ở Sài Gòn. Những ai từng cư ngụ trên đường Lê Văn Duyệt hồi những năm đó chắc sáng sớm sẽ bị đánh thức bởi tiếng vó ngựa lọc cọc trên mặt đường, hoặc tiếng xe bò cót két của người Hóc Môn, Bà Điểm chở trầu cau và đồ hàng bông xuống chợ. Vùng này , theo sách cổ, có đến 18 thôn chuyên canh trầu cau, nên gọi là “Thập bát phù viên”, tức 18 thôn vườn trầu.

Theo bản án của Toà Án Gia Định xử vụ Quản Hớn khởi nghĩa, giết vợ chồng Đốc Phủ Ca, có kể tên 18 thôn liên hệ phải bồi thường số tài sản thiệt hại do cuộc khởi nghĩa này gây ra. Các thôn đó là:

1. Bình Hưng
2. Vĩnh Lộc
3. Tân Thới Thượng
4. Tân Đông Thượng
5. Trung Chánh (Quán Tre)
6. Tân Thông Tân
7. Tân Thông Tây
8. Tân Thới Tam
9. Tân Thới Nhì
10. Tân Thới Tứ
11. Tân Đông
12. Tân Thành
13. Tân Đông Trung
14. Xuân Hoá
15. Bình Hưng Đông
16. Bình Nhạn
17. Mỹ Hạnh

Hóc Môn là nơi hội tụ của những cuộc đời tao loạn miền Ngoài, tìm đến cuộc đất mới ấm no. Họ lập thành làng xóm trong cùng chung một hoàn cảnh, tạo ra một sắc thái riêng biệt của con người Hóc Môn: Giàu nghĩa khí (Nguyễn An Khuơng, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Ninh), giàu lòng yêu nước như Phan Công Hớn, Nguyễn Văn Quá. Trong quá trình hình thành Hóc Môn, Bà Điểm, ban đầu họ lập các thôn xóm như Cây Lài, Bàu Xiêm…rồi dần xuống Hóc Môn, Bà Điểm, trở lên Củ Chi…

Năm 1982, tôi có lần lên thăm người bạn ở Suối Đá, tức quận lỵ của một quận mới: Dương Minh Châu. Đang lúc đó mùa khô, có phong trào làm thủy lợi, đắp con đê vòng quanh lòng hồ của đập Trị An. Sáu tỉnh xung quanh Sài Gòn đều phải gởi người đến làm sưu, tự túc cơm gạo. Bạn tôi kể, có một lần vào giờ giải lao, một người dân Hóc Môn vừa đốt điếu thuốc, nhả khói lên trời rồi ra câu đối:

“Trai Hóc Môn vừa hôn vừa móc”.

Lập tức bên cạnh có người đáp lại:

“Gái Gò Công vừa gồng vừa co”

Dưới thời Gia Long (1802-1820), Hóc Môn là lỵ sở của huyện Bình Dương. Phạm vi huyện này lan rộng xuống tới Sài Gòn, và cả huyện Cần Giờ ngày nay. Hồi đàng cưụ, Trần Tử Ca (1823-1885) làm xã trưởng Hạnh Thông tới Gò Vấp. Sau Ca được thăng làm phó tổng Dương Hoà Thượng. Ban đầu Trần Tử Ca là một phú hộ, nhờ có chút ít học vấn nên được cử làm xã trưởng Hạnh Thông, chớ không phải là người xuất thân khoa bảng. Hồi đó Trần Tử Ca chưa theo đạo Thiên Chúa.

Năm 1860, đồn Chí Hoà bị hạ. Pháp chiếm luôn các vùng lân cận như Hóc Môn, Trảng Bàng, Tây Ninh. Lúc đó huyện Bình Dương còn dưới quyền tri phủ Hồ Huân Nghiệp, đang chỉ huy nghĩa quân kháng chiến. Đến năm 1865, Hồ Huân Nghiệp bị bắt và đem hành hình tại Phú Thọ rồi tri huyện Lưu Đình Lễ ở Hóc Môn cũng bỏ chạy. Pháp cử tên Lucien de Grammond lên trấn nhậm Hóc Môn. Tên nầy có râu quai nón, rất dài, mỗi khi giận, hắn nhai râu “trạo trạo”, dân chúng gọi là “ông nhai râu”. Trần Tử Ca dẫn vài tên nghĩa quân ra hang để chuộc tội. Pháp cần người bản xứ ra cộng tác , nên thâu dụng Ca, cho hắn cai trị Hóc Môn, báo cáo tình hình và giữ an ninh. Thấy Ca khôn ngoan lanh lợi, thạo đường đi nước bước, Pháp cho Trần Tử ca dẫn đường để chúng đi kinh lý các tỉnh miền Tây. Tháng tám năm 1867, Ca cùng Giám Đốc Nội Vụ Paulin Vial xuống tàu ở Gò Công, bắt đầu xuống Bến Tre. Tình hình ở đây cũng mới tạm yên. Rồi họ xuống Trà Vinh, quân Pháp còn giao tranh với nghĩa quân tại Cầu Nang. Tên chỉ huy ở đây đã báo cáo:”Có làng tất cả dân chúng đều theo nghĩa quân.” Sau đó phái đoàn Pháp xuống Sóc Trăng, lên Rạch Giá, Long Xuyên. Chuyến đi thị sát vùng mới chiếm cho Pháp có ý niệm vững chắc về tình hình mấy tỉnh miền Tây cũng như địa thế của nó. Khi về, để củng cố lòng tin cậy của Pháp, gia đình Ca xin rửa tôi theo đạo Công Giáo. Thấy địa vị khá vững, Ca bắt đầu công việc làm ăn của mình. Trong lúc tình hình vùng mới bình định chưa hoàn toàn yên ổn. Ca tìm những gia đình giàu có bắt bớ để tra khảo vì nghĩ họ giúp đỡ tiền bạc cho nghĩa quân. Bắt họ, có lợi trước mắt là khi đánh đập, gia đình sẽ đem tiền đến chuộc. Mặt khác Ca lo củng cố an ninh, kiểm soát dân cư cựu trào, phân loại theo thành tích mà hắn biết rõ trước đây. Thấy Ca làm được việc, Pháp cho Ca giữ chức Phó tổng lúc trước. Hồi năm 1983, có một lần ăn cơm trong một gia đình ở Chợ Lớn, tôi được nghe một vị bô lão, năm đó 81 tuổi, nhắc chuyện xưa về Phủ Ca:”Phủ Ca là người khôn ngoan, có lối làm việc theo kiểu đàng cưụ. Mỗi lần bắt nạn nhân để khảo của, hắn vừa uống trà vừa hỏi cung, để cho dân chúng bu xung quanh xem. Mỗi khi nạn nhân bị đánh đập tàn nhẫn, rên la, thân nhân đứng bên ngoài cũng đau đớn, xin đem tiền đến nạp để cứu người thân. Nhiều người quá nghèo, nhưng vì thương chồng, con, phải bán nhà cửa, trâu, heo đến chuộc mạng, rồi sau đó bỏ làng trốn đi. Với phương pháp này, Ca làm giàu nhanh chóng, cất nhà gạch ở chợ Hóc Môn đầu tiên.”

Một nho sĩ xu nịnh lúc bấy giờ đã mô tả hình dung Phủ Ca như sau:

“Ca thường bịt khăn nhiễu điều tứ cú, mặc áo lót song khai. Trấn nhậm tại xứ Hóc Môn, tục danh Mười Tám Thôn Vườn Trầu. Đang thuở ấy, bốn phía xứ Hóc Môn, nhân dân phong tục nhiều người ngang ngạnh, phần thì liền với Trảng Bàng, đất gò rộng minh mông vô hạn, quân giặc giã, trộm cướp hay quần tụ ra vào.”


Dựa thế lực của chồng, vợ Ca cũng tác quái nhiều việc. Bà độc quyền mua trầu cau rồi dùng xe bò chở xuống Gia Định bán. Bà còn sắp xếp việc mua bán trong chợ Cầu. Trước đó ở đây có chợ Bến Nọc. Năm 1871, Ca được thăng tri huyện, thế lực càng lớn, dân chúng nơm nớp lo sợ, coi ông như cọp. Đến năm 1879, Ca được thăng đốc phủ sứ, mở tiệc ăn mừng bắt quan làng, dân chúng đóng góp. Năm đó, Ca cất dinh quận, bắt dân phu phục dịch cả năm trời như tội nhân lao động khổ sai. Bà vợ, để mở mang công việc làm ăn, cũng cho cất mới ở tại chỗ Chợ Cầu bây giờ. Chỗ đó về sau, dân địa phương gọi là “Chợ Quan Lớn Ca”. Trước bữa khai thị hai hôm, Ca cho dán bố cáo:

“Mốt tới, coi chợ mới, tốt”

Sáng sớm hôm sau, bên cạnh thông cáo đó, có một câu đáp của một sĩ phu, chơi xỏ Ca:

“Mai lên thấy con Mên” (Miên lai)


Hồi trước ở trong Nam, người Việt sống chung đụng với người Miên nhưng kỳ thị họ, coi họ kém văn minh. Khi nói đến “Cao Mên, Con Mên…” là có ý nghĩa kinh khi họ.

CUỘC KHỞI NGHĨA 30 TẾT

Vợ chồng Ca là người vừa tham vừa tàn ác. Sẵn quyền lực, được Pháp tin cậy, Ca không từ chốI bất cứ biện pháp làm tiền dã man nào. Giữa thập niên 1880, dân chúng Hóc Môn trảI qua những giấc mơ hãi hùng. Lúc nào họ cũng bị ám ảnh bởi :”nửa đêm thúc thuế trống dồn”. Bài “Vè Quản Hớn” nói lên tình cảnh ấy:

“Đêm năm canh giấc ngủ chẳng an
Ngày sáu khắc, lo xâu cùng thuế (1)
Qua năm Dậu (1885) gẫm âu quá tệ,
Khổ người dân như khúc gỗ tròn …”

(1) xâu : tức là sưu, hình thức đóng thuế bằng cách ra sức làm những công việc nặng nhọc như đắp đường, làm cầu, cất dinh…không được trả công.

Qua bốn câu đó, ta thấy tình hình bất mãn lên đến cực điểm vào cuốI năm 1884. Hổ phụ sinh hổ tử. Hai người con của Phủ Ca cũng là những tên cường hào ác bá. Một tên gọI là Phủ Luông vừa gian ác, vừa hiếu sắc. Một tay hắn phá nát không biết bao nhiêu gái trinh tiết.

“Thêm công tử Phủ Luông mỹ hiệu,
Bởi bội ước hồn phi yểu yểu…”

Trong “Vè Quản Hớn”, dân gian dị nghị hai người con Phủ Ca như sau:

“Hai chàng con đốc phủ Ca,
“Xóm làng bắt hết, khảo tra sự tình”
“Ai ai đều cũng thất kinh,
“Trẻ già lo sợ như hình cò ma.”
“Ngỡ là con trả thù cha,
“Nào hay bán máu, đổi ra bạc tiền.
“Làm oai: kẻ trói, người xiềng,
“Dẫn về trường bố, cho liền cửa quan”
“Ai mà muốn chối tai nàn,
“Bạc cây đem nộp, mới an thân mình.
“Kẻ làm thì dạ ưng tình,
“người không cũng bắt, hành hình dữ thay.
“Kẻ thì kết án lưu đày.
“người thì chém giết xứ này Hóc Môn”

Bài “Vè Quản Hớn” đã tố cáo hành vi tàn ác của hai người con Trần Tử Ca. Tuy không giữ chức vụ gì, nhưng dựa lịnh cha, họ cũng bắt người tra tấn để khảo của , bất luận oan hay ưng. Ngoài ra, theo lịnh Pháp hồi đó, dân chúng đóng thuế dầu phộng để đốt đèn. Theo lịnh Ca, dân nạp dầu phộng nhiều, Ca cho lính ép lấy dầu, giữ lại một phần lớn, còn ít thì nạp vào kho. Tiếng dữ được loan truyền trong dân chúng:

“Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng,
“Ép lấy dầu nộp thiểu , thâu đa…”

Bao nhiêu tiền của, do công lao, sức lực của dân nghèo, gia đình Ca đều tóm thâu gần hết. Gặp cảnh khổ của người dân, Ca cũng không động lòng. Trong lúc mọi người oán hận Ca thì Ca thản nhiên tổ chức lễ mừng lục tuần rình rang, bắt lính tráng, dân phu phục dịch suốt tuần lễ. Để giúp vui, Ca cho tổ chức đua ngựa, rước gánh hát bội về diễn , nhưng dân chúng phải góp tiền để trả. Các hương chức hội tề chia nhau gánh vác, đóng góp vàng lụa “mừng quan”

“…Khai lục tuần địch thể giá vua,
“Theo tân trào phá miếu đốt chùa”

gây thêm khích động. Một người có tâm huyết, đứng về phía dân chúng là Phan Công Hớn tục gọi là Quản Hớn, đang coi việc an ninh trong làng. Hớn cùng Nguyễn Văn Quá âm thầm chuẩn bị gươm, dao, mác và bí mật chiêu tập một số nghĩa quân chờ cơ hội. Dân chúng quá bất mãn vì bị bóc lột tàn nhẫn nên họ theo Quản Hớn rất nhiều. Như thường lệ, những ngày giáp Tết Ất Dậu (1885), người tụ tập ngoài đường, nơi vắng vẻ, luyện tập. Chiều 30 Tết, trong khi mỗi gia đình lo cơm nước, rước ông bà, quét dọn nhà cửa sạch sẽ , tươm tất. Gần đến giờ Giao Thừa, giờ phút thiêng liêng mà mọi người đang trông đợi như chậm lại. Nhà nhà đều mở cửa. Trên mỗi bàn thờ, đèn, nhang nghi ngút, sáng trưng. Bỗng môt hồi mõ hiệu lịnh nổi lên:

-Có biến động! Mõ hồi một!

Nhiều nhà hốt hoảng. Cửa đóng. Đèn tắt. Ngoài đường, tiếng chân ngưòi chạy sầm sập. Chỉ phút chốc, một đoàn người cầm đuốc, gươm dáo vừa tiến về dinh quận Hóc Môn, vừa la ó:”Giết Phủ Ca”, “Chặt đầu vợ chồng Phủ Ca”!

Rồi quân khởi nghĩa chia nhiều tốp, vừa phá cổng, vừa bắn giết nhóm giữ cửa, trong khi các nhóm khác leo tường lọt vào bên trong. Hồn phi phách tán, vợ chồng Phủ Ca bị nghĩa quân bắt trói trước sân đình quận. Phẫn uất, chúng liền chặt đầu, rồi sau đó đem bêu phơi trước dinh quận. Quân khởi nghĩa dưới quyền lãnh đạo của Quản Hớn thành công như nước vỡ bờ. Bao nhiêu thù ghét được dịp bùng nổ. Họ đốt phá, bắn giết những người trong gia đình Phủ Ca. Chỉ một vài người đàn bà, con nhỏ, gia nhơn chạy thoát được.

Sáng mùng một Tết, dân chúng Hóc Môn ăn mừng. Tết rất lớn. Họ đem bánh tét, trà, thuốc đãi nghĩa quân, rồi reo hò . Trong khi đó, Quản Hớn vẫn chia quân phòng thủ. Khoảng 3 giờ chiều, toán quân tiếp viện đầu tiên tới. Họ giao tranh với nghĩa quân, nhưng không chiếm lại được dinh quận, vì họ cố thủ. Rồi quân Pháp từ Gia Định kéo lên, vây bốn mặt. Đi tới đâu, quân Pháp bắn giết tới đó để dằn mặt. Dân chúng bắt đầu bỏ nhà chạy trốn vào rừng. Tuy quân số đông, nhưng chỉ là ô hợp, họ chiến đấu vì sự phẫn nộ lâu ngày như phá vỡ sự đè nén, chớ không biết cách chiến đấu. Lại nữa, súng đạn ít, gươm, dao không thể đương đầu với võ khí của Pháp nên cuộc chiến đấu chậm dần. Một số người bị thương, tử trận, một số bỏ trốn. Giặc Pháp kéo vô dinh quận bắt được Quản Hớn, Nguyễn Văn Quá, và hơn hai mươi người còn lại. Cuộc khởi nghĩa đã bị dẹp rất nhanh chóng.

Trước đó chừng mười hôm, Đề Bường (Nguyễn Văn Bường) cũng chuẩn bị khởi nghĩa ở Phú Nhuận. Ý định của Đề Bường là tấn công chớ Xã Tài (Phú Nhuận) rồi kéo sang đốt chợ Đất Hộ (Đa Kao), liên lạc với nghĩa quân Hóc Môn để họ tiếp trợ. Đề Bường cho người liên lạc với một nhóm tù bị giam tại khám lớn, hẹn đến đêm đó nổi lửa đốt khám, nghĩa quân sẽ đến giải cứu. Tuy nhiên khám vẫn nổi lửa đốt lên đúng hẹn, làm cho Pháp bỏ chạy , nhưng đợi mãi không có quân đến tiếp cứu vì Đề Bường đã bị bắt trước khi ra tay. Thế là cuộc khởi nghĩa của Đề Bường chỉ gây được tiếng vang mà thôi.

Mặc dầu không có sự liên lạc, nhưng trước cuộc khởi nghĩa Hóc Môn, nghĩa quân ám sát tên Trần Bá Hựu, chủ quận Long Thành, em ruột của Tổng Đốc Trần Bá Lộc, khiến người Pháp có cảm tưởng rằng “phong trào Cần Vương lan rộng vào Nam”, làm cho họ ráo riết chuẩn bị đối phó. Ngoài ra ở làng Long Hội, giáp ranh giữa Mỹ Tho và Gò Công, có Nguyên Soái Hiền, phó Nguyên Soái Trần Công Chánh, cũng chiêu tập được hàng trăm người , đồng loạt nổi lên phá nhà việc làng. Họ kêu gọi dân chúng cùng đứng lên giết giặc. Cũng như nhiều nơi khác, nghĩa quân chỉ chiến đấu với lòng căm thù, nhưng thiếu tổ chức và võ khí, nên bị đàn áp nhanh chóng. Trong việc đem quân trở lại Long Hưng, Pháp bị chết mấy người lính làm cho họ càng thêm dã man, gặp ai nghi ngờ, chúng giết lập tức. Cuối cùng, những người cầm đầu như Nguyên Soái Hiền, Phó Nguyên Soái Trần Công Chánh đều sa vào tay giặc. Trước phong trào chống Pháp lên cao, Thống Đốc Nam Kỳ dùng biện pháp phạt tiền nguyên cả làng đó vì đã “chứa chấp bọn phiến loạn.”

HẬU QUẢ

Sau tất cả các biến cố đó, tỉnh Gia Định bị giới nghiêm vào ban đêm hàng tháng trời. Pháp áp dụng nhiều biện pháp để kiểm soát an ninh, dập tắt các phong trào mới nhen nhúm. Những vụ khởi nghĩa nầy, Pháp đều đưa ra xử tại toà án Bình Hoà, Gia Định. Hồi đó, hạt Sài Gòn còn gồm luôn Gia Định. Từ năm 1875, dinh tham biện (Toà Bố) đặt tại làng Bình Hoà, nên gọi hạt Bình Hoà. Đối với người Pháp, họ rất khó phân biệt giữa “Bình Hoà” và “Biên Hoà”nên họ đổi ra Gia Định cho khỏi nhầm lẫn. Từ năm 1889, họ đổi danh từ “hạt” ra “tỉnh”. Phiên xử nghĩa quân ám sát Trần Bá Hựu, có một án tử hình dành cho người cầm đầu và ba án khổ sai chung thân. Vụ Đề Bường mưu toan khởi nghĩa ở Phú Nhuận và phá khám lớn bị bắt lúc chưa xảy ra, nên Thống Đốc Nam Kỳ áp dụng biện pháp hành chánh, ký lịnh lưu đày ngày 21 tháng Hai năm 1885. Nguyễn văn Bường chung thân khổ sai, biệt xứ ở Côn Lôn, còn những người khác bị từ năm đến mười năm. Năm sau, Đề Bường bị bịnh chết ở Côn Đảo.

Sáu tháng sau, tỉnh Bình Hoà nhóm để xử vụ Hóc Môn. Vụ án liên quan đến nhiều người nên phiên xử kéo dài nửa tháng. Sau đó, thực dân tuyên án: 14 người tử hình trong đó có Phan Công Hớn, Nguyễn Văn Quá. 16 người khác tù khổ sai có thời hạn. Phiên toà Bình Hoà xử vụ Quản Hớn kết thúc ngày 31 tháng Tám 1885. Thực dân muốn áp dụng hình phạt thật nặng nề để dằn mặt dân bản xứ. Tuy nhiên, bản án về tới Pháp, Tổng Thống Pháp được báo cáo dư luận dân chúng Gia Định bất mãn, nên hạ bản án xuống: chỉ 2 người cầm đầu tử hình, còn lại 12 người khác bị khổ sai chung thân.

Sau đó chừng một tháng, ta thấy dưới bến tàu nhiều chiếc khởi hành chở tù đi đày ở các hải đảo xa xôi hằng ngày . Trong dư luận bấy giờ, dân chúng có câu ca dao:

“Ngó ra ngoài biển mù mù,
“Thấy tàu ông Thượng chở tù về Tây”

Về Tây là về phía Tây. Đi gần có Côn Nôn. Đày xa có Đại Hải hay đảo Bourbon tức đảo Réunion thuộc Ấn Độ Dương sau nầy. Cũng có một số ít bị đày sang đảo Tahiti, hay Cayenne Nam Mỹ như các nạn nhân trong vụ binh biến kinh thành Huế năm 1885. Sáng sớm ngày 30 tháng Ba 1886, tại chợ Hóc Môn, dân chúng chứng kiến cuộc hành quyết hai lãnh tụ cuộc khởi nghĩa “18 thôn vườn trầu” là Phan Công Hớn và Nguyễn Văn Quá. Vẫn theo bản án của tòa Bình Hòa, 18 thôn liên hệ đã kể trên phải liên tục chung góp để bồi thường cho gia đình Phủ Ca số bạc gần hai vạn đồng. Thời đó, số tiền ấy quá lớn, nhiều người chịu không nổi cảnh chung góp trả nợ phải bỏ làng trốn đi nơi khác. Theo một nguồn dư luận khác, cuộc khởi nghĩa sở dĩ thành công nhanh chóng một phần do lòng phẫn nộ của dân chúng, và một phần do trong quân lính tham dự có một số theo Thiên Địa Hội, dùng bùa phép để trở nên gan dạ. Dầu sao cuộc khởi nghĩa ấy cũng biểu dương truyền thống bất khuất của dân tộc, và cũng là một cách để dằn mặt bọn thực dân. Qua vụ giết Phủ Ca, dư luận Hóc Môn phản ánh qua bài “Vè Quản Hớn”:

“Quản Hớn dầu chết cũng rạng danh,
“Vì trừ được tham quan ô lại
“Quan đốc phủ thác đà cũng phải
“Khai lục tuần địch thể giá vu
“Theo tân trào phá miếu phá chùa,
“Thuở cựu trào làm cai phó tổng
“Ở một ngày một lộng
“Lầu ba từng lại có võ môn
“Nhựt nhựt thường kiểng đổ trống rung
“Xe song mã sướng đà quá sướng
“Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng
“Ép dầu nộp thiểu, thâu đa…”

Sau vụ nầy, Pháp đưa Phủ Ngôn từ Gò Công tới thay thế. Phủ Ngôn ở một thời gian ngắn, Phủ Lê Tấn Đức kế nhiệm. Ông Đức cũng nổi tiếng cường hào ác bá ở Bạc Liêu, dân chúng, hương chức đều kêu ca hành vi của ông. (Xem thêm bài “Cà Mau tiền rừng bạc biển, nhưng cuộc sống khó khăn” cùng tác giả trong sách “Nam Kỳ Lục Tỉnh tập I”, Văn Hóa tái bản lần thứ nhất năm 1993). Từ đó, ở Hóc Môn có lưu truyền hai câu ca dao:

“Mừng xuân có pháo, có nêu,
Có đầu quan phủ bêu nơi cột đèn”

TỔNG ĐỐC ĐỖ HỮU PHƯƠNG (1838-1914)

Đại lộ sang trọng và sầm uất nhất Chợ Lớn được đặt tên là “Đại Lộ Tổng Đốc Phương”, có phải ông nầy là một người có công trạng đối với đất nước? Tên ấy được đặt ra dưới thời Pháp thuộc, vì nước Pháp coi ông ta như một người có công đóng góp lớn lao vào lịch sử nước Pháp. Đỗ Hữu Phương là một nhơn vật tiếng tăm lừng lẫy ở Nam Kỳ khi người Pháp mới chiếm miền Nam. Tuy ông Lê Phát Đạt, tức ông Huyện Sĩ nổi tiếng giàu nhứt, theo sự sắp hạng của dân chúng Nam Kỳ, nhưng tiếng tăm của ông ít ai biết bằng Đỗ Hữu Phương. Tôi cũng nghe tên, “Rạch Ông Lớn”, “cầu Rạch Ông”, “chợ Rạch Ông” * là những địa danh nằm ở bên kia cầu chữ Y cũng nhắc nhở đến Đỗ Hữu Phương, vì đất đai đó trước kia là của ông ta.

Thân phụ Đỗ Hữu Phương không phải là quan lại, nhưng là người giàu nhất Chợ Lớn, gọi là bá hộ, còn bà mẹ dòng dõi con quan. Sinh năm 1838 tại Chợ Đủi, Đỗ Hữu Phương sống và lớn lên chứng kiến sự kế tục của 3 triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức với hoàn cảnh xã hội bất ổn triền miên. Khi Pháp đánh Gia Định, Phương đã đến tuổi trưởng thành, và cũng trốn lên Bà Điểm, Hóc Môn. Giống như trường hợp Trần Tử Ca, Đỗ Hữu Phương theo Pháp ngay khi đồn Chí Hòa thất thủ. Qua trung gian của người Việt có đạo, Đỗ Hữu Phương được tiến dẫn đến trình diện với Francis Garnier, lúc ấy đang là Tham Biện Chợ Lớn, rồi Phương theo Pháp luôn.

Theo tài liệu dẫn ở trên: “Đỗ Hữu Phương liên tục phục vụ trong nên hành chánh thuộc địa cả văn lẫn võ, và có đôi lúc làm trung gian áp-phe trong các dịch vụ đấu thầu, mua bán giữa Pháp và Hoa Kiều”. Chi tiết về cuộc đời của Đỗ Hữu Phương phần lớn rút trong tập hồ sơ cá nhân của Luro, có nơi Đỗ Hữu Phương làm Đốc Phủ Sứ hàm Tổng Đốc. Khi Pháp chiếm luôn 6 tỉnh Nam Kỳ, Phương từ chức bá hộ, lên làm Hộ trưởng ở Chợ Lớn. Lúc đó cả Sài Gòn, Chợ Lớn chia ra làm 20 hộ. Địa vị bá hộ lúc trước và chức hộ trưởng đương thời đã khiến Phương làm giàu rất nhanh. Phương là một trong những người cộng tác với tân triều không thuộc gia đình quan lại, chỉ thuộc hạng điền chủ giàu có mà thôi. Có thể nói cùng lãnh chức đội trưởng mã-tà một lượt, Đỗ Hữu Phương và Trần Bá Lộc cùng chạy đua để lập công với chủ mới.

Năm 1861, Phương vẫn còn ngoại đạo. Lý do khiến Phương đứng về hàng ngũ Pháp, theo Vial, Giám Đốc Nội Vụ là sự giàu có cần được Pháp che chở. Theo luật phong kiến của Việt Nam, tất cả tài sản và đất đai đều thuộc quyền tối thượng của Vua, nên Phương cũng như Ca, ra hợp tác với Pháp là để bảo vệ quyền lợi của mình. Đỗ Hữu Phương rất khôn ngoan, khi mới đầu quân với Pháp cũng tham gia vài trận đánh để tạo niềm tin. Phương đã dẹp cuộc khởi nghĩa do con Trương Công Định lãnh đạo ở Hóc Môn. Chỉ trong vòng 9 năm, Phương lên chức Đốc Phủ Sứ nhờ có công phủ dụ các cuộc khởi nghĩa, hoặc dẫn binh đi đánh dẹp các nơi như Vũng Liêm, Rạch Giá. Hai biến cố khiến Phương củng cố thêm lòng tin cậy của Pháp là cải đạo Thiên Chúa và gia nhập Pháp tịch trước tiên ở Nam Kỳ (năm 1881). Nhiệm vụ quan trọng của Đỗ Hữu Phương là dọ thám, cấp báo tin tức những cuộc dự mưu khởi nghĩa, những nơi nào sắp gây náo loạn trong phạm vi Chợ Lớn, Cần Giuộc, Tân An.

So với Trần Bá Lộc, Phương còn lương tâm đối với đồng bào. Có lẫn Đỗ Hữu Phương bảo lãnh cho Thủ Khoa Huân *, đem về nhà nuôi ăn ở dưới hình thức quản thúc. Trên nấc thang hoạn lộ, Phương tiến rất mau. Từ chức Hộ trưởng ban đầu, kế thăng Đốc Phủ Sứ, hàm Tổng Đốc, và năm 1872, qua sự đề nghị của Tham Biện Chợ Lớn, Thống Đốc Le Myre de Villers bổ nhiệm Phương làm hội viên Hội đồng Thành phố Chợ Lớn. Đến năm 1897, Phương là phụ tá cho xã Tây (một chức vụ như thị trưởng). Bấy giờ Hoa Kiều bắt đầu buôn bán, giao dịch nhiều với người Pháp, thấy Phương có thế lực, quen biết với những người giữ chức vụ then chốt,nên nhiều người nhờ cậy Phương chạy chọt việc nầy việc kia với số tiền đền ơn hậu hĩ. Phương đóng thêm vại trò áp-phe.

Bấy giờ có một lãnh tụ Phật Giáo Tứ Ấn là ông Năm Thiếp xuất hiện trong dân chúng miền Nam, làm cho Pháp phải điên đầu. Theo lời kể của một vị cao niên thì có một ngôi chùa Phật Giáo Tứ Ấn ở núi Tượng (có lẽ là chùa An Định?) là trung tâm xuất phát các cuộc mưu toan khởi nghĩa, tấn công đồn bót, để “phục hưng cho dân An Nam”. Trong nỗ lực tìm cách phủ dụ hoặc bắt bớ lãnh tụ Năm Thiếp, Phương và Lộc đều ráo riết lập công.

Trong những năm 1865-75, ông Năm Thiếp xuất hiện nay chỗ nầy, mai chỗ kia, nhờ dân chúng che giấu lúc ẩn, lúc hiện làm cho Pháp phải bối rối mà không sao bắt được. Phương nghĩ ra một cách mềm dẻo bằng cách sai một tay chơn thân tính tên Bửu, người Minh Hương mua 3000 xâu chuổi bồ đề ở Chợ Lớn, giả làm một tín đồ sùng đạo, len lỏi vào tận núi Tượng ở Châu Đốc xin cúng để phát cho đồng bào. Sẵn dịp nầy Bửu dò la tin tức ông Năm Thiếp nhưng không có kết quả. Trường hợp Phủ Lộc làm một trò khôi hài hơn. Lộc sai bộ hạ là ông Hai Phép đi dò la tin tức ông Năm Thiếp ở Thất Sơn. Hai Phép gặp ông Năm Thiếp bị ông cảm hóa, trở thành tín đồ ngoan ngoãn, ở luôn, không về. Như vậy cả hai người thi nhau lập công đều thất bại.

Đỗ Hữu Phương là người duy nhứt qua lại thăm viếng Pháp nhiều lần. Lần đầu tiên năm 1874, Phương qua Pháp dự hội chợ Paris. Ba lần đầu vào các năm 1884, 1889 và 1894 đi du lịch thăm con cái đang du học tại đó. Đỗ Hữu Phương đã “Pháp hóa hơn cả những người Pháp”, theo lời nhận xét của bạn bè người Pháp của ông. Ông có tất cả 6 người con. Trưởng Nam là Đỗ Hữu Chẩn theo học trường Võ bị danh tiếng St-Cyr của Pháp sau làm Trung Tá trong quân đội Pháp. Ông là người Việt Nam đầu tiên và trẻ tuổi nhứt làm trung tá trong quân đội Pháp. Đỗ Hữu Chẩn mất vào Đệ Nhị Thế Chiến. Người con kế là Đỗ Hữu Vị, người phi công đầu tiên Việt Nam và cả Đông Nam Á. Ngay từ lúc thiếu thời, Đỗ Hữu Vị đã hấp thụ một nền văn hóa Pháp hoàn toàn. Tốt nghiệp trường Taberd, được thân phụ gởi qua Pháp du học tại trường Collège St.Barbe ở Paris. Đỗ Hữu Vị nói và viết Pháp văn như Pháp. Rồi Đỗ Hữu Vị chọn binh nghiệp như anh. Ba năm sau khi ra trường, Đỗ Hữu Vị mới xin theo học Không Quân. Lúc đó người Việt Nam làm sĩ quan cho Pháp rất hiếm. Chỉ có hai anh em Đỗ Hữu Chẩn, Đỗ Hữu Vị và Nguyễn Văn Xuân sau lên Trung Tướng. Nên nhớ lúc bấy giờ máy bay mới được phát minh, cho nên làm phi công là một việc rất phi thường. Đỗ Hữu Vị lại làm phi công tác chiến trong phi đoàn ở Maroc.

Để cổ võ tấm gương người dân thuộc địa phục vụ cho mẫu quốc, Pháp gởi Đỗ Hữu Vị về Việt Nam lái máy bay biểu diễn ở Sài Gòn và Hà Nội, dân chúng khâm phục, hãnh diện và bàn tán sôi nổi.

Thế Chiến Thứ Nhứt bùng nổ (1914-1918), Đỗ Hữu Vị trở qua Pháp tham dự các trận đánh với Đức. Trong một lần giao tranh tại sông Somme, Trung Úy Đỗ Hữu Vị bị thương nặng và từ trần sau đó. Ông được tưởng thưởng nhiều huy chương và truy thăng Đại Úy.

Pháp cho in hình Đỗ Hữu Vị trên con tem phát hành khắp Đông Dương, và lấy tên ông đặt cho trường Kỷ Thuật Cao Thắng sau nầy.

Đỗ Hữu Phương còn một người con trai nữa là Đỗ Hữu Trí, cũng có chức vụ trong nền hành chánh thuộc địa nhưng không rõ. Trong 3 người con gái, có một người gả cho con trai Tổng Đốc Hoàng Cao Khải ngoài Bắc.

Hai thập niên cuối cùng của thế kỷ 19, theo sự nhận xét của người Pháp:”Nam Kỳ ổn định về mọi mặt như mặt nước hồ thu. Sự giao thiệp giữa các viên chức ra hợp tác với tân triều và quan lại người Pháp, có thể nói là thân mật, mở ra một thời kỳ huy hoàng ở Nam Kỳ”. Trần Bá Lộc, Đỗ Hữu Phương, Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ) nổi bật hơn những người Việt Nam khác đã ra cộng tác với Pháp, được Pháp tin cậy hoàn toàn và có một đời sống văn hóa nửa Tây nửa ta. Phương tận tụy với chủ mới và coi đó là một bổn phận để giữ lấy địa vị giàu sang cùng lòng tin cậy mà thăng quan tiến chức. Trong vấn đề cai trị, Phương luôn luôn chú trọng đến trị an của Sài Gòn, Chợ Lớn.

Năm 1895, trong một báo cáo về tình hình an ninh Sài Gòn như sau: “Khắp Sài Gòn, du đảng càng ngày càng lộng hành. Chúng liên kết với nhóm Thiên Địa Hội để ăn hiếp dân chúng, làm tiền những người giàu có. Ai giận ghét người nào cho tiền, mướn chúng đánh phá. Những ai muốn ứng cử hội đồng mướn du côn canh chừng, nếu không bỏ thăm cho mình bị chúng chận đánh. Thậm chí chúng còn giả bộ mượn tiền nhà giàu từ năm ba chục trở lên, ai không cho mượn, chúng đốt nhà trả thù”. Thế kỷ trước cũng không khác thế kỷ nầy bao nhiêu. Đối với con gái trong nhà, Đỗ Hữu Phương giáo dục theo truyền thống Nho giáo. Ông được tưởng thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh nhiều lần vào những năm 1874, 1884, 1889.

Năm 1899, Phương về hưu và dùng thời gian còn lại làm công tác từ thiện. Ông sáng lập trường Nữ trung học Sài Gòn. Sau khi hưu trí, Toàn Quyền Paul Doumer cất nhắc Phương vào “Hội Đồng Tư Vấn Tối Cao Đông Dương” cùng với Trần Bá Lộc. Trước khi về hưu, Phương còn làm Phó chủ tịch “Hội Nghiên Cứu Đông Dương” (1883). Đây là nôi tập họp những người Pháp quan tâm đến Nam Kỳ, cùng với những người Việt Nam giàu có, giữ địa vị quan trọng trong chánh quyền thuộc địa hoặc là trí thức.

Đến năm 1908, hội nầy có tất cả 260 hội viên, trong đó có 33 người Việt Nam, gồm những ông Hội Đồng Quản Hạt, nhơn viên hành chánh cao cấp, trong đó có Trần Bá Thọ. Riêng hai ông Pétrus Trương Vĩnh Ký và Paulus Hùynh Tịnh Của là hội viên vĩnh viễn suốt đời. Một hội viên xuất sắc của hội nầy sau Pétrus Ký và Paulus Của là ông Lê Văn Phát. Chúng tôi được biết thêm tiểu sử một vị trí thức mới như sau:”Lê Văn Phát thuộc dòng dõi quý tộc, ra làm quan và hợp tác với Pháp rất sớm ở Nam Kỳ. Tài liệu không nói rõ ông quê quán ở đâu nhưng cho biết ông nội làm quan ở triều đình Huế lúc Pháp mới xâm lăng Nam Kỳ. Nhưng cha mẹ ông không ngăn cấm ông ra hợp tác với người Pháp. Ông sống đồng thời với Trương Minh Ký, Trương Vĩnh Ký, Hùynh Tịnh Của, có sức học uyên thâm, nhưng rất tiếc không thấy còn để lại tác phẩm nào.

Ông là cây viết thường trực cho “Hội Nghiên Cứu Đông Dương”(Bulletin de la Société des Études Indochinoises). Mục đích của ông là làm cho nhà cầm quyền Pháp hiểu thêm về người Việt Nam hơn. Ông cũng là hội viên của “Hiệp Hội Đồng Minh Pháp” (Pháp Văn Đồng Minh Hội sau nầy). Theo ông, người Pháp đến làm chủ Nam Kỳ mà biết rất ít về xứ sở họ đang cai trị và sinh sống. Còn một số phụ nữ bản xứ có kiến thức văn hóa Pháp nhờ tiếp xúc với nền học vấn Pháp qua các trường Couvent, phần lớn là Công Giáo.

Cùng vào năm 1908, có một hội viên mới là ông Bùi Quang Chiêu, về sau làm lãnh tụ đảng Lập Hiến. Ông nội và cha của ông Bùi Quang Chiêu làm quan cho triều đình Huế, chống lại Pháp. Chiêu được du học Algérie, và sau đó qua Pháp tiếp tục, đổ kỹ sư năm 1897.

Những năm cuối đời của Đỗ Hữu Phương, Nam Kỳ rất ổn định. Miền nầy nhiều nhà giàu lớn, có thói quen ăn xài theo Pháp, khác với Trung và Bắc Kỳ. Nhà hàng Continental là nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp Việt thượng lưu trí thức. Theo Pháp đó là chứng cớ rõ ràng về sự hòa hợp Pháp-Việt để pha trộn bản sắc giữa hai dân tộc. Riêng Đỗ Hữu Phương đã “Pháp hóa hơn cả người Pháp”. Ông có thói quen ngồi nhà hàng Continental tán gẫu với bạn bè Pháp và rất hiếu khách. Mỗi lần khách tới nhà chơi đều được Phương đãi rượu Xâm-banh, ăn bánh Petit Beurre và uống cà phê “De La Paix”.

Cụ Nguyễn Văn Vực có nhắc lại hồi đó có một bài ca dao rất phổ thông nói về Đỗ Hữu Phương hay đến nhà hàng Continental, được cụ Trương Minh Ký dịch ra Pháp văn, đại khái như sau:

“Các quan lại Pháp thường hay đến tửu quán “Cà phê De La Paix” …để gặp quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và quan Bonnet đang ngồi tán dóc ở đó . Bạn sẽ gặp ngài Paul Blanchy (Chủ tịch Hội Đồng Quản Hạt), cùng với ngài Morin ở đó nữa…”


Bài này rất phổ thông hồi đầu thế kỷ 20 ở Sài Gòn , nay đã biến mất không còn dấu vết. Dịch giả cùng vài bạn Pháp cũng có đến đó chơi với Ðỗ Hữu Phương. Những người Pháp-Việt hội nhập ở đó, đã nhớ lại vẻ ấm cúng và thú vị của thuộc địa Nam Kỳ, so với bầu trời Paris luôn luôn ảm đạm lạnh lẽo. Một nhận xét khác về Ðỗ Hữu Phương trong quyển “En Indochine 1894-95″ của P. Barthelémy có nói đến một cuộc thăm viếng Ðỗ Hữu Phương tại tư gia, đã ca tụng sự hiếu khách của ông ta như sau:

“Khi viếng Chợ Lớn, đừng quên ghé thăm một ông Phủ giàu có danh tiếng của thành phố này. Quan Phủ bắt chước lối sống cực kỳ xa hoa của chúng ta. Ông là dân An-Nam, tuổi độ 50, tướng phốp pháp, có râu ngạnh trê, luôn luôn tự phụ. Ông không do dự trong việc cho con qua Pháp du học. Nhà ông nửa Tây, nửa ta.”

Căn nhà ngói 5 gian rộng lớn của ông ở ngay vị trí khách sạn Thủ Ðô, Chợ Lớn lúc trước nằm trên đại lộ mang tên ông. Toàn Quyền Paul Doumer mỗi lần vào Nam đều ghé nhà ông ăn nhậu. “người ông giống hệt nhà ông, bên ngoài trang trí theo lối Pháp, nhưng bên trong trang trí giữ phong tục bản xứ” . (Lời nhận xét của Paul Doumer)

Cũng trong những lần ấy, không biết Ðỗ Hữu Phương khéo léo thế nào mà xin được Toàn Quyền Paul Doumer cấp không cho 2223 mẫu ruộng ở làng Hoả Lựu (Chương Thiện)

Những người xu nịnh cho rằng Ðỗ Hữu Phương là người giàu có danh giá gồm đủ “Phú, Quý, Thọ, Khang, Ninh”:

- Về Phú: ông giàu tột bực, chỉ thua ông Huyện Sĩ, đất ruộng hàng mấy chục ngàn mẫu.

- Về Quý: làm quan đến tột đỉnh, tứ trụ triều đình của chánh quyền Pháp ở Nam Kỳ, được ân thưởng Bắc Ðẩu Bội Tinh đến 3 lần.

- Về Thọ: ông mất ở tuổi 76

- Về Khang: ông có nhiều con cháu nối nghiệp làm quan lớn. Con trưởng làm Trung Tá đầu tiên trong quân đội Pháp, con kế làm phi công đầu tiên của Việt Nam , và một người con gái gả cho Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu.

Sui gia với ông là Hoàng Cao Khải, dưới con mắt của Pháp và tay sai là người danh giá nhứt Bắc Kỳ. Gia đình ông có 3 người đều làm Tổng Ðốc, ngoài hai người vừa kể, còn một người con nữa là Hoàng Mạnh Trí. Không biết ông Tổng Ðốc Hoàng Trọng Phu có công gì lớn đối với đất nước mà triều đình phong làm Thái Tử Thiếu Bảo, Hiệp Tá Ðại Học Sĩ. Riêng Hoàng Cao Khải được ban tước Quận Công, nhưng dưới triều vua Duy Tân (1907-1916) nhờ lập nhiều thành tích cho Pháp, nên thực dân đề nghị với triều đình phong cho ông làm Phó Vương. Rủi cho ông bấy giờ, Thượng Thư Cao Xuân Dục đang làm Phụ Chánh đại thần, đã phê vào đề nghị như sau:”Trên bầu trời không có hai mặt trời, thì trong một nước không thể nào có hai vua. Thần, Cao Xuân Dục không thể ký được “. Tuy vậy, nhiều người nịnh bợ thỉnh thoảng vẫn gọi Hoàng Cao Khải là Phó Vương.

- Về Ninh: ông sống ung dung nhàn hạ, hưởng thụ mọi tiện nghi và thú vui vật chất, không phải lo lắng bất cứ việc gì.

Xin trích dẫn một giai thoại khác của cụ Vương Hồng Sển trong “Sài Gòn năm xưa” có viết:

“Tết Nguyên Ðán, nhà ấy (Ðỗ Hữu Phương) có ra câu đối trao giải thưởng. Câu đối ra như vầy:
“Ðất Chợ Lớn có nhà họ Ðỗ
“Ðỗ một nhà, ngũ phước tam đa”.

không biết quả thật chăng có người về sau gởi đến câu đối lại như vầy:

“Cù Lao Rồng có lũ thằng phung
“Phung một lũ: Cửu trùng bát nhã”

nhưng người ấy không dám nhận giải thưởng.

Khi Ðỗ Hữu Phưong mất , gia đình tổ chức đám tang rất trọng thể. Thi hài quàng nửa tháng mới chôn. Hàng ngày có hàng trăm khách viếng. Tang gia cho vật trâu, bò, heo liên miên cúng và đãi khách. Báo “Ðông Phương tạp chí” ra ngày 7 tháng năm 1914 có đăng một đoạn tả cảnh đám ma ấy như sau:

“Ðúng 4 giờ chiều một khắc (15 phút) nghe lệnh quan Vệ úy Thạch hô:

- Bọt-tê-am! (Portez armes!)

Thoạt thấy quan phó toàn quyền và quan nguyên soái Nam Kỳ đi giá (cáng) tới, vào nơi linh sàng phủ ủy ít lời. Kế học trò hô:

- Triệt linh sàng!

Tức thì nhạc “fanfare” giọng bi ai trổi lên . Rồi động quan ra linh xa, chặn trước linh xa có bày các bàn phúng điếu treo trướng và tràng bông của thiên hạ đi đến có trên vài trăm cái..”


(trích lại trong “Việt Nam tạp chí” số ra mắt tháng bảy 1989)

Chú thích:

* Rạch Ong: Có thuyết cho biết nơi đó có nhiều ong lá, ong bần, nên sách cũ viết là “phong ngạn”, do đó chữ “rạch ong” viết không có dấu (^)

* Trần Bá Lộc có người cháu là Trần Thành Huân, làm giáo sư và tổng giám thị trường Taberd. Ông là một nhà cách mạng chống Pháp. Khi ra toà, viên đại tá chánh thẩm hỏi:

- Anh là cháu của Tổng Đốc Lộc, lại là người Công giáo, sao anh mưu đồ chống lại người Pháp?

Ông Huân thẳng thắn trả lời :

- Trước khi là người Công giáo, tôi là người Việt Nam. Tôi không hề tán thành việc làm của ông Tổng Đốc Lộc.

Về sau ông Huân chết trong nhà tù Côn Đảo
(Theo nhà văn An Khê )

HUỲNH CÔNG TẤN (1837-1874)

Trước năm 1945, phía trước nhà lồng chợ Gò Công có một tấm bia đá lớn của Pháp dựng lên để kỷ niệm một người Việt có công tận tụy với nước Pháp : “À la mémoire de Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn, Chevalier de Légion d’honneur, fidèle serviteur de la France” (Tưởng nhớ Huỳnh Công Tấn, Lãnh Binh, Bắc Ðẩu Bội Tinh, công bộc trung thành với nước Pháp.

Ngày 9 tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Dân chúng Gò Công phẩn uất, kéo tới đập phá tấm bia ấy để xoá tan dấu vết của thực dân.

Huỳnh Công Tấn là người quê quán tại Gò Công, sinh năm 1837 trong một gia đình nông dân ít học. Năm 1859 thành Gia Định thất thủ, Tấn mới 22 tuổi. Theo bức ảnh minh hoạ trong quyển sách :”Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt” nói trên thì Tấn có một dáng dấp rất khác biệt với Đỗ Hữu Phương hồi trai trẻ. Nếu Phương có dáng dấp một thư sinh thì Tấn là con người cục mịch, gương mặt thô, vuông, hằn lên nét đanh ác. Tấn mặc bộ đồ đen . Lúc Gia Định mới thất thủ, Tấn gia nhập hàng ngũ nghĩa quân chống Pháp, dưới quyền chủ tướng Trương Công Định. Ba năm sau, phòng tuyến Chí Hoà bị hạ, triều đình Huế ký Hàng Ước 1862 nhường 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Mất địa bàn kháng chiến, Trương Công Định dẫn quân về Gò Công, dựa vào địa thế hiểm trở vùng Vàm Láng (“đám lá tối trời”) để tiếp tục kháng Pháp. Trong một cuộc hành quân vùng Gò Công, Tấn gạt binh sĩ, rồi bỏ trốn qua Tân An. May mắn cho Tấn, ở đây hắn gặp một người bạn cũ tên Nguyễn Hữu Nguơn, đã đầu thú Pháp, hướng dẫn Tấn về Sài Gòn trình diện.

Còn theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Vực cho biết: “Tấn vốn đam mê đàn bà con gái, hay chọc ghẹo, nên bị chủ tướng Định cảnh cáo. Có lần Định tát tai Tấn về việc nầy, nên Tấn sanh tâm thù oán. Từ đó Tấn tìm dịp trốn đi ra hàng giặc” . Một tài liệu khác nữa nói rằng: “Trong lúc hai bên giao chiến, Tấn bị Pháp bắt. Để đoái công chuộc tội, Tấn xin cung khai đầy đủ mọi việc quân thư của Trương Công Định”. Tài liệu nầy do Vial, Giám Đốc Nội vụ ghi lại trong tập hồ sơ “Lãnh Binh Tấn ngày 31 tháng bảy 1869″.

Để được Pháp tin cậy, Tấn ra tay dọ thám, chỉ điểm cho Pháp ruồng bố nghĩa quân. Chỉ một năm sau, Tấn lập được nhiều thành tích, Pháp cho Tấn làm đội trưởng.

Quê dốt, không tham vọng nhưng rất tàn ác, Tấn không từ bỏ một dịp may nào để tiến thân và làm giàu. Có quyền trong tay, Tấn bắt người tình nghi, đánh đập để khảo của. Tấn làm giàu bằng cách tổ chức sòng bạc, chiếm đất của các điền chủ bỏ chạy qua miền Tây lánh nạn. Đồng thời, Tấn bắt thường dân làm sưu cho mình. Chỉ trong 10 năm, Tấn trở thành một người giàu có nhứt Gò Công. Bằng cách cướp đoạt, Tấn có hàng ngàn mẫu ruộng. Tấn lập công với Pháp bằng cách đem quân qua Cần Giuộc bao vây, bắt được lãnh tụ nghĩa quân Bùi Duy Nhứt. Với thành công mới, Pháp phong cho Tấn chức Lãnh Binh, là chức quan đàng cựu, coi tất cả binh lính trong một tỉnh.

Có lẽ do lòng căm thù cá nhơn, Tấn coi nghĩa quân còn hơn kẻ thù, mặc tình bắt bớ, tra khảo, bắn giết không nương tay. Tấn làm nô bộc cho chủ Pháp rất hăng hái. Có lần Tấn dám chê bai Tham Biện Pháp là người bất tài vô dụng:”Bởi quan Tham Biện chúng tôi xưa nay là qua coi binh, chưa từng biết việc dân (hành chánh) cho nên việc quan làm thì làm bậy, nói thì chẳng thông lý sự, dường như kẻ ngu si dốt nát”.

Giáo Đốc Nội Vụ thấy Tấn lạm quyền quá đáng, muốn tìm cách đổi Tấn đi miền Đông, nhưng Tấn lại lập thêm nhiều công trạng mới, nên được giữ lại.

Người Pháp dùng Tấn như một tay sai đắc lực chớ không ưa Tấn. Trong một chuyến từ Gò Công về Sài Gòn bằng ghe bầu, Tấn bị bịnh và chết trên ghe, lúc mới 37 tuổi.

Tấn có hai người con trai là Huỳnh Công Miêng và Huỳnh Công Viễn. Để nuôi dưỡng tay sai trung thành, Pháp cho Huỳnh Công Miêng qua pháp du học. Lúc về nước, Miêng theo Trần Bá Lộc đánh dẹp nhiều nơi. Sau đó Miêng chán nản, bỏ quan, trở thành một công tử ăn chơi khét tiếng miền Nam. Dân chúng gọi bằng “Cậu Hai Miêng”. Cậu Hai sống theo kiểu giang hồ hảo hán, lưu linh miễn tử khắp Nam Kỳ. Mỗi lần hết tiền, Cậu Hai vào thăm các tham biện, chủ quận để hỏi tiền xài. Pháp nhớ công ơn cha cậu, nên cũng nể mặt, cho cậu ít nhiều. Cậu sống ngang tàng, không ai dám làm gì dù có phạm tội chút ít (Xin xem thêm “Nam Kỳ Lục Tỉnh” tập I).

Cậu Hai mất năm 1895, chôn ở Sài Gòn. Cuộc đời Cậu Hai Miêng được dân chúng thán phục, truyền tụng sâu rộng bằng nhiều tập thơ “Cậu Hai Miêng”.

Trong quyển “Quốc Âm Hiệp Tuyển” của Lê Quang Chiếu (người Cần thơ) có bài thơ điếu Cậu Hai Miêng như sau:

“Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng?
“Ba mươi tám tuổi, dõi huỳnh tuyền,
“Sao lờ Bến Nghé, xiêu người ngó,
“Khói toả Cầu Kho, thảm vợ hiền’
“Đứng bực phong lưu trời vội dứt,
“Những trang hào kiệt đất không kiêng
“Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền”.

TRẦN PHONG SẮC (1878-????)

Vào đầu thế kỷ 20, ở Nam Kỳ có 3 dịch giả truyện Tàu cùng tên Sắt: người thứ nhứt là Tân Châu Nguyễn Chánh Sắt, người thứ hai là Nguyễn Kỳ Sắt, và người thứ ba là Tân An (1) Trần Phong Sắc. Cùng với Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khuông, Mộng Huê Lầu (Lê Hoằng Hựu)… Trần Phong Sắc là một trong những dịch giả Nho học uyên bác, thạo chữ Quốc Ngữ, dịch nhiều bộ truyện Tàu nhứt, gây ảnh hưởng sâu rộng đến cả thế hệ nam nữ thanh niên, trung niên và ngay lớp phụ lão nữa. Trần Phong Sắc sống cuộc đời trầm lặng, âm thầm dịch sách, sáng tác . Sự đóng góp của ông vào gia tài văn hoá nước nhà buổi sơ khai thật đồ sộ, nhưng các nhà làm văn học bỏ quên ông, không dành cho ông một chỗ đứng khiêm nhượng nào trong Văn học sử miền Nam. Rất tiếc không sách báo nào đề cập đến thân thế, sự nghiệp của ông nên muốn viết về tiểu sử của Trần Phong Sắc rất khó khăn. Chúng tôi phải sưu tầm, lượm lặt rải rác, phỏng vấn nhiều vị bô lão từng sống ở Tân An, Mỹ Tho và nhứt là tham khảo cuốn Địa phương chí “Tân An Ngày Xưa” của Đào Văn Hội để viết lại bài nầy.

Tuy là một dịch giả có biệt tài, dịch hàng 40 quyển truyện Tàu, sáng tác hàng mấy chục bài ca cổ điển, nhưng ông không sống được bằng nghề ấy. Nghề chánh của ông là thầy giáo dạy môn Luân lý tại trường tiểu học Tân An trong thời gian từ năm 1916 đến năm 1930. Trần Phong Sắc là người hữu tài vô mạng. Bình sanh, bao nhiêu công lao trí lực để dành làm giàu cho nhà xuất bản, đời sống vật chất của ông suốt đời cũng không dư giả chi, đến chết lại lâm cảnh nghèo. Dường như ông lấy chuyện dịch truyện, sáng tác bài ca như một sở thích làm vui, không mấy chú trọng đến tiền bạc. Nghe nói rằng giới trí thức đương thời ở Tân An hễ nhắc tới ông thì họ mỉm cười, nụ cười khinh bạc, mỉa mai vì họ cho rằng Trần Phong Sắc là một người gàn, có lẽ họ chưa hiểu ông. Dù dạy học, dịch sách viết bài ca, lãnh vực nào Trần Phong Sắc cũng làm đầy đủ, nhiệt tình và xuất sắc, để lại cho hậu thế nhiều quyển truyện xưa, bài ca đến nay, lớp người hậu bối vẫn còn nhắc nhở.

Trần Phong Sắc là người làng Huê Mỹ Thạnh, phủ Tân An, sau là tỉnh Tân An, nhà ở ngã tư gần Cầu Quây trong chợ Tân An. Kể về tướng mạo, một người từng học với ông là Đào Văn Hội (năm 1918) đã kể về ông như sau:

- Ông Trần Phong Sắc tướng tá xấu, mang đầu tóc to tướng, nước da ngâm ngâm đen, mắt lé nặng. Lúc đó (1918) ông dạy môn Luân Lý ở các lớp tiểu học (Tân An). Khi đi dạy, ông bịt chiếc khăn nhiễu đã phai màu, mặc cái áo xuyến dài cũ, mang đôi giày hàm ếch xập xệ. Ông vẫn đi bộ luôn từ xóm Ngã Tư tới trường, trong túi áo trắng bên trong kè kè những sách .


Chính quyền địa phương bổ nhiệm ông dạy môn Luân Lý từ lớp Năm đến lớp Nhì, lương tháng mười mấy đồng bạc. Học sinh thường gọi ông là “thầy ma-ranh” (morale) hoặc “ông kẹ lửa”, vì trong lớp đứa nào trững giỡn thái qúa, ông “tặng” cho cái cú nháng lửa và cho điểm 0 . Trần Phong Sắc sống cuộc đời trầm lặng mấy mươi năm ở tỉnh lẻ, dù có tài nhưng ông không khoe khoang, ít giao du, thù tạc bạn bè như các đồng nghiệp khác lúc bấy giờ. Ông chỉ chơi thân với một vài người, trong đó có ông huyện Ngô Văn Chiêu, người sáng lập ra đạo Cao Đài sau nầy, ông Cao Văn Lỏi, ông Một Kim…Tính tình Trần Phong Sắc rất hiền lành. Ông dùng hết thì giờ ngoài việc dạy học để dịch truyện Tàu, viết lời ca (hầu hết bằng chữ Hán) trong các bài ca cổ điển. Khi đi dạy học, trong giờ ra chơi của học sinh, Trần Phong Sắc thường ngồi lại lớp, lấy sách chữ Hán ra đọc, trong khi những thầy giáo khác tụ tập chuyện trò cười đùa . Có lẽ vào thời đó môn Luân Lý bị coi thường mà ông Trần Phong Sắc lại quá lôi thôi, hiền hậu nên các bạn đồng nghiệp ít kính nể, và cũng không dạy học trò kính trọng ông ..Lớp ông dạy, học trò thường nói chuyện ồn ào như cái chợ, không coi ông ra gì cả. Ngôi nhà ông ở là một kiểu nhà xưa ba gian, lợp ngói âm dương, nền đất vách ván, thấp.. Trước nhà có một hàng rào bằng cây, quét vôi trắng toát và viết đầy những chữ Nho. Cửa ngõ nhà là hai trụ gạch, phía trên có một tảng đá xanh to gác ngang dày một tấc, rộng 40cm và ngang 1,2m, đứng xa xa trông như một cái am. Ngoài ra ông cùng một số bạn đồng tâm như Bộ Thọ (Lê Kiển Thọ), Một Kim (Đoàn Văn Kim), thầy giáo Nguyễn Văn Ngộ, Ngô Văn Chiêu thường lập đàn cầu cơ để chữa bịnh cho bá tánh không lấy tiền. Trong nhóm nầy riêng Trần Phong Sắc là người ăn chay trường. người ta kể lại trong một lần cầu cơ:”Ông giáo Vân ngồi đồng dương, ông Bộ Thọ ngồi đồng âm, Trần Phong Sắc làm phép đàn, ông Đoàn Văn Kim ghi chép và Ngô Văn Chiêu làm độc giả. Cơ lên mạnh cho biềt:

“Ngũ chơn bữu khí lâm triều thế
Giá hạc đằng vân xiển tự nguyên…”

Lúc ấy cơ Đức Cao Đài tiên ông giáng cơ, cơ gõ mạnh và bảo ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu thơ ấy. Vốn là một nhà Nho sành sõi, uyên bác về Hán Văn, nhưng vì không biết Cao Đài tiên ông là ai, nên Trần Phong Sắc mới trả lời một cách suồng sã rằng:

- Bài thỉnh nầy ra 100 năm rồi, từ bên Trung Quốc qua đây không ai dám cho là sai, nay ngài bảo sửa, nói vậy là thiệt trật hay sao ?

Tiên ông quơ cơ đập vào đầu ông Trần Phong Sắc vì vô lễ. Ông lẹ làng sụt xuống né khỏi. Kế Đức Cao Đài tiên ông kêu gọi Ngô Văn Chiêu bảo sửa. Ông Chiêu sửa lại như sau:

“Bửu chơn ngũ khí lâm triều thế..”

Từ đó về sau ông Trần Phong Sắc không làm phép đàn nữa.

Năm 1920 ông huyện Ngô Văn Chiêu đổi đi trấn nhậm tại Hà Tiên. Cả Toà hành chánh tỉnh (tham biện cùng nhân viên văn phòng) có làm lễ tiễn đưa. Ông Trần Phong Sắc có làm bài thơ thù tạc:

“Mừng nay quan Huyện đổi Hà Tiên
Có đức trời cho đặng có quyền
Trăm năm Vũng Gù (tên cũ của Tân An) còn tiếng mến
Một đường sau trước nổi danh hiền.
Hòn Nghệ cầm báu đưa theo gió,
Đảnh Hạc hoa tươi rắm tới triền.
Âm chất sẽ ngồi xe ngựa mã
Trùng phùng đồng ước hội Đào Viên!”

Nhắc lại cuộc đời dạy học của Trần Phong Sắc, ông Đào Văn Hội kể lại:”Môn Luân Lý của ông Trần Phong Sắc thường dạy vào buổi chiều, tùy theo lớp mà dạy từ 4 giờ tới 4 giờ rưỡi hay 5 giờ. Ông giảng dạy bổn phận làm con đối với cha mẹ, học trò đối với thầy, nhân dân đối với chánh phủ, anh chị em, bè bạn cư xử với nhau … Rồi ông lên bảng đen viết 1 câu lối 9, 10 chữ Hán, và viết luôn câu giải nghĩa. Chữ ông viết rất đẹp, sắc sảo nhu dao cắt. Ông bắt chúng tôi chép vào tập vở trìn ông chấm điểm. Nhưng chữ Nho ngoằn ngoèo khó viết đối với những bàn tay non nớt và chúng tôi viết chẳng khác nào vẽ bùa! Thế mà được ông khuyên 9 đến 10 điểm ngon lành!

Gần 40 tuổi, Trần Phong Sắc tái hôn với một cô thôn nữ. Có người cắc cớ hỏi ông tại sao không kết hôn với một goá phụ tuổi từ 30 đến 40, có phải là xứng đào xứng kép chăng. Quý độc giả có thể đoán được ông trả lời thế nào không?

Ông bảo rằng:”Thà rằng cưới con gái đồng trinh, còn đàn bà goá chồng, phải để cho người ta thủ tiết thờ chồng mới phải đaọ thành hiền!”

Vẫn theo lời ông Đào Văn Hội:”Tôi không biết thuở mẫu thân ông sanh tiền, ông thờ mẹ hiếu thảo thế nào mà sau khi mẹ ông quá vãng, ông cho tạc tượng gỗ một người đàn bà, trên đầu gắn tóc giả, mặc y phục đàng hoàng để thờ trên cái gác nhà ông. Sớm mai và chiều hai buổi, ông dọn cơm nước nhang đèn trước tượng, cúng lạy kính cẩn. Sự tử như sanh” (Cung phụng người chết cũng như người sống).

Chú thích:
(1) Chúng tôi quen gọi theo quê quán của Trần Phong Sắc là Tân An để phân biệt với cụ Nguyễn Chánh Sắt quê ở Tân châu, cũng là bút hiệu. Bút hiệu của Trần Phong Sắc là Đằng Huy.

TRẦN PHONG SẮC - MỘT DỊCH GIẢ CÓ TÀI

Truyện Tàu được dịch ra lần đầu tiên ở nước ta từ năm 1904, đó là bộ “Tam Quốc Chí”, được đăng trên tờ báo “Nông Cổ Mín Đàm”. Từ đó, nhiều người có kiến thức Hán văn và chữ Quốc ngữ liên tục dịch cho đến năm 1932. Trong số hơn 30 dịch giả (xem thêm bài Nguyễn Chánh Sắt, đăng trên báo “Đời Sống” ở Houston) thì Trần Phong Sắc là một người dịch nhiều bộ nhứt (gần 20 bộ), gây ảnh hưởng lớn lao cho cả dân chúng Nam Kỳ vào đầu thế kỷ nầy. Ảnh hưởng truyện Tàu đã góp phần hình thành một nhơn sinh quan đặc biệt của người dân miền Nam mà nét luân lý nổi bật qua các câu châm ngôn “Trọng nghĩa khinh tài”, anh em bè bạn ăn ở với nhau có thủy chung, trước sau không thay đổi. Trong cuộc sống, hễ gặp bất bình thì ra tay can thiệp, cứu giúp: “Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả” (thấy điều nghĩa không ra tay hành động không phải kẻ anh hùng), hoặc “Hoạn nạn tương cứu, sanh tử bất ly…” (có nghĩa là sự giúp đở lẫn nhau khi lâm hoạn nạn, sống chết có nhau khi đã thề làm bạn…) Trong khi ngoài Bắc, Nguyễn Đỗ Mục nổi danh nhờ dịch các bộ tiểu thuyết diễm tình Trung Hoa như:

. Dư Chi Phụ (Chồng tôi)
. Dư Chi Thê (Vợ tôi)
. Song Phụng Kỳ Duyên …

thì ở Nam Kỳ, nhà Nho và nhà giáo Trần Phong Sắc cũng nổi tiếng với hàng mấy chục quyển truyện Tầu. Các truyện Trần Phong Sắc đã dịch như:

. Phong Thần
. Ngũ Hổ Bình Tây
. Tam Quốc Chí
. Ngũ Hổ Bình Nam
. La Thông Tảo Bắc
. Dương Văn Quảng Bình Nam
. Tiết Nhơn Quý Chinh Đông
. Nhạc Phi Diễn Nghĩa
. Tiết Đinh San Chinh Tây
. Anh Hùng Náo Tam Môn Giai
. Phi Long Diễn Nghĩa
. Hậu Anh Hùng
. Tam Hạ Ham Đường
. Phong Kiếm Xuân Thu
. Tàn Đường
. Tây Hán
. Vạn Huê Lầu
. Đông Hán
. Quần Anh Kiệt
. Phấn Trang Lầu
. Tái Sanh Duyên
. Càn Long Hạ Giang Nam
. Chánh Đức Du Giang Nam
. Tam Hạp Minh Châu Bửu Kiếm
. Tây Du Diễn Nghĩa
. Đông Du Bát Tiên
. Bắc Du Chơn Võ
. Nam Du Huê Quang v.v…

Trong các bộ truyện Tàu kể trên, một bộ gồm nhiều quyển, có khi một bộ nhiều dịch giả chia nhau dịch. Nhiều bộ đồ sộ, dịch lại rai hàng chục năm như bộ “Đông Châu Liệt Quốc” gồm 15 quyển, được các dịch giả dịch từ năm 1906 đến năm 1929, nghĩa là phải 23 năm mới xong! Bộ “Đông Châu Liệt Quốc” được các ông Nguyễn Chánh Sắt. Nguyễn An Khương, Nguyễn Công Kiều, Trần Đình Nghị, Nguyễn Kỳ Sắt và Trần Phong Sắc dịch . Còn bộ “La Thông Tảo Bắc” được Trần Phong Sắc dịch cùng vớơi nữ dịch giả Phạm Thị Phượng. Tuy thì giờ dành hết cho việc dịch truyện Tàu, nhưng Trần Phong Sắc cũng đam mê sáng tác lời ca cho những bản nhạc cổ điển. Những truyện dịch của ông được in tại Sài Gòn, Chợ Lớn do các nhà in Joseph Nguyễn Văn Viết, Đinh Thái Sơn, Đặng Lễ Nghi..để phát hành khắp Nam, Trung, Bắc và Miên, Lào nữa.

Văn phong dịch của Trần Phong Sắc rất trôi chảy, thích hợp với mọi từng lớp và mọi lứa tuổi. Vì lẽ đó từ người nông dân đến người trí thức đều hiểu được và say mê. Hồi còn nhỏ, tôi cũng phải đọc truyện Tàu hàng ngày cho ông nội tôi nghe để …lấy tiền ăn bánh. Đọc mãi tôi cũng thấy say mê cốt chuyện hấp dẫn đó. Trong các bản dịch, lẻ tẻ Trần Phong Sắc chêm vào một bài thơ Đường bát cú hay tứ tuyệt, chứng tỏ ông có tâm hồn thi sĩ và nền Hán văn vững vàng. Những bài thơ ấy được đặt ở đầu mỗi chương để bình luận hay tóm lược câu chuyện. Trong truyện “Phong Thần”, ông kết thúc bằng bài thơ:

“Trằn trọc đêm thanh mấy khắc chầy,
“Phong thần diễn dịch, giải niềm Tây.
“Sắc tài, phép tắc bày ra đủ,
“Chép để khuyên răn phỉ nguyện nầy.”

Còn trong bộ “Chánh Đức Du Giang Nam”, ông có làm mấy câu thơ:

“Trần Thiện can vua kính họ Lương,
“Phong làm thừa tướng giúp triều đường.
“Sắc bà Quốc Thái sai tìm chúa,
“Chánh Đức về ngay hưởng thái bường (thái bình)”

Trong truyện Phong Thần nói về thời hồng hoang lịch sử Trung Hoa, nhiều chuyện huyễn hoặc mà ngày nay ta cho là bịa đặt, mỗi khi một vị tiên xuất trận đối địch, thường ngâm một bài thơ rồi mới so tài đấu phép. Qua ngòi bút linh hoạt của Trần Phong Sắc, nhiều đoạn diễn tả tình nghĩa thầy trò một cách thân ái người nghiêm minh như đoạn Thái Ất mượn tay đạo hữu Văn Thù sửa trị tánh nết hung hăng của Na Tra Linh Châu Tử. Không những tế nghị trong văn tình cảm mà trong khi tả cảnh các tướng Phiên đấu chiến, giọng văn của ông cũng biến đổi:”Mạnh mẽ, gọn gàng, đằng đằng sát khí như tiếng binh khí chạm nhau chan chát…” Chúng tôi nhớ lại một đoạn tả cảnh ấy như sau:

” …kỳ phùng địch thủ, tướng ngộ lương tài, một qua một lại, một tới một lui, bốn mươi hiệp cầm đồng…”

Đôi khi nhà Nho đạo mạo Trần Phong Sắc cũng dùng lối văn hài hước, chọc cười độc giả. Thí dụ hồi:”Lưu Kim Đính dựng bảng chiêu phu tại núi Song Toả, có Cao Quân Bảo đi ngang qua, đập bảng ấy đi, khiến Lưu Kim Đính nổi giận. Tức thì đôi nam nữ anh hùng, anh thư nhứt tề hỗn chiến, sáu mươi hiệp thắng bại bất phân đao lớn, giáo dài, trai mạnh, gái dạn …”

TRẦN PHONG SẮC - NGƯỜI TIỀN PHONG SÁNG TÁC NHIỀU BÀI CA CỔ ĐIỂN

Ở vùng Thủ Thừa, Vàm Cỏ, Tân An vào đầu thế kỷ 20 nhạc cổ phát triển mạnh. Những thầy đờn nổi danh ở vùng nầy hồi thập niên 1930 như Hai Nghĩa, Mười Tốt, Tư Trinh… Các ca sĩ, nhạc công đó sở dĩ nổi danh là nhờ những ông như Lê Văn Tiếng và Trần Phong Sắc, là những người đặt lời cho các bài ca cổ điển như Ngũ đối, Long đảng, Vạn giá…

Ông Tiếng còn gọi là Cử Thiện, quê ở Thủ Thừa, cùng hợp soạn “Cầm Ca Tân Điệu” được coi như một bộ sưu tập khá đầy đủ các bản đàn cùng lời ca Cải lương ở giai đoạn phôi thai.

Tuy không biết đàn, nhưng dựa vào các Âm điệu (notes) cổ điển, Trần Phong Sắc đặt nhiều bài ca mà nhiều danh ca cổ nhạc Nam Kỳ thời đó rất ưa thích. Chẳng hạn bạn “Lưu Thủy Hành Vân” có âm điệu như vầy:

“Xự cống xê xang hò,
“(là) xự cống xê xang hò,
“Xế xang hò (là) họ xự xang
“Xế xang còn xang xê cống…

Rồi Trần Phong Sắc dựa vào âm điệu đó đặt lời “Ngoạn Hứng Hoa Viên” bằng chữ Hán:

“Ngoạn hứng hoa viên, hề,
“Tình nguyện hứng hoa viên, hề,
“Nhứt nhựt thanh nhàn thị tiện,
“Lung linh đào lan mai trước…”

Tập “Cầm Ca Tân Điệu” do nhà in Joseph Nguyễn Văn Viết Sài Gòn, in xong năm 1925, trong đó Trần Phong Sắc đặt nhiều bài ca như:

. Lưu Thủy Hành Vân
. Dạ Cổ Hoài Lang (tiền thân bản Vọng Cổ)
. Long Hổ Hội
. Ngũ Điểm
. Bài Tạ
. Khổng Minh Toạ Lầu
. Tây Thi
. Cổ Bản
. Lưu Thủy
. Phú Lục
. Bình Bán
. Xuân Tình
. Tứ Đại Cảnh
. Tứ Đại Oán
. Văn Thiên Tường
. Cửu Khúc Giang Nam…

Dân địa phương Tân An thường kể lại một giai thoại về trận hoả hoạn lớn năm 1916, trong đó nhà ông Trần Phong Sắc nằm dưới ngọn gió lùa cháy tới, người nhờ ông biết “vẽ bùa”, nên ngọn lửa trệch qua căn nhà khác. Chuyện ấy không biết đúng hay không nhưng chúng tôi cũng xin thuật lại để độc giả nghe chơi.

“Năm 1916, xóm Ngã Tư bị một trận hoả hoạn lớn vào buổi chiều nắng gắt. Thời bấy giờ phương tiện cứu hoả thô sơ, không đủ sức dập tắt ngọn lửa, nên bà Hoả thiêu rụi hàng trăm căn nhà lá. Heo nhốt trong chuồng cũng chết bộn, may không có tai nạn về người . Xóm hoả hoạn ấy cách nhà ông Trần Phong Sắc một cái rạch nhỏ mà ngọn gió thoêi về phía nhà ông nữa. Theo nhiều người chứng kiến: Ông Trần Phong Sắc đem một cái hình nhơn cao độ vài tấc tây để trên phiến đá xanh trước cửa ngõ, tay cầm lá cờ, ông đọc điều gì như lâm râm khấn vái một chặp, đoạn phất cờ trên tay hình nộm mấy lượt. Lạ thay, ngọn lửa đương cháy mãnh liệ, hướng về nhà ông, sắp leo qua rạch tấn công mái nhà ông, rồi bỗn quay lại, tạt qua hướng khác. Trận hoả hoạn đó nhà ông thoát nạn”.

Có những người để lại sự nghiệp lớn cho đời nhưng ít được người đời nhắc tới mà Trần Phong Sắc là một trong những người ấy.

NGUYỄN CHÁNH SẮT (1869 – 1947)
NHÀ VĂN TIÊN PHONG NAM KỲ


Nguyễn Chánh Sắt là một người tự học, một nhà văn tiền phong, một dịch giả truyện Tàu nổi tiếng ở miền Nam vào đầu thế kỷ 20. Các nhà làm văn học sử từ trước đến nay, thường bỏ quên tên tuổi và sự nghiệp của cụ, hoặc chỉ nói qua được một hai dòng về sự đóng góp vào cái gia sản văn hoá đồ sộ của miền Nam. Riêng tôi, để viết lại tiểu sử của các bậc tiền bối, sống chỉ cách chúng ta trên dưới 1 thế kỷ, phải bỏ ra nhiều năm để sưu tầm tài liệu xuất xứ từ đủ mọi nguồn gốc khác nhau. Đối với Nguyễn Chánh Sắt cũng rất khó, vì trong hoàn cảnh chật hẹp hôm nay không được đến nơi chôn nhau cắt rún của cụ để hỏi thăm, sưu tầm gia phả, tài liệu, mà chỉ lượm lặt một cách rời rạc, nên chỉ có thể cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quát về một con người trong một giai đoạn lịch sử mà thôi.

Nguyễn Chánh Sắt tự Bá Nghiêm, biệt hiệu Tân Châu Du Nhiên Tử, sinh quán tại làng Long Phú, Tân Châu, tỉnh Châu Đốc, sau nầy đổi là huyện Phú Tân (Châu Phú- Tân Châu) thuộc tỉnh An Giang. Nguyễn Chánh Sắt là người tự học để thành công. Cuộc đời ông là một tấm gương sáng cho kẻ hiếu học. Cha mẹ ông là những người nông dân nghèo, không đủ phương tiện cho cậu bé Sắt tới trường học mặc dầu cậu Sắt đã 8 tuổi. Thấy vậy, một gia đình phú hộ trong làng hiếm con tên là Nguyễn Văn Bửu ngỏ ý với cha mẹ cậu muốn xin Nguyễn Chánh Sắt về làm con nuôi để cho ăn học. Buổi đầu, cậu Sắt được học chữ Hán với một thầy đồ trong làng, và sau đó được theo học trường Quận tại Cần Thơ. Thời gian nầy, Nguyễn Chánh Sắt được học thêm chữ Pháp. Sau bậc sơ học, Nguyễn Chánh Sắt được gia đình cha mẹ nuôi gởi xuống Châu Đốc theo học trường tiểu học Pháp Việt.

Năm 17 tuổi, Nguyễn Chánh Sắt tốt nghiệp bằng Tiểu học rồi được cha mẹ nuôi cưới vợ cho ra riêng để tạo lập sự nghiệp làm ăn. Người vợ ông tên Văn Thị Yến, con một Hoa Kiều, là một cô gái đảm đang, có sạp buôn bán tạp hoá tại chợ Châu Đốc, nhờ đó cuộc đời của cậu thư sinh đỡ vất vả buổi đầu. Tuy nhiên, Nguyễn Chánh Sắt là một người có chí, không muốn ăn không ngồi rồi, nên lúc ở nhà rảnh rỗi, Nguyễn Chánh Sắt cố gắng tự học thêm chữ Pháp và chữ Hán. Đầu thế kỷ 20, Tân Châu là một trung tâm dệt lụa nổi tiếng khắp miền Nam. Một người Pháp tên là De Colbert đến đây lập xưởng dệt, khuếch trương công việc làm ăn. Nghe tiếng đồn Nguyễn Chánh Sắt là một thanh niên hiếu học, thông minh, nên De Colbert đến tìm Sắt và mời cậu cộng tác cho mình, giữ sổ sách xưởng dệt và làm thông ngôn trong các cuộc giao dịch với người bản xứ. Thấy Sắt là một thanh niên hiền lành, đạo đức, thông minh, nên De Colbert ngỏ ý muốn giúp đỡ cậu. Ít lâu sau, De Colbert thôi việc dệt lụa để đi làm công chức, và được đổi đi Côn Nôn (Côn Đảo), ngỏ ý muốn đem Nguyễn Chánh Sắt theo. Đó cũng là thử thách để Nguyễn Chánh Sắt có dịp giao thiệp với đời, trau dồi thêm chữ Pháp nhờ làm thông ngôn. Ba năm sau De Colbert mất, Nguyễn Chánh Sắt về Sài Gòn.

Ban đầu ông xin vào làm trong Sở Canh Nông. Nghề công chức thời Pháp Thuộc rất nhàn, Nguyễn Chánh Sắt dùng thì giờ nhàn rỗi viết báo, viết sách dạy chữ Hán cho học trò và thử dịch vài quyển truyện Tàu. Thấy công việc có kết quả, dần dần Nguyễn Chánh Sắt trở nên ham thích nhưng chưa đam mê. Ông Nguyễn Chánh Sắt bắt đầu viết từ năm 1918, và đến năm 1919, quyển tiểu thuyết kim thời đầu tiên được in trong “Sách Vệ Sinh Chỉ Nam” của nhà thuốc Nhị Thiên Đường ở Chợ Lớn. Tiểu thuyết ấy lấy tên là “Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên” nhưng người đương thời vẫn quen gọi là “Chăng Cà Mum”. Cũng trong thời gian nầy, Nguyễn Chánh Sắt được một người bạn giới thiệu vào dạy Hán Văn trong trường Taberd. Sau đó, Nguyễn Chánh Sắt được ông Canavaggio mướn trông coi sở muối ở Bạc Liêu. Canavaggio là một người Pháp ham thích hoạt động, có kiến thức, ngoài tư cách hội viên Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn, còn kinh doanh nhiều nghề. Canavaggio khởi công làm ruộng ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, chăn nuôi trâu bò, làm đại lý mua bán muối, nuôi tằm dệt tơ lụa ở Tân Châu. Chính Canavaggio có vựa bán muối trong chợ Cầu Muối, đồng thời cũng là người làm chủ tờ báo “Nông Cổ Mín Đàm” Năm 1905, Nguyễn Chánh Sắt bắt đầu viết cho tờ “Nông Cổ Mín Đàm” rồi đến năm 1906 ông làm chủ bút “Lục Tỉnh Tân Văn“. Cũng bắt đầu từ đó, Nguyễn Chánh Sắt tham gia phong trào Duy Tân ở miền Nam do Trần Chánh Chiếu phát động, lấy tên “Cuộc Minh Tân“. Tuy không phải là một nhà cách mạng của phong trào, nhưng trong lãnh vực văn hoá, tư tưởng, Nguyễn Chánh Sắt cùng với Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thành Út, Đặng Thúc Liêng… đã cổ võ cho công “cuộc minh tân”, kêu gọi các điền chủ, công chức thức tỉnh, đem tiền của để hùn hạp buôn bán, cạnh tranh quyền lợi với Hoa Kiều và Ấn Độ. Trên mặt báo, Nguyễn Chánh Sắt viết những lời cổ động dân chúng theo cuộc “minh tân”, đang liên tục nhiều tháng trên “Lục Tỉnh Tân Văn”. Thời gian nầy công ty “Nam Tân Minh Công Nghệ” thành lập năm 1908, gồm nhiều cổ phần, đa số là điền chủ và công chức, trụ sở đặt tai Mỹ Tho là một đầu mối giao thông về Miền Tây. Hồi đó đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho đưa các điền chủ, thầy cai tổng, ông Hội đồng … ghé chợ Mỹ Tho nghỉ ngơi trong các khách sạn. Đêm đêm họ hưởng thú vui cao lâu, nghe ca hát ra điệu bộ, rồi sáng hôm sau mới xuống tàu lục tỉnh về quê. Chuyến trở lên cũng vậy. Họ ghé Mỹ Tho nghỉ ngơi cho khoẻ để sáng hôm sau đáp xe lửa đi Sài Gòn. Trong công ty nầy có 2 khách sạn:

- Minh Tân khách sạn ở Mỹ Tho
- Nam Trung khách sạn ở Sài Gòn.

Về chính trị, tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” cũng công khai chỉ trích chế độ thuộc địa. Về kinh tế, “Lục Tỉnh Tân Văn” chủ trương giành quyền lợi cho người bản xứ, kêu gọi các nhà thương nghiệp Việt Nam thành lập các xí nghiệp, cổ động dân chúng tiêu thụ hàng nội hoá, giảm bớt mua hàng nước ngoài và chống lại sự chèn ép kinh tế của các nhà tư bản ngoại quốc. Tờ “Lục Tỉnh Tân Văn” còn nhiều lần kêu gọi đồng bào “Nên tự trách mình, nên bỏ những lối ăn nết ở không hợp…”

Đến năm 1909 thủ lãnh phong trào là Gilbert Trần Chánh Chiếu bị bắt, phong trào suy sụp dần, rồi đến năm 1912, Nguyễn Chánh Sắt trở xuống Bạc Liêu làm ruộng. Nhưng 4 năm sau, Nguyễn Chánh Sắt trở lên Sài Gòn làm chủ bút “Nông Cổ Mín đàm”. Năm 1920, ông trở về quê ở Tân Châu, được dân chúng tín nhiệm, cử ông chức Hương Quản làng Long Phú. Nhưng chỉ sau một năm, Nguyễn Chánh Sắt lại trở lên Sài Gòn rồi đắc cử Phụ thẩm Toà Án Sài Gòn, được phong Huyện danh dự (huyện hàm), nên dân chúng Tân Châu còn gọi là “Ông Huyện Sắt”. Thời gian ở Tân Châu, Nguyễn Chánh Sắt có mướn một người ở đợ, tên là Ba Quốc. Một hôm Ba Quốc không chịu làm việc, cứ ngồi một nơi “tơ tưởng” chuyện trên trời dưới đất, được dân chúng hưởng ứng, gọi là “Ông đạo Tưởng”. Đạo Tưởng gởi thơ cho Tham Biện Châu Đốc, yêu cầu cung cấp súng đạn để ông ta dẫn đồng đạo qua Pháp đánh Đức. Chuyện “Ông đạo Tưởng”, chúng tôi có kể sơ trong bài “Bùa ngải, thư ếm”, xin miễn kể lại.

Cuộc đời ông Nguyễn Chánh Sắt hiếu động, dời chỗ luôn, nhưng dù bất cứ vị trí nào ông cũng tỏ ra là một người giàu nghị lực, siêng năng hoạt động và là một người biết giữ phẩm cách, đạo đức.


NGUYỄN CHÁNH SẮT - DỊCH GIẢ TRUYỆN TÀU

Phong trào dịch truyện Tàu ở Nam Kỳ bắt đầu từ năm 1901 cho đến năm 1932, có trên 30 dịch giả tên tuổi, nhiều bản dịch có giá trị được dân chúng mê đến nỗi muốn thuộc lòng từng đoạn. Những bộ truyện nổi danh suốt nửa thế kỷ qua là “Đông Châu Liệt Quốc”, “Tam Quốc Chí”, “Thủy Hử”…Trong khoảng hơn 30 dịch giả đã dịch trên 70 quyển truyện Tàu, chúng tôi thấy tên các người dịch sau đây:

- Trần Phong Sắc
- Nguyễn Văn Thạnh
- Nguyễn Chánh Sắt
- Trần Thị Sĩ
- Nguyễn An Khương
- Đào Xuân Trinh
- Nguyễn An Cư
- Tô Chẩn
- Nguyễn Liên Phong
- Nguyễn Công Kiều
- Lê Sum
- Cosme Nguyễn Văn Tài
- Lê Duy Thiện
- Nguyễn Kim Đính
- Phạm Minh Kiên
- Nguyễn Bá Thời
- Trần Hữu Quang
- Trần Công Danh
- Nguyễn Hữu Sanh
- Phạm Thành Kỉnh
- Huỳnh Trí Phú
- Trần Quang Xuân
- Huỳnh Công Giác
- Phạm Văn Điền
- Hoàng Minh Tứ
- Trương Minh Chánh
- Nguyễn Văn Hiển
- Trần Xuân
- Phạm Thị Phượng (La Thông tảo Bắc)
- Nguyễn Kỳ Sắt ….

Trong số các dịch giả kể trên, nổi tiếng và dịch nhiều nhứt là hai ông Trần Phong Sắc và Nguyễn Chánh Sắt, mỗi người dịch độ 20 quyển, có bộ lên tới 1000 trang…Truyện Tàu xuất hiện lần đầu tiên năm 1904, đó là quyển “Tam Quốc Chí”, đăng trên “Nông Cổ Mín Đàm”. Bộ truyện đồ sộ nhứt là “Đông Châu Liệt Quốc” khoảng 15 cuốn, có nhiều dịch giả, trong đó có Nguyễn Chánh Sắt. Họ dịch lai rai suốt 23 năm, bắt đầu từ năm 1906 đến 1929. Những người cùng dịch “Đông Châu Liệt Quốc” gồm: Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Công Kiều, Trần Đình Nghi, Nguyễn Kỳ Sắt. Còn về nhà in, quyển “Đông Châu Liệt Quốc” cũng có đến 4 nhà in khác nhau:

- Năm 1906 in tại IMP Saigonnais
- Quyển 3 do Hùynh Kim Anh dịch, in tại nhà in Phát Toán
- Quyển 7 do Huỳnh Kim Anh dịch, in tại nhà in Imp Schneider
- Quyển 14 do Huỳnh Kim Anh dịch, in tại nhà in “Xưa Nay” của Nguyễn Hào Vĩnh.

Bộ “Tái Sanh Duyên” do Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn An Khương, Nguyễn Văn Đẩu dịch tới quyển 11. Ngoài ra Nguyễn Chánh Sắt còn dịch bộ “Chung Vô Diệm”…(1)

Chú thích:
(1) Cụ An Khê Nguyễn Bính Thinh, nhà văn và cũng là nhà cách mạng, bạn của người cháu ngoại của Nguyễn Chánh Sắt, tên Trân Xuân Nam, bút hiệu Trọng Tâm, có lần kể cho cụ nghe về Nguyễn Chánh Sắt: Một lân về Tân Châu thăm ông ngoại, Trần Xuân Nam kể chuyện họp bạn văn chương ở Sài Gòn cho cụ nghe, cụ vuốt râu cười:

- Mấy cháu tha thiết đến chữ Quốc Ngữ như thế là tốt. Tương lai của dân mình tùy thuộc phần lớn ở tiếng nói và chữ viết của nước mình. Không lẽ học tiếng nước ngoài bỏ tiếng nước mình để làm đầy tớ cho Tàu rồi lại làm đầy tớ cho Tây mãi sao ?

Một hôm cụ hỏi Trần Xuân Nam có đọc truyện Tây Du của cụ dịch không? Đoạn văn nào anh ưa nhứt? Nam hóm hỉnh trả lời:

- Con ưa chỗ ngoại viết là “Tề Thiên Đại Thánh nhảy lên mây và nghĩ thầm rằng….” . Ngoại còn giỏi hơn ông Tề nữa, vì ổng nhảy cao tận mây xanh mà ngoại cũng biết ổng nghĩ thầm thế nào..!” (Tài liệu do nhà văn An Khê gởi cho tác giả)

(Rút trong khởi thảo “Nhân Vật Lịch Sử, Chính Trị, Văn Hoá miền Nam” Tự Điển)

NGUYỄN CHÁNH SẮT - MỘT TRONG NHỮNG NGƯỜI VIẾT TIỂU THUYẾT SỚM NHẤT NAM KỲ

Từ trước đến nay, nhiều sách văn học nước nhà không dành cho Nguyễn Chánh Sắt một địa vị xứng đáng vì sự đóng góp của ông đối với nền văn học còn trong thời kỳ phôi thai. Cũng ở trong trường hợp đó, chúng ta còn phải kể thêm nhiều tác giả khác như Nguyễn Trọng Quản, Lê Hoằng Mưu (Mộng Huê Lầu), Biến Ngủ Nhỵ (Nguyễn Bình), Trương Duy Toản… Dưới đâylà bảng liệt kê những tiểu thuyết, tuồng hát bộ do Nguyễn Chánh Sắt soạn:

- Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên (Kim thời tiểu thuyết, in năm 1919)
- Gái Trả Thù Cha, in năm 1920
- Tài Mạng Tương Đố, in năm 1925
- Tình Đời Ấm Lạnh (in trong “Thiên Sanh Đường” đại dược phòng)
- Lòng người Nham Hiểm, in năm 1916
- Man Hoang Kiếm Hiệp (nhà in Đức Lưu Phương)
- Giang Hồ Nữ Hiệp (nhà in Đức Lưu Phương)
- Trinh Hiệp Lưỡng Mỹ
- Việt Nam Lê Thái Tổ
- Các tuồng hát bộ: Đinh Lưu Tú, Sài Gòn 1919, nhà in Imp. J. Viết.

Ngoài ra, Nguyễn Chánh Sắt còn là tác giả của vài cuốn sách dạy chữ Hán cho trẻ em.

Trong các quyển tiểu thuyết kể trên, tác phẩm đầu tay “Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên” (Chăng Cà Mum) sáng tác năm 1918, in năm 1919, lấy bối cảnh một mối tình xảy ra vùng biên giới Việt Miên, in trong cuốn sách quảng cáo thuốc “Nhị Thiên Đường” ở Chợ Lớn. Truyện “Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên” được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Nhơn vật chính, cô gái tên Chăng Cà Mum, gốc người Việt bị bắt đem bán cho Mẹ Sốc trên đất Miên. Quyển truyện nầy nổi tiếng đến mức nhiều độc giả viết thơ cho ông , chỉ cần đề tên “Mr. Chăng Cà Mum” và địa chỉ thì thơ cũng tới nơi, không sai lạc. Tên “Chăng Cà Mum” trở thành cái tên phổ thông cho tất cả phụ nữ Khmer. Vì giá trị quyển tiểu thuyết ra đời cách nay hơn 70 năm, rất ăn khách, nên chúng tôi xin phép tóm lược cốt chuyện để độc giả có một cái nhìn về quan niệm viết tiểu thuyết hồi xưa, đồng thời thấy được văn phong, luân lý của tác giả. Các tiểu thuyết của Nguyễn Chánh Sắt lấy đề tài xã hội đương thời, thực tế, viết theo lề lối tiểu thuyết Tây Phương, dùng lối văn xuôi bình thường, đánh dấu bước chuyển mình của loại văn học mới miền Nam. Sau đây, xin tóm lược cốt chuyện “Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên”:

“Lâm Trí Viễn, quê tại xép Cơ-Tầm Bon (tác giả cho biết ở dưới tỉnh thành Châu Đốc chừng sáu, bảy ngàn thước), cha mẹ gởi trọ học tại nhà người bà con tại tỉnh thành. Gặp Đào Phi Đáng, Lâm Trí Viễn đem lòng yêu. Đào Phi Đáng là con gái của một người Triều Châu, buôn bán tại Nam Vang. Cha mẹ mất, Đào Phi Đáng được dì ruột ở Chui-Chèn-Oa đem về nuôi nấng. Khi trổ mã con gái, Đào Phi Đáng ham vui, theo chúng bạn, mang tiền bạc trốn khỏi nhà dì, xuống Châu Đốc, và được một người đàn bà bán cá tôm ngoài chợ cho trú ngụ trong nhà


Một hôm, Lâm Trí Viễn đọc báo thấy có tin một người giàu có ở Tân Châu tên là Trịnh Thế Xương, vợ mất sớm, chỉ có một đứa con gái tên Trịnh Phương Lang, hình dung yểu điệu, phía bên vai trái có một cái bớt bằng ngón tay cái mà tròn. Lúc Trịnh Phương Lang mới lên 6 tuổi, chợ Tân Châu bị hoả hoạn, nên cô bị thất lạc . Từ đó đến nay đã 12 năm biệt tích vắng tăm. Trịnh Thế Xương đăng báo rao khắp lục tỉnh nếu ai biết tung tích Trịnh Phương Lang, tìm đem về cho ông ấy, sẽ được đền bù 2000 đồng bạc (lúa lúc đó giá 2 cắc một giạ, một đồng bạc mua được 5 giạ lúa)


Lâm Trí Viễn bày cách cho Đào Phi Đáng giả làm Trịnh Phương Lang, về lại ăn cắp tiền của cha mẹ cùng Phi Đáng lên Sài Gòn, nhờ một người làm nghề thay răng tên Cao Quốc Thủ, dùng xảo thuật tạo được cái bớt son giả cho Phi Đáng.


Phi Đáng về, đi xuồng, giả bị chìm ở phía sau thành phố Châu Đốc, rồi “tình cờ” Lâm Trí Viễn đi ngang qua đó ra tay nghĩa hiệp, cứu nàng. Rồi Lâm Trí Viễn viết thơ báo cho Trịnh Thế Xương biết rằng mình vừa cứu được một cô gái có đặc điểm giống như cô gái của ông đã rao mất lạc, đăng trên nhựt báo. Lâm Trí Viễn đưa cô Đáng lên nhà gặp Trịnh Thế Xương, và cô tự xưng tên là Lang. Ông Trịnh Thế Xương không ngờ gì cả, nhận đó là con mình. Dì Tư bán cá có công đùm bọc cho Phi Đáng, được đền ơn 100 đồng bạc. Phần Trí Viễn được mời đến nhà hậu tạ 2000 đồng và hai cây lụa Tân Châu.


Khi đó, có một người tên Trần Trọng Nghĩa, quê ở Mỹ Tho làm thông ngôn Dây Thép (Bưu Điện) đổi về nhà giấy Tri Tôn (Xà Tón). Nghĩa mới 20 tuổi, cha mẹ mất sớm, chưa vợ con. Nho học, Tây học đều thông, nghề võ, đánh quyền cũng giỏi. Mỗi tuần vào chúa nhựt, Trần Trọng Nghĩa giao nhà cho đứa ở tên thằng Mốc coi giữ, mang súng, cưỡi ngựa lên núi một mình săn bắn và ngao du, xem phong cảnh.

Một hôm, mải theo đuổi thú săn, đến gần núi Cô Tô, thấy bên mé rừng có người con gái Cao Man cỡi trâu chạy như bạy, phía sau có hai con beo rất to đuổi theo. Trọng Nghĩa bắn chết 2 con beo, kêu cô gái lại hỏi thăm và ngạc nhiên khi cô trả lời bằng tiếng Việt rất trôi chảy. Nàng cho biết ba nàng bắt đi chăn trâu đã tám, chín năm nay chưa bị beo rượt lần nào. Lân nầy may nhờ chàng cứu sống. Trọng Nghĩa nhìn nàng, đoán thầm là người Việt hoặc có ai đó bắt bán lên Cao Man, hay cũng có duyên cớ chi đây. Vừa cất lời hỏi, nàng chưa kịp trả lời, bỗng thấy một người Cao Man từ trong mé rừng hăm hở chạy ra, vẻ mặt giận dữ, xốc lại xô nàng và chỉ tới, hình như biểu nàng phải về. Nàng mặt mày thất sắc, riu ríu đuổi trâu về. Trọng Nghĩa về nhà trằn trọc cả đêm, rồi từ đó, cứ mỗi chúa nhựt giả đi săn bắn vào chỗ cũ để mong gặp lại nàng.
Đây là quyển tiểu thuyết lấy bối cảnh lịch sử, xã hội thực tế. Việc cháy chợ Tân Châu xảy ra năm 1910 khiến nhiều gia đình ly tán, việc Lâm Trí Viễn theo trọ học ở tỉnh thành Châu Đốc cũng là hoàn cảnh của tác giả, rồi khung cảnh địa lý, vùng Miên Việt. Tóm lại, những sự kiện thật, mới lạ, lần đầu tiên được đưa lên tiểu thuyết, vì lẽ đó người ta coi đây là quyển tiểu thuyết đánh dấu bước chuyển biến quan trọng từ cũ sang mới.

Đến đây tác giả cho biết nàng tên Chăng Cà Mum, đầy tớ của một người Cao Man tên là Thạch Ung, làm Mẹ Sốc, cai quản vùng ấy, tính tình hung bạo, sâu độc, thường đày đoạ Chăng Cà Mum, đánh đập làm nàng khổ sở nhiều bề. Thạch Ung lại có đứa con trai tên Thạch Quýt, hình dung cổ quái, muốn lấy Chăng Cà Mum làm vợ, nên mỗi khi cha mẹ la rầy Chăng Cà Mum thì hắn thường kiếm lời che chở, nhờ vậy cũng đỡ cho Chăng Cà Mum khỏi chịu phần roi vọt.

Một bữa, Trọng Nghĩa gặp lại Chăng Cà Mum trong rừng. Hai người chuyện trò thân mật. Khi được hỏi về lai lịch, nàng cho biết mình vốn là người Việt Nam tên Lang, hồi lên 6 tuổi bị người ta bắt cóc đưa xuống ghe chở đi rồi đem tới sóc nầy mà bán cho lão Mẹ Sốc. Trọng Nghĩa hứa có dịp sẽ đưa nàng về miệt ngoài, rồi thăm dò tin tức xem cha nàng là ai, sẽ giao nàng cho ông. Từ đó, ngày chúa nhựt nào hai người cũng đến chỗ hẹn hò mà trò chuyện với nhau.. Trọng Nghĩa dạy nàng học chữ quốc ngữ. Sau thấy nàng có khiếu thông minh, liền dạy qua chữ Pháp. Ngày qua tháng lại, thấm thoát đã 2 năm trời, nàng học chữ Pháp cũng vừa thông chút đỉnh.

Lúc ấy Trịnh Thế Xương phó thác nhà cửa cho người cháu kêu bằng cậu là Triệu Bất Thanh để dắt con gái là Trịnh Phương Lang giả, tức Đào Phi Đáng đi du lịch Hà Tiên. Tình cờ ghé lại Châu Đốc, gặp ông Trần Trọng Nghĩa làm quen với chàng, được chàng hướng dẫn đi thăm cảnh núi Cô Tô. Trong lúc mải mê săn bắn, Trịnh Thế Xương đứng lại ngắm một bàu sen. Bỗng thấy một nàng con gái từ dưới bàu sen, tay cầm 3 đoá hoa sen, xâm xâm bước tới trước xe, dâng cho Trịnh Thế Xương. Trịnh Thế Xương thấy nàng tuy quần áo rách rưới, nhưng hình dung yểu điệu, lại thêm lời nói dịu dàng nên chạnh lòng thương xót, lấy 5 đồng bạc trao cho nàng để thưởng công. Nàng từ chối, không lãnh, tạ ơn rồi lùa trâu đi. Đào Phi Đáng thấy vậy, trong lòng ganh ghét, song chẳng nói ra.

Sáng hôm sau, Trịnh Thế Xương và Đào Phi Đáng từ giã Trọng Nghĩa rồi đi Tịnh Biên. Trong lúc ấy tại nhà Thạch Ung, Thạch Quýt xin cha mẹ ép Chăng Cà Mum làm vợ hắn. Chăng Cà Mum giả vờ nhận lời, rồi thừa lúc nửa đêm, lén bắt một con bò nhảy phóc lên lưng, chạy như bay ra Xà Tón. Trọng Nghĩa lầy quần áo của mình cho nàng cải trang, rồi tự cầm cương ngựa đánh xe đưa nàng qua Tịnh Biên tìm ông Trịnh Thế Xương. Sau khi nghe Trọng Nghĩa kể lai lịch Chăng Cà Mum, ông Trịnh Thế Xương sẵn sàng nhận nàng làm dưỡng nữ, đặt tên là Nhị Quế. Đào Phi Đáng kiếm lời ngăn cản, nhưng vô hiệu quả. Nhị Quế được cấp cho một đứa ở tên Thị Phụng. Từ đó ngày ngày Nhị Quế học ươm tơ dệt lụa, nấu ăn, làm bánh mứt, thêu thùa may vá, chưa đầy 3 tháng mà nghề nào cũng khéo, nên được mọi người đem lòng thương mến. Thừa dịp Trịnh Thế Xương bỏ quên chìa khoá, Triệu Bất Thanh lén mở tủ lấy 1000 đồng. Nhị Quế gặp Bất Thanh trong phòng cha nuôi và Thanh năn nỉ đừng tiết lộ, vì cậu y có lịnh cấm y vào phòng. Vì Nhị Quế giữ lời hứa nên khi ông Trịnh Thế Xưong hay mất tiền, hỏi cả hai người con, Phi Đáng kiếm lời vu khống cho Nhị Quế. Nhờ Thị Phụng cho biết Triệu Bất Thanh quyết hại mình, nên tính ở lâu không tiện, chờ đêm khuya trốn đi, để lại tất cả áo quần của cha nuôi sắm cho, chỉ mặc bộ đồ giả dạng con trai của Trọng Nghĩa lúc trước. Thị Phụng đưa Nhị Quế đến nhà bà Năm Thọ là mẹ nàng để nương tựa. Sau khi đọc thư Nhị Quế để lại, Trịnh Thế Xương khóc ròng, liền giục tôi tớ đi kiếm khắp nơi mà không được tin tức chi hết.

Ở nhà bà Năm Thọ, Nhị Quế nhờ em Thị Phụng là thằng Bưởi đem thơ báo tin cho Trọng Nghĩa ở Tri Tôn. Nửa đường hắn bị Thạch Quýt đón bắt, đoạt bức thơ của Chăng Cà Mum, xem xong trả lại, chỉ hỏi tên thằng Bưởi rồi thả nó đi. Tìm đến nhà thằng Bưởi, Thạch Quýt cho một người Việt Nam ở dưới ghe của hắn, nói dối là Trọng Nghĩa sai đến rước Chăng Cà Mum. Khi Chăng Cà Mum xuống ghe, thình lình Thạch Quýt ở dưới khoang chun lên, bắt Chăng Cà Mum đè xuống, nhét khăn vô họng, trói lại, bỏ xuống khoang chở về Xà Tón. Bỗng Trọng Nghĩa xuất hiện, nhảy phóc xuống ghe, đánh nhau với Thạch Quýt, hạ hắn, rồi mở trói cho Chăng Cà Mum.. Trọng Nghĩa tính giao Thạch Quýt cho làng trị tội, thì bỗng gặp ghe của Trịnh Thế Xương tới, trên đường đi du lịch cho giải khuây. Hai cha con gặp nhau mừng mừng tủi tủi. Sau khi nghe Trọng Nghĩa kể đầu đuôi, Trịnh mắng Thạch Quýt sao dám bắt con gái mình. Thạch Quýt chỉ Chăng Cà Mum nói rằng cô nầy là con nuôi của cha hắn, hồi trước có người ở Tân Châu chở qua Xà Tón mà bán cho cha hắn hồi cô ta mới 6 tuổi, nghe nói tên cô ấy là Lang. Trịnh Thế Xương nghe tên Lang thì sửng sốt, sẵn cái áo của Chăng Cà Mum vùng vẫy khi nảy mà rách một đường, Trịnh Thế Xương liền vạch ra coi, thì thấy cái bớt son nơi vai trái. Khi Trịnh Thế Xương tỏ ra thắc mắc vì cô gái ở nhà cũng tự xưng là Trịnh Phương Lang có cái bớt son, thì Thị Phụng cho biết cái bớt son của cô Hai ở nhà là cái bớt giả, cách nay mấy bữa, nó đã bay mất. Trịnh Thế Xương mở trói, tha cho Thạch Quýt, đưa con trở về Tân Châu. Đào Phi Đáng biết lộ chuyện, nhơn đêm khuya, mở rương lấy hết quần áo, vòng vàng, chuỗi hột, túm lại một gói rồi lỏn ra ngã sau trốn mất.

Khi Trọng Nghĩa qua Tân Châu, Trịnh Thế Xương kể cho chàng biết tự sự, rồi quyết định gả Phương Lang cho chàng. Triệu Bất Thanh bị ông Xương cậy làm tờ từ, rồi đuổi ra khỏi nha, cuốn gói lên Nam Vang, đến sau trôi nổi lên Biển Hồ, không biết đi đâu biệt tích. Đào Phi Đáng qua Châu Đốc, quyết tìm Lâm Trí Viễn, lúc nầy đã lên Sài Gòn học. Phi Đáng lên tuốt Sài Gòn hỏi thăm Lâm Trí Viễn mới biết cậu ta bị đau trái trời mà chết cách 3 ngày trước. Sau đó Đào Phi Đáng trở thành gái điếm, sa vào chốn lầu xanh, bị lây chứng ác mà bỏ mạng. Sau khi thành hôn, Trọng Nghĩa và Phương Lang sắp đặt việc hợp tác cho thằng Mốc và Thị Phụng. Về sau con trai của Trọng Nghĩa học giỏi, được du học bên Tây”.

NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932)
MỘT TRONG NHỮNG VỊ SÁNG LẬP ĐẠO CAO ĐÀI


Ngô Văn Chiêu là một trong những người thành lập đạo Cao Đài ở miền Nam, đạo hiệu là Ngô Minh Chiêu, sinh ngày 28 tháng Hai 1878 tại Bình Tây, Chợ Lớn. Nhắc tới ông Phủ Ngô Văn Chiêu, các tín hữu Cao Đài thường truyền tụng hai câu thơ do Đức Từ Phụ định cho số phận của Ngài như sau nầy:

“Giờ này Thầy điểm thâm công,
“Ngày sau con sẽ cỡi Rồng về Nguyên”

“Cỡi Rồng về Nguyên” tức là “thác trên sông Cửu Long”, và lời Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng cơ cho Ngô Minh Chiêu thật chính xác.

Ngô Văn Chiêu có dòng dõi quan lại ngoài Huế. Đến đời thân phụ ông là Ngô Văn Xuân về cư ngụ tại khu Hòa Hưng. Sau đó ông Xuân kết hôn với bà Lâm Thị Quí, và hạ sinh Ngô Văn Chiêu tai một ngôi nhà thờ ở phía sau chùa Quan Thánh, nơi đó bây giờ là số 242 Lê Quang Liêm, Chợ Lớn. Ít lâu sau. thân phụ và thân mẫu có việc làm ăn phải đi xa, nên gởi cậu bé mới sinh ấy cho người cô là Ngô Thị Đây, có chồng người Minh Hương, có tiệm bán thuốc Bắc tại chợ Mỹ Tho Tuy sớm côi cút, nhưng cậu bé Ngô Văn Chiêu tỏ ra một đứa bé hiền hậu, có đạo đức, chăm học và biết vâng lời. Năm 12 tuổi, cậu Ngô Văn Chiêu một mình làm gan đến nhà ông phủ Sủng (Lê Công Sủng, thân phụ công tử Phước George), tùng sự tại Tòa Bố Mỹ Tho là chỗ quen biết với song thân cậu, để nhờ chỉ bảo cách thức làm đơn xin vô học nội trú trường trung học Mỹ Tho, lúc đó còn gọi Le Myre De Vilers. Theo lời người nhà là cô Ngô Thị Nguyệt thuật lại, cậu bé Ngô Văn Chiêu trình bày hoàn cảnh của nhà mình, khiến ông phủ Sủng động lòng từ tâm, nên dẫn Ngô Văn Chiêu vào gặp tham biện Pháp để giới thiệu . Sau mấy năm học ở đó, Ngô Văn Chiêu thi đậu vào trường Chasseloup Laubat, và đến năm 21 tuổi Ngô Văn Chiêu thi đậu Thành Chung. Lúc đó vào năm 1899 và liền được bổ làm Thơ ký sở Tân Đáo (sở Di Trú).

Năm 1902. phong trào hầu đàn tiên ở Nam Kỳ bắt đầu phổ biến. Ngô Văn Chiêu lên Thủ Dầu Một (Bình Dương sau này) để cầu thọ cho thân mẫu và luôn tiện muốn biết việc tiến trình. Tiên Ông có giáng cho Ngô Văn Chiêu một bài thơ tứ tuyệt đại ý khuyên ông lo tu hành, về sau được hưởng phước.

Sau năm 1909, Ngô Văn Chiêu đổi về làm việc tại Tòa Bố Tân An. Ở đây ông giao thiệp với các bạn nhà Nho cũng có khuynh hướng tu hành, làm phước, giúp đời như các ông Một Kim (Đoàn Văn Kim), Lê Kiến Thọ (Bộ Thọ), Trần Phong Sắc (người dịch nhiều truyện Tàu), ông giáo Nguyễn Văn Vân. Ngoài việc cầu cơ. hầu đàn, Ngô Văn Chiêu cũng thường cùng các ban chơi thú tao nhã “thả cầm thi”, mướn ghe chèo trôi theo dòng nước cùng nhau xướng hoa thi văn giữa cảnh gió mát trăng thanh. Năm 1917, Ngô Văn Chiêu thi đỗ Tri huyện và cuối năm ấy thân mẫu ông lâm trọng bịnh. Đích thân ông Chiêu xuống đàn Cái Khế (Cần Thơ) cầu thuốc. Theo lời một vị cao niên là bà cu huyện Tiến, cô ruột của hội đồng Thơm ở Cần Thơ kể lại, khi vào hầu đàn, ông Chiêu ăn mặc như thường dân đứng ngoài hành lang, nhưng ơn trên giáng cơ gọi ông vào cho bài thuốc và bài thơ dài, có mấy dòng quan trọng sau đây:

“Họ Ngô gắng sức lòng mong,
Tên Chiêu xem thấy ở trong hay ngoài…
Sáu mươi hội điểm linh đằng,
Cầu cho mẹ mạnh mới bằng lòng con.
Ba ngày trọng điểm vuông tròn,
Sớ dưng cho mẹ, điểm son tha rày.”

Đai ý bài thơ ấy cho biết lần này thân mẫu ông qua khỏi cơn trong bệnh, Ngô Văn Chiêu rất mừng và tin tưởng rằng mọi việc thiện ác của ông đều có ơn trên soi xét. Vì lẽ đó ông càng làm lành lánh dữ, tu dưỡng tâm tánh, giúp đỡ mọi người. Sau lần đó. Ngô Văn Chiêu còn lên Thủ Dầu Một để hầu đàn một lần nữa. Con của chủ nhà lập đàn Minh Thiên là Trần Hiển Vinh ở chợ Thủ có thuật lại: “hôm ấy, Ngô Văn Chiêu cùng ông phủ Kim hầu đàn. Ông Kim quỳ ở trong, ông Chiêu quỳ ở ngoài. Khi quan Thánh giáng cơ, gọi tên Chiêu vào hầu và cho bài thi, đại ý nói vườn thuốc Phật Tổ đã trốc gốc. Qua đó, ông Chiêu biết số phận của mẫu thân. Hai năm sau. bà thân ông từ trần.”

Vào năm 1920, trước khi đổi đi Cần Thơ. ông Chiêu được lịnh bề trên chỉnh đốn việc cầu tiên. Trong một buổi hầu đàn có các ông Trần Phong Sắc (thông chữ Nho và quán triệt văn thơ. lịch sử nước Tàu), ông Bộ Thọ, ông Một Kim. Bài thơ được ghi nhận:

“Ngũ chơn bửu khí lâm triều thế
Giá hạc đằng vân, xiển tư nguyên…”

Có một Tiên Ông xuống xưng là Cao Đài Tiên Ông, cơ gõ mạnh và bảo ông Trần Phong Sắc sửa lại hai câu ấy. Ông Sắc vốn là nhà Nho uyên bác nhưng không biết Cao Đài Tiên Ông là ai, nên trả lời một cách sưồng sã:

- Bài thỉnh cơ nầy ra 100 năm rồi, từ bên Trung Quốc qua đây, không ai dám cho là sai, nay Ngài bảo sửa, nói vậy thiệt là trật hay sao?

Tiên Ông quơ cơ, đập vào đầu ông Sắc vô lễ, ông lẹ sụt xuống né khỏi. Kế đó đức Cao Đài Tiên Ông gọi tên Chiêu biểu sửa, ông Chiêu bèn sửa lại:

“Bửu chơn ngũ khí lâm triều thế…”

Tiên Ông khen. Kể từ đó. Trần Phong Sắc không làm tháp đàn nữa. Từ đó nghe danh Cao Đài nhưng không biết là ai, chỉ riêng ông Chiêu tin là Trời mới dám sửa kinh sách từ xưa như vậy.

Từ năm 1920-24, Ngô Văn Chiêu đổi ra làm chủ quận Hà Tiên, rồi Phú Quốc. Trước khi ông Chiêu đến, Hà Tiên có phong trào cầu tiên, hầu đàn của mấy ông Lâm Tấn Đức, Nguyễn Thành Diêu, ông Phán Ngàn…. cũng thường tổ chức cầu cơ, nhưng phải nhiều lần mới có Tiên Ông xuống cơ. Nhưng lạ lùng thay, mỗi lần ông huyện Chiêu đến hầu dàn, nguyện vái, cơ lên dễ dàng. Thạch Động là một hang đá thiên nhiên, nằm trên vệ đường từ tỉnh lỵ Hà Tìên lên biên giới, trong có chùa. Nơi đây thường diễn ra các buổi lập đàn cơ. Có lần. một Tiên Cô xưng Ngô Kim Liên cho hai bài thơ:

1- Văng vẳng nhạn kêu bạn giữa thu
Rằng trời cùng đất vẫn xa mù
Non Tây ngoảnh lại đường gai góc,
Gắng chí cho thành bực trượng phu

2- Ngần ngần trăng tỏ giữa thu,
Cái cảnh Tây phương vẫn mịt mù,
Mắt tục nào ai trông thấy đấy,
Lắm công trình mới dùng công phu.

Một lần đến hầu đàn tiên tại nhà ông Lâm Tấn Đức, một thân nhơn của nhà thơ Đông Hồ, Tiên Ông cho bài thơ:

“Cao Đài minh nguyệt Ngô Văn Chiêu,
Linh lung vạn hộc thể Quan Diêu (Nguyễn Thành Diêu)
Vô thậm Sự Đức, nhiệm ngao du,
Bích Thủy, thanh sơn, tương đối tiếu”

Khi đổi ra Phú Quốc, quan huyện Chiêu dược dân chúng mến phục vì là một vi quan hiền lành, đạo đức. Cũng như ở Hà Tiên, Phú Quốc trước khi Ngô Văn Chiêu trấn nhậm, lập đàn cầu Tiên ra khó khăn. Cầu nhiều lần Tiên Ông mới nhập một lần. Khi Ngô Văn Chiêu lập đàn, vừa vái xong là có Tiên Ông nhập, không xưng danh tánh, biểu ông Chiêu nhận làm đệ tử, sẽ được Tiên Ông truyền đạo. Về sau, ông Chiêu biết Tiên Ông đó chính là Ngọc Hoàng Thương Đế. Một lần Tiên Ông giáng cơ, dạy ông Chiêu phải ăn chay 10 ngày, lo tu nhơn, tích đức. Những người phù hô, hay hương chức địa phương thường theo hầu đàn với Ngô Văn Chiêu ở Phú Quốc là: Hương hào Khâu, ông giáo Mẫn, biện Tỳ, bà phủ Phẩm, hội đồng Phanh… Một buổi sớm mai, lối 8 glờ quan huyên Chiêu đang ngồi trên võng phía sau dinh quận đường, bỗng thấy một con mắt hiện ra rất lớn, cách xa chừng 2m, chói như mặt trời. Ông Chiêu nhắm mắt lai, rồi khấn:

- Bạch Tiên Ông, đệ tử thấy rõ cái huyền diệu của Tiên Ông rồi, xin Tiên Ông đừng làm vậy nữa, đệ tử sợ lắm. Nếu Tiên Ông muốn đê tử thờ thiên nhãn xin cho đệ
tử biết”.

Lạ thay, khi ông huyện Chiêu vái xong, thì hình con mắt mờ nhạt dần rồi biến mất. Vài hôm sau, ông Chiêu cũng mục kích con mắt sáng lòa, chói chang như mặt trời. Ông cũng nguyện sẽ tạo hình thiên nhãn để thờ, tức thì con mắt ấy biến mất. Từ đó, theo lời dạy của Tiên Ông, huyện Chiêu cho vẽ hình con mắt để thờ, và dạy rằng phải kêu Tiên Ông bằng “Thầy”. Từ đó, huyện Chiêu chính thức trở thành đệ tử đầu tiên của đức Cao Đài Tiên Ông… Ông Chiêu đọc sách, rồi suy nghiệm qua mấy bài thi, thì đoán chắc rằng “Thượng Đế giá lâm, chúa tể càn khôn, cha chung của nhơn loại mới dạy như thế mà thôi”.

Khi ông huyện Chiêu tu được 3 năm, Thượng Đế giáng cơ khuyên nhủ:

“Ba năm lao khổ độ nhứt nhơn,
Mắt thầy xem rõ lòng dạ chắc
Thương vì con trẻ hãy còn thơ,
Gắng chí tầm phương biết đạo mầu.”

Tương truyền vào buổi chiều tháng Hai 1924, ông Chiêu lên hóng mát ngoài dinh Cậu. Bỗng ông thấy giữa trời nước hiện ra một cảnh xinh đẹp, rồi khuất, lại hiện ra cảnh kế tiếp như khúc phim. Trong cảnh có hình thiên nhãn, sau nầy cầu cơ, ông Chiêu mới biết đó là cảnh Bồng Lai. Khi đổi về Sài Gòn, ông bảo một người đệ tử là Đốc học Thới vẽ lại hình con mắt như ông đã thấy để thờ.

NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932)
THỜI KỲ DỰNG ĐẠO CAO ĐÀI


Lúc nay ông phủ Chiêu đã đổi về Sài Gòn, và lấy năm 1924 gọi là năm thứ 1 Đạo Cao Đài. Ban đầu ông phủ Chiêu ngu tai Bá Huê lầu, đường Pellerin (Pasteur). được ít lâu lên ở Dakao, sau cùng đổi về đường d’Espagne (Lê Thánh Tôn). Lần chót ông Chiêu về ở tại số 10 đường Bonard. Thời gian ở Sài Gòn, ông phủ Chiêu thường tới lui chùa Ngọc Hoàng. Hằng ngày đi làm về, ông đóng cửa tu hành, ít giao thiệp. Năm sau, 1925 Đức Cao Đài dạy ông mối đao truyền ra. Ông giao du với ông Phủ Vương Quan Kỳ, cảm hóa ông Kỳ theo đạo. Ngoài ra ông Chiêu còn mời được các ông: Vương Quan Kỳ , ông phán Nguyễn Văn Hoài, ông phán Võ Văn Sang, Đốc học Đoàn Văn Bản.

Riêng ông Kỳ, từ ngày ngộ đao, cũng cảm hóa nhiều đồng nghiệp nhập đạo với mình như ông Nguyễn Thành Cương, Nguyễn Thành Diêu, Nguyên Như Đắc, Lê Văn Bảy tự Tý, Võ Văn Mẫn.

Nhóm thứ hai cũng lập đàn cầu cơ gồm các ông: Cao Huỳnh Cư (thơ ký Hỏa xa), Phạm Công Tắc (thơ ký Thương chánh), Cao Hoài Sang, cùng các ông Diêu, Đức, Thân trước năm 1925 thường hầu đàn tại nhà ông Cao Hoài Sang. Trong các buổi cầu cơ đó , chỉ có con ông Cao Huỳnh Cư là Cao Huỳnh Lương, và thân phụ ông là cụ Cao Huỳnh Tấn nhập vào cơ làm thơ xướng họa. Đúng đêm lễ Giáng Sinh (24-12-1925), các ông Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc hầu đàn được Ngọc Hoàng Thượng Đế, gọi Cao Đài Giáo đạo Nam Phương cho bài thơ:

“Muôn kiếp có ta nắm chủ quyền,
Vui lòng tu niệm hưởng ơn Thiên.
Đạo mầu rưới khắp nơi trần thế,
Ngàn tuổi muôn tên giữ trọn biên.”

Kế đến Đức Cao Đài Thượng Đế thu phục ông Lê Văn Trung vào khoảng tháng Sáu năm 1925 tai chợ gạo Phú Lâm. Một hôm ông hội đồng Nguyễn Hữu Đắc rủ ông Lê Văn Trung đi hầu đàn. Lần lần ông Trung nhiễm mùi đao, trường trai lo việc tu hành. Mãi đến ngày 28 tháng Giêng 1926 Đức Cao Đài Thương Đế giáng cơ dạy hai ông Cư và Tắc đem cơ vô nhà ông Trung ở trong Cho Lớn cho ” Thầy” dạy việc. Hai ông trên chưa biết ông Trung nên lấy làm phân vân. Khi đến nơi, ông Cư thuật rõ đầu đuôi, ông Trung rất vui mừng, lo thiết đàn. “Thầy” phán rằng đã sai Lý Thái Bạch dìu dắt ông Trung nơi đàn Chợ Gạo. Thầy dạy:

- Trung, nhất tâm nghe con. Sống cũng nơi Thầy, thành cũng nơi Thầy và đoạ cũng nơi Thầy. Con lấy sáng suốt mà suy nghĩ .

Thơ dạy rằng:

“Một trời, một đất, một nhà riêng,
Dạy dỗ nhơn sanh dặng dạ hiền
Cầm mối thiên cơ lo cứu chúng,
Đạo người vẹn vẻ mới là tiên.”

Từ đó ông Trung lo xả thân vì đạo.
NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932)
SỰ HỢP TÁC GIỮA HAI NHÓM


Không phải tự nhiên các ông Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang tìm đến hợp tác với ông Ngô Văn Chiêu, mà do sự chỉ bảo của Đức Cao Đài Thượng Đế “Các con phải đến hỏi Chiêu thì rõ”. Từ đó hai nhóm hợp nhất để khai mở đạo. Theo tài liệu “Lịch sử quan phủ Ngô Văn Chiêu”, không ghi tác giả. in lần thứ 5 thì “…mọi việc phải do nơi Chiêu là anh cả”.

Theo ông Nguyễn Trung Hậu, nhóm ông phủ Chiêu gồm 13 người:

- Vương Quan Kỳ
- Nguyễn Hoài Sang
- Võ Văn Sang
- Đoàn Văn Bản
- Lê Văn Trung
- Lê Văn Giảng
- Lý Trong Quá
- Cao Huỳnh Cư
- Phạm Công Tắc
- Cao Hoài Sang
- Nguyễn Trung Hậu
- Trương Hữu Đức

và Ngô Văn Chiêu được Ngọc Hoàng Thượng Đế tức Đức Cao Đài chọn làm . anh Cả.

Đầu tháng Hai năm 1926, ông phủ Chiêu cùng hai ông Cao Huỳnh Cư và Phạm Công Tác lần lượt tới nhà mỗi vị kể trên để mừng tân xuân. Tới đâu họ cũng hầu đàn tiên và mỗi nhà Đức Thượng Đế giáng cơ dạy bảo. Theo lời thuật của một trong các vị ấy, trong lần hầu đàn đêm 30 rạng mùng 1 Tết Bính Dần 1926, Thượng Đế giáng cơ:

“Chư đệ tử nghe ‘Chiêu – buổi trước hứa truyền đạo cứu vớt chúng sanh, nay phải y lời làm chủ mối đạo, dìu dắt môn đệ ta vào đường đạo đức đến buổi chúng nó thành công, chẳng nên tháo trúc. Phải thay mặt Ta mà dạy dỗ chúng nó”.

Trung, Kỳ, Hoài. ba con phải lo thay mặt Chiêu mà đi độ người. Nghe và tuân theo”.

Ấy là ngày Thánh giáo đầu tiên và là ngày kỷ niệm khai đạo Cao Đài về cơ Phổ Hóa (mùng1 Tết Bính Dần, tức 13 tháng Hai l926).

Đến ngày mùng 9 tháng Giệng (21-2-1926), ông phủ Kỳ có thiết đàn tại nhà riêng đường Lagrandière (Gia Long), Thượng Dế giáng cơ dạy bảo:

“Bửu toà thơ thới trổ thêm hoa,
Mấy nhánh rồi sau cũng một nhà.
Chung hiệp ráng vun nền đạo đức,
Bền lòng son sắt đến cùng ta.”

Từ đó, tai nhà riêng đường Bonard, mỗi ngày Thứ Bảy, ông phủ Chiêu có làm tiệc chạy ở trên lầu đãi các vị thay mặt ông đi giảng đạo Từ đó mới có thêm nhóm thứ 3 thành hình gồm các vị:

- Lê Bá Trang (ông phủ Trang, Sa Đéc)
- Nguyễn Ngọc Tương (phủ Tương, Mỏ Cày Bến Tre)
- Lê Văn Hóa
- Mạc Văn Nghĩa
- Nguyễn Ngọc Thơ (tức phó Tổng Thống, người Long Xuyên)
- Lê Văn Lịch
- Trần Đạo Quang
- Nguyễn Văn Kinh
- Lâm Quang Bình
- Nguyễn Văn Tường

Có lúc các ông Lê Văn Trung, Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Mạc Văn Nghĩa xuống miệt Cần Thơ, lập đàn ở chùa Vĩnh Nguyên. Lúc đó ở Cần Giuộc là nơi phủ Tương làm chủ quận, dân chúng theo nườm nượp, khiến thực dân nghi kỵ phải đổi ôung phủ Tương ra làm chủ quận Xuyên Mộc.

Đến giữa tháng Tư năm 1926, Thánh ngôn dạy các ông Cao Huỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Lê Văn Trung hay rằng Thượng Đế đã sắc phong cho Ngô Văn Chiêu. đạo hiệu Ngô Minh Chiêu chức “giáo tông” và sắm bộ Thiên phục màu trắng, có chữ “càn” của Bát quái. Mặc dù không dám nhận, nhưng Ngô Minh Chiêu cũng xuất tiền hoàn lại bộ đồ giáo tông mà các vị đã mua sắm, và gởi bộ đồ ấy về Tòa Thánh Tây Ninh để thờ cho tới nay.

Ngày 29 tháng Chín 1926, Lê Văn Trung vâng thánh ý, hiệp với tất cả đạo hữu là 247 người tại nhà ông Nguyễn Văn Tường, đứng tên vào đơn xin Khai đạo, gởi Thống Đốc Nam Kỳ. Trong số 247 vị đao hữu, có một nữ đạo hữu rất giàu, người Vũng Liêm, tục gọi là bà Huyện Xây, nhũ danh Nguyễn Hương Thanh. là người sau này mua miếng đất diện tích gần l0km2 để xây cất Tòa Thánh Tây Ninh như hiện nay. Bây giờ, trước cửa Thánh Thất đó, có một bức tượng một người đàn bà, hình nổi, đứng trên cao, đó chính là bà Nguyễn Hương Thanh. Thấy con số quá đông đảo, nên các đao hữu họp lai một lần nữa, vào ngày 7 tháng Mười 1926 lập tờ Khai Đạo, trong đó chỉ để tên 28 vị chức sắc cao cấp của ngạch quan lại, gởi lên Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol, để nhờ chuyển ra Toàn Quyền Pierre Pasquier Hà Nội. Sau đó, nền tảng Cơ Phổ Độc Cao Đài thành lập tại chùa Gò Kén Tây Ninh. Tuy nhiên vào ngày 18 tháng Mười Một 1926, tại chùa Gò Kén (Từ Lâm tự) có cuộc đại náo, làm xáo trộn, nên hòa thương Như Nhãn đòi lại ngôi chùa Gò Kén. Từ đó mới dời về làng Long Thành, mua sở rừng 100 mẫu. giá 25 000 đồng, đặt cơ sở đầu tiên cho Tòa Thánh Tây Nmh ngày nay. Ngày 27 tháng Sáu 1926 tai đàn Chiếu Minh Cần Thơ, Thương Đế giáng cơ dạy rằng:

“Tại lời nguyền của con (Chiêu) khi trước, nay Thầy hứa cho con ngồi yên tịnh, đặng dìu dắt con theo Thầy, nhưng phải độ cả chúng sanh cho kịp hội Long Hoa”. Bài thi như vầy:

CHIÊU an bá tánh khá hồi tâm.
NGHI thức thiên cơ, đạo dị tầm.
ĐỘ thế gia do công mẫn cán.
MÔN thành duy hữu đức hoàng thâm.
SANH phùng đại đạo tu cần bộ.
CHÍ ngộ chơn truyền khả tốc lâm.
LONG hổ tùng vân, du đẳng hội
HOA khôi hưu nhựt báo giai âm

Vào ngày 21 tháng Mười Hai 1926, ông huyện Bảy ở Cần Thơ hầu đàn tiên ở Cái Khế Cần Thơ thuật lại rằng:

“Hôm ấy cơ đương chạy thì gõ mạnh, và bảo người chạy ra ngoài ngõ đón vị “Tiên tịch hữu danh” vào. Liền khi đó người nhà chạy ra cửa thấy Ngô Văn Chiêu đang đi vào. Người ấy trở vào, thì cơ lại gõ mạnh như trước, ông Chiêu liền thay áo tròng khăn đen vào hầu đàn, bề trên cho cả bọn bài thơ rất dài”.

Tháng Năm 1927, các đạo hữu Chiếu Minh đàn Cần Thơ lập một nghĩa trang, có thiết đàn cầu tiên đặt tên nghĩa địa và mấy bài thơ kỷ niệm. Khi ông Ngô Văn Chiêu tu được bảy năm, Thượng Đế giáng cơ cho bài thơ:

“Thất niên dĩ cận thiểu nhơn tri,
Chiêu dụ hồi tâm, nhựt sở vi,
Tùng thử Tam kỳ hành chánh đạo.
Trí nghi nan đắc đạo vô vi.”

Dịch Nôm:

“Bảy thu lấp xấp đã gần bên
Chiêu đốc các con gắng chí bền
Muôn kiếp hội may gần chánh giáo
Trí nghi khó gặp nẻo mò lên”

NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932)
NHỮNG CHUYẾN DU LỊCH


Du lịch núi Tà Lơn (Bockor ở bên Miên): Theo kinh sách về lịch sử của ông Ngô Văn Chiêu. những cuộc du lịch là do nơi Thánh ý của Thượng Đế dạy. Mỗi lần đi đâu có đạo hữu theo hầu rất đông chừng 30 người. Các chuyến đi ấy do ông hội đồng Huy và Tư Huỳnh sắp đặt. Trước khi đi, Ngô Văn Chiêu cho ghé hầu đàn tại đàn “Đàn Chiếu Minh Cần Thơ” .Khi đọc bài “Mừng Thầy” tới câu: “Đèn lòa ngọn lửa tỏ rồng phun châu” thì Đức Thượng Đế giáng cơ như vầy:

“Phun châu nhả ngọc ngộ giai kỳ
Chu sĩ hoan phùng hội khả vi
Phổ độ Tam kỳ huờn cựu luật
Thành hoàng báo hỉ thử âm thi”

Lại khi đọc đến câu “Tiên Ông hoan lạc kiết trinh tường”, thì Đức Thượng Đế lại giảng bài thi khác:

“Trinh tường hai chữ tặng tri âm
Cựu cảnh tuy xa thế dễ tầm
Nhớ lúc Đào nguyên lòng vẹn giữ
Từ đây qua đó chẳng bao lăm.”

Ngô Văn Chiêu và đoàn tùy tùng qua tới Hà Tiên ngày 13 tháng Sáu 1928, và tối đêm ấy nghỉ tại chùa Tiên Sơn ngay trong Thạch Động. Đêm đó cầu cơ, có Sơn thần phù sứ phụng mệnh Thượng Đế điểm công ông Chiêu cùng phái đoàn:

Kể từ Sơn tự ngày nay,
Cấp thêm sứ giả theo rày hộ an
Ngày sau đến lúc khoa tràng,
Giữ tròn công quả tràng phan rước về.
Độ dân mau tỉnh giấc mê,
Chiêu con tua khá mựa hề đơn sai.
Quí * theo phụ tá hôm mai,
Cũng đồng mấy trẻ chớ nài mỏi mê.
Nhớ xưa Thế Mẫu, Trương Huề,
Đôi người chịu khó sau về toà sen.

….

Thế chê mặc thế ta cười làm ngơ.
Miễn đưa chúng khổ đến bờ,
Công thành hai trẻ ban sơ đến cùng.
Làm người hữu thỉ hữu chung,
Ngày sau mới đặng trùng phùng cựu ngôi.


(*Quí là tên ông Phán Quí. tùy tùng)
Bài thơ tứ tuyệt:

Cạn lời dặn bảo các con ôi,
Khổ hạnh đừng than, chịu một hồi,
Trong lúc lộ trình thần, thánh trợ,
Giữ bền công quả đặng cao ngôi

Đến ngày 18 tháng Sáu 1928, ông Chiêu và phái đoàn tới Đế Thiên Đế Thích.. Đêm đó cầu cơ tại chùa, Đức Như Lai có giáng thơ như sau:

“Như Kim Ngoc Đế ngự trần gian,
Lai vãng phổ an chúng hội đoàn,
Thích ly bồ đề khuyên trược cảnh,
Ca hồi Đại đạo diệc hân hoan.”

“Cho hay Phật giúp kẻ tâm nguyền,
Hồ thủy, thu thì mới gặp duyên,
Vinh diệu cửa thiền vừa phỉ nguyện,
Quí thiên thất thậ kỷ hồi nguyên.”

Sau đó. ông Chiêu về Sài Gòn nghỉ ngơi rồi làm việc trở lại. Ít lâu, ông Chiêu lại lên đường du lịch lục tỉnh. chuyến đi thứ nhất qua các tỉnh Gò Công, Mỹ Tho, Bến
Tre. và chuyến thứ hai đi Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu…Cuối năm 1931, ông Ngô Văn Chiêu tỏ vẻ yếu và mệt nhiều, và định du lịch núi Tà Lơn một chuyến nữa. rồi bỏ xác tại đó nhưng đê tử khuyên nhủ ông mới chịu trở về. Thấy sức khỏe ông kém dần, các đệ tử mới cầu cơ thỉnh ý Thượng Đế, được Từ Phụ giáng cơ day:

“Xác phàm cư tai thử xứ còn linh hồn du diễn tứ Châu phố hóa”

Sau Văn Xướng Đế Quân cho bài thơ:

“Chung qui rồi nợ ấy tiêu điều,
Đủ đức hạc đưa giữa nhạc thiều
Phơ phới gót son lên chín bực,
Vui miền thanh nhã trí phong phiêu.”

NGÔ VĂN CHIÊU (1878-1932)
LIỄU ĐẠO TRÊN “CỬU LONG GIANG”


Ông Ngô Văn Chiêu thường nói Đức Từ Phụ đã định cho ông bỏ xác trên sông Cửu Long, nên có câu:

“Giờ đây Thầy điểm thâm công.
Ngày sau con sẽ cỡi rồng về Nguyên”.

Thấy mình khó chịu đựng nổi lâu, ông Chiêu sai người nhà chuẩn bị xe để đưa ông về Tân An. Một người con gái là cô Năm Nguyệt hỏi:

“Cha đi về Tân An phải không?”

Ông Chiêu trả lời:

“Đi bí mật”.

Trên chiếc xe Traction 15 chở ông Ngô Văn Chiêu còn có mấy đạo hữu: Bà hội đồng Thơm, bà Tư Huỳnh, bà Đốc Thương, cô Nguyệt, bà Niệm, ông Đốc Thượng, ông hội đồng Huy.. Khi xe chạy gần tới phà Mỹ Thuận, mình mẩy ông Chiêu vàng như nghệ. Mua vé đò xong, chiếc bắc vừa ra giữa dòng vài ba phút. thì hồn ông Chiêu lìa khỏi xác. Người nhà ông kể lại: “Ông xuất hồn đi êm ru không ai hay biết gì cả . Tới chừng có người làm phu dò Mỹ Thuận thấy có người chết, tri hô lên:

- Mấy bà đi đâu mà đem ông già chết theo, có giấy phép không?

Rồi chiếc đò trở lại phía Vĩnh Long để đưa thi hài ông Chiêu về Cần Thơ. Hôm đó nhằm ngày 13 tháng Ba năm Nhâm Thân (18-4-1932). Theo nhiều người chứng kiến cho biết xác ông Ngô Văn Chiêu để 3 ngày mà vẫn còn tươi tỉnh như nằm ngủ. Đến khi bác sĩ khám nghiêm cho biết phải tẩm liệm chôn cho khỏi trái luật pháp. Đám tang rất giản dị. Thi hài đựng trong quan tài hình lục giác, đặt trên xe tang. Theo sau là gia đình và hàng ngàn đạo hữu. cùng những nhà tai mắt trong tỉnh. Thống Đốc cử ông Phán Chiêu xuống chịu tang. Khi xe tang ra tới phần mộ, các đệ tử khiêng quan tài để trên một nền xây sẵn, rồi tiếp tục xây gạch bao quanh cho khuất hết. Bên ngoài sẽ xây một cái tháp. Đám tang cử hành theo đúng di chúc, thầm lặng, không cử nhạc, không tụng kinh. Hàng ngàn đạo hữu im lặng đi theo sau xe tang, mặc tang phục màu trắng. Có người nói: “Quan Phủ Chiêu đắc đạo rồi, đáng mừng chớ không buồn gì hết”.

Những người lớn tuổi kể lại cuộc đời của ông huyện Ngô Văn Chiêu ở Tân An như sau: “Khi tùng sự ở Tân An, gia đình ông ngụ gần Cầu Quây, đường Lagrange. Đó là một cái nhà cây, vách ván, lợp ngói rộng rãi, sống cuộc đời giản dị. Mỗi tháng ông đều mua chim, cá để phóng sanh. Thấy trong lối xóm có người quá nghèo, muốn giúp họ, ông mượn cớ nhờ họ làm việc lặt vặt quanh nhà, rồi trả tiền gấp 5, gấp 10 cho họ. Ngày Tết, ông đi dạo chợ, thấy ai bán buôn ế ẩm, ông mua giùm hết, để cho họ có tiền sắm lễ vật đem về cúng rước ông bà. Ban đêm, ông Chiêu thường giả thường dân, len lỏi vào các xóm nghèo. Thấy ai lâm cảnh khốn cùng, ông lén bỏ tiền trước cửa rồi đi luôn, không cho họ biết. Trong đời làm quan, mỗi lần ai có chuyện thưa gởi, ông mời hai bên giảng hoà, khuyên đừng kiện tụng hơn thua, lo làm ăn, tu dưỡng đức độ.”

---------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
- Thành ngữ điển tích Danh Nhân Tự Điển của Trịnh Văn Thanh.
- Tân An Ngày Xưa của Đào Văn Hội.
- Lịch Sử Quan Phủ Ngô Văn Chiêu (1978-1932)
- Tư liệu của tác giả (Bài này rút trong “Sơ thảo” Danh nhân giai thoại Từ điển).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét