Thứ Ba, 22 tháng 12, 2015
TRÀ DƯ TỬU HẬU 7
Hôm nay, lạ! Nhậu đã khá rồi mà chẳng câu chuyện nào ra đầu ra đũa. Ông nào mở miệng cũng lạt nhách, nhận một, hai câu trả lời rồi thôi, chìm ngỉm...
-Chán quá!-Ông A đặt ly rượu vừa uống cạn xuống bàn, than.
Ông B thấy vậy, nói:
-Anh em cạn hết đề tài rồi à? Thôi nào, tôi xin mở một đề tài...Xã hội hiện nay đang cãi nhau "ỏm củ tỏi" việc bỏ hay không bỏ môn lịch sử khỏi chương trình giáo dục. Theo các ông thì thế nào, nên bỏ hay không?
-Nhưng lịch sử là gì nhỉ? -Đề tài có vẻ hấp dẫn đây, tôi vừa nói vừa nghĩ!
-Lịch sử là những câu chuyện đã từng xảy ra trong quá khứ đuợc ghi nhớ lại có hệ thống, theo trình tự không - thời gian và theo "cách nhìn nhận" của người ghi chép. -Ông A nói mạch lạc, có phần bắt đầu sôi nổi.
Im lặng một lúc, đến lượt ông B:
-Định nghĩa như thế là không đầy đủ, còn khiếm khuyết và như vậy, có thể gây ngộ nhận nghiêm trọng ...Chẳng hạn: tính ổn định tương đối của lịch sử!...
-Ấy là tôi nói đại khái thôi. Chứ nói cho tỏ tường khái niệm về lịch sử thì...mệt đấy! -Ông A phân bua.
-Phải chăng lịch sử là sự thể hiện chính xác, trung thực những gì đã từng xảy ra trong quá khứ và đã ổn định theo không-thời gian? -Tôi lên tiếng.
-Chính xác, trung thực thế quái nào được khi nhận thức đúng-sai của người chép sử bị hạn chế bởi thời đại, bởi ý thức hệ? Thí dụ nóng hổi: sự thật về nguyên nhân tàn bạo của Xtalin là gì?... -Ông A có vẻ "gây hấn".
-Đây, đây! Xin mời các bác xem. Việc gì phải cãi lộn cho khổ ra. -Ông C đã kịp dở laptop, lên mạng,"lôi ra" một "đống" khái niệm về lịch sử:
" Lịch sử
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử có thể tham khảo những môn học trừu tượng, trong đó sử dụng một câu chuyện để kiểm tra và phân tích một chuỗi các sự kiện trong quá khứ, và khách quan xác định các mô hình nhân quả đã ảnh hưởng đến các sự kiện trên. Các nhà sử học đôi khi tranh luận về bản chất của lịch sử và tính hữu dụng của nó bằng cách thảo luận nghiên cứu về chính lịch sử như một cách để cung cấp "tầm nhìn" về những vấn đề của hiện tại
Các câu chuyện phổ biến của một nền văn hóa nhất định, nhưng không được các nguồn thông tin khách quan khẳng định (ví dụ như những câu chuyện truyền thuyết về vua Arthur trong văn hóa phương Tây và Lạc Long Quân và Âu Cơ trong văn hóa Việt) thường được phân loại là di sản văn hoá hay truyền thuyết, bởi vì những câu chuyện này không hỗ trợ việc "điều tra khách quan" vốn là một yêu cầu khắt khe của bộ môn sử học.
Herodotus, một nhà sử học Hy Lạp ở thế kỷ thứ 5 TCN được coi là trong là "cha đẻ của lịch sử phương Tây", và cùng với người cùng thời Thucydides đã góp phần tạo nền tảng cho việc nghiên cứu hiện đại của lịch sử nhân loại. Các tác phẩm của họ vẫn còn được đọc cho đến tận ngày nay. Sự khác biệt giữa cách tiếp cận lịch sử tập trung vào văn hóa của Herodotus và cách tiếp cận lịch sử tập trung vào quân sự của Thucydides vẫn còn gây tranh cãi giữa các nhà sử học khi họ viết lịch sử của thời hiện đại. Ở các nước phương Đông, cuốn sử đầu tiên Kinh Xuân Thu là biên niên sử nổi tiếng được biên dịch từ 722 TCN mặc dù chỉ còn bản in ở thế kỷ thứ 2 TCN còn truyền lại đến nay.
Ảnh hưởng từ thời cổ đại đã giúp tạo ra hàng loạt các quan niệm về bản chất của lịch sử. Các quan niệm này đã phát triển qua nhiều thế kỷ và tiếp tục thay đổi cho đến ngày hôm nay. Nghiên cứu hiện đại về lịch sử có phạm vi rộng, nó bao gồm việc nghiên cứu các mảng cụ thể và nghiên cứu một số yếu tố mang tính tức thời tại chỗ hoặc theo các chủ đề điều tra lịch sử. Thường lịch sử được giảng dạy như một phần của giáo dục tiểu học và trung học, và nghiên cứu khoa học lịch sử là một môn học chính trong các khoa nghiên cứu của trường đại học.
Khái niệm
Tiếng Hy Lạp: ἱστορία, historia, có nghĩa là "sự tìm hiểu kiến thức bằng cách điều tra" Khi nói đến lịch sử, theo giải thích đơn giản, lịch sử là những gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Với ý này, lịch sử bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính xác và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử được rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra.Định nghĩa ngắn gọn của tiến sĩ Sue Peabody: lịch sử là một câu chuyện chúng ta nói chúng ta là ai.
Nhà bác học người La Mã Cicero (106-45 TCN) đưa ra quan điểm: "Historia magistra vitae" (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới "lux veritatis" (ánh sáng của sự thật).
Các định nghĩa dưới thường cũng chỉ đúng một phần, lịch sử được hiểu theo ba ý chính được các nhà nghiên cứu đồng ý:
- Việc diễn ra trong quá khứ: Những sự kiện diễn ra trong quá khứ cho đến thời điểm hiện tại, không thể thay đổi được, cố định trong không gian và thời gian, mang tính chất tuyệt đối và khách quan.
- Ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ: con người muốn nắm bắt quá khứ, diễn đạt theo sự kiện theo từ ngữ và giải thích ý nghĩa của sự kiện, mang tính chất tương đối và chủ quan của người ghi lại bằng những câu chuyện kể.
- Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong quá khứ: cách làm hoặc quá trình tập hợp những sự việc diễn ra trong quá khứ thành tài liệu cũng chính là câu chuyện kể đối với hiện tại.
Tuy nhiên cả ghi chép lịch sử cũng không có khả năng ghi chép toàn bộ khuôn mặt nó chịu sự chi phối của tri thức, giá trị quan, bối cảnh thời đại, lực lượng của người chấp bút và nó trở thành hiện tượng được ghi chép qua bộ lọc và bóp méo sự thật. Edward Hallett Carr trong tác phẩm Lịch sử là gì đã chỉ ra điều đó. Các ghi chép trong chính sử bao gồm sự phản tỉnh hay bất lợi cho kẻ thắng thường có độ tin cậy cao hơn.
Cách mô tả
Sự kiện bao gồm sự kiện bản thể luận và sự kiện nhận thức luận nên do đó, trong thực tế, chỉ có một số sự kiện lịch sử được xem là "thật". Đa số các nhà nghiên cứu các sự kiện lịch sử này (thường được gọi là sử gia) tin rằng quan điểm hiện tại của chúng ta có thể đổi cách hiểu những sự kiện xưa. Vì thế cách giải thích những sự kiện xưa thay đổi thường xuyên qua các thời kỳ. Những giải thích dựa theo các nguồn gốc "căn bản" – những văn kiện được viết ra vào lúc đó hay gần sau lúc đó – thường được xem là có giá trị nhất.Cuối thế kỷ XX, đặc biệt sau sự tan rã của hệ thống Xã hội Chủ nghĩa và kết thúc cuộc Chiến tranh Lạnh, nhiều nhà triết học nổi bật như là Francis Fukuyama ra tuyên bố lịch sử đã chấm dứt. Đây cũng là xuất phát điểm cho nhiều lý luận cơ sở hình thành nên các nhánh của môn lịch sử sau thời hậu hiện đại (after post-modernism).
Phương pháp nghiên cứu lịch sử chủ yếu là phương pháp theo tiến trình lịch sử, hoặc phương pháp logic.
Phương tây
Nhà sử học viết sử trong bối cảnh thời gian riêng của họ, và lưu ý do những ý tưởng giải thích về quá khứ chủ đạo đương đại, và đôi khi viết để cung cấp những bài học cho xã hội của họ. Theo lời của Benedetto Croce, "Tất cả lịch sử là lịch sử đương đại". Lịch sử được thúc đẩy bởi sự hình thành của một "luận thức thực sự của quá khứ thông qua các tường thuật và phân tích các sự kiện trong quá khứ liên quan đến con người. Nguyên tắc hiện đại của lịch sử là dành riêng cho các tác phẩm của cách diễn thuyết này.Người được nhắc đến đầu tiên là Herodotus, "cha đẻ của sử học", tác phẩm Historíai, ghi nhận những lời kể, câu chuyện nào đáng tin cậy hay kém tin cậy. Ông đi đến nhiều nơi để xác minh những ghi nhận tìm ra được câu chuyện lịch sử trung thực của vùng Địa Trung Hải, trong sách của ông không có một ghi chép bình luận nào về các câu chuyện được nêu ra. Theo cách này, lịch sử là câu chuyện kể, phương pháp kể lại câu chuyện được biết như phương pháp đầu tiên trong viết sử, được nhiều nhà nghiên cứu đề cao vì cho rằng sự kiện lịch sử mang tính chất khách quan nhất, trung thực nhất.
Trái với cách viết của Herodotus, Thucydides được xem là nhà sử học khoa học đầu tiên vì ông bỏ qua yếu tố thần thánh trong các sự kiện lịch sử, tác phẩm History of the Peloponnesian War[9] - kể lại cuộc chiến tranh giữa hai thành bang Sparta và Athens. Như thế, ông trở thành người thiết lập yếu tố giải thích cho sự kiện lịch sử, đưa ra nguyên sâu xa và trực tiếp đối với sự kiện lịch sử.
Về sau, các nhà sử gia châu Âu thời Trung cổ, là những người viết sử với mục đích giáo huấn, chủ yếu viết về lịch sử nhà thờ và các nhà cai trị tại địa phương, các vị vua của các triều đại. Các sử gia này xem việc diễn ra trong quá khứ như một định luật và viết sử chỉ ra bài học trong quá khứ, việc chép sử chính là công việc để nêu gương cho nhân dân và đem lại bài học cho nhà cầm quyền, thể hiện trong các tác phẩm History of the Church của Eusebius xứ Caesarea, Lịch sử người Frank của Grégoire de Tours. Như thế, thường thì các sử gia chọn chép những sự kiện nào có lợi cho nhà cầm quyền hoặc Giáo hội mà thôi.
Người đã đưa cách viết sử giải thích áp dụng vào những sự kiện lịch sử hiện đại là Leopold von Ranke, nhà sử gia Đức thế kỷ XIX, cha đẻ nền sử học hiện đại. Ông đã thiết lập nền tảng cho cách viết sử sau này với việc nhấn mạnh nguồn tư liệu, chú trọng tài liệu lưu trữ, những câu chuyện lịch sử (narrative history), phát triển lịch sử chính trị. Ranke được nhiều người nhắc đến với nguyên tắc gây nhiều tranh cãi: "Wie es eigentlich gewes" (thể hiện những gì đã thực sự diễn ra), từ nguyên tắc đó, có ý kiến cho rằng "sử gia chỉ nên đưa ra các sự kiện lịch sử và không kèm theo bất cứ quan điểm cá nhân nào; và một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng ý của Ranke là sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử và tìm ra tư tưởng phổ biến của thời đại tác động lên những sự kiện này".
Hồi giáo
Á Đông
Trung Quốc
Vào thời Tây Hán sử gia Trung Quốc, Tư Mã Thiên (司馬遷) (145 – 90 TCN) được xem là "cha đẻ sử học Trung Quốc", đã dùng cách viết biên niên để soạn tác phẩm Sử ký ("Những ghi chép của nhà sử học vĩ đại") ghi chép lại những câu lịch sử Trung Quốc theo thời gian, không có lời bình luận nào trong sách. Nó đã xây dựng một phong cách viết sử mà sau này trở thành "khuôn mẫu chính thức" cho tài liệu lịch sử Trung Hoa. Trong Sử ký, Tư Mã Thiên trình bày các sự kiện theo chuỗi kèm theo chú giải, nguồn tham khảo. Công trình này gồm 526.500 chữ, 130 thiên; không theo trình tự thời gian, mà theo 5 chủ đề, bao gồm bản kỷ, biểu, thư, thế gia, liệt truyện; viết về nhiều lĩnh vực của xã hội gồm âm nhạc, lễ hội, lịch, tín ngưỡng, kinh tế; kèm theo một nguồn tham khảo lớn. Trước ông, lịch sử được viết dành cho triều đình. Phong cách viết sử mở rộng cho nhiều mặt của xã hội trong Sử ký sau này ảnh hưởng đến Trịnh Tiều (鄭樵 - Zhèngqiáo) khi viết Thông sử (通史 - Tongshi) hay Tư Mã Quang (司馬光 - Sima Guang) khi viết Tư trì thông giám (資治通鑑 - Zizhi Tongjian). Phong cách này còn ảnh hưởng đến cách viết sử của các nước láng giềng, như Triều Tiên.- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 03:22 ngày 8 tháng 10 năm 2015."
"Lịch sử là gì? Kim Oanh | ||||||||||||||||
Một số khái niệm lịch sử Khi nói đến lịch sử, theo giải thích đơn giản, lịch sử là những gì thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Với ý này, lịch sử bao trùm tất cả mọi lĩnh vực trong xã hội, đa diện do đó khó định nghĩa chính xác và đầy đủ. Vì thế, định nghĩa về lịch sử được rất nhiều nhà nghiên cứu đưa ra. Định nghĩa ngắn gọn của Ts. Sue Peabody: lịch sử là một câu chuyện chúng ta nói chúng ta là ai. Nhà bác học người La Mã Cicéron (106-45 TCN) đưa ra quan điểm:“historia magistra vitae” (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới “lux veritatis” (ánh sáng của sự thật) Và Gs Hà Văn Tấn có viết, lịch sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý thức chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép sử vì những mục đích khác nhau. Theo Ts Trần Thị Bích Ngọc , các định nghĩa thường cũng chỉ đúng một phần, lịch sử được hiểu theo 3 ý chính được các nhà nghiên cứu đồng ý: - Việc diễn ra trong quá khứ: những sự kiện (biến cố/ event) diễn ra trong quá khứ cho đến thời điểm hiện tại, không thể thay đổi được, cố định trong không gian và thời gian, mang tính chất tuyệt đối và khách quan. - Ghi lại những việc diễn ra trong quá khứ: con người muốn nắm bắt quá khứ, diễn đạt theo sự kiện theo từ ngữ và giải thích ý nghĩa của sự kiện, mang tính chất tương đối và chủ quan của người ghi lại bằng những câu chuyện kể. - Làm thành tài liệu của việc diễn ra trong quá khứ: cách làm hoặc quá trình tập hợp những sự việc diễn ra trong quá khứ thành tài liệu cũng chính là câu chuyện kể đối với hiện tại. Để hiểu lịch sử hoặc ngành sử học phải dựa vào cách viết sử của những sử gia từ xưa đến nay. Vì cũng theo Ts Trần Thị Bích Ngọc giải thích, kiến thức về lịch sử thường được xem là bao gồm cả hai, kiến thức về những biến cố của quá khứ và những kỹ năng suy nghĩ và giải thích quá khứ Những cách viết sử của sử gia từ xưa đến nay Người được nhắc đến đầu tiên là Herodotus (sống vào thế kỷ V TCN), “cha đẻ của sử học”, tác phẩm The Histories , ghi nhận những lời kể, câu chuyện nào đáng tin cậy hay kém tin cậy. Ông đi đến nhiều nơi để xác minh những ghi nhận tìm ra được câu chuyện lịch sử trung thực của vùng Địa Trung Hải, trong sách của ông không có một ghi chép bình luận nào về các câu chuyện được nêu ra. Theo cách này, lịch sử là câu chuyện kể, phương pháp kể lại câu chuyện được biết như phương pháp đầu tiên trong viết sử, được nhiều nhà nghiên cứu đề cao vì cho rằng sự kiện lịch sử mang tính chất khách quan nhất, trung thực nhất. Trái với cách viết của Herodotus, Thucydides được xem là nhà sử học khoa học đầu tiên vì ông bỏ qua yếu tố thần thánh trong các sự kiện lịch sử, tác phẩm History of the Peloponnesian War - kể lại cuộc chiến tranh giữa hai thành bang Sparta và Athens. Như thế, ông trở thành người thiết lập yếu tố giải thích cho sự kiện lịch sử, đưa ra nguyên sâu xa và trực tiếp đối với sự kiện lịch sử. Về sau, các nhà sử gia châu Âu thời Trung cổ, là những người viết sử với mục đích giáo huấn, chủ yếu viết về lịch sử nhà thờ và các nhà cai trị tại địa phương (lãnh chúa), các vị vua của các triều đại. Các sử gia này xem việc diễn ra trong quá khứ như một định luật và viết sử chỉ ra bài học trong quá khứ, việc chép sử chính là công việc để nêu gương cho nhân dân và đem lại bài học cho nhà cầm quyền , thể hiện trong các tác phẩm History of the Church (Eusebius of Caesarea), History of the Franks (Gregory of Tours)…. Như thế, thường thì các sử gia chọn chép những sự kiện nào có lợi cho nhà cầm quyền hoặc Giáo hội mà thôi. Người đã đưa cách viết sử giải thích áp dụng vào những sự kiện lịch sử hiện đại là Leopold von Ranke[10], nhà sử gia Đức thế kỷ XIX, cha đẻ nền sử học hiện đại. Cũng theo Trần Thị Bích Ngọc, Ranke đã thiết lập nền tảng cho cách viết sử sau này với việc nhấn mạnh nguồn tư liệu, chú trọng tài liệu lưu trữ, những câu chuyện lịch sử (narrative history), phát triển lịch sử chính trị. Ranke được nhiều người nhắc đến với nguyên tắc gây nhiều tranh cãi: “wie es eigentlich gewes” (thể hiện những gì đã thực sự diễn ra), từ nguyên tắc đó, có ý kiến cho rằng “sử gia chỉ nên đưa ra các sự kiện lịch sử và không kèm theo bất cứ quan điểm cá nhân nào; và một số nhà nghiên cứu khác thì cho rằng ý của Ranke là sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử và tìm ra tư tưởng phổ biến của thời đại tác động lên những sự kiện này” Tiếp sau là trường phái Biên niên sử do Marc Bloch và Lucien Febvre sáng lập năm 1929, lịch sử được hiểu là nghiên cứu về sự thay đổi qua thời gian của bất cứ một xã hội nào được chọn để nghiên cứu . Trước đó rất lâu, sử gia Trung Quốc, Tư Mã Thiên (Sima Qian) (145 – 90 TCN) được xem là “cha đẻ sử học Trung Quốc”, đã dùng cách viết biên niên để soạn tác phẩm Shiji (Những ghi chép của nhà sử học vĩ đại), được biết đến với tên khác: Sử ký chép lại những câu lịch sử Trung Quốc theo thời gian, không có lời bình luận nào trong sách. Bên cạnh cách viết Biên niên được nhiều nhà nghiên cứu cho là quay lại đúng với tính chất lịch sử, một số sử gia Châu Âu chịu ảnh hưởng từ trường phái Hậu hiện đại. Trường phái Hậu hiện đại được khởi xướng trong những năm 1960 của thế kỷ XX, do những triết gia cũng là những nhà phê bình văn học, lý thuyết văn học và sử gia như Roland Barthes (1915 – 1980), Michel Foucault (1926 – 1984), Jean Francois Lyotard (1924 – 1998), Jacques Derrida (1930 – 2004), Jean Baudrillas (1929 – 2007), Julia Kristeva (1941 - )… khởi xướng. Chủ nghĩa Hậu hiện đại là phản ứng quyết liệt chống lại chủ nghĩa duy nền tảng (anti – foundationalism) hay tinh thần duy nền tảng. Lý thuyết hậu hiện đại là lý thuyết phá hủy những chân lý nền tảng, tấn công các phương pháp truyền thống (trong triết học, văn học, ngôn ngữ học, sử học, hội họa, kiến trúc…) hay đúng hơn là lý thuyết chống lại các lý thuyết của các trường phái đi trước đó . Trường phái Hậu hiện đại được vận dụng trong tất cả các lĩnh vực khoa học xã hội, trong sử học, các sử gia chịu ảnh hưởng trường phái này đã phản bác quan niệm lịch sử phải như một con đường tuyến tính, nghĩa là một thứ biên niên sử theo lịch đại, bao gồm các sự kiện tất yếu, nhằm thuật lại một câu chuyện có nghĩa… Họ phản bác lịch sử theo lý thuyết lớn, không có một lý thuyết chung áp dụng cho tất cả mọi nơi, mọi thời kỳ. Theo họ, lịch sử địa phương (theo nghĩa một vấn đề lịch sử của địa phương) hay chuyên luận về những vấn đề lịch sử cụ thể nào đó … là chính xác và có thể vẽ lại rõ ràng những chi tiết của các sự kiện đã xảy ra tại một vùng nào đó, trong khoảng thời gian nào đó của quá khứ. Một số sử gia nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam trong những năm gần đây theo trường phái này như Li Tana, Philip Taylor, Shawn McHale, Christian Appy … hướng cách tìm hiểu lịch sử theo phương pháp dân tộc ký (ethnography) bao gồm các hoạt động phỏng vấn, đi điền dã … nhằm tập trung phân tích sâu một sự kiện lịch sử, kết nối các sự kiện lịch sử của một vùng nào đó nhằm đưa ra giải thích mới về những sự kiện này. Tương ứng với các trường phái của các sử gia các nước, từ các bộ sử của các nhà viết sử Việt Nam có thể liên hệ các sử gia Việt Nam với các trường phái cho dễ nhớ và dễ hiểu. Với cách viết lịch sử như những câu chuyện, có thể nhắc đến Lê Quý Đôn với Phủ Biên tạp lục hoàn thành vào năm 1776. Sách được ông viết từ những ghi nhận khi đi qua các nơi trong trấn Thuận Hóa nhằm mục đích: “cuốn sách nhỏ này âu cũng là để ghi nhớ những sự việc của chốn biên ải thôi. Song, các bậc quân tử ở triều đình, nếu như có người nào đó không ra khỏi nhà mà cũng muốn tra cứu sự tích ở nam thùy, tức là muốn biết được những việc ở ngoài muôn dặm, thì cuốn tạp lục này cũng có thể cung ứng một phần nhàn lãm vậy” Và, theo quan điểm sử gia phải khám phá các sự kiện lịch sử dựa trên nguồn tư liệu, chú trọng tài liệu lưu trữ, học giả Tạ Chí Đại Trường được xem là tiêu biểu của cách viết sử này. Trong phần bên lề của công trình Bài sử khác cho Việt Nam, Tạ Chí Đại Trường (2005:1) viết: Lịch sử chỉ là những tiếp diễn của sự kiện mà không có cùng đích. Với quan điểm, là người muốn tìm hiểu sử học nghiêm túc, khi viết một điều gì thì không phải chỉ cho người cầm bút mà còn phải quan tâm đến người đọc, viết sử không chỉ là việc sắp xếp các sự kiện lịch sử suốt cả ngàn năm mà đưa ra giải thích của những sai lầm của các nhà viết sử trước, những điều đưa ra được xem là cái “khác”, làm “khác” đi, làm “khác” đi thì những điều khó khăn phái nói thật không cùng, nhưng làm khác đi không có nghĩa là vượt qua được những điều người trước đã gặp. Cho nên dù sao cũng phải có những thỏa hợp ở mức độ nào đó đề cho “bài sử khác” vẫn là bài sử Việt Nam (Tạ Chí Đại Trường, 2005: 7). Bài sử khác cho Việt Nam của Tạ Chí Đại Trường là sự đối chiếu với những công trình sử học của các sử quan thời phong kiến. Cách viết sử của sử quan thời phong kiến là sự kết hợp hai trường phái biên niên và giáo huấn. Số lượng công trình nhiều nhất và được xem là “tư liệu gốc” cho nghiên cứu thuộc về các bộ sử của Quốc sử quán nhà Nguyễn như: Đại Nam thực lục, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ…, được xem là sự kế thừa của các bộ sử Đại Việt sử kí, Đại Việt sử kí toàn thư…. Những dòng đầu tiên trong Đại Việt sử ký tục biên của Phạm Công Trứ giải thích cho sự mẫu mực sử học phong kiến: “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc. Có chính trị của một đời tất phải có sử của một đời. Mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận rất nghiêm, tô điểm việc chính trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng, răn đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị không phải là ít. Cho nên mới làm ra quốc sử” Còn theo cách viết biên niên, một số công trình của các nhà nghiên cứu gần đây đã được xuất bản như: Việt Nam – những sự kiện lịch sử (Viện Sử học), Biên niên sử Việt Nam (Đỗ Đức Hùng)… được soạn thảo để hệ thống các sự kiện lịch sử Việt Nam dù cách viết khác hơn, không phải tập hợp những câu chuyện mà chỉ liệt kê những sự kiện lịch sử theo thời gian giúp người đọc hoặc nghiên cứu có thể tra cứu hoặc đối chiếu các sự kiện lịch sử một cách nhanh chóng. Một cách viết sử nâng lên thành trường phái, được vận dụng nhiều ở Việt Nam là trường phái Marxist dựa trên chủ nghĩa duy vật lịch sử của Karl Marx. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx chú trọng quan hệ giữa con người với quá trình sản xuất, tìm ra hệ thống những quan hệ sản suất tồn tại mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Marx xem lịch sử “là bản thân hiện thực khách quan, tồn tại và phát triển theo một logic, không phụ thuộc ý thức của con người” . Do đó, phương pháp nghiên cứu theo chủ nghĩa Marx là phương pháp lịch sử và phương pháp logic, xem hai phương pháp này là hai mặt biểu hiện biện chứng. Theo đó, sử luận Marxist được xem là cung cấp nền tảng vững chắc cho lịch sử xã hội. Sử gia Việt Nam theo hai phương pháp này là chủ yếu, theo hướng phân tích biện chứng sự hình thành xã hội, phân tích vai trò của các giai cấp… Tuy nhiên, lịch sử gắn liền với chính trị, ảnh hưởng yếu tố chính trị chi phối cách viết sử của một số nhà sử học Việt Nam, có thể nhìn thấy rõ nhất trong nghiên cứu của Giáo sư Trần Văn Giàu và Gs Đinh Xuân Lâm , nguồn sử liệu lớn trong những tác phẩm của ông là vô cùng lớn nhưng ông cũng cho thấy cách viết theo khuynh hướng chính trị rõ nét khi đưa ra cách nhìn nhận đối với phong kiến. Cũng theo quan điểm Marxist, Gs Đào Duy Anh được xem là người coi trọng việc giám định sử liệu. Trong nghiên cứu sử học, đối với ông, "phải chuyên tâm nghiên cứu lịch sử vì chỉ có hiểu biết đầy đủ lịch sử dân tộc thì mới có thể chắt lọc ra đâu là những yếu tố truyền thống, đâu là những yếu tố ngoại lai" Một trường hợp đặc biệt trong sử học Việt Nam hiện đại, Đại tướng Võ Nguyên Giáp – người được biết đến về tài quân sự, nhà sử học đồng thời cũng là nhân vật lịch sử. Lịch sử được ông viết lại bởi những hồi ký, ký sự, những bài viết giá trị tái hiện thời kỳ bản thân ông trải qua. Theo Gs Phan Huy Lê, Đại tướng vừa làm sử, vừa viết sử, một sự kết hợp hiếm có của tài năng quân sự với tài năng sử học . Qua các bài viết của Võ Nguyên Giáp, cách viết của ông theo trường phái đưa giải thích vào sự kiện, phân tích nguyên nhân đối với sự kiện. Gần đây, cùng theo hướng nghiên cứu lịch sử địa phương theo trường phái Hậu hiện đại, các nhà sử học Việt Nam hiện nay đang chú trọng đến việc định hướng cho các công trình nghiên cứu mới, chọn một vấn đề hoặc một địa phương nào đó để tìm hiểu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu lịch sử địa phương đã được một số người lựa chọn cách đây rất lâu như Nguyễn Văn Hầu (viết về vùng đất An Giang), Vương Hồng Sển (viết về Gia Định), Sơn Nam (tìm hiểu về lịch sử vùng đất Nam Bộ, được xem là người am hiểu về vùng đất này)… Qua việc tìm hiểu ban đầu những cách viết sử để hiểu quan niệm lịch sử của những nhà nghiên cứu thế giới và Việt Nam, có thể nhận ra mỗi người nghiên cứu có thể lựa chọn một cách viết sử riêng theo trường phái riêng, có thể loại bỏ sự áp đặt vô hình mà tôi đã từng gặp đó là nghiên cứu lịch sử chỉ theo phương pháp lịch sử và phương pháp logic mà thực chất đó là hai phương pháp thuộc trường phái Marxist. Có thể thấy, những nhà nghiên cứu lịch sử có thể chọn chủ đề lịch sử nhỏ mang tính chất địa phương để nghiên cứu không cần theo chủ đề bao quát và chọn phương pháp điền dã, phỏng vấn, mô tả để tập trung vào những sự kiện một vùng nào đó cũng có thể xem như thu lượm những câu chuyện của quá khứ ở địa phương đó hoặc kể lại chính câu chuyện của người viết trong quá trình tìm hiểu. Đó chính là khuynh hướng viết sử theo trường phái Hậu hiện đại mà những nhà nghiên cứu sử Việt Nam đang tập trung chú ý đến." .................... Và ý định từ bỏ nó: " Thất vọng với ý tưởng bỏ môn lịch sử!
07/11/2015 22:38
“Bộ Giáo dục và Đào tạo luôn lập luận không bỏ môn lịch sử nhưng theo tôi, đó chỉ là cách nói và chúng tôi rất nghi ngờ” - nhà sử học Dương Trung Quốc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, đại biểu Quốc hội - trăn trở- Ông Dương Trung Quốc: Đề án này nằm trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể mà Bộ GD-ĐT đang xây dựng theo Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT với mục tiêu đào tạo lớp học sinh không chỉ được trang bị kiến thức thuần túy mà còn nâng cao năng lực…
Ông Dương Trung Quốc Ảnh: BẢO TRÂN
Đề án “gạch tên” môn lịch sử này thấy trên mạng internet nhưng giới sử học chúng tôi chỉ mới được tiếp cận chính thức trong một cuộc họp cách đây vài ngày (hội thảo “Tích hợp giáo dục lịch sử, giáo dục quốc phòng an ninh và giáo dục công dân hợp thành môn công dân với Tổ quốc trong chương trình giáo dục phổ thông mới” do Bộ GD-ĐT tổ chức ngày 3-11 - PV). Kết quả là nhiều thất vọng với ý tưởng “khai tử” môn lịch sử. Thất vọng không phải vì mọi người không ủng hộ Bộ GD-ĐT tìm ra phương hướng phát triển trong sự nghiệp trồng người mà thất vọng vì 2 điều. Thứ nhất là những gì mà Bộ GD-ĐT đã làm, tạo nên thực trạng GD-ĐT hiện nay. Thứ hai là cách làm, cách triển khai. Tại hội thảo, tôi đã có góp ý rằng Bộ GD-ĐT cần hết sức thận trọng. Có điều, dường như những người đưa ra ý tưởng và triển khai sự “đổi mới” này đã quá tự tin vào việc vận dụng mô hình tích hợp theo hướng giảm nhẹ áp lực học cho học sinh, đi sâu vào trang bị kiến thức, kỹ năng cơ bản. Bộ GD-ĐT luôn lập luận không bỏ môn lịch sử nhưng theo tôi, đó chỉ là cách nói và chúng tôi rất nghi ngờ. Bởi lẽ, vấn đề dạy và học lịch sử đã được báo động cách đây 2 thập kỷ, ở thời điểm năm 1996. Báo Tuổi Trẻ đã tiến hành một điều tra độc lập về sự quan tâm đối với môn lịch sử trong giới học sinh. Song, vấn đề thờ ơ, lạnh nhạt với môn lịch sử vẫn ngày càng trầm trọng. Mặc dù có nhiều lý do để dẫn đến tình cảnh này nhưng lẽ ra, thay vì Bộ GD-ĐT tăng cường cải thiện tình hình, khắc phục hạn chế để thúc đẩy môn lịch sử thì nay lại chủ trương thay đổi bằng một phương thức hoàn toàn mới. Dù môn lịch sử vẫn được dạy ở một số môn học tích hợp nhưng đến giai đoạn quan trọng nhất là bậc THPT thì lại tích hợp gộp 3 môn lại. Vấn đề đặt ra, mục tiêu của tích hợp là gì thì Bộ GD-ĐT chưa lý giải được thấu đáo hay chỉ đơn thuần là con số cộng. Mặt khác, để lịch sử đứng độc lập là môn riêng còn nan giải thì nay đem tích hợp thì sẽ mang lại hiệu quả ra sao? Bên cạnh đó, Bộ GD-ĐT muốn thay đổi bất cứ điều gì cũng cần căn cứ trên cơ sở luật pháp. Cụ thể, môn giáo dục quốc phòng - an ninh có hẳn bộ luật riêng là Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh, có thể gọi riêng, được định vị rõ ràng, nay lại xóa cả môn học như không có gì. Nhiều nước phát triển đặt môn lịch sử ở vị trí rất quan trọng. Thay vì ý tưởng “khai tử” môn lịch sử trong chương trình bằng cách tích hợp với môn khác, theo ông, tại sao Bộ GD-ĐT không đưa ra giải pháp đổi mới phương pháp dạy học môn này để hấp dẫn học sinh? - Chúng tôi không tán thành cách ứng xử với môn lịch sử của Bộ GD-ĐT. Mặc dù chúng tôi hết sức ủng hộ việc đổi mới để có kết quả tốt hơn nhưng không phải theo cách “cái gì không làm được thì bỏ đi”. Đáng nói là lại thay đổi bằng một thứ mà chưa biết rõ là gì, hiệu quả ra sao, chỉ căn cứ vào tinh thần của Nghị quyết 29 là “tích hợp”. Trước khi đưa ra dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, Bộ GD-ĐT có lấy ý kiến của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam không, thưa ông? - Chúng tôi mong muốn Bộ GD-ĐT nên tham khảo, tranh thủ ý kiến của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cũng như nhiều tổ chức liên quan trong quá trình xây dựng dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Ngay trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam đã có riêng một bộ phận giảng dạy lịch sử. Chúng tôi rất ngạc nhiên với cách làm của Bộ GD-ĐT khi không hề tham khảo ý kiến của hội cho đến cuộc hội thảo hôm 3-11 vừa qua. Ngay cả tại hội thảo, những người tham dự, trong đó có tôi, rất lấy làm thất vọng khi những ý kiến đóng góp từ giới sử học được đáp lại bằng việc đại diện bên soạn thảo luôn khẳng định cách làm của họ là đúng, không có gì sai. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam và cá nhân ông sẽ có văn bản phản ứng, kiến nghị về ý tưởng “khai tử” môn lịch sử của Bộ GD-ĐT? - Quan điểm là chúng tôi hết sức lắng nghe, không có phản ứng quá sớm. Nhưng sau cuộc hội thảo gần đây do Bộ GD-ĐT chủ trì thì chúng tôi buộc phải lên tiếng. Giữa tháng 11-2015 sẽ có cuộc hội thảo riêng về vấn đề này. Tại đây, chúng tôi sẽ tiếp tục trình bày rõ quan điểm của mình.
Không thể lãng quên lịch sử
“Chúng tôi chia sẻ với mong muốn của Bộ GD-ĐT là tìm một giải pháp tốt nhưng cung cách làm của bộ gây ra sự không yên tâm. Đặc biệt, tích hợp mới chỉ là ý tưởng mà chưa có một thử nghiệm hay giáo trình, phương hướng cơ bản nào. Đây chỉ là dự án của một nhóm tác giả do Bộ GD-ĐT chỉ đạo, chưa từng được lấy ý kiến rộng rãi mà đã tuyên bố như công cụ để thay thế. Không phải giới lịch sử chúng tôi đề cao môn học này mà bối cảnh tình hình đất nước, láng giềng, khu vực và quốc tế như hiện nay cho thấy vấn đề chủ quyền, hội nhập là rất hệ trọng. Vì thế, hơn bao giờ hết, không thể lãng quên lịch sử, đánh mất mình. Do vậy, nếu muốn thay đổi thì cần làm hết sức cẩn trọng, không thể làm đơn giản” - ông Dương Trung Quốc nhìn nhận.
Bảo Trân thực hiện"
"Môn lịch sử bị khai tử bằng cuộc cưỡng duyên kì lạ?
15/11/2015 17:36 GMT+7
TTO - Tại Hội thảo khoa học về
môn lịch sử vào ngày 15-11, giới chuyên môn đã đanh thép chỉ trích Bộ
GD-ĐT đang “khai tử môn lịch sử” khi xây dựng chương trình giáo dục phổ
thông mới.
Hạ thấp vai trò môn lịch sử
GS Ngọc cho rằng sở dĩ môn lịch sử trong chương trình hiện hành bị
héo hắt, lụi tàn là do nhiều năm qua bị xem là môn học phụ, không nằm
trong nhóm môn học bắt buộc phải thi tốt nghiệp THPT nên nhiều học sinh
không học, hoặc chỉ học đối phó.Trong hoàn cảnh khốn khó đó, Bộ GD-ĐT chẳng những không nhận ra việc đặt nhầm vị trí môn lịch sử mà lại thiết kế chương trình giáo dục phổ thông đưa nội dung môn lịch sử tích hợp trong môn học khác. “Nền giáo dục nước ta liệu có còn dựa trên nền tảng lịch sử, văn hóa, dân tộc, có tôn trọng truyền thống đạo lý của VN nữa hay không”, GS Ngọc phản biện gay gắt.
Hầu hết các ý kiến tại hội thảo đều chỉ trích Bộ GD-ĐT đã khai tử, đã xóa bỏ, vùi dập môn lịch sử và hệ lụy của điều này là những thế hệ học sinh không hiểu lịch sử, không biết đến cội nguồn. Thậm chí nhiều nhà sử học đã đặt ra những vấn đề nghiêm trọng hơn như việc Bộ GD-ĐT đang làm đi ngược với mục tiêu bảo vệ an ninh, chủ quyền dân tộc…
Đại diện Bộ GD-ĐT vẫn khẳng định với cách làm mới, Bộ GD-ĐT kỳ vọng các thế hệ trẻ sẽ hiểu biết và yêu lịch sử hơn. “Có thể việc chúng tôi định hướng còn cần điều chỉnh và điều chúng tôi mong ở các chuyên gia, nhà sử học là góp ý thiện chí cho chúng tôi về cách làm, chúng tôi sẵn sàng lắng nghe, tiếp thu những ý kiến xác đáng, có cơ sở khoa học, thực tiễn, chứ không nên chỉ trích Bộ GD-ĐT là "xóa bỏ môn Lịch sử”, nói như thế là hoàn toàn không đúng” - ông Hiển chia sẻ. Ông Đoàn Văn Ninh, phó Vụ trưởng Vụ giáo dục trung học, thường trực ban soạn thảo chương trình giáo dục phổ thông cho rằng cách bố trí trên chỉ là thay đổi cách thực hiện nhằm mục đích giáo dục lịch sử hiệu quả hơn, chứ không loại bỏ môn lịch sử.
Đã có tiền lệ thì không thể gọi là đổi mới!
Tại hội thảo, ý kiến được coi là “đúng hướng cần bàn” hơn cả là của
GS Trần Thị Vinh, khoa Lịch sử, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Bà Vinh cho
rằng việc xây dựng môn học Công dân với Tổ quốc bao gồm ba phân môn giáo
dục đạo đức, lịch sử, giáo dục quốc phòng an ninh là không có tính khả
thi. Đây là sự lắp ghép thiếu cơ sở khoa học do ba phân môn trên có đối
tượng, mục tiêu, phương pháp giảng dạy khác nhau.“Ai là người giảng dạy môn học lắp ghép nhiều kiến thức tổng hợp như thế. Và việc biên soạn chương trình SGK cho môn học lắp ghép này cũng rất khó khăn. Nếu người nào làm được, chúng tôi phải cắp sách đến học”, bà Vinh nói. GS Trần Thị Vinh cũng cho rằng một môn học có tên Công dân với Tổ quốc chưa từng thấy nước nào có, chưa có tiền lệ nào cho việc hình thành một môn học có tính “lắp ghép” này.
Ông Hiển cũng khẳng định môn Công dân với Tổ quốc chắc chắn không phải môn lắp ghép cơ học. Ông Hiển cũng cho rằng “tích hợp không thể hiểu là giảm bớt môn học, ghép nhiều môn học vào một môn mà là cách để lược bỏ những nội dung trùng lặp, phối hợp, hỗ trợ giữa các nội dung khác nhau để thực hiện hiệu quả mục đích giáo dục”.
-Ồi dào! Quanh đi quẩn lại cũng thế thôi, nói đến thế là hết cỡ!...-Ông A mở miệng khi đã đọc xong
laptop và đã tợp một tợp rượu. -Nói "túm lại" cho nhanh, lịch sử chân
chính là sự thể hiện lại quá khứ một cách trung thực nhất, trung thành
nhất có thể, là kinh nghiệm-kiến thức rút tỉa được từ quá khứ, là những
bài học đúng-sai, tốt-xấu trong đạo đức làm người, là tinh hoa văn hóa
đã được hun đúc lại thành truyền thống của một dân tộc, là chắt lọc thành phong tục tập quán của dân tộc đó. Cho nên giáo dục
mà bỏ môn học lịch sử thì giáo dục cái gì!?...
-Nhưng làm sao có được một lịch sử đúng là lịch sử? -Tôi thắc mắc. -Dựa trên nền tảng quan niệm của Đại Chúng để chép, để đánh giá lịch sử thì hầu như bao giờ cũng đúng! Đơn giản vì Đại Chúng luôn lấy sống còn làm tối thượng và là nhân vật chính làm nên lịch sử! Thí dụ, có những đánh giá khác nhau về vua Tự Đức, nhưng đánh giá đúng nhất là của Đại Chúng: yếu hèn và độc ác. Còn đó: "Từ ngày Tự Đức lên ngôi/Cơn chẳng đầy nồi trẻ khóc như ri/Bao giờ Tự Đức chết đi/Thiên hạ bình thì mới dễ làm ăn", hay còn lưu trong dân gian câu nói của Tự Đức: "Nay xin đánh, mai xin đánh, đánh thua rồi thì đặt trẫm ngồi đâu". -Ông A ôn tồn. Đến đây, như vỡ lẽ, ông B chen ngang: - Do vậy, không thể bỏ môn lịch sử, thâm chí, phải coi đó là môn học chính mới phải! -bất chợt, ông B la lớn: "Lũ mù quáng! Đồ vô công, rỗi nghề, đồ ngu ngốc!". Ông C thấy vậy vỗ vai ông B: -Thôi nào, bớt nóng! Má bác nói ai thế? Đây này! -Ông C lại chỉ vào laptop: "Quốc hội ra nghị quyết giữ môn Lịch sử trong chương trình sách giáo khoa
Chiều
27/11, khép lại kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về hoạt
động giám sát chuyên đề, trong đó yêu cầu "tiếp tục giữ môn học Lịch sử
trong chương trình sách giáo khoa mới".
Quốc hội yêu cầu, việc thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông phải bảo đảm mục tiêu, yêu cầu và nội dung của nghị
quyết Quốc hội đề ra trước đó, tiếp tục giữ môn học Lịch sử trong chương
trình sách giáo khoa mới.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần sớm quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục
nghề nghiệp theo quy định của Luật giáo dục nghề nghiệp, tiếp tục đổi
mới quản lý nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực dạy nghề, từng bước tiếp cận với trình độ tiên tiến của các nước
trong khu vực và thế giới, đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động
cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu nghề và trình độ đào tạo.
Sở dĩ Quốc hội đưa môn Lịch sử vào nghị quyết vì ngày
27/11, khi chất vấn Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo, đại biểu Lê Văn Lai
đã gọi việc tích hợp môn Lịch sử trong dự thảo chương trình mới là "sự
xáo trộn tâm can". Ông đề nghị Bộ trưởng "Quốc hội ra nghị quyết giữ môn Lịch sử trong chương trình sách giáo khoa
Chiều
27/11, khép lại kỳ họp thứ 10, Quốc hội đã thông qua nghị quyết về hoạt
động giám sát chuyên đề, trong đó yêu cầu "tiếp tục giữ môn học Lịch sử
trong chương trình sách giáo khoa mới".
Quốc hội yêu cầu, việc thực hiện đổi mới chương trình, sách giáo khoa
giáo dục phổ thông phải bảo đảm mục tiêu, yêu cầu và nội dung của nghị
quyết Quốc hội đề ra trước đó, tiếp tục giữ môn học Lịch sử trong chương
trình sách giáo khoa mới.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần sớm quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục
nghề nghiệp theo quy định của Luật giáo dục nghề nghiệp, tiếp tục đổi
mới quản lý nhà nước, đẩy mạnh xã hội hóa và hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực dạy nghề, từng bước tiếp cận v
nêu dự định giải quyết vấn đề
trên, có hoãn thực hiện chủ trương về giảng dạy môn Lịch sử trong trường
phổ thông theo hướng tích hợp hay không.
Đối với công tác y tế, Quốc hội đề nghị triển khai các giải pháp tổng
thể, đồng bộ để tạo sự chuyển biến rõ nét về giảm quá tải bệnh viện,
nâng cao y đức, chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân; bảo đảm mọi
người dân được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ ban đầu. Cần xã
hội hóa, khuyến khích đầu tư cho y tế, sử dụng nguồn tài chính y tế hiệu
quả.
Về nợ công, Quốc hội yêu cầu, cuối năm 2016, hoàn thành việc rà soát,
tổng kết, trình Quốc hội đưa vào chương trình xây dựng pháp luật trong
nhiệm kỳ 14 việc sửa đổi, bổ sung Luật quản lý nợ công; xây dựng lộ
trình và các biện pháp hữu hiệu, bảo đảm an toàn nợ công, trong giới hạn
Quốc hội cho phép, từng bước giảm dần nợ công.
Với hoạt động tư pháp, cần đẩy nhanh tiến độ giải quyết đơn yêu cầu bồi
thường trong tố tụng hình sự; nghiêm túc thực hiện các cơ chế pháp lý
về bồi thường thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra.
“Thực hiện nghiêm Luật phòng, chống tham nhũng; thực hiện đầy đủ việc
đánh giá tình hình tham nhũng của các bộ, ngành, địa phương hàng năm. Có
giải pháp quyết liệt, hữu hiệu nâng cao trách nhiệm xử lý tin báo tố
giác tội phạm, chất lượng công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, tệ
nạn xã hội, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; thực hiện
mục tiêu giảm tai nạn giao thông ở tất cả các địa phương...”, nghị quyết
nêu.
Phát biểu bế mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho hay, tại kỳ
họp thứ 10, Quốc hội đã chất vấn trực tiếp những người đứng đầu bộ máy
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về
giám sát chuyên đề và chất vấn, trả lời chất vấn từ đầu nhiệm kỳ khóa 13
đến nay. Đây cũng là dịp để đánh giá hiệu quả hoạt động giám sát,
chất vấn nhiệm kỳ vừa qua, rút ra những bài học cần thiết để tiếp tục
hoàn thiện chức năng quan trọng này của Quốc hội.
Theo người đứng đầu cơ quan lập pháp, phiên chất vấn diễn ra trong
không khí đối thoại dân chủ, thẳng thắn, trách nhiệm và xây dựng; nhận
được sự quan tâm, ủng hộ của cử tri và nhân dân cả nước. Nhiều vấn đề
bức xúc của đời sống kinh tế - xã hội được cử tri và dư luận đặc biệt
quan tâm đã được đưa ra phân tích, xem xét dưới nhiều góc độ.
“Quốc hội đã ra nghị quyết về việc tiếp tục thực hiện các nghị quyết
của Quốc hội về hoạt động giám sát chuyên đề và hoạt động chất vấn, yêu
cầu Thủ tướng Chính phủ, các vị bộ trưởng, trưởng ngành tiếp tục thực
hiện có kết quả những cam kết về trách nhiệm đã hứa trước Quốc hội và cử
tri cả nước, làm cơ sở để Quốc hội khóa 14 tiếp tục giám sát việc thực
hiện, đáp ứng yêu cầu của Nhân dân”, Chủ tịch Quốc hội nói.
Võ Hải"
|
||||||||||||||||
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét