Thứ Sáu, 18 tháng 12, 2015

DU LỊCH QUÁ KHỨ 6/b (Nam Kỳ-Lục Tỉnh)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Về Cao Lãnh thăm mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc

Về Cao Lãnh thăm mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
Vòm mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
(PLO) - Ghé thăm xứ sở của đất sen hồng, một trong những di tích linh thiêng, du khách không thể bỏ qua là khu di tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - vị thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh tọa lạc ở số 123/1 Phạm Hữu Lầu, phường 4, TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Đây là quần thể kiến trúc văn hoá độc đáo, được Bộ Văn hoá xếp hạng di tích cấp quốc gia ngày 9/4/1992. 

Vị thân sinh lãnh tụ một đời thanh bạch
Là một cậu bé hiền lành, thông minh, hiếu học nhưng mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Nguyễn Sinh Sắc được nhà nho Hoàng Xuân Đường nhận làm con nuôi và cho học hành tử tế. Sau đó, ông vào Vinh tham dự kỳ thi Hương và đỗ cử nhân. 
Lúc này, ông được cụ Hoàng gả con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ. Về sau, ông đỗ Phó bảng và ra làm quan cho nhà Nguyễn. Cuối đời, ông sinh sống và làm nghề dạy học, bốc thuốc tại làng Hòa An, Cao Lãnh, Đồng Tháp.
Khu di tích mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc được khởi công xây dựng vào tháng 8/1975 và khánh thành vào tháng 12/1977. Với diện tích 3,6ha, khu di tích được chia thành ba khu vực chính gồm: Khu lăng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Nhà sàn Bác Hồ và Ao sen.
Ngôi mộ cụ Phó bảng quay về hướng đông, có mái hình cánh sen cách điệu giống hình dáng bàn tay xòe úp xuống; trên mái đắp nổi tượng chín con rồng, tượng trưng cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long luôn che chở và bảo vệ ngôi mộ người chí sĩ yêu nước. 
Mộ được ốp bằng đá hoa cương, nền mộ bằng đá mài hình lục giác không đều, mở rộng dần ra hai bên và phía trước. Trên mộ có một đỉnh trầm bằng đá Ngũ Hành Sơn, ngày đêm khói hương thơm ngát. 
Khuôn viên lăng mộ có nhiều loại cây cảnh, hoa trái quý hiếm được bà con khắp cả nước mang về trồng lưu niệm, đặc biệt là cây khế gần 300 tuổi (nằm bên trái mộ) và cây sộp hơn 300 tuổi (nằm bên phải mộ). Phía trước mộ là ao sen hình ngôi sao 5 cánh, chính giữa sừng sững một đài sen trắng cách điệu cao gần 7m, tượng trưng cho cuộc đời thanh bạch, lương tâm trong sáng của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, và đó cũng là biểu tượng cho quê hương Đồng Tháp. 
Bên trong vòm mộ được phủ bằng một cánh sen úp xuống để che nắng - che mưa; trên những cánh sen này tạc hình chín đầu rồng - biểu tượng cho dân tộc Việt Nam là “Con Rồng - Cháu Tiên” (theo truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ), đồng thời nói lên niềm tự hào to lớn của đồng bào vùng châu thổ Đồng bằng sông Cửu Long (Chín Rồng). Đặc biệt là sắc thái riêng của nhân dân Đồng Tháp với cánh sen “Tháp Mười đẹp nhất bông sen...” đã quyết tâm gìn giữ, tôn tạo ngôi mộ cụ an toàn cho đến ngày hôm nay...
Cạnh đấy, một ngôi nhà truyền thống được dựng lên, bên trong có những dấu ấn về cuộc đời hoạt động của cụ Phó bảng được tái hiện với những kỷ vật trong chủ đề: “Kỷ vật của cụ Phó bảng NGUYỄN SINH SẮC” nhằm giới thiệu thân thế - sự nghiệp cụ Phó bảng với nhiều hình ảnh, tư liệu mang tính khoa học và những chi tiết đầy đủ về lý lịch và gia đình cụ - nhất là căn cứ “Nhất triều đăng khoa lục” xác minh rõ cụ thi đỗ Phó bảng năm Thành Thái thứ 16. Cụ vào Huế làm Tri huyện từ tháng 10/1909 đến tháng 1/1910. Cụ vào Sài Gòn năm 1911 và đến năm 1920 cụ trở ra Phan Thiết đến năm 1923. 
Sau thời gian này, cụ đến Mỹ Tho - nay thuộc tỉnh Tiền Giang, rồi di chuyển nhiều lần trong tỉnh Long Xuyên - Châu Đốc, trú ngụ tại  chùa Giồng Thành - Tân Châu, rồi đến Sa Đéc... và cuối cùng cư trú tại Cao Lãnh và mất năm Kỷ Tỵ (26/11/1929), an táng cách thị xã Cao Lãnh non một cây số theo tỉnh lộ 23. 
Trước đây, chỗ này là một khu vườn tre, ao nước hoang vu, chỉ có một gốc cây to bọng ruột, thỉnh thoảng mới có một vài người đến cúng vái gọi là Miếu Trời sanh. Về sau được trùng tu trông khá đẹp mắt. Thời Pháp thuộc, mặc dù giặc theo dõi gắt gao nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân địa phương thường xuyên chăm sóc mộ cụ một cách chu đáo. 
Trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ, giặc luôn rình rập những người lui tới khu vực này. Trong những dịp lễ lớn, thanh minh, ngày tết... bọn giặc luôn luân phiên canh gác suốt ngày đêm. Song, khi mặt trời vừa ló dạng là chúng phải giật mình ngạc nhiên và khiếp đảm vì ngôi mộ đã được quét vôi mới trắng tinh, khẳng định lòng thành kính, biết ơn vô bờ của con dân nước Việt với vị thân sinh ra người con ưu tú của dân tộc - lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Tác giả viếng thăm phía trước nhà sàn Bác Hồ trong khuôn viên mộ 
cụ Nguyễn Sinh Sắc. 
Ngày hội để tưởng nhớ và thể hiện lòng tôn kính 
Hiện nay, trong khuôn viên lăng mộ cụ Phó bảng, khách viếng thăm còn được chiêm ngưỡng ngôi nhà sàn Bác Hồ được xây dựng theo dáng vẻ y hệt kiểu nhà sàn Bác Hồ ở Hà Nội, do kiến trúc sư đến tận nơi nghiên cứu, thiết kế đồ án, phục chế y chang kích cỡ để giữ mãi di tích lịch sử, ngõ hầu nhắc nhở mọi người và thế hệ con cháu mai sau luôn nhớ mãi về một vị lãnh tụ vĩ đại của đất nước có một cuộc sống giản dị, bình thường mà cả đời hy sinh cho dân tộc, cho Tổ quốc. Đó là tấm gương sáng ngàn đời để lớp người chúng ta học tập, noi theo... 
Kỷ niệm 81 năm (1929 - 2010) ngày giỗ lần thứ 81 của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, ngày 2/12/2010 Tỉnh ủy, UBND tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức Lễ khánh thành công trình bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị khu di tích mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trên diện tích 91.126m2. Trong đó, đất bảo tồn, tôn tạo là 26.113m2, đất tái hiện lịch sử gần 8.000m2, đất tái hiện làng Hòa An cổ trên 22.000m2, đất dành để vui chơi-giải trí và dịch vụ đón tiếp khách gần 25.000m2 và đất làm hệ thống đường giao thông cùng các hạng mục khác trên 10.000m2… Tổng kinh phí đầu tư hơn 95 tỷ đồng.
Diện tích sau khi mở rộng đã được nâng cấp toàn bộ quần thể khu di tích lên trên 10ha. Nổi bật là việc phục dựng lại một góc làng Hòa An xưa - nơi lần đầu tiên cụ Nguyễn Sinh Sắc đến hoạt động cách mạng và tái hiện lại một góc hình ảnh hoạt động đặc trưng của làng quê Nam bộ… 
Vào những dịp lễ, tết, hội hè, giỗ chạp... đã có hàng chục ngàn lượt khách hành hương đến viếng thăm lăng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. UBND tỉnh Đồng Tháp đã quyết định nâng ngày giỗ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hàng năm lên thành lễ hội với quy mô tổ chức thật đa dạng, phong phú, sinh động, hấp dẫn và trang trọng. 
Nhân ngày giỗ lần thứ 86 (1929 - 2015) của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc diễn ra từ ngày 06 - 08/12/2015 (25 - 27/10 âm lịch Ất Mùi), tỉnh Đồng Tháp sẽ tổ chức chuỗi sự kiện lễ hội lớn thể hiện tấm lòng tôn kính, biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với công lao, đạo đức, nhân cách cao cả của cụ thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước.
Theo đó, phần lễ có thắp hương, dâng tràng hoa nơi phần mộ cụ, lễ dâng hoa, dâng phẩm vật, dâng hương, mặc niệm tưởng nhớ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Phần hội có hoạt động trưng bày, triển lãm bộ ảnh “Kết quả Đại hội X Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp; 1.000 tài liệu tìm hiểu về cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, quê hương, đất nước, con người Đồng Tháp và sách thiếu nhi; triển lãm tranh thiếu nhi, một số hình ảnh, hiện vật “Cổ vật, bảo vật Quốc gia và khoa sử Việt Nam dưới triều Nguyễn”; triển lãm bộ sưu tập ảnh, tài liệu về chủ đề “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc bầu cử Quốc hội, chiếu phim về cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, về Bác Hồ…   
Trần Trọng Trung

Cuộc đời cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc những ngày ở Đồng Tháp




Dân trí Trong những ngày người dân cả nước mừng kỷ niệm 125 năm ngày sinh của Bác, tại Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc (TP. Cao Lãnh) hàng ngày có hàng trăm người dân từ khắp nơi đến kính viếng, bày tỏ lòng biết ơn khi Cụ Sắc đã sinh cho đất nước một vị lãnh tụ vĩ đại.

Tấm lòng người xưa
Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - sau khi từ quan đã về Cao Lãnh (Đồng Tháp ngày nay) vào năm 1917. Khi Cụ Sắc đặt chân đến Cao Lãnh, được ông Trần Bá Lê – một thương gia sẵn lòng cất cho cụ một căn nhà ngay trong khu vườn của mình. Trong thời gian ở đây, cụ Sắc dạy học và kê thuốc chữa bệnh cho người dân trong vùng. Tại căn nhà này, các nhà nho yêu nước thời đó như Võ Hoành, cụ Lê Chánh Đáng, cụ Nguyễn Quang Diêu… thường xuyên họp bàn việc nước với cụ Sắc.
Theo tài liệu ghi lại, ông Trần Bá Lê là người tạo điều kiện và giúp cụ Sắc rất nhiều khi cụ Sắc ở Cao Lãnh. Ông Lê từng bỏ tiền đóng ghe tàu đi HongKong, Thái Lan kinh doanh, dành tiền đóng góp cho phong trào yêu nước thời đó. 
Cuộc đời cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc những ngày ở Đồng Tháp

Ở Cao Lãnh được 2 năm, cụ Sắc rời đi các tỉnh khác hoạt động. Đến năm 1927, tức 10 năm sau, Cụ trở lại Cao Lãnh lần thứ 2 và quyết định gắn bó với mảnh đất này đến cuối đời. Cũng thời điểm này, lãnh đạo tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng Chí Hội đã bố trí Cụ Sắc đến ở nhà ông Lê Văn Giáo – tại làng Hòa An (nay là xã Hòa An, TP. Cao Lãnh).
Sinh thời ông Văn Giáo làm nghề chèo ghe mướn, góa vợ, một mình nuôi con nên cuộc sống cũng khó khăn nhưng vì cảm phục đức độ cụ Phó Bảng, gia đình ông Giáo vẫn sẵn lòng cho cụ Sắc vào nhà ở. Từ ngày cụ Sắc về ở, nhà ông Giáo trở thành nơi hội tụ những nhà nho yêu nước lúc bây giờ. Những lúc như vậy, ông Giáo thường ra ngoài sân đan thúng nhằm canh chừng tai mắt của bọn giặc Pháp dòm ngó.
Trong thời gian ở đây, hàng ngày Cụ Sắc đi bộ ra tiệm thuốc Hằng An Đường ở chợ Cao Lãnh để xem mạch, kê toa trị bệnh cho bà con ở địa phương đồng thời tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước cho nhân dân. Cụ Sắc ở nhà ông Giáo chỉ được 2 năm, do bệnh già, sức yếu nên Cụ Sắc đã qua đời vào rạng sáng ngày 27/10 năm 1929, hưởng thọ 67 tuổi. Khi Cụ Sắc mất, gia đình ông Giáo cũng như bà con Hòa An vô cùng thương tiếc.
Cảm phục trước tấm lòng yêu nước, thương dân của Cụ Sắc, người dân địa phương lúc bấy giờ đa phần “nghèo rớt mồng tơi” vẫn chung tay lo an táng cụ như cho chính người thân của mình tại miếu Trời Sanh (cạnh chùa Hòa Long hiện nay).
Cuộc đời cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc những ngày ở Đồng Tháp

Anh Lê Thanh Sơn, con trai bà Trần Thị Ngọc Điệp (bà Điệp là cháu dâu của ông Năm Giáo) kể: “Khi có những đoàn khách, nhà báo đến hỏi thăm về Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc khi sống ở đây, tôi nghe mẹ tôi kể lại rằng: Sau khi cụ Phó Bảng mất, con gái cụ là cô Thanh đã vào đây, ở lại gia đình ông cố tôi mấy ngày, tổ chức bữa cơm thân mật mời bà con đến cảm ơn vì đã chăm sóc chu toàn cho cụ Phó Bảng”.
… truyền đến con cháu ngày nay
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng (30/4/1975) mặc dù còn nhiều việc bề bộn khẩn cấp, nhưng để đáp ứng yêu cầu về tình cảm của người dân đối với Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Sa Đéc (nay là Đồng Tháp) quyết định xây dựng Khu mộ Cụ Phó Bảng, ông Nguyễn Thành Mậu – Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc Giải phóng Tỉnh làm Trưởng Ban xây dựng; kiến trúc sư Đinh Khắc Giao người Nam Đàn phụ trách việc thiết kế. Ngày 22/8/1975, ông Nguyễn Thế Hữu – Bí thư tỉnh ủy Sa Đéc chủ trì lễ khởi công xây dựng khu mộ Cụ Nguyễn Sinh Sắc.
Trong suốt 17 tháng thi công, lúc nào cũng có từ 200 – 700 người dân ở các xã Hòa An, Tịnh Thới, Tân Thuận Đông, Mỹ Trà… các thầy cô giáo, học sinh, sinh viên, bộ đội… đến góp công xây dựng khu mộ. Đặc biệt, còn có những cụ già đã 60, 70 tuổi vẫn đến xin góp công sức xây dựng khu mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Cuộc đời cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc những ngày ở Đồng Tháp 
Trong Khu di tích, Ban quản lý di tích dành hẳn một gian nhà trưng bày về cuộc đời, đặc biệt là thời gian Cụ ở Cao Lãnh.
Sau gần 2 năm thi công đến ngày 13/02/1977, Khu mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc được khánh thành. Trong ngày trọng đại này, đồng chí cố Phó Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ cùng đại diện Đảng chính quyền, nhân dân Thủ đô Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nghệ Tĩnh và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu long cùng đến tham dự.
Ngày nay sau nhiều lần tôn tạo, khu phần mộ Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã trở thành một quần thể di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, tọa lạc tại số 123/1, đường Phạm Hữu Lầu, thuộc phường 4, TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Trên khuôn viên rộng 10ha; nhiều công trình vừa mang tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại đã được xây dựng. 
Cuộc đời cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc những ngày ở Đồng Tháp
Nhân ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều người dân ở khắp các tỉnh thành đến kính viếng mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc
Trao đổi với PV Dân trí, bà Đặng Thị Mai Yên – Phó Giám đốc Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc chia sẻ: “Khu di tích Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc được khang trang như ngày hôm nay là được sự quan tâm của các đồng chí lãnh đạo Đảng từ Trung ương đến địa phương. Sự quan tâm đặc biệt này, một mặt bày tỏ tấm lòng của Đảng và Nhà nước đối với Cụ Phó Bảng, mặt khác cũng đáp ứng đúng nguyện vọng lòng kính trọng của nhân dân Đồng Tháp nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đối với cụ Nguyễn Sinh Sắc. Ngày nay, nhân dân Đồng Tháp vẫn tiếp nối truyền thống yêu nước, tiếp tục bày tỏ lòng kính yêu đối với Cụ Phó Bảng và Bác Hồ qua những đóng góp thiết thực. Đối với những gia đình có mối quan hệ mật thiết với cụ Phó Bảng, bà con sẵn sàng tặng lại các hiện vật, tư liệu liên quan đến cụ Sắc… Đặc biệt trong thời gian tôn tạo Khu di tích, nhiều cá nhân, đơn vị, gia đình hiến tặng nhiều cây kiểng quý.
Những ngày lễ lớn, lượng học sinh, sinh viên đến viếng mộ Cụ Phó Bảng rất đông.
Những ngày lễ lớn, lượng học sinh, sinh viên đến viếng mộ Cụ Phó Bảng rất đông.
Cũng theo bà Mai Yên cho biết, nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ ngày 16 – 19/5, Khu di tích mở cửa từ 7 giờ sáng đến 22 giờ đêm phục vụ khách tham quan và viếng mộ cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc. Ngoài ra, hàng ngày tại Khu di tích còn có các hoạt động vui chơi giải trí như: đấu võ thuật, tổ chức khu ẩm thực tại Làng Hòa An xưa (phục dựng trong khu di tích), chương trình biểu diễn văn nghệ chào mừng sinh nhật Bác... Theo ghi nhận của Ban quản lý di tích, từ ngày 16/5 đến nay, lượng khách đến viếng mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc tăng khoảng 30%, trong đó có nhiều đoàn khách từ Hà Nội, Hà Tĩnh, Nghệ An, TP. Hồ Chí Minh nhưng chiếm đa số là người dân địa phương và học sinh, sinh viên đang theo học tại Đồng Tháp đến viếng mộ Cụ Phó Bảng.
Nguyễn Hành

Về Tiền Giang viếng lăng Tứ Kiệt
Cập nhật: 25/03/2007

Lăng Tứ Kiệt ở Cai Lậy, Tiền Giang vừa được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là Di tích Lịch sử - văn hóa quốc gia. Đền thờ bốn vị anh hùng lãnh đạo nhân dân chống Pháp.

Nằm ở trung tâm thị trấn Cai Lậy, với cổng nhìn ra đường 30-4, lăng Tứ Kiệt vừa được trùng tu, xây dựng lại theo kiến trúc truyền thống chia làm hai khu vực rõ rệt: chính tẩm và nhà mộ. Chính tẩm được thiết kế theo lối thờ phụng có bàn thờ, lư hương, đôi hạc..., chính giữa có Bằng công nhận Di tích Lịch sử - Văn hóa quốc gia và bài vị tạo nét nghiêm trang. Phía sau là nhà mộ có bốn ngôi mộ tượng trưng dán gạch tráng men khá tươm tất. Khuôn viên quanh lăng được tôn tạo, bố trí thêm các loại cây cảnh quý từ các nơi khác mang đến, lúc nào cũng cắt tỉa cẩn thận.

Tứ Kiệt là cách gọi tôn kính của nhân dân đối với bốn vị anh hùng lãnh đạo nhân dân chống Pháp từ năm 1868 - 1870. Ðó là các ông: Trần Công Thận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Ðước và Trương Văn Rộng. Sau khi giặc Pháp hạ thành Mỹ Tho và chiếm toàn tỉnh Ðịnh Tường (1861), bốn ông tham gia cuộc khởi nghĩa do Thiên Hộ Dương khởi xướng và lãnh đạo, góp phần cùng nghĩa quân tạo nên những chiến thắng oai hùng. Căn cứ Ðồng Tháp Mười bị vỡ, bốn ông liền về Cai Lậy chiêu mộ nghĩa quân tiếp tục phất cao cờ khởi nghĩa. Trong hàng loạt những chiến công của nghĩa quân Tứ Kiệt, có hai chiến công được xem là chói lọi nhất. Ðó là cuộc tiến công vào thành Mỹ Tho và thiêu hủy đồn Cai Lậy. Sau hai năm hoạt động gây cho giặc nhiều thiệt hại, cuộc khởi nghĩa của Tứ Kiệt đành chịu thất bại trước sự bao vây và đàn áp tổng lực của quân đội viễn chinh Pháp. Bốn ông cùng 150 nghĩa quân bị bắt. Bọn chúng đem vinh hoa phú quý ra dụ dỗ các ông trong nhiều ngày không thành.

Ngày 14/2/1871 (nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ), giặc đưa bốn ông ra pháp trường xử trảm, bêu đầu ở chợ Cai Lậy nhằm uy hiếp tinh thần của dân chúng, sau đó vùi ở bến sông cạnh chợ. Thân nhân gia đình chỉ mang thân mình các ông về quê nhà, gắn chiếc đầu giả làm bằng đất sét vào chôn cất.

Cảm kích bốn vị anh hùng, nhân dân Cai Lậy đã bí mật mang chôn thủ cấp của bốn ông và đắp mộ, hương khói trang nghiêm. Ở làng Mỹ Trang, ông Nhiêu học Ðặng Văn Ngưu dựng trước nhà một ngôi miếu thờ ngay khu đất giặc bêu đầu bốn ông. Ngôi miếu lợp ngói âm dương và để che mắt chính quyền thực dân, người ta gọi đó là chùa Ông (vì phía trước lập bàn thờ Quan Công tượng trưng cho trung nghĩa), còn phía sau lập bài vị khắc bốn chữ "Tứ vị thần hồn" sơn son thếp vàng rực rỡ (nên có người gọi là "Miếu cô hồn"). Mặc dù vậy nhưng ai ai cũng biết đó là miếu thờ Tứ Kiệt. Trận bão năm Giáp Thìn (1904) làm ngôi miếu đổ sập. Ông Nhiêu dời ngôi miếu về làng Thanh Sơn (trước thuộc xã Thanh Hòa nay là thị trấn Cai Lậy). Hiện ngôi miếu tọa lạc tại khu phố 1, thị trấn Cai Lậy, cách lăng hơn trăm mét. Còn ngôi mộ nơi chôn bốn thủ cấp từ năm 1871 vẫn đắp bằng đất, chung quanh có hàng rào bằng cau sơn vôi trắng. Gần đó có cây còng cổ thụ tỏa bóng mát tạo bầu không khí linh thiêng.

Vào những năm 30 của thế kỷ trước, người ta đồn rằng: những đêm thanh vắng ở khu mộ bốn ông có tiếng quân reo, ngựa hí. Huyền thoại về bốn ông được lan truyền khắp vùng. Năm 1938, trong đội lính mã tà có ông Ðội Lung vì cảm mộ tấm lòng trung nghĩa của bốn ông nên thuê thợ làm tấm bia đá đặt tại đầu mộ. Bia khắc dòng chữ "Ðại Nam Mỹ Tho tỉnh, Thanh Hòa thôn, Tứ vị cựu quan chi mộ".

Mãi đến năm 1954, quận trưởng Lê Văn Thai đồng ý cho nhân dân xây dựng lại ngôi miếu và bốn ngôi mộ tượng trưng bằng xi-măng song song và gần sát nhau, chung quanh có hàng rào sắt kiên cố ngay trên nấm đất cũ. Khu vực này gọi là lăng Tứ Kiệt. Năm 1967, nhân dân Cai Lậy tiến hành trùng tu ngôi miếu và khu mộ bốn ông quy mô hơn trong có miếu thờ ngoài có nhà khách. Tại lăng có Ban Quý Tế lo việc trùng tu cúng bái. Hằng năm vào ngày 25 tháng Chạp âm lịch, nhân dân Cai Lậy tụ tập đông đúc về đây tảo mộ và làm giỗ rất trang trọng, thành kính tưởng nhớ đến bốn ông vì nước quên mình nêu tấm gương sáng ngời cho hậu thế. Nghi thức tế lễ theo lối cổ truyền có sự cố vấn của nhà nghiên cứu về Nam Bộ, Trương Ngọc Tường quê ở Cai Lậy.

Năm 1998, Sở Văn hóa - Thông tin Tiền Giang và Ủy ban nhân dân huyện Cai Lậy trùng tu toàn diện khu lăng mộ Tứ Kiệt, tương xứng với tầm vóc và khí phách anh hùng của bốn ông đúng như hai câu đối được chạm khắc tại cổng:

Tứ vị anh hùng vị quốc hy sinh vĩnh niệm
Kiệt nhân nghĩa cử tinh thần bất khuất lưu tồn.

Nhân kỷ niệm 128 năm ngày bốn ông hy sinh, lăng được khánh thành. Từ đó đến nay, đông đảo nhân dân ở khắp nơi đến viếng và thắp nhang tưởng niệm người đã khuất. Ðến thăm lăng Tứ Kiệt, chắc chắn du khách sẽ hiểu thêm tấm lòng của người dân địa phương với bốn ông - những người đã góp phần điểm tô cho bốn chữ vàng "Ðịa Linh Nhân Kiệt" của Tiền Giang luôn ngời sáng.

Nhân Dân
TIỂU SỬ BỐN ÔNG TỨ KIỆT
Tứ Kiệt là cách gọi tôn kính của nhân dân đối với Tứ Kiệt tướng quân hay bốn vị anh hùng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp.
1.  Ông Trần Công Thận – sinh năm 1825, nguyên quán Xóm Võng, ấp Mỹ Phú, làng Mỹ Trang, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc ấp Mỹ Phú, xã Long Khánh, huyện Cai Lậy) là vị lãnh đạo cao nhất, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa nên giặc Pháp gọi ông là “Nguyên soái Thận”.
2. Ông Nguyễn Thanh Long - sinh năm 1820, nguyên quán ở xóm Cầu Ván, ấp Cẩm Hòa, thôn Cẩm Sơn, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay là ấp 2, xã Cẩm Sơn, huyện Cai Lậy) là người con thứ 5 trong gia đình nên bà con thường gọi là ông Năm Long, là người có tài thao lược nổi bật trong bốn vị anh hùng.
3.   Ông Trương Văn Rộng, nguyên quán thôn Tân Lý Đông, huyện Kiến Hưng,Tỉnh Định Tường (nay là xã Tân Lý Đông, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang).
4.  Ông Ngô Tấn Đước (có tài liệu ghi là Đức), nguyên quán Xóm Vuông, thôn Tân Hội, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc xã Tân Hội, huyện Cai Lậy)
Bốn Ông xứ thân trong gia đình nông dân, can đảm, mưu lược và võ nghệ phi   phàm, cùng tham gia nghĩa quân chống Pháp vào năm 1861.
Địa bàn chống Pháp của bốn Ông chủ yếu ở vùng Tháp Mười, Cái Bè, Cai Lậy, Thuộc Nhiêu, Mỹ Tho.
Những chiến công lớn:
-        Ngày 01/5/1868 tấn công thành Mỹ Tho giành thắng lợi.
-        Ngày 24/12/1870 tấn công và hạ đồn Cai Lậy.
Bốn Ông hy sinh vào ngày 14/02/1871 (Nhằm ngày 25 tháng Chạp năm Canh Ngọ).
Sau này, để ghi nhớ công đức Bốn vị anh hùng đồng bào đã lập miếu thờ và xây lăng mộ:
 Hình hài đâu chẳng thấy
Bốn đầu xâu lại một dây
Trơ mắt nhìn muôn cụm cỏ cây
Khí phách ấy đổi giang sơn này chẳng uổng
                                                      (Văn tế Tứ Kiệt)

         
        

Về Tiền Giang, nghe huyền thoại Tứ Kiệt

14:43 25/01/2005

Hối hả, tất bật chuẩn bị đón năm mới nhưng người dân Tiền Giang, nhất là miệt Cai Lậy vẫn không quên làm mâm cơm dành cho Tứ Kiệt. Dù đã anh dũng hy sinh cách đây 134 năm nhưng trong tâm linh của mỗi người dân Tiền Giang hôm nay, Tứ Kiệt vẫn như bất tử, trường tồn.

Trương Định- Người anh hùng dân tộc


(Baoquangngai.vn)- Trương Định sinh năm Canh Thìn (1820) tại làng Tư Cung Nam, Phủ Bình Sơn, nay là xã Tịnh Khê, TP. Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Để tỏ lòng kính mến và quý trọng, nhân dân và sĩ phu Nam Kỳ thường gọi ông là Trương Công Định.
Chân dung Trương Định
Chân dung Trương Định
Năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), thân phụ Trương Định là Trương Cầm được phong chức Hữu thủy vệ úy lãnh binh tỉnh Gia Định. Ông theo cha vào Nam, sau đó lấy vợ và định cư ở vùng đất Gò Công, nay thuộc tỉnh Tiền Giang. Sau khi cha mất, Trương Định ở luôn quê vợ.
Vào khoảng năm 1854, hưởng ứng chính sách khẩn hoang của Triều đình, Trương Định xuất tiền của chiêu mộ dân nghèo, lập đồn điền ở Gia Thuận, được phong chức phó Quản cơ rồi sau đó bổ chức lên Quản cơ. Vì vậy ông còn được gọi là Quản Định.

Tháng 9.1858, liên quân Pháp và Tây Ban Nha nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Đầu năm 1859, sau khi kế hoạch "đánh nhanh thắng nhanh" ở miền Trung bị phá sản, quân Pháp chuyển hướng vào phía Nam, tấn công Bến Nghé, tức Sài Gòn, tỉnh thành tỉnh Gia Định.

Trước tình hình này, Trương Định kịp thời đưa cơ binh của mình đóng ở Thuận Kiều (Gia Định) phối hợp hợp với quân Triều đình ngăn chặn giặc.

Quân Pháp tấn công mạnh, quân Triều đình không cự nổi, Sài Gòn thất thế, Trương Định kéo quân về đóng ở Thuận Kiều, tiếp tục dùng chiến thuật đánh nhỏ, lẻ, bất ngờ quấy rối địch ở khắp ngoại thành Gia Định. Vang dội nhất là trận tấn công vào đồn giặc ở chùa Chợ Rẫy thuộc tuyến phòng thủ của quân Pháp ở ngoại thành Gia Định, cùng các trận đánh liên tiếp vào các vị trí ở Cần Giuộc, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Trảng Bàng…

Đầu năm 1861, sau khi khống chế được Triều đình Mãn Thanh và buộc Trung Quốc phải thi hành Hiệp ước Thiên Tân (ký ngày 27/6/1858), quân Pháp mở cuộc tấn công lớn vào đại đồn Chí Hòa, Trương Định lại đem quân phối hợp với quân đội của Nguyễn Tri Phương, Tổng thống quân vụ, Tổng chỉ huy quân đội nhà Nguyễn ở Gia Định và Nam Kỳ, để chống giặc.

Ngày 25.2.1861, đại đội Chí Hòa thất thủ, quân triều đình rút về giữ Biên Hòa. Trương Định không theo họ mà thu quân về đóng giữ Tân Hòa (Gò Công) phối hợp cùng Tri huyện sở tại là Lưu Tấn Thiện và Thơ lại là Lê Quang Quyến trích trữ lương thảo, súng đạn, đắp đồn lũy, mộ thêm quân, xây dựng nơi đây thành căn cứ kháng chiến.

Lúc này, phong trào chống Pháp ở Nam Bộ liên tục dâng cao với lực lượng nghĩa binh của Đỗ Đình Thoại, Âu Dương Lân, Nguyễn Xuân Hòa, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt, Phan Văn Trị, Hồ Huân Nghiệp, Võ Duy Dương, Nguyễn Thành Ý, Phan Trung... Riêng nghĩa quân Trương Định đã lên đến 6.000 người, hoạt động khắp vùng Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn, Trảng Bàng... trải rộng từ phía biển lên tới biên giới Campuchia, trở thành địa bàn kháng Pháp mạnh nhất, lớn nhất vùng lục tỉnh.

Phần nào thấy được vai trò của Trương Định, triều đình nhà Nguyễn phong cho ông chức Phó Lãnh binh Gia Định, và đến tháng 3.1862 lại cho kiêm chức Tổng chỉ huy đầu mục Gia Định. Trương Định chuyển đại bản danh về Gò Thượng, chỉ huy 18 cơ binh, liên tục mở những cuộc tấn công quấy rối và tiêu hao sinh lực địch, cướp súng  về trang bị và đúc thêm súng mới.

Nhưng cũng chính vào lúc giặc Pháp đang lúng túng trước sức mạnh của nghĩa quân thì vua Tự Đức và Cơ mật viện lại bị động trong việc tìm cách đối phó với quân xâm lược. Phan Thanh Giản nhận trách nhiệm Khâm sai đại thần cùng Lâm Duy Hiệp vào Nam xem xét tình hình và thương thảo với tướng Bonard, tổng chỉ huy liên quân Pháp và Tây Ban Nha đang đóng tại Sài Gòn.

Lo sợ sức mạnh quân sự của giặc, lại thiếu tầm nhìn chiến lược và không đủ tin tưởng vào sức mạnh kháng chiến của nhân dân, Phan Thanh Giản, Lâm Duy Hiệp đã ký với Hòa ước Nhâm Tuất (5.6.1862) chấp nhận bãi binh, cắt 3 tỉnh miền Đông cho Pháp. Để gọi là "nghiêm chỉnh thi hành các điều ước" và mong Pháp trả lại tỉnh Vĩnh Long đã mất (25.3.1862), triều đình hạ lệnh cho Trương Định bãi binh và nhận chức lãnh binh An Hà (An Giang, Hà Tiên).

Trong khi Trương Định còn dùng dằng suy nghĩ sau khi nhận chỉ dụ của triều đình thì những người ứng nghĩa biết tin đã vội vàng kéo đến bày tỏ nguyện vọng yêu cầu ông ở lại lãnh đạo kháng chiến. Cảm động trước tấm lòng của nhân dân, đồng thời nhận rõ hiểm họa đe dọa sự tồn vong của đất nước, Trương Định đã chấp nhận ở lại Gò Công, nhận chức "Bình Tây đại nguyên soái" do những người ứng nghĩa suy tôn, kiên quyết kháng chiến đến cùng.

Như vậy là cuộc kháng chiến của Trương Định từ lúc này chuyển sang một giai đoạn mới, thoát ly khỏi triều đình, dựa vào nhân dân và cùng với nhân dân chống Pháp.

Chỉ một thời gian ngắn, lực lượng của Trương Định phát triển rất nhanh, thu hút và liên kết chặt chẽ với các nhóm kháng chiến, các sĩ phu, văn thân yêu nước, trong đó có nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu.

Ngày 16.2.1862, Trương Định phát lệnh tổng công kích, phản công mạnh mẽ quân xâm lược trên khắp các mặt trận, thu nhiều thắng lợi khiến quân Pháp rơi vào thế bị động, liên tục bị uy khiếp.

Thất vọng trong âm mưu chiêu dụ và lung lạc Trương Định, lại được nhận thêm viện binh và nhân lúc quân Triều đình án binh bất động, ngày 13.2.1863 quân Pháp tập trung quân mở cuộc tấn công lớn vào căn cứ của Trương Định. Nắm được ý đồ của giặc, Trương Định bố trí lại phòng ngự vững chắc ở Gò Công, Vĩnh Lợi, Đồng Sơn, đắp chắn các đập cản ở Lãng Lộc, Soài Rạp để ngăn đường tiến của địch, đồng thời tấn công vào nhiều căn cứ của chúng ở Gò Cây Mai, Thái Phước, Tuy Bình, An Long.

Ngày 24.2 giặc chiếm được Gò Công và hội quân trước cửa Tân Hòa rồi đến sáng ngày 25.2 các cánh quân thủy bộ theo lệnh của Bonard tấn công dữ dội vào căn cứ nghĩa quân. Dưới sự chỉ huy của Trương Định, nghĩa quân chiến đấu liên tiếp trong 3 ngày với một tinh thần bình tĩnh, gan dạ phi thường. Cuối cùng, do quá chênh lệch về lực lượng, lại hết thuốc đạn, biết không giữ nổi, Trương Định rút về Rừng Sát, lúc bấy giờ là một rừng cây ven biển chạy từ Biên Hòa đến tận vùng Cần Đước thuộc tỉnh Gia Định.

Sau một thời gian ngắn, Trương Định lại tập hợp lực lượng, xây dựng căn cứ ở Đám Lá Tối Trời. Giặc Pháp bao vây Đám Lá Tối Trời và truy kích quyết liệt nên Trương Định phải chuyển sang Lý Nhơn. Đến cuối năm 1863, Pháp lại đem quân đánh phá Lý Nhơn, nhưng nhờ gan dạ khéo léo ông lại thoát vây an toàn, trở lại Đám Lá Tối Trời gây dựng cơ sở kháng chiến.

Thế nhưng, giữa lúc nghĩa quân Trương Định hoạt động mạnh trở lại thì tình hình chung ngày một xấu đi. Các cuộc khởi nghĩa khác ở Nam Kỳ đều bị đàn áp, phong trào bị thu hẹp và có nguy cơ tan rã.

Trong khi đó, quân Pháp lại không phải đối phó với quân Triều đình do việc hiệp ước Nhâm Tuất đã được chính thức phê chuẩn (16.4.1863) nên dễ dàng tập trung binh lực để đàn áp các cuộc nổi dậy. Thêm nữa, lúc này lại có nạn hạn hán gây mất mùa nghiêm trọng ảnh huởng đến việc cung cấp lương thực cho nghĩa quân.

Mộ và đền thờ Trương Định ở thị xã Gò Công (Tiền Giang)
Mộ và đền thờ Trương Định ở thị xã Gò Công (Tiền Giang)

Tháng 2 năm 1863, nhờ có viện binh, Pháp phản công tại Biên Hòa, Chợ Lớn, bao vây Gò Công. Ngày 26 tháng 2 năm 1863, quân Pháp mở cuộc càn quết lớn, đánh chiếm căn cứ nghĩa quân, Trương Định thoát khỏi vòng vây, kéo quân về Biên Hòa.

Tháng 9 năm 1863, Lagrandière sang thay Bonard, mở cuộc càn quét thứ hai, bắt được vợ con và một số tùy tùng của Trương Định.

Vào giữa năm 1864, Trương Định chuẩn bị một đợt tấn công mới nhằm đánh chiếm lại Tân Hòa. Tiếc thay, kế hoạch lớn đó chưa thực hiện được thì xảy ra việc quân Pháp đánh úp nghĩa quân đêm 19 rạng ngày 20 tháng 8.1864.

Mặc dù quân ít, lại bị đánh bất ngờ Trương Định và các nghĩa quân vẫn chiến đấu dũng cảm, chống trả mãnh liệt. Rạng sáng ngày 20.8.1864 trong khi đang chiến đấu thì Trương Định bị trọng thương. Biết không thoát khỏi tay giặc, ông rút gươm tự sát để bảo toàn khí tiết anh hùng.

Trương Định là hình ảnh tiêu biểu của nhân dân Gò Công, của nhân dân Nam Bộ bất khuất chống giặc Pháp xâm lược vào thời điểm chúng vừa đặt chân lên đất nước ta. Ông cũng là người con ưu tú, góp phần làm rạng rỡ quê hương Quảng Ngãi kiên cường.

Có một câu chuyện về những năm tháng kháng chiến kiên cường của nghĩa quân Gò Công - Nam Kỳ đã được ghi vào Quốc sử, mà ý nghĩa còn nhắc chúng ta nhiều điều. Đó là sự kiện diễn ra không lâu sau ngày Lãnh binh Trương Định thuận theo lòng dân dựng cờ kháng Pháp. Từ triều đình Huế, ông Trương Đăng Quế, một bậc đệ nhất công thần nhà Nguyễn, người cầm đầu phe chủ chiến, đã tấu trình vua Tự Đức cử Biện lý Bộ binh Đỗ Thúc Tịnh nhận chức Khâm phái quân vụ, mang sứ mệnh vào Nam hỗ trợ Trương Định và các nhóm nghĩa binh chống Pháp. Tiếc thay, khi sự phối hợp bí mật và hiệu quả đang được xúc tiến thì ông Đỗ Thúc Tịnh lâm bệnh, từ trần vào năm 1862.

Tuy Thạnh quận công, Thái sư Trương Đăng Quế và Anh hùng dân tộc Trương Định là những người cùng quê - làng Tư Cung, huyện Bình Sơn, nay thuộc xã Tịnh Khê, TP. Quảng Ngãi. Khâm phái quân vụ, tiến sỹ Đỗ Thúc Tịnh cũng là người huyện Hoà Vang, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nhưng quê gốc ở phủ Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Các bậc thức giả đương thời đã kịp nhận ra dụng ý của đại thần Trương Đăng Quế trong việc tiến cử người đảm nhận trọng trách hỗ trợ quân kháng chiến Trương Định và hành động tự nguyện xin vào Nam chống Pháp của Biện lý Bộ Binh Đỗ Thúc Tịnh. Vì nghĩa cả mà toan lo đại sự quốc gia, nhưng sâu thẳm tâm tư của ba nhân vật Trương Đăng Quế, Trương Định, Đỗ Thúc Tịnh có ẩn mối tình riêng giữa những người đồng châu, đồng quận. Nói rằng có tình quê hương  trong tình non nước là vì vậy.

Về đời tư, Trương Định có 2 người vợ. Bà vợ đầu tên Lê Thị Thưởng, là con gái một hào phú ở huyện Tân Hòa, Gò Công. Bà và Trương Định kết hôn năm nào không rõ, nhưng theo sử sách thì vào năm 1854 nhờ sự trợ giúp của gia đình bên vợ, Trương Định xuất tiền của, chiêu mộ dân nghèo lập đồn điền Gia Thuận.

Người vợ thứ của ông là Trần Thị Sanh, em con cô của thái hậu Từ Dụ.
Khi Trương Định phất cờ đánh Pháp, bà Sanh lo việc mua sắm vũ khí, tích trữ lương thực cho nghĩa quân. Khi Trương Định tuẫn tiết, bà đem thi hài ông về an táng trọng thể tại trung tâm huyện lỵ Tân Hoà, nay thuộc TP. Gò Công, tỉnh Tiền Giang.

Đèn thờ Trương Định ở Tịnh Khê (TP Quảng Ngãi)
Đèn thờ Trương Định ở Tịnh Khê (TP. Quảng Ngãi)

Ban đầu ngôi mộ được làm bằng hồ ô dước, dựng bia đá, khắc dòng chữ: Đại Nam - An Hà lãnh binh kiêm Bình Tây Đại tướng quân Trương công húy định chi mộ. Quân xâm lược Pháp đã băm nát hàng chữ Bình Tây Đại tướng quân và phạt bà Trần Thị Sanh 10.000 quan tiền vì tội lập bia trái phép.

Năm 1874, bà Trần Thị Sanh làm đơn xin tu sửa mộ cho chồng. Lần này mộ Trương Định được xây bằng đá hoa cương, có 3 bức hoành phi và 6 trụ đá ghi lại thân thế và sự nghiệp của ông. Một lần nữa, các hoành phi và trụ đá bị nhà cầm quyền Pháp ra lệnh đục bỏ.

Trong thời kỳ Pháp thuộc, mộ Trương Định bị hoang phế trong một thời gian dài. Sau có bà Huỳnh Thị Điệu, còn gọi là bà Phủ Hải, cho sửa chữa. Năm 1956, ngôi mộ lại được sửa sang lần nữa. Trong các năm 1972, 1973 đền thờ Trương Định cũng được xây dựng.
Lăng mộ và đền thờ Trương Định tại Gò Công (tỉnh Tiền Giang) đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch công nhận là Di tích lịch sử -văn hóa quốc gia.

Lễ hội tưởng niệm ông diễn ra tại đây các ngày 19 và 20 tháng 8 dương lịch hàng năm, thu hút đông đảo nhân dân khắp Nam kỳ lục tỉnh về chiêm bái người Anh hùng dân tộc.

Chính trên mảnh đất ngày xưa vua Tự Đức từng cho xây dựng đền thờ Trương Định, năm 2007, thể theo nguyện vọng của nhân dân và để tỏ lòng tri ân những người đã hiến dâng cuộc đời vì nước, tỉnh Quảng Ngãi đã trân trọng dựng lại ngôi đền thờ ông tại quê nhà.

Nhân kỷ niệm 150 năm ngày Trương Định tuẫn tiết, UBND tỉnh Quảng Ngãi đã ra Quyết định công nhận đền thờ Trương Định ở xã Tịnh Khê, TP Quảng Ngãi là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp tỉnh, đồng thời chỉ đạo Sở VH,TT&DL lập hồ sơ trình Bộ VH,TT&DL công nhận là di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Lê Hồng Khánh

Chuyện Trương Định và hai người đồng hương

Thứ Ba, 10:41, 18/08/2009 [GMT+7]
.
(QNĐT) - Câu chuyện về lãnh tụ kháng chiến Trương Định và 2 vị quan lại triều đình đồng hương Quảng Ngãi của ông mà chúng tôi cố gắng kết nối nhờ một số tài liệu, giai thoại, gia phả, thư khố trong và ngoài nước và kể lại sau đây có thể góp phần rọi chút ánh sáng vào những bí ẩn lịch sử mà đến hôm nay hậu thế vẫn còn phân vân.
Tượng đài Trương Định ở Gò Công, Tiền Giang.
Tượng đài Trương Định ở Gò Công,
Tiền Giang.

Hai người đồng hương của Anh hùng dân tộc Trương Định nói đến trong câu chuyện này  là các ông Trương Đăng Quế và Đỗ Thúc Tịnh.

Trương Đăng Quế (1793-1865) tự là Diên Phương, hiệu Đoan Trai, biệt hiệu Quảng Khê, người làng Mỹ Khê, nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh. Ông đỗ Hương tiến (cử nhân) tại trường thi Thừa Thiên năm 1819 (Gia Long thứ 18) và là người “khai khoa” của sĩ tử Quảng Ngãi, làm quan trải 3 triều vua nhà Nguyễn (Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức) và giữ nhiều chức vụ quan trọng hàng đầu trong triều đình. Trương Đăng Quế có những đóng góp lớn trên lĩnh vực văn hóa, là tác giả Quảng Khê văn tập, Quảng Khê tiên sinh thi tập, Sứ trình vạn lý tập...; chủ trì hoặc biên tập nhiều bộ sách lớn thời Nguyễn như: Đại Nam thực lục (tiền biên và chính biên), Đại Nam liệt truyện (tiền biên), Hoàng Nguyễn thực lục...

Khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, ông là người đứng đầu phe chủ chiến trong triều đình. Nhiều tài liệu của các nhà sử học trong và ngoài nước cho thấy Trương Đăng Quế là một trong những vị đại thần nhà Nguyễn  mà bọn thực dân Pháp ở Đông Dương thù ghét nhất.

Đỗ Thúc Tịnh (1818 – 1861) tự Cấn Trai, huý Như Cương, sinh năm 1818, tại làng La Châu huyện Hoà Vang tỉnh Quảng Nam, nguyên quán ở làng Phú Lộc, phủ Bình Sơn, nay thuộc thị trấn Châu Ổ, huyện Bình Sơn tỉnh Quảng Ngãi.

Ông đỗ Cử nhân năm 1846, năm 1848 đỗ Tiến sĩ. Năm 1853, Đỗ Thúc Tịnh được bổ làm Tri phủ Diên Khánh (Khánh Hòa). Ông giúp dân dựng nhà ở, khai khẩn đất hoang, đẩy mạnh sản xuất, lập ấp, mở thêm ba thôn, mở mang chợ búa. Nhờ vậy Diên Khánh đã có thêm 242 mẫu ruộng, 960 gia đình an cư lập nghiệp.

Năm 1856 ông được thăng chức án sát tỉnh Khánh Hòa, hai năm sau làm Bố chính tỉnh nàỵ Năm 1861, ông về triều giữ chức Binh bộ hữu thị lang.

Năm 1859, giặc Pháp chiếm thành Gia Định, hai năm sau chúng chiếm tiếp thành Định Tường (tỉnh Mỹ Tho). Đỗ Thúc Tịnh dâng sớ tình nguyện xin Tự Đức cho vào Nam cùng quân dân chống giặc. Ông được phong làm Hồng lô tự khanh và giao giữ chức Tuần vũ Định Tường kiêm chức khâm phái biện sự quân vụ.

Ngày ông lên đường vào Nam, Tự Đức cấp 30 lạng bạc, ngựa trạm và giao một tờ dụ để chiêu mộ nghĩa dân.

Vào Nam, Đỗ Thúc Tịnh phối hợp với Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương... góp phần đánh thắng giặc Pháp nhiều trận, xuất sắc nhất là trận đốt cháy tàu Esperance của Pháp tại vàm Nhật Tảo năm 1861.

Tháng 11 năm 1861, Đỗ Thúc Tịnh được thăng chức lại bộ hữu thị lang. Trong khi đang cùng với quan quân tập trung sức đánh đuổi giặc Pháp, lo toan thu hồi các tỉnh miền Đông thì ông lâm bệnh và mất tại quân thứ Vĩnh Long, thọ 45 tuổi.
Đền thờ Trương Định ở Sơn Tịnh, Quảng Ngãi.
Đền thờ Trương Định ở Sơn Tịnh, Quảng Ngãi.

Ông được triều đình truy tặng chức Tuần vũ Định Tường, phái quan khâm mạng đến nhà tổ chức lễ phúng điếu trọng thể khi thi hài của ông được đưa về Quảng Nam an táng.

Vào thời điểm Đỗ Thúc Tịnh được cử vào Nam, Trương Đăng Quế đang giữ hàm Thượng thư Bộ binh, Tổng tài Quốc sử quán, Cơ mật viện đại thần, là bậc cố mệnh lương thần, được vua Tự Đức tin cẩn và triều đình nể trọng. Nhiều tài liệu cho thấy chính Trương Đăng Quế là người lựa chọn và tấu trình vua Tự Đức cho Đỗ Thúc Tịnh được nhận sứ mệnh quan trọng vào Nam.

Trước khi lên đường, Đỗ Thúc Tịnh đã đến chào Thượng thư Trương Đăng Quế tại phủ đường và bậc trọng thần đứng đầu Bộ binh đã bí mật giao cho người đồng hương họ Đỗ mang những chỉ thị bí mật của triều đình truyền đạt cho Trương Định. Vì thế, khi vào Nam kỳ, việc đầu tiên của Đỗ Thúc Tịnh là liên lạc và phối hợp với nghĩa quân Trương Định, kết nối cuộc kháng chiến của dân binh do Trương Định và các nhóm kháng chiến khác với lực lượng quân chủ lực của triều đình. Nhiều trận thắng vang dội của quân kháng chiến sau ngày có sự xuất hiện của Đỗ Thúc Tịnh ở Nam Kỳ đã khiến các tướng lĩnh quan xâm lược Pháp để ý và lo ngại vai trò của viên Khâm phái biện sự quân vụ vừa từ Huế bí mật vào Nam.

 Các vị đại thần đầu triều lúc bấy giờ như Phan Thanh Giản, Nguyễn Tri Phương đã kịp nhận ra toan tính khôn khéo của Trương Đăng Quế trong việc đề cử một người gốc Quảng Ngãi là Đỗ Thúc Tịnh vào chiến trường để hỗ trợ và phối hợp với một người Quảng Ngãi khác là Trương Định.

Cho dù ở Nam Kỳ Đỗ Thúc Tịnh liên tục di chuyển và tìm cách mai danh ẩn tích để đánh lạc hướng giặc Pháp, nhưng rồi chúng cũng lần ra mối quan hệ giữa ông và vị lão quan khét tiếng bài Pháp ở triều đình và người đầu lĩnh dân binh kháng chiến quả cảm đất Gò Công.

Rất tiếc là Đỗ Thúc Tịnh đã thọ bệnh và mất vào năm 1861, sau những ngày lặn lội gian nan khắp các vùng kháng chiến. Nhiều toan tính chiến lược nhằm đánh bật quân Pháp ra khỏi Nam kỳ bằng thực lực tại chỗ như ông từng bày tỏ cùng vua Tự Đức và vị lão thần đồng hương Trương Đăng Quế đã trở thành dang dở.

Mất Đỗ Thúc Tịnh, Chánh quản cơ, Tổng đầu mục dân binh Trương Định (về sau nhận ấn Bình Tây Đại nguyên soái của nghĩa sĩ và dân binh dựng cờ đại nghĩa, bất chấp lệnh bãi binh của triều đình) không còn sự phối hợp hiệu quả với người đồng hương giàu tài năng và ý chí kháng Pháp đã gặp nhiều khó khăn khi phải tiếp xúc với đám quan lại hèn nhát, chủ bại.

Nhiều bậc thức giả Nam Kỳ đương thời cho rằng trước hoạ xâm lăng của quân ngoại bang Tây dương và sự yếu đuối của triều đình phong kiến, cái chết của Khâm phái biện sự quân vụ Đỗ Thúc Tịnh và 3 năm sau đó là Bình Tây đại nguyên soái Trương Định đã thêm vào chuỗi những nguy cơ khiến vận nước đi vào hồi nghiêng ngả.

                                                                             Lê Hồng Khánh 

Viếng Thăm Đền Thời Nguyễn Trung Trực Tại Phú Quốc


Khám phá các địa điểm du lịch cùng Phạm Minh. Chúng tôi từ Sài Gòn nhân dịp chuyến du lịch Phú Quốc, chúng tôi đã đến thăm đền thời Nguyễn Trung Trực tại Phú Quốc, đây là đền thời vị tướng anh hùng cũng đồng thời là một trong những địa điểm tham quan được các công ty du lịch đưa vào lịch trình tham quan.

den-thoi-nguyen-trung-truc-tai-phu-quoc

Giới thiệu sơ bộ về Nguyễn Trung Trực :

Nguyễn Trung Trực là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống Pháp vào cuối thế kỷ thứ 19 ở Nam Bộ Việt Nam.
Ông là người dân chài gốc ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định, ông là người con nhà vỏ có 8 anh em, ông là người con trưởng, sau khi thực dân Pháp xâm lược miền trung viên hải gia đình ông đã vào Nam mưu sinh. Một thời gian sau ông đã gia nhập vào cuộc khởi nghĩa và làm việc dưới quyền chỉ huy Trương Định.

Ông đã có rất nhiều công lao cho các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp như : Ngày 10/12/1861 đốt tàu Espérence trên sông Nhật Tảo, 4h sáng ngày 16/6/1868, Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân kết hợp với nội ứng tấn công đồn Kiên Giang, triệt hạ đồn hoàn toàn, tên Pháp đầu tỉnh cùng đồng bọn phải đền tội,..và nhiều chiến công khác.
Thực dân Pháp tức giận và cho lệnh quyết tâm phải bắt bằng được Ông.

- Ngày 19/9/1868 ông đã bị thực dân Pháp bắt tại Phú Quốc.
- Ngày 27/10/1868 ông đã bị thực dân Pháp tử hình tại chợ Rạch Giá, tuy đã chết nhưng ông đã để lại câu nói chân lý  “Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây” đã làm nên tảng cho dân tộc quyết tâm kháng chiến chống giặc ngoại xâm.
Ông đã trở thành một vị anh hùng dân tộc và được khắc bia, những con đường cũng được lấy tên của ông, để tên ông được lưu mãi trong lòng người dân tộc Việt Nam.

Đền thời Nguyễn Trung Trực hàng ngày vẫn được người dân xunh quanh đến đây cầu nguyện, cầu bình an, cầu làm ăn thành đạt,..kể cả học trò vẫn đến đây thăm viếng. Đền thời Nguyễn Trung Trực được công nhận lịch sử văn hoa cấp quốc gia vào ngày 6/12/1989, đền thơi lưu những chiến công, hiện vật của ông, giúp cho thế hệ sau này học hỏi và nôi gương theo.

Ngày 28 tháng 10 hàng năm người dân kéo nhau về đền thời để tổ chức ngày giỗ cho ông rất long trọng, hàng vạn người đông nghẹt từ khắp nơi về đây tham dự.

Nếu có dịp du lịch Phú Quốc thì các bạn đừng quên ghé tham quan và viếng thăm đền thời Nguyễn Trung Trực nhé, một vị anh hùng dân tộc nổi tiếng một thời.


Thi hài dưới mộ Anh hùng Nguyễn Trung Trực là ai?


    Bất chấp phản đối của hậu duệ anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực và cán bộ hưu trí, gần 30 năm tỉnh Kiên Giang vẫn cho rằng thi hài trong mộ chính là hài cốt của cụ Nguyễn.
    Ly kỳ việc tìm hài cốt cụ Nguyễn

    Ngày 27/10/1868 (tức 12/9 âm lịch), cụ Nguyễn Trung Trực bị quân Pháp bắt và chém đầu tại chợ Rạch Giá. Về thi thể của cụ được nhiều người cho rằng Pháp đã bêu đầu ông giữa chợ để thị uy nhưng đến đêm có người cướp mất. Cho đến nay, không có tài liệu nào xác định thi thể cụ Nguyễn được chôn ở đâu.
    Theo giả thiết, thi thể cụ được chôn nơi kín đáo, bí mật vì sợ người dân khai quật hài cốt của cụ để làm biểu tượng tiếp tục khởi nghĩa chống Pháp. Có ý kiến rằng Pháp chôn hài cốt của cụ Nguyễn trong dinh Tham biện, cho đóng cọc và xiềng xích chung quanh.
    Lại có nhận định, cụ Nguyễn được chôn trong khuôn viên tòa bố (dinh tỉnh trưởng) thời đó có ngôi mộ bao bọc dây xích chung quanh. Tuy nhiên, có người xác định đây là mộ của một viên trung úy hải quân Pháp, dây xích vòng quanh là dây trang trí và trong đó có cả một mũi neo bằng sắt.
    Thi hài dưới mộ Anh hùng Nguyễn Trung Trực là ai?
    Khu mộ Nguyễn Trung Trực tại TP.Rạch Giá, Kiên Giang.
    Khoảng năm 1970-1971, tỉnh trưởng Kiên Giang ngụy quyền Sài Gòn Nguyễn Văn Tài đã cho đúc tượng đồng cụ Nguyễn dựng trước Nhà lồng chợ Rạch Giá. Ông đã từng treo giải thưởng, ai tìm thấy hài cốt của cụ để an táng sẽ được thưởng 1 triệu đồng và 1 vé du lịch Singapore nhưng không có kết quả.
    Trải qua nhiều cuộc tìm kiếm, đến năm 1986, qua sự khai quật của nhà văn Sơn Nam, Sở Văn hóa tỉnh Kiên Giang cho khai quật ngôi mộ được cho là của cụ Nguyễn Trung Trực trong khuôn viên tòa bố cũ và đưa bộ hài cốt về chôn ở đền thờ cụ Nguyễn ở thị xã Rạch Giá. Từ đó đến nay, những ngày lễ, giỗ, hàng ngàn người đến cúng bái tỏ lòng tri ân đối với Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
    Bị chặt đầu nhưng còn nguyên xương đốt cổ
    Tháng 4/1986, theo sự chỉ dẫn của nhà văn Sơn Nam, Bảo tàng Kiên Giang tổ chức khai quật ngôi mộ dưới gốc một cây đa trong khuôn viên trụ sở UBND tỉnh Kiên Giang được cho là nơi chôn xác cụ Nguyễn. Bảo tàng Kiên Giang đã mời ông Lê Trung Khá, cán bộ khảo cổ chuyên ngành động vật học và nhân chủng học tại TP.HCM tham gia giám định hài cốt. Nội dung chính biên bản khai quật của bảo tàng ghi nhận xét của ông Lê Trung Khá (không có chữ ký của ông Khá và ghi sai họ thành Nguyễn Trung Khá): “Xương tộc Việt, đàn ông. Người cao khoảng 1,60m, người này khoảng 50 tuổi, bộ xương này đã chôn trên 100 năm. 7 đốt xương cổ và xương hàm của hài cốt còn nguyên. Người này ăn trầu, có vẻ nghèo vì mộ bằng đất, ván hàng gỗ tạp và không có vật lễ mang theo”.
    Thật hết sức bất ngờ, Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực bị Pháp xử chém đầu khi ông mới 30 tuổi nhưng xương cổ, xương hàm còn nguyên (?!).
    Lúc bấy giờ, ông Nguyễn Khương Ninh, hậu duệ đời thứ năm của cụ Nguyễn và một số cán bộ lão thành lẫn cán bộ đương nhiệm ở Kiên Giang đã phản biện cho rằng đó không phải là hài cốt của cụ. Một trong những người phản ứng mạnh mẽ việc vội vã xác định ngôi mộ và hài cốt của cụ Nguyễn là ông Nguyễn Tấn Thanh (nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, nay đã mất) và con trai là Nguyễn Tiến Dũng (lúc đó là cán bộ Công an tỉnh Kiên Giang).  Sau 30/4/1975, ông Thanh được cấp nhà trong khuôn viên dinh tham biện cũ của Pháp và ngôi mộ được khai quật nằm sát cạnh ngôi nhà của ông đã có văn bản gửi lãnh đạo tỉnh, không chỉ với tư cách một lãnh đạo địa phương mà còn với tình cảm của người ngưỡng mộ cụ Nguyễn Trung Trực.
    Trong văn bản, ông Thanh viết: “Khi rõ lại (xem lại) ngôi mộ kế nhà tôi, tôi phản đối vì ngôi mộ này trước khai quật tôi có đến xem, là ngôi mộ hòm rương cây danh mộc tốt, có đầu, mình tay chân đủ, chôn cất đàng hoàng. Hỏi bà con lão thành người ta nói là một người tay sai làm nhà cho Tây có công, khi chết nó có chính sách chôn cất đàng hoàng”.

    Ông Ninh đã cất công truy tìm tài liệu, phát hiện đến hai biên bản giám định hết sức sơ sài và có nhiều khuất tất. Biên bản thứ nhất phân nội dung của ông Lê Trung Khá ghi tuổi của xương khai quật được là 50 tuổi. Thế nhưng biên bản thứ hai, tuổi được sửa còn 40. Biên bản được sửa là bản sao bằng giấy than màu xanh của bản chính.
    Theo lời ông Nguyễn Khương Ninh, ông đã đến TP.HCM tìm gặp ông Lê Trung Khá. Ông Khá khẳng định, hai biên bản của Bảo tàng Kiên Giang lập không ghi đúng nội dung giám định của ông. Chính tay ông Khá đã viết hai biên bản giám định, một bản do ông giữ, còn một bản giao cho ông Dương Văn Truyện (lúc đó là Giám đốc Bảo tàng Kiên Giang).
    Ông Khá xác định nội dung giám định là: “7 đốt xương cổ và xương hàm của hài cốt còn nguyên, chứng tỏ người chết không bị chém đầu, còn nhiều chiếc răng bị mòn vẹt dính chất vôi, chứng tỏ người chết cao niên và có ăn trầu”. Ông Khá xác định bộ hài cốt này không phải của cụ Nguyễn Trung Trực. Còn biên bản giám định hài cốt do ông giữ đã được đưa vào lưu trữ tại TP.HCM.
    Ngoài ông Thanh, ông Ninh kịch liệt phản đối việc nhận thi hài người khác cho rằng của cụ Nguyễn, các nhân sĩ tên tuổi như giáo sư bác sĩ Trần Cửu Kiến cũng lên tiếng góp ý. Ngay thực tế khách quan của bộ hài cốt là bằng chứng hiển nhiên không có đặc thù của thân thế cụ Nguyễn bị chết chém năm 30 tuổi nhưng xương của hài cốt đã 50 tuổi, xương cổ còn nguyên. Ngôi mộ bằng đá, chạm khắc hoa văn, có bia chữ Hán.
    Lẽ nào người Pháp lại ưu ái quý trọng cụ Nguyễn đến mức xây mộ đá khắc bia nằm ngay trong dinh tỉnh trưởng? Chính Thống Đốc Nam Kỳ đã bác bỏ đề nghị của Huỳnh Công Tấn xin tha cho cụ Nguyễn vì lý do “người này đã giết quá nhiều binh lính và sĩ quan Pháp”.
    Chủ tỉnh Kiên Giang là Arnoux (có người ghi là Reneoul), biết đọc chữ Hán, khi đi dự lễ kỳ yên ở đình Vĩnh Thanh Vân nhìn thấy bài vị cụ Nguyễn thờ trong đình đã hầm hầm bỏ về làm hương chức hội tế Rạch Giá sợ xanh mặt. Bên cạnh đó, thi hài vị Anh hùng dân tộc nhưng được khẳng định bằng biên bản chung chung, phản khoa học. Đáng tiếc, tỉnh Kiên Giang vẫn không xem xét trả lời trước công luận, liệu có xứng đáng với sự hy sinh của bậc tiền nhân?
    Theo Đào Văn/Báo Công An TP HCM
     

    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét