Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015

VÕ THUẬT TINH HOA 26

(ĐC sưu tầm trên NET)

Giai thoại võ lâm: Võ sư Từ Thiện và đòn "Bát quái côn" trấn áp giang hồ

Trong giới võ thuật Sài Gòn trước năm 1975 có một vị võ sư danh tiếng lẫy lừng, võ thuật cao siêu mà tấm lòng cứu nhân độ thế cũng khiến người người nể phục. Đó là võ sư Từ Thiện.



Ông không những đào tạo được nhiều môn sinh xuất sắc tung hoành khắp các võ đài miền Nam thời đó mà còn ra tay khuất phục được nhiều tay anh chị giang hồ khét tiếng. Nổi tiếng nhất trong những màn trừ gian diệt ác của vị đại tông sư phải kể đến vụ khuất phục tay giang hồ Minh “Cầu Muối”.

CẬU BÉ LÒ GỐM MÊ THẾ VÕ ĐẢ HỔ

Võ sư Từ Thiện tên húy là Hồ Văn Lành sinh năm Giáp Dần (1914) tại ấp Khánh Hòa, làng Tân Phước Khánh, tổng Bình Thiện, huyện Châu Thành, tỉnh Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay). Xuất thân trong gia đình có truyền thống về Đông y, thưở nhỏ ông đi làm thuê ở một lò gốm để nuôi thân và phụ giúp gia đình. Năm 14 tuổi, cậu bé Lành theo thọ giáo nghề võ với người dượng thứ sáu tức võ sư Bảy Phiên (đệ tử đời thứ hai của danh sư Hai Ất).

Sau bốn năm ròng rã miệt mài khổ luyện, 18 tuổi, Hồ Văn Lành bắt đầu thượng đài. Năm 20 tuổi, có tên trong đoàn võ sĩ xứ Tân Khánh (do Cai tổng Thêm làm trưởng đoàn) đi thi đấu khắp miền Đông, miền Tây Nam Bộ, bảy lần thượng đài đều giành chiến thắng với hai đòn sở trường là chỏ, gối mạnh và nhanh "như điện 220V" khiến nhiều đối thủ phải tâm phục khẩu phục.

Năm 1939, ông mở võ đường ở Tân Khánh - Bà Trà thu hút hàng trăm môn đồ các nơi đến xin thọ giáo. Năm 29 tuổi, Hồ Văn Lành giúp vốn cho ông Huỳnh Bá Phước (Năm Phước, người tỉnh Vân Nam, Trung Quốc) - cao thủ môn phái Bạch Hạc, mở tiệm thuốc Đông y. Để trả ơn, quyền sư này đã chân truyền tuyệt kỹ Bạch Hạc phái và Vịnh Xuân quyền cùng phương pháp chữa trật đả, gãy xương... cho ân nhân họ Hồ. Từ đó, không chỉ truyền thụ quyền cước, võ sư Hồ Văn Lành còn nhận chữa trật khớp, bong gân, gãy xương cho môn đệ và bà con xung quanh mà không hề nhận một đồng thù lao nào.

Năm 31 tuổi, ông Lành tham gia đội Thanh Niên Tiền Phong rồi mặt trận Việt Minh, bị thực dân Pháp phát hiện bắt giam. Năm 40 tuổi (1954) được phóng thích, vị cao thủ võ lâm Tân Khánh - Bà Trà vào Sài Gòn mở võ đường truyền bá môn võ đả hổ tại Khánh Hội (Q.4), đến cuối năm 1963 lại dời qua khu cầu Muối, 15/60 Cô Bắc, Q,2 (nay là Q.1).

Lúc này võ sư Hồ Văn Lành lấy biệt danh Từ Thiện (bởi theo ông đích đến của người học võ là lòng vị tha và tính hướng thiện). Trên nửa thế kỷ sống và dạy võ tại vùng đất dữ này, bằng tài năng và đức độ, võ sư Từ Thiện lần lượt thu phục nhiều tay anh chị giang hồ khét tiếng chợ Cầu Muối như đảng cướp "Bàn tay máu" với những đại ca Minh “Cầu Muối”, Nết, Sửu, Ngọc Anh, Ngọc Em...

ÔNG THẦY GIỮA BẦY THẢO KHẤU

Thời đó, khu vực cầu Muối, cầu Ông Lãnh là vùng đất do tứ đại ca Ba Thế (Lâm Văn Thế) cai quản. Do đó việc ngang nhiên mở võ đường mà không được phép anh Đại (Đại Cathay, vua giang hồ Sài Gòn thời đó) của võ sư Từ Thiện đã làm ngứa mắt đám du đãng, giang hồ tại khu vực cầu Muối. Chuyện vuốt mặt chẳng nể mũi của ông thầy võ đã đến tai Ba Thế và hắn đã thay mặt Đại Cathay xuống chỉ cho Minh “Cầu Muối” dẫn đàn em đến quậy nát võ đường của lão Út (tên thường gọi của võ sư Từ Thiện).

Lúc đó khoảng xế chiều, võ sư Từ Thiện đang dạy binh khí cho các nghệ sỹ thuộc hai đoàn cải lương tuồng cổ Minh Tơ và Huỳnh Long (đóng đô tại khu chung cư hẻm 27 Cô Giang, cầu Ông Lãnh) tại võ đường. Bỗng dưng xuất hiện hơn 30 tên côn đồ mặt mày đằng đằng sát khí do trùm du đãng Minh “Cầu Muối” dẫn đầu. Đứa nào mình mẩy cũng xăm trổ chằng chịt, tay lăm lăm mã tấu, dao lê, xích sắt, thắt lưng, gậy gộc, dao mổ heo... hùng hổ kéo vào võ đường như muốn ăn tươi nuốt sống thầy Út khiến các nghệ sỹ sợ hãi bỏ chạy tán loạn.

Bình tĩnh trấn an đám môn đệ, võ sư Từ Thiện ôn tồn: "Các chú cần gì, không thù không oán tại sao lại đến gây hấn?". Minh “Cầu Muối” tay vung xích sắt, lớn lối: "Tội của lão là tự ý mở võ đường mà không xin phép anh Đại!". Nói chưa dứt câu, đám sát thủ máu lạnh vây thành vòng tròn bao vây võ sư Từ Thiện rồi đồng loạt tấn công. Nhanh như chớp, võ sư Từ Thiện chụp cây trường côn bằng sắt trên giá binh khí sử ra bài "Bát quái côn" danh trấn giang hồ của Bạch Hạc phái. Ông tiến thoái nhịp nhàng, tả xung hữu đột, đỡ trên gạt dưới, đường côn sáng loáng và đầy uy lực, tiếng gió rít lạnh người, côn vụt đến đâu, đám du đãng dạt ra đến đó.


HLV Trương Dương biểu diễn bài Bát quái côn

Màn đánh đấm kết thúc sau gần mười phút, hàng chục tên du đãng ôm đầu máu bỏ chạy thục mạng, các tên còn lại đứa gãy giò, thằng què tay vội sụp xuống chắp tay lạy võ sư họ Hồ như tế sao. Nhiều tay anh chị vừa khi nãy còn hung hăng thì giờ đây mình mẩy xưng vù tứa máu, có đứa nằm thẳng cẳng bất ly cục cựa.

Tin dữ đến tai Đại Cathay, nhưng sau khi so sánh thực lực đôi bên hắn ngộ ra là cỡ hắn không phải là đối thủ xứng tầm của ông thầy dạy võ. Dằn cơn tự ái, trùm du đãng Sài Gòn hạ lệnh cho Minh “Cầu Muối”: "Để yên võ đường của thầy Út, cấm tiệt đứa nào đến quậy phá!". Kể từ đó, đám giang hồ hùng cứ khu cầu Muối, cầu Ông Lãnh chẳng còn dám bén mảng đến võ đường của võ sư Từ Thiện nữa. Thậm chí có nhiều tay du đãng chuyên đâm thuê chém mướn đã đến thọ giáo nghề võ của quyền sư Từ Thiện, sau thời gian theo học đã được sư phụ cảm hóa, sau đó đã hoàn lương.

“TỨ TÚ" CỦA LÀNG VÕ SÀI GÒN

Năm 1959, võ sư Từ Thiện chính thức gia nhập Tổng cuộc Quyền thuật, bắt đầu đào tạo võ sĩ thi đấu võ đài, ông còn trao đổi thêm kỹ thuật môn quyền Anh cùng những đồng đạo thân thiết như Kid Dempsey, Huỳnh Tiền, Phan Văn Hai, Lê Văn Kiển (Tám Kiển), Nguyễn Văn Thanh (Chín Mai)...

Võ đường Từ Thiện là một trong bốn võ đường (cùng với võ đường Trần Xil, Xuân Bình, Lý Huỳnh) đào tạo võ sinh, võ sĩ nhiều nhất miền Nam giai đoạn 1965-1975, vì thế lần đầu tiên bộ môn quyền thuật được Phủ Thủ tướng và Tổng Nha Thanh Niên chế độ cũ tặng "Bằng Danh Dự ưu hạng" vào hạ tuần tháng 7/1970, được báo chí Sài Gòn phong danh "Tứ tú trên bầu trời võ thuật". Năm 1973 võ đường lại vinh dự được Tổng Nha Thanh Niên và Phủ Thủ tướng ban tặng "Thể thao bội tinh".

Một số môn đệ (nam lấy biệt danh họ Từ, nữ họ Hồ) như Từ Quang Vũ, Từ Thanh Nghĩa, Từ Thanh Long, Từ Thanh Quang... mở điểm tập thu hút hàng ngàn thanh thiếu niên. Các võ sĩ đạt nhiều thành tích trên võ đài gồm Từ Thanh Nghĩa, Từ Thanh, Hồ Phi Phụng, Hồ Thanh Sương, Hồ Bạch Yến (Lý Huỳnh Yến), Hồ Phi Yến, Hồ Ngọc Thọ...

Sau ngày đất nước thống nhất, võ sư Từ Thiện độ nhật bằng nghề chữa bong gân, gãy xương, trặc khớp... tại tư gia. Khi phong trào võ thuật hồi sinh, ông được mời làm cố vấn chuyên môn Liên đoàn Võ Cổ truyền TP.HCM. Thời gian này (1991-1996) võ sư Từ Thiện có nhiều bài viết về võ thuật đăng trên các báo và tạp chí "Võ thuật", năm 1991, ông xuất bản sách "Võ thuật phái Tân Khánh" được nhiều người quan tâm. Năm 2003, được UB.TDTT tặng Huân chương "Vì sự nghiệp Thể dục thể thao". Năm 2005, do tuổi cao sức yếu, lão võ sư Hồ Văn Lành đã về cõi vĩnh hằng tại tư gia, hưởng thọ 90 tuổi, ngày giỗ hằng năm tổ chức vào ngày 27/10 (Âm lịch).
Internet

Võ Việt Nam: Huyền thoại và giai thoại về những "thiên hạ đệ nhất cao thủ"

Linh giác công – công phu đệ nhất

Cho đến bây giờ, võ lâm đồng đạo vẫn suy tôn Linh giác công của Trần Hưng Hiệp là thiên hạ đệ nhất, không ai bì kịp. Biểu diễn tuyệt chiêu này đòi hỏi người võ sư phải có công lực thượng thừa và cái tâm luôn tĩnh.

Với tuyệt chiêu này, đã nhiều lần Hiệp làm người xem thót tim vì sợ. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, khi biểu diễn Linh giác, Hiệp thường đặt quả cam, táo, hoặc một mẩu thân chuối dài chừng gần chục cm lên đỉnh đầu người đối diện. Sau ấy, bằng mảnh vải đen, anh bịt kín mắt mình, tay cầm kiếm sắc, từ từ tiến tới. Mắt bịt kín, nhưng bằng giác quan, anh vẫn xác định được vị trí của mục tiêu và vung kiếm chém tới...

Dù chém ngang, hay dọc thì đường kiếm ngọt ngào ấy cũng chỉ phạt đôi vật thể trên đầu, chứ chẳng mảy may làm tổn thương một cọng tóc của người trợ diễn.

Ngay cả lão võ sư, đã nhiều lần xem con mình biểu diễn, nhưng lần nào ông cũng... hoảng. Ông cấm con mình tuyệt đối không được dạy chiêu thức nguy hiểm ấy cho ai. Dặn con vậy không phải vì ông muốn giữ độc chiêu cho gia đình mình mà vì... sợ. Đám học trò hiếu động, học chưa đến nơi đến chốn, chém phạt đầu nhau thì vô cùng nguy khốn.

Tuy quá nổi danh với Linh giác công nhưng sau này, mọi người đã không được thấy anh biểu diễn tuyệt chiêu này nữa. Anh là người cẩn trọng, không bao giờ thích chuyện phiêu lưu hay những trò chơi nguy hiểm. Bởi thế, một lần, diễn Linh giác bị hỏng, anh đã quyết tâm từ bỏ sở trường này.

Lần ấy, Bình Định Gia tổ chức biểu diễn ở Nhà văn hoá huyện Từ Liêm. Tiết mục Linh giác trứ danh của Hiệp được toàn thể khán giả đón đợi. Lần thứ nhất, quả táo Tầu nhỏ xíu trên đầu người trợ diễn đã bị anh chém toác đôi. Nhiều người kinh hãi không dám nhìn nhưng cũng nhiều người ưa cảm giác mạnh, muốn anh diễn lại.

Không thể chối từ thịnh tình của người mến mộ, anh lại bịt băng đen che mắt, lại tiếp tục diễn trò. Thế nhưng, khi thanh kiếm sáng loáng trong tay vừa vung lên thì anh bỗng khựng người lại, buông kiếm xuống. Tiếp tục một lần nữa cũng vẫn vậy, thanh kiếm trên tay anh chẳng thể lượn một đường ngọt xớt như nó vẫn thường thi triển, vẫn làm người xem kinh hãi.

Có lẽ, linh giác đã mách bảo anh rằng, trong một tâm trạng không được thoải mái, anh không nên dụng trò nguy hiểm ấy. Đắn đo, sau cùng, anh đã xin lỗi khán giả và thay bằng việc đặt quả táo lên đầu người trợ diễn thì anh đặt quả táo lên thành ghế. Nhát kiếm chí tử được tung ra. Quả táo bị chém phạt phần dưới, tung lên rồi lăn lông lốc trên sàn nhà. Mọi người vẫn vỗ tay rầm rập. Thế nhưng, trên mặt anh vẫn không thấy nụ cười.

Chào khán giả, anh vội vàng lùi vào phía trong. Lão võ sư Trần Hưng Quang kể, về nhà con trai ông đã kể cho ông “sự kiện lạ lùng” ấy. Và, anh còn tiết lộ, hàng đinh đóng trên thành chiếc ghế đã bị anh chém bay hết mũ. Nếu hôm ấy, nếu là người thật thì không biết hậu quả thế nào. Vậy là, nghe theo lời khuyên của cha, cùng với tính cẩn trọng của mình, anh đã từ bỏ môn võ mà mình đã khổ công rèn luyện.

Khi tài năng đang độ chín muồi, khi Bình Định Gia đang khởi sắc, phát triển võ đường đến hầu hết các tỉnh phía Bắc với hàng vạn môn sinh theo học thì vì một tai nạn giao thông thương tâm, Trần Hưng Hiệp đã không còn nữa. Lão võ sư Trần Hưng Quang bảo, từ hôm nghe tin con trai mất, ông cứ thấy mình như đi trên mây khói, người như không còn chút trọng lượng, sức lực nào.

Phần V - Túy quyền và những truyền nhân tại Việt Nam

Trận ác đấu diễn ra vô cùng gay cấn. Chàng trai đại diện cho chính nghĩa bị đối phương tấn công bằng những chiêu thức công phu hủy diệt, sinh mạng như đèn dầu leo lét. Thế nhưng, trong cơn nguy khốn ấy, đại hiệp may mắn được viện trợ khẩn cấp bằng một..."món quà" đặc biệt, ấy là rượu.

Nốc ừng ực cả vò rượu lớn, chàng trai rơi vào trạng thái say mèm, chân lảo đảo, mắt lờ đờ. Đối thủ thấy vậy bèn nhào tới tung đòn quyết định.

Thế nhưng, lạ thay, quyền cước của hắn chỉ tung vào không khí. Tránh né tài tình, đại hiệp vừa kịp tung ra những chiêu thức hạ gục đối thủ... Đòn thế mà đại hiệp kia sử dụng là gì mà quỷ khốc thần sầu, chuyển nguy thành an như vậy?

Đi tìm "cha đẻ" võ say

Đó là Tuý quyền, cũng là bài võ thường thấy trên phim ảnh của Trung Quốc (khán giả Việt Nam từng biết đến bài quyền này qua bộ phim Hoàng Phi Hồng do diễn viên Lý Liên Kiệt thủ vai). Và, cũng chính bởi sự hấp dẫn bài võ này... trên phim mà bấy lâu Túy quyền đã trở thành "đặc sản" của võ học Đại lục, với các lời đồn đoán nửa hư, nửa thực.

Trong quá trình đi tìm chân tuớng bài quyền trứ danh này, điều vô cùng kinh ngạc là ngay tại Việt Nam cũng có Tuý quyền, hiện nó nằm trong tay một vài cao thủ của làng võ Việt Nam.

Tìm hiểu về bài võ độc đáo này, người đầu tiên tôi nghĩ đến là võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng môn phái Hoa quyền, bởi có lần tôi thấy ông biểu diễn quyền thuật rất dẻo, có những nét giống những chiêu thức trác tuyệt của Tuý quyền. Thế nhưng, cao thủ Hoa quyền này bảo, môn phái của ông tuy nổi danh với rất nhiều những bài võ có chọn lọc, chỉnh biên từ võ Tàu, nhưng túy quyền thì không.

Rất may là võ sư Tín cũng khẳng định, ở Việt Nam có Túy quyền, nhưng rất ít môn phái sở hữu nó, những cao thủ thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. Võ sư giới thiệu cho tôi hai môn phái mà bấy lâu, Túy quyền của họ đã được làng võ Việt Nam thừa nhận.

Theo sự giới thiệu ấy, tôi tìm đến võ sư Băng Sơn, hiệu là Bắc Phong chân nhân, Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia. Như nhiều người đã biết, võ sư Băng Sơn ngay từ nhỏ đã theo sư phụ Lý Chấn Hòa, người Trung Quốc, sống tại Việt Nam, Chưởng môn đời thứ 44 của môn phái Thiếu lâm Phật gia luyện võ.

Sau khi Lý sư phụ về nước, ông lại vào Nam bái Thiện Tâm thiền sư Đoàn Tâm Ảnh, môn phái Côn Luân làm thầy. Kế đến, ra Bắc, ông tiếp tục tôi rèn võ công cùng Lão võ sư Trần Công, hiệu là Huyền Công Đạo, môn phái Không Động.

Mấy chục năm lăn lộn trên giang hồ, được tiếp cận với nhiều bí kíp, tinh hoa võ học nhưng võ sư Băng Sơn bảo, thứ mà ông thích thú nhất, đó là được học Túy quyền với Lý sư phụ từ khi còn nhỏ. Sau này, cùng với sự tìm tòi nghiên cứu, võ sư Băng Sơn đã nâng tầm Túy quyền của mình lên một cảnh giới cao hơn.



Thế "Bá vương kính tửu"​

Thế "Bạch hạc phi thân"​



Thế "Thái Bạch túy tửu"​

Thế "Ngưỡng thân ẩm tửu"​

Võ sư Băng Sơn cho biết, hiện tại ngay cả Trung Quốc vẫn chưa biết ai là người sáng tạo ra Túy quyền. Theo truyền thuyết thì bài võ này bắt nguồn từ trận hỗn chiến của 8 vị tiên trong thần thoại Trung Hoa, bởi thế nó còn có tên là Túy Bát tiên.

Tương truyền, sau khi tu luyện đạt đến trình độ thượng thừa, bát tiên (gồm Chung Ly Quyền, Lam Thái Hòa, Tào Quốc Cữu, Lữ Động Tân, Hàn Tương Tử, Hà Tiên Cô, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quải) được Ngọc Hoàng Thượng đế giao cho nhiệm vụ diệt quái trừ yêu, bảo vệ lương dân. Một lần, vượt biển trừ yêu, bởi sóng to nên thuyền của bát tiên bị đánh đắm khiến cả tám vị chìm nghỉm ở giữa biển khơi.

Kính trọng bát tiên, long cung mở tiệc ăn mừng nhân chuyến hội ngộ kỳ duyên đó. Rượu say bí tỉ, với bản tính thích giỡn đùa, quậy phá, bát tiên đã đánh lộn với binh tôm tướng cá, gây náo loạn long cung. Kịch chiến trong lúc say, nhưng với võ công siêu đẳng, bát tiên vẫn thi triển những chiêu thực võ thuật vô cùng đẹp mắt. Sau cùng không muốn màn "siêu quậy" của bát tiên thêm nữa, Long Vương đành phải để bát tiên đi.

Thế nhưng, bởi đó là trận chiến long trời nở đất, nên hình ảnh tám vị tiên say đánh lộn đã in bóng lên trời. Thấy hình ảnh 8 vị tiên đi quyền đẹp mắt, người hạ giới cứ ngó mà học theo. Túy quyền xuất hiện từ dạo đó.

Theo võ sư Băng Sơn, đến bây giờ, tranh, tượng mô phỏng hình ảnh "Bát tiên quá hải" vẫn còn được treo, thờ trong nhiều gia đình Trung Quốc. Trong những bức tranh hay tượng ấy, mỗi vị tiên thể hiện một thế đứng đặc biệt của mình, tượng trưng cho một thế võ của Túy quyền.

Ngoài Bát tiên, trong đời sống văn học, nghệ thuật của Trung Hoa cũng xuất hiên nhiều nhân vật mà cuộc đời đã thành một biểu tượng cho tinh thần trượng nghĩa, lấy chính trực, quân tử để chiến thắng bạo tàn, dối trá. Theo võ sư chưởng môn Võ lâm Phật gia thì họ đều có bí kíp... võ say và cách thức thi triển công phu độc đáo của họ đã thành tên của một số bài Tuý quyền sau này.

Người đam mê văn học, võ thuật không thể không biết tới những trận say nghiêng ngả của hành giả Võ Tòng, một nhân vật giàu cá tính trong tiểu thuyết Thủy Hử của Thi Nại Am. Những trận say quên trời đất của vị hành giả ấy đã là nguồn cảm hứng để võ lâm sáng tạo một loạt những chiêu thức tuý quyền có tên là Võ Tòng tuý tửu. Trong số ấy tiêu biểu có trận đả hổ tại đồi Cảnh Dương, say đả Tưởng Môn Thần, đại náo Phi Vân phố...

Cũng trong tiểu thuyết lừng danh ấy, một "ông tổ" của tuý quyền đã được Thi Nại Am, sau này là phim ảnh Trung Quốc mô tả vô cùng rõ nét, đó là nhà sư tính tính lỗ mãng nhưng rất đáng yêu Lỗ Trí Thâm. Thật hiếm khi thấy nhân vật này xuất hiện mà không có nậm rượu bên mình. Bởi luôn sống trong tình trạng... say xỉn nên hoà thượng này đã để lại nhiều trận đánh kinh hồn bạt vía. Trong số những trận đánh bởi ma men điều khiển ấy hẳn nhiều người không thể nào quên trận "tuý đả sơn môn", say giao đấu với cả trăm vị hoà thượng tại chùa trên Ngũ Đài Sơn.

Khi nhắc đến môn võ độc đáo này, theo võ sư Băng Sơn thì không thể không nhắc tới một "ông tổ" nữa đó là... Tôn Ngộ Không trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Với trận say nghiêng ngả này, lão Tôn đã một mình đại náo thiên đình bằng những động tác võ thuật vô cùng uy lực. Bởi trận chiến làm thiên binh thiên tướng thất điên bát đảo này, chúa tể của Hoa Quả sơn đã là nguồn cảm hứng để làng võ sáng tác ra những chiêu thức ảo diệu trong Tuý hầu quyền.

Tuyệt kỹ của đệ tử... Lưu Linh?

Trên phim ảnh, thường thì những người thi triển tuý quyền đều ở trạng thái say bí tỉ, không phân biệt thế nào là thật giả, đúng sai. Mắt thì lờ đờ, điệu bộ thì liêu xiêu, ngật ngưỡng. Rượu càng nhiều thì võ càng thăng hoa, uy lực.
Phải chăng, muốn sử dụng được Tuý quyền thì người luyện võ phải luyện thêm cho mình khả năng... uống rượu?

Trao đổi điều này với võ sư Băng Sơn, ông khẳng định: Không có chuyện rượu vào... võ ra như trên phim. Cốt lõi của tuý quyền là hình say chứ ý không say, bước say chứ tâm hoàn toàn tỉnh táo. Cụ thể hơn, Tuý quyền là bài võ có quyền pháp bắt chước hình ảnh của người say chứ không phải thực say. Hình ảnh người say trên phim ảnh đó chỉ có tính chất nghệ thuật, hư cấu, những nhà làm phim muốn khắc họa một cách ẩn ý triết lý cốt lõi của bài võ độc đáo này.

Triết lý đó là dù thân thể có say đến mấy thì tâm người luyện võ vẫn phải tỉnh táo. Còn thực tế, rượu đã say mèm, đứng còn không vững thì đừng nói chuyện... đánh đấm.

Tuý quyền tiềm ẩn sức mạnh trong các thế đứng và vồ. Khi chiến đấu, người võ sĩ phải vận dụng, phối hợp nhuần nhuyễn nhãn pháp (mắt), thủ pháp (đòn tay), cước pháp (đòn chân) và thân pháp (di chuyển, thân người võ sĩ luôn ở trạng thái khật khưỡng, hoặc uốn từ đông sang tây, vươn ngẩng về phía trước, hay ngửa gập ra phía sau).

Túy quyền kết hợp nhiều động tác tay nhưng ấn tượng và đặc trưng nhất vẫn là động tác nâng chén rượu mời. Còn thân pháp thì chú trọng đến thế ngã, lăn lộn, tung người. Trong tất các các thế này đều chứa đựng cả thế công và thủ. Cước pháp thì đặc trưng là những "cú đá người què" như đá móc, nằm đá...

Tuý quyền "madein Việt Nam"

Cũng nhờ sự giới thiệu của võ sư Vũ Quang Tín, Trưởng tràng Hoa quyền mà tôi đã được tận mắt chiêm ngưỡng nét hoa mĩ, hài hước ở những chiêu thức Túy quyền do chính tác giả của bài võ ấy, Lão Võ Sư Trần Hưng Quang Chưởng môn phái Bình Định Gia, biểu diễn.



Lão võ sư Trần Hưng Quang thi triển Túy quyền

Lão võ sư Trần Hưng Quang (từng đóng vai Ốc trong vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến) tuổi đã ngoại bát tuần nhưng còn minh mẫn lắm. Quê gốc ở đất võ Bình Định, sớm được các danh sư nổi tiếng truyền thụ võ công nên khi ra Hà Nội, ông đã làm rạng danh võ phái Bình Định Gia của mình.

Hoà cùng các bài võ đã đi vào truyền thống của Bình Định, mới đây, lão võ sư còn "trình làng" những chiêu thức võ công mới, do ông tự sáng tác có tên chung là Tuý quyền, được làng võ vô cùng hâm mộ.

Lão võ sư cho biết, các chiêu thức trong Tuý quyền của môn phái ông không phỏng theo bất cứ môn phái nào, đó là kết quả của cả đời lăn lộn, nghiên cứu, nghiền ngẫm, đúc kết của riêng cá nhân ông. Bởi tuổi đã cao, chân tay đã yếu nên các động tác quăng quật, tung người, lăn lộn của lão võ sư không còn lanh lẹ nữa, nhưng khuôn mặt, điệu bộ say thì lão võ sư "diễn" đạt vô cùng.

Lão võ sư cho biết, tập Tuý quyền đã vô cùng khó, đạt tới đỉnh giới cao nhất của Tuý quyền lại càng khó hơn. Dù Tuý quyền đã chính thức là "tài sản" của môn phái nhưng cho đến giờ chỉ có 2 môn đồ của võ sư có thể biểu diễn được ở trình độ cao.

Trong hai môn đệ ấy, người từng biểu diễn Tuý quyền và dành huy chương vàng ở Hội diễn võ thuật cổ truyền Hà Nội, do sức khoẻ yếu đã từ giã con đường võ thuật. Thế nên, theo lão võ sư, Tuý quyền của Bình Định Gia vẫn chưa tìm thấy một truyền nhân thực thụ.

Tuý quyền của Bình Định Gia có 50 thế đánh, nhưng để bắt đầu luyện tập thì người luyện võ phải có cơ bản là 3 năm tôi rèn võ thuật trước đó. Bài đầu tiên của Tuý quyền là tập mắt, bởi ánh mắt là "mồi nhử", khiến đối phương tưởng địch thủ của mình... say thật. Cứ đứng trước gương mà luyện, luyện đến khi nào ánh mắt lờ đờ, nhìn như không nhìn, liếc như không liếc, xéo như không xéo mới đạt.

Tiếp đến là tập nét mặt. Sắc mặt người say có nhiều điểm khác so với người tỉnh táo. Lão võ sư bảo, chỉ nhìn sắc mặt là có thể đoán ngay kẻ đối diện mình say hay tỉnh, quắc cần câu hay chỉ mới lây phây. Kế đến là... âm thanh. (Chi tiết này có lẽ chỉ có Tuý quyền của Bình Định Gia mới có). Đó là những tiếng ợ, nấc, thậm chí cả tiếng... "cho chó ăn chè".

Bởi là bài võ dựa vào địa hình, địa vật để chiến đấu nên sau những bài tập về thần thái là những bài tập nhào lộn, quăng quật. Để thuần thục bài tập này, người luyện võ phải chấp nhận những vết bầm dập bởi những cú va chạm do... ngã. Bài tập này chỉ hoàn thành khi người luyện ngã chơi mà như ngã thật, nhào lộn, bật, bốc thân nhẹ nhàng tựa lá vàng bay.

Sau những bài tập nền tảng trên thì chiêu thức Tuý quyền mới được lão võ sư truyền dạy. Lão võ sư bảo, nếu có cơ bản võ thuật, học Tuý quyền thì chỉ mất vài tháng, thế nhưng, để thành cao thủ có lẽ phải là người có cơ duyên. Bằng chứng là nhiều môn đệ của lão võ sư dù hấp thụ rất nhanh những bài võ khác nhưng Tuý quyền tập mãi và vẫn chẳng thành.

Phái Võ lâm Phật gia của võ sư Băng Sơn cũng chung "cảnh ngộ" như võ phái của lão võ sư Trần Hưng Quang. Dù võ say (Tuý quyền vân du) đã là bảo vật của môn phái, đã được nhiều người luyện võ ngưỡng mộ, nhưng đến giờ, những người học được tuý quyền vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay.

Tuý quyền lợi hại như... phim?

Theo võ sư Băng Sơn, làng võ Việt Nam, ngoài môn phái của ông và Bình Định Gia thì võ say còn xuất hiện ở các môn phái như Thiếu lâm Châu gia ở TP.HCM với những bài như Tuý hầu quyền, Tuý hầu côn. Võ phái Hồng Gia quyền ở Đà Nẵng với bài Bát tiên tuý tửu và dòng Phan gia võ học ở Quảng Nam với bài Tuý quyền, Tuý nhân kiếm...

Tuy thế, theo võ sư Băng Sơn, từ khi xuất hiện, võ say chưa thực sự được "thử lửa" bởi làng võ chưa từng chứng kiến cuộc thư hùng nào của những cao thủ. Sở dĩ như vậy là bởi võ say chỉ được sử dụng khi những cao thủ uyên thông bài võ này gặp những đối thủ dưới tầm, vừa đánh vừa... trêu. Còn khi đối đầu với những đối phương ngang tầm chẳng ai sử dụng võ say cả, bởi có nhiều lối đánh khác giải quyết trận chiến nhanh hơn, hiệu quả hơn.

Và, theo võ sư Băng Sơn, nếu có phải vận dụng đến bài võ ảo diệu này thì người ta cũng chỉ vận dụng chiêu thức, đòn thế để tấn công đối thủ trong chớp nhoáng. Các động tác dật dờ, liêu xiêu, bước thấp bước cao của người say cũng sẽ bị lược bỏ cho... đỡ mất thời giờ.

Tuy thế, đã vài lần thử dùng võ say trong các cuộc đánh giao lưu với đồng đạo võ lâm, võ sư Băng Sơn thấy uy lực của võ say là vô cùng lợi hại, rất phù hợp cho những trận đánh ở tư thế gần.

Vui xuân, nhiều người quá chén. Thế nhưng, khi ấy đừng ai có dại mà biểu diễn "võ say" bởi "võ" ấy chỉ nhận cho mình phần họa mà thôi !

Phần VI - Bắc Phong Chân Nhân và môn phái "nhường 3 đòn"- Võ Lâm Côn Luân

Võ lâm giang hồ biết đến Bắc Phong Chân Nhân - võ sư Băng Sơn với tư cách là đệ tử cuối cùng trong nhóm "Thập nhị đại đồ đệ" của Chưởng môn phái Võ lâm Côn Luân, Thanh Hư Chân Nhân Đoàn Tâm Ảnh.


Bởi muốn hoằng dương tinh thần võ đạo, lòng nhân ái và sự bao dung, Bắc Phong Chân Nhân và các môn sinh của mình còn nổi tiếng ở cách hành xử lạ thường khi tỉ thí võ nghệ: luôn nhường trước đối phương 3 đòn, rồi mới xuất chiêu đánh trả.

Chuyển võ sang văn

Trong số những võ sư nổi tiếng mà tôi đã gặp của loạt bài này, dù sinh năm 1958 nhưng ông vẫn là người trẻ nhất. Thế nhưng, tài không đợi tuổi, đến giờ, ông đã có một võ nghiệp mà rất nhiều võ sư phải ao ước, thán phục. Ông là võ sư Băng Sơn (tên thật là Bùi Quốc Sơn), Chưởng môn phái Võ lâm Phật gia, đệ tử chân truyền của Chưởng môn đời thứ 44 môn phái Thiếu Lâm Phật Gia - đại sư người Trung Quốc Lý Chấn Hòa.

Quê ông ở Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tổng Mao Điền ngày trước nổi tiếng là đất học, với 128 vị tiến sĩ, trong đó nổi tiếng nhất là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thời phong kiến, nhà Mạc đã cho lập Văn miếu ở Mao Điền để tôn vinh sự hiếu học của nhân dân xứ này.

Ngoài văn, Mao Điền cũng nổi tiếng về võ, mà bằng chứng là thời giặc Pháp đô hộ, đội du kích Mao Điền đã trở thành nỗi khiếp sợ đối với kẻ thù bằng những chiến công vang dội ở khắp đường 5. Tại đất ấy, dòng họ Bùi Xuân của võ sư Băng Sơn cũng nổi tiếng bởi tinh thần thượng võ, với các bài võ gia truyền như võ gậy, lăn khiên, song đao... Ông nội ông, cụ Bùi Xuân Cật, còn gọi là Trương Cất, được võ lâm đương thời ái mộ bởi thông thạo nhiều đòn hay thế hiểm của Long quyền, Hổ quyền, Ngọc trản, Thiết lĩnh... Lớn lên trong “môi trường” ấy, được mọi người rèn giũa tối ngày nên khiếu võ trong ông đã “có đất” sinh sôi.

Gia đình ông chuyển ra Hà Nội đúng khi nghề võ suy tàn. Bởi thế, ông được mọi người chuyển hướng, bắt quay sang “học văn” vì nghĩ đó là đường lập thân tốt nhất.

Cơ duyên từ trận đòn hội đồng

Thế nhưng, như cái duyên trời định, dòng máu võ thuật trong ông vẫn không khi nào ngưng chảy.

Ngày ấy, nhà ông ở phố Huế, ông hay lang thang cùng đám bạn ra ga Hà Nội chơi. Bởi hiềm khích với đám choai choai ở ga nên nhiều lần hai “băng” đã đánh nhau biêu đầu, sứt trán. Một bữa, bị “phục kích” bất ngờ, ông bị đám “đầu gấu” quây vào góc ga, “hứa hẹn” một trận đòn tới số.

Đang lúc nguy khốn, như trong truyện kiếm hiệp, không biết từ đâu một cô bé xinh xắn trạc tuổi ông bất ngờ xuất hiện. Thân thủ nhanh nhẹn, xuất chiêu biến ảo, chỉ trong giây lát cô bé đã khiến mấy tên ma cà bông ngã sõng soài, ù té mỗi đứa một nơi.

Thấy cậu nhóc bị thương, da thịt bầm dập, cô bé đã đưa cậu về nhà để cha mình chữa chạy. Nhà cô bé ở khu Trại Nhãn (La Thành - Hà Nội), nơi ấy khi đó toàn những ngôi nhà lụp xụp của dân tứ xứ. Trên đường đi, cô bé ấy bảo, cha cô là người Trung Hoa. Ông sang Việt Nam sinh sống đã lâu và cũng từ một cơ duyên tình cờ, cô được nhận làm con nuôi của ông cụ.

Nhà cô bé cũng tạm bợ như bao ngôi nhà ở khu vực ấy, chỉ có điều rộng rãi hơn và phía trước, sau đều có khoảng sân rộng được nện phẳng lì, chắc nịch. Khoảng sân ấy chắc chắn là để tập luyện quyền cước - là người đã từng tập võ, cậu bé Sơn thầm đoán vậy.

Đón cô con gái nuôi ở cửa, sau khi nghe cô nói chuyện (bằng tiếng Trung Quốc), người đàn ông có khuôn mặt hiền hậu nhưng ánh mắt tinh anh đã mời cậu bạn mới quen của con vào nhà.

Võ sư Băng Sơn kể, chỉ bằng một phương thuốc gia truyền bôi ngoài da, như có phép tiên, các vết bầm tím trên người ông đã dịu mát và ít phút sau thì lành hẳn như chưa từng bị va đập bao giờ. Thấy con mình cần có bạn và cậu bé mới quen cũng hiền lành nên khi tiễn ra cổng, ông già người Tàu ấy đã thân thiện mời ông khi rảnh thì đến chơi.

Võ sư Băng Sơn biểu diễn võ thuật​



Màn điểm huyệt sau sân nhà

Mấy ngày sau, thấy nhớ bố con ông lão tốt bụng, cậu bé Sơn lại tìm ra Trại Nhãn. Gọi cửa mãi mà không thấy ai ra mở, cậu đành lặng lẽ đẩy cổng bước vào. Trong nhà vẫn vắng hoe nhưng ở sân sau thì có tiếng hò hét, tiếng chân dậm huỳnh huỵch. Tò mò, cậu lại lặng lẽ tiến về nơi có những tiếng động lạ ấy.

Qua khe cửa sổ, cậu đã hết sức bất ngờ bởi trong khoảng sân rộng chừng chục mét vuông đang có cuộc tỉ thí lạ lùng. Mấy người cao to lực lưỡng đang thủ thế nhằm vào ông lão chủ nhà, người đã thoa “thuốc tiên” cho cậu hôm nào. Một tiếng hô vừa đủ nghe nhưng rất dõng dạc vừa cất lên thì cả đám người ấy tung đòn ào về phía góc sân, nơi chủ nhà vẫn điềm nhiên đứng tấn. Võ sư Băng Sơn kể, trong đời, ông chưa thấy một trận so tài nào mãn nhãn đến vậy.

Khi đối phương còn cách vài bước chân, ông lão người Tàu mới thi triển thân pháp. Thế nhưng, chỉ một cái nhún người, ông đã thoăn thoắt vòng đến trước mặt khắp lượt những đối thủ của mình. Và, mỗi lần “xuất hiện bất ngờ” ấy, ông đều điểm những đòn rất hiểm vào tử huyệt đối phương. Quần thảo một hồi, tất cả dừng tay. Sau động tác chào nghiêm nghị, mấy người lực lưỡng hổn hển bảo: “Thân thủ của sư phụ thiên hạ vô song, chúng con còn phải học hỏi rất nhiều!”. Truớc lời khen ngợi ấy, ông lão chủ nhà chỉ cười hiền rồi khoát tay mời tất cả vào nhà.

Vào đến nhà trong, thấy cậu nhóc loắt choắt đang đứng khép nép sau cánh cửa nhìn mình bằng ánh mắt vừa sợ hãi, vừa nể phục, ông lão người Tàu đã vẫy cậu lại, xoa đầu và hỏi: “Con có thích học võ không?”. Tim còn đang thình thịch đập, Sơn đã gật đầu bừa.
“Tốt lắm! Ta thấy con cũng có khiếu đấy! Nếu thích học thì cứ đến đây, ta sẽ dạy cho! Đây là những đệ tử của ta, họ đã theo ta được mấy chục năm rồi đấy!” - Chỉ vào những người vừa giao đấu với mình khi nãy, ông lão người Tàu ôn tồn giới thiệu.

Vị Chưởng môn đời thứ 44 Thiếu lâm Phật gia

Vậy là từ dạo đó, cứ tối đến là ông lại trốn gia đình chạy bộ từ nhà sang khu Trại Nhãn. Khi tình cảm của hai người đã nặng sâu, ông lão người Tàu mới tiết lộ cho cậu học trò bé nhỏ biết rõ thân phận thật của mình. Và, điều ấy đã làm cậu vô cùng bất ngờ, kinh ngạc.

Có lẽ, dù có nằm chiêm bao cậu cũng không thể ngờ có ngày mình lại gặp được Chưởng môn đời thứ 44 của môn phái nổi tiếng ở đất võ Trung Hoa: Thiếu lâm Phật gia. Ông tên là Lý Chấn Hoà, pháp danh là Băng Tâm (sinh năm 1989, quê ở tỉnh Hà Bắc), con trai của võ sư nổi tiếng và là Chưởng môn đời thứ 43 của môn phái, Lý Chấn Sinh. Ông sang đất Việt từ năm 1937.

Những ngày đầu, ông kiếm sống nhờ nghề bảo tiêu cho các thương gia chạy hàng đường dài, sau đó thì ổn định cuộc sống nhờ nghề bốc thuốc, chữa bệnh. Như để cậu học trò thơ ngây thực sự tin tưởng vào những lời mình nói, ông lão người Tàu đã mở tủ lấy cho cậu xem ấn, kiếm - những bảo vật của môn phái mà chỉ người chưởng môn mới được quyền gìn giữ. Lễ kết nạp ông vào môn phái được đại sư Chưởng môn tổ chức đơn giản nhưng đầy đủ thủ tục, nghi thức. Và, cũng tại buổi đó, Lý sư phụ đã đặt cho ông pháp danh theo pháp danh của người là Băng Sơn và nhận ông làm con nuôi.

Theo Lý sư phụ rèn luyện thành thạo Ngũ hình quyền (Long- Hổ- Báo- Xà- Hạc) và tinh thông thập bát ban cùng các kỹ năng cơ bản của Thiếu lâm Phật gia, võ sư Băng Sơn lên đường nhập ngũ. Những tháng ngày quân trường này, bởi tính ham học hỏi, bởi cơ duyên, ông đã được tiếp xúc với nhiều người luyện võ ở khắp mọi nơi, đặc biệt là tại các bản làng người dân tộc thiểu số sống rải rác khắp vùng cương thổ. Và, cũng từ những mối thâm tình ấy, ông đã được lãnh hội nhiều bí kíp võ công thuộc loại kỳ dị, hiếm có ở đời.

Xuất ngũ năm 1984, quẳng ba lô về nhà, ông vội vàng tìm đến nơi ở của Lý sư phụ. Dù đã mấy xuân nữa trôi qua nhưng sư phụ ông vẫn giữ nguyên phong độ ngày nào. Và, để kiểm tra xem sự tiến bộ của cậu học trò yêu sau mấy năm xa cách, Lý sư phụ cùng ông đã có cuộc so tài nảy lửa. Sau cuộc đấu đó, Lý sư phụ vô cùng mãn nguyện. Vỗ vai ông, đại sư bảo: “Khi đi con được 1 thì giờ về đã khá thêm tới 7- 8 phần!”.

Khi đó, được sự dìu dắt của sư phụ và sư thúc Viễn Trí, cũng là một cao nhân trong làng võ, giữa năm 1985, ông đứng ra mở võ đường, chiêu nạp môn sinh. Và, cũng được phép của sư phụ chưởng môn, ông lấy tên võ phái là Võ lâm Phật gia, ý chỉ môn võ xuất phát từ cửa thiền, được phóng tác theo lối chiến đấu của các loài mãnh thú. Khi võ phái được thành lập, thêm một trọng trách và vinh dự nữa khi ông được sư phụ giao cho nhiệm vụ là đại diện của môn phái, chịu trách nhiệm phát dương quang đại môn phái ở Việt Nam.

Xuôi phương Nam tìm Thanh Hư Chân Nhân

Năm 1988, tuổi đã cao (99 tuổi), nỗi nhớ quê hương vò xé, Lý sư phụ đã lên đường về nước. Chia tay nhau, nắm tay ông, đại sư nghẹn ngào bảo: “Tất cả những kỹ năng của ta, con đều đã lãnh hội vẹn toàn. Nay ta về cố quốc, chẳng biết có ngày hội ngộ nữa không? Trước khi ta đi, ta muốn dặn con một điều con nhớ mà cố gắng thực hiện. Con hãy tìm gặp cho kỳ được Thiện Tâm Thiền sư Đoàn Tâm Ảnh để học thêm về đấu pháp. Trời Nam này, theo ta thì ông ấy là thiên hạ vô song. Hơn nữa, kinh nghiệm giang hồ là điều con còn thiếu mà ông ấy lại đã có thừa!”.


Võ sư Băng Sơn chụp ảnh cùng với đại sư Đoàn Tâm Ảnh​

Nghe theo lời Lý sư phụ, ngay sau đó ít lâu, ông khăn gói vào Nam tìm Thiện Tâm Thiền sư. Về vị đại sư tiếng nổi như cồn này thì bây giờ, người luyện võ vẫn ước ao trong đời được một lần tham vấn. Thiện Tâm Thiền sư là Chưởng môn phái Võ Lâm Côn Luân, ông còn được võ lâm biết tới qua pháp danh Thanh Hư Chân Nhân.

Ông sinh năm 1900, ở miền Tây Nam Bộ, cha là người Triều Châu (Trung Quốc) mẹ là người Rạch Giá. Ngay từ nhỏ ông đã sống đời phiêu bạt. Năm 12 tuổi, ông được cha gửi sang Trung Quốc, trú tại chùa Phi Lai Tự, núi Sơn Đầu, tỉnh Mã Dương Cương. Người được “giao nhiệm vụ” rèn cặp Tâm Ảnh thì ở Trung Hoa đại lục hiếm người nào lại không biết tới. Ông chính là Mộc Đức Thiền sư, cố vấn cao cấp của Tổng thống Tôn Trung Sơn.

Sau gần chục năm luyện tập võ nghệ, khi tuổi ngoài 20, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã được Mộc Đức Thiền sư cùng đại sư Bắc Phong Hoà Thượng, Chưởng môn phái Thiếu lâm Bắc phái đứng ra tác hợp để cậu học trò yêu được kết tóc se duyên cùng cô nương Hoa Cẩm Tú (môn đồ của Bắc Phong Hoà thượng).

Sau đó, được sự đồng ý của hai vị đại sư phụ, vợ chồng Tâm Ảnh xuống núi hành hiệp với pháp hiệu là Ta Lô. Từ ngày xuống núi, tiếng tăm về cặp vợ chồng Tâm ảnh - Cẩm Tú cũng lẫy lừng khắp mọi nẻo đất Trung Hoa. Người chồng thì khiến đối phương nể sợ bởi đường côn dũng mãnh, biến hoá khó lường. Người vợ thì nức tiếng giang hồ với vuông lụa bạch, mỗi lần xuất chiêu thì có thể hạ gục đối phương ngay trong chớp mắt.

Chiến tranh Hoa - Nhật bùng nổ, vợ chồng ly tán mỗi người một phương. Sau nhiều năm tìm kiếm nhưng vô vọng, Đoàn Tâm Ảnh đành phải quay trở lại quê nhà. Về đất Quảng Ngãi vào năm 1932, nhưng máu phiêu bạt, ông lại khăn gói sang Lào và Campuchia. Năm 1944, Tâm ảnh trở về Việt Nam, trú tại Bạc Liêu. Lúc này, ông nương nhờ cửa Phật, sống ẩn dật ở các chùa chiền với pháp danh Thiện Tâm. Cũng thời kỳ này, bởi nạn cường hào ác bá, bởi sự hung đồ của quân cướp nước, ông đã đứng ra thành lập đảng Sao Trắng với sứ mệnh là trừ khử những tên tham quan, ô lại, nhũng nhiễu dân nghèo.

Chuyện đại sư Đoàn Tâm Ảnh hành hiệp trượng nghĩa thì bây giờ, dân các tỉnh miền Tây vẫn truyền tai nhau như một huyền thoại. Cứ khi mọi người yên giấc, bỏ áo thầy tu, khoác lên người bộ y phục kín mít, đại sư băng mình vào màn đêm tĩnh lặng. Và, lần nào đi thì lần ấy chí ít cũng một tên ác ôn phải đền tội ác.

Cứ sau mỗi lần ra tay, hiệp khách ấy luôn để lại trên “hiện trường” ám hiệu riêng của mình. Đó chính là chữ ký của ông. Chữ ký có hình ngôi sao 5 cánh. Suốt mấy năm trời, tại 6 tỉnh miền Tây, uy danh, sự lợi hại của vị đại hiệp có chữ ký lạ lùng ấy đã làm thực dân Pháp và bè lũ tay sai khiếp đảm. Bởi thế, nhiều dinh thự của những tên quan lại nợ máu với nhân dân đã vội vàng “nâng cấp”, che chắn kín cổng cao tường để đề phóng thích khách. Thế nhưng, như từ dưới đất chui lên, như từ trên trời rơi xuống, tất cả các hệ thống canh phòng ấy đều là vô dụng. Hễ hiệp khách muốn “đòi nợ” ai, thì dù có phòng bị nghiêm ngặt đến mấy, kẻ đó vẫn phải rơi đầu.

Năm 1944, đại sư Đoàn Tâm Ảnh lại tiếp tục cuộc đời phiêu bạt của mình. Ông đã lưu dấu chân mình ở khắp các nước như Mã Lai, Thổ Nhĩ Kỹ, Nhật Bản, Phi Luật Tân... Tại những nơi đó, ông đã truyền bá công phu cho rất nhiều người.
Về lại Việt Nam năm 1954, ông bắt đầu thâu nạp môn sinh, mở võ đường dạy võ. Năm 1960 ông đã sáng lập Võ lâm đạo Việt Nam và thành lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam tại Cần Thơ.

Phần VII - Chưởng môn phái "nhường 3 đòn" thử tài "vua ám khí"

Hành trình bái sư của võ sư Băng Sơn vô cùng gian khổ, bởi vô số người muốn một lần diện kiến nhân vật huyền thoại Thiện Tâm Thiền Sư mà không được, chưa nói đến việc được thu nạp làm đệ tử.

“Có phải Lý sư phụ giới thiệu tới tìm ta?”

Bởi lý do đó, vào Sài Gòn suốt mấy tuần trời, tìm đến khắp các võ đường của Võ lâm Côn Luân nhưng ông vẫn không một lần được thấy mặt Thiện Tâm Thiền Sư. Thấy ông vất vả, kỳ công, các trợ giáo của đại sư đã thương cảm, khuyên ông nên ra Bắc, bởi đại sư không bao giờ tùy tiện gặp người mình không quen biết.

Thế nhưng, nhớ lời dạy của Lý sư phụ trước lúc chia tay, ông quyết chí tìm gặp Thiện Tâm Thiền Sư cho kỳ được, dù có phải đi làm thuê để kiếm kinh phí trang trải trong những ngày chờ đợi.

Thế rồi, cơ duyên đến. Một lần viếng thăm một võ đường của đại sư nằm khuất sâu trong con hẻm nhỏ yên tĩnh, ông đã được một trợ giáo của đại sư đon đả mời vào. Chưa hết ngạc nhiên thì vị trợ giáo ấy đã bảo: “Đại sư đang chờ ông ở trong. Người biết thế nào ông cũng đến nên đã cố tình chờ đấy!”.

Võ sư Băng Sơn kể, nghe câu nói đó ông mừng đến nỗi ú ớ chẳng nói được câu nào. Quãng đường từ võ đài vào phòng đại sư chỉ vòng vèo qua mấy gian nhà mà ông thấy như xa vời vợi. Cái giây phút căng thẳng ấy đã nhanh chóng trôi qua khi cánh cửa phòng của đại sư bật mở.
Đang ngồi trầm ngâm, thấy ông vào, đại sư đứng dậy, vồn vã: “Con vào đây! Ta chờ con cũng đã lâu rồi!”. Khi vừa an vị, một câu hỏi nữa của đại sư càng khiến ông thêm phần bối rối, khó hiểu: “Có phải Lý sư phụ giới thiệu con tới tìm ta?”. “Ôi, sao đại sư biết!?”.

Trước câu hỏi đầy sự kinh ngạc ấy của ông, Thiện Tâm Thiền Sư chỉ khẽ mỉm cười. Sau này, ông đoán rằng, trước đây, bôn tẩu giang hồ, hai vị đại sư đã có lần hội ngộ nên đã hứa hẹn chuyện dìu dắt đệ tử cho nhau.

Môn đồ cuối cùng trong Thập nhị đại đồ đệ

Ngay buổi gặp gỡ ấy, đại sư Đoàn Tâm Ảnh đã thử tài năng võ nghệ của người đệ tử tương lai của mình.

Ngồi trên sập, đại sư bảo ông thi triển quyền cước trong nhà. Ban đầu, đại sư bắt ông đánh phá 2 cửa, rồi tăng lên 4 cửa, 6 cửa. Sau một thôi một hồi thi triển tất cả những kỹ năng mà mình có được, đã thấm mệt, đang chực dừng lại thì Thiện Tâm Thiền Sư lại giục tiếp: “Đánh 8 cửa!”. Mệt, thêm nữa, trong căn phòng nhỏ ấy, không đủ diện tích để ông thực thi “mệnh lệnh” lạ lùng của vị đại sư, nên ông đành chắp tay mà rằng: “Cái đó thầy con chưa dậy!”. Nghe ông nói vậy, đại sư bỗng phì cười.

Thế nhưng, sau nụ cười ấy ông bỗng trầm ngâm, như đang mải mê với một suy nghĩ vô cùng sâu sắc. Đăm đăm nhìn ông, bất chợt đại sư hỏi: “Con có muốn làm đệ tử ta không? Nếu đồng ý, ta sẽ đích thân chỉ giáo!?”. Câu hỏi ấy đã làm ông vô cùng sung sướng, bởi đó là mục đích của chuyến đi đầy gian khổ mà ông đã phải chịu đựng.

Thế nhưng, nghĩ đến hàng ngàn đệ tử của đại sư, có mấy người được hưởng ân sủng đặc biệt ấy. Sợ hiềm khích, đố kỵ nên ông đã e dè: “Con sợ mình không có khả năng với lại còn sư huynh, sư đệ...”. “Cái đó thì con khỏi phải lo, khả năng của con đến đâu ta biết! Còn về môn phái, ta sẽ đặc cách cho con!”.

Sự kiện Thanh Hư Chân nhân đặc cách thu nạp đệ tử ấy chẳng mấy chốc lan rộng ra khắp sư môn, thậm chí cả làng võ phía Nam. Thế nhưng, với những người luyện võ chân chính thì lại cho đó là một điều vô cùng có lợi cho võ lâm, bởi họ tin vào con mắt tinh đời của ông. Và cũng qua sự kiện ấy, võ lâm mới hiểu hết khát khao cháy bỏng mà suốt cả cuộc đời, Thanh Hư Chân nhân chưa hội đủ điều kiện để thực hiện.

Từ năm 1960, khi sáng lập Tổng hội Võ lâm Việt Nam và Võ lâm đạo Việt Nam, sáng tổ Đoàn Tâm Ảnh đã có dự định hưng chấn võ đạo Việt Nam cùng với Thập nhị đại đồ đệ như truyền thống của các danh sư Côn Luân thủa trước ở Trung Hoa. Mỗi danh sư của phái Côn Luân thì có thể có nhiều đệ tử nhưng chỉ có 12 người được phong pháp danh và được truyền thụ tất cả những bí kíp võ công của môn phái.

Võ sư Băng Sơn kể, trước ông, đã có 11 đại đồ đệ được đại sư Đoàn Tâm Ảnh thu nạp. Trong số họ, đã có nhiều người danh chấn giang hồ như Hàng Thanh, Lạc Hà, Hùng Phong, Vũ Đức... (các cao thủ này hiện đang sinh sống và truyền bá võ thuật ở nước ngoài). Thu nạp ông làm đại đồ đệ cuối cùng, thứ 12, Thanh Hư Chân nhân đã đặt pháp danh cho ông là Bắc Phong Chân nhân với uớc muốn, ông sẽ đưa môn phái phát triển rực rỡ ở miền Bắc.



Thanh Hư Chân nhân Đoàn Tâm Ảnh​

Lần thứ hai “rút ruột” sư phụ

Từ dạo đó, ngày nào cũng vậy, võ sư Băng Sơn được Đại sư trực tiếp truyền thụ võ công. Đại sư là người rất nghiêm khắc trong việc dạy học trò. Còn nhớ, khi mới vào, tiếp xúc với một số đồ đệ của đại sư, ai cũng bảo: “Ổng khó tính lắm! Lôi thôi là ổng uýnh liền à!”. Và, võ sư Băng Sơn cũng không ngoại lệ.

Tuy chưa bị “uýnh liền” nhưng Thanh Hư Chân nhân đã ra với ông một điều kiện, các bài mà thầy dạy ngày hôm trước, hôm sau phải tinh thông cho kỳ được. Nếu không làm được như thế thì đại sư sẽ không dạy nữa và coi như duyên số giữa hai thầy trò đã đến ngày cạn phai.
Chỉ ít lâu theo đại sư Đoàn Tâm Ảnh, ông đã lãnh hội được toàn bộ Thập bát chưởng công - võ công cơ bản của Côn Luân Bắc phái. Võ công của Côn Luân thiên về việc tu thân luyện sức, toát lên tinh thần nhân ái, các môn sinh thích sống cuộc đời ẩn dật, không phô trương. Bởi thế, võ lâm giang hồ bảo, võ của Côn Luân là Võ tiên.

Bởi còn công việc ngoài Bắc, nên khi đã thấm nhuần cái đạo của Võ tiên, thầy trò đành phải nói lời giã biệt. Mãi đến năm 1991, nhân Đại hội Võ thuật toàn quốc lần thứ nhất, Thanh Hư Chân nhân mới ra Hà Nội. Tái ngộ nhau, hai thầy trò mừng mừng tủi tủi. Võ sư Băng Tâm kể, lần gặp gỡ ngắn ngủi ấy, đại sư đã trao cho ông cuốn Cẩm nang bí kíp. Đây là cuốn sách ghi lại đầy đủ những bí kíp võ công của môn phái Côn Luân, do đại sư tự tay chép lại. Về cuốn sách đặc biệt này, võ lâm giang hồ xem như báu vật.

Có giai thoại rằng, trước đó, đã có rất nhiều nhà xuất bản đến nài nỉ xin mua lại bản thảo với số tiền khổng lồ. Riêng nhà sách Khai Trí ở Sài Gòn đã trả cho đại sư 200 cây vàng nhưng ông vẫn không chịu bán. Tiếp những nhà xuất bản ấy, đại sư chỉ bảo: “Sách quý, không bán được! Nhưng gặp ai, thấy thích tôi sẽ tặng ngay!”.

Cũng trong lần gặp ấy, đại sư đã bảo ông rằng: “Ta 18 năm lang bạt học võ thì đến giờ đã truyền cho con được 9 năm rồi. Khi nào vào đó (Sài Gòn) ta sẽ truyền nốt 9 năm còn lại cho con!”. Nghe lời dạy của đại sư, thu xếp ổn thỏa công việc, năm 1995, ông lại khăn gói vào Sài Gòn “rút ruột” tinh hoa võ thuật của sư phụ mình. Và, chuyến đi này, khả năng hấp thụ võ công của ông đã khiến Thanh Hư Chân nhân vô cùng mãn nguyện.



Võ sư Băng Sơn thi triển quyền cước​

Thọ giáo “Vương kiếm” Huyền Công Đạo

Ra Bắc, vừa tập trung sức lực gây dựng môn phái, võ sư Băng Sơn còn được“Vương kiếm” - "vua ám khí" Huyền Công Đạo Trần Công quý mến chỉ giáo thêm. Nhờ sự tận tình ấy, ông đã lãnh hội được ở đại sư nhiều môn binh khí đặc dị và những bí pháp có một không hai. Và chuyện võ sư Băng Sơn diện kiến Huyền Công Đạo Trần Công đến giờ vẫn được giới võ thuật truyền tai nhau như một giai thoại đẹp.

Võ sư Băng Sơn kể, nghe tiếng tăm của cụ Trần Công đã lâu, đặc biệt là khả năng khí công siêu phàm của cụ, đã nhiều lần ông muốn thử. Thế nhưng, ngại mình là bậc hậu sinh, lại thêm phần Huyền Công Đạo nổi tiếng kỹ tính nên loay hoay mãi mà ông chẳng biết chọn cách nào. Cho đến một buổi, sau hôm gặp đại võ sư ở Hội võ thuật Hà Nội, ông đã quyết định “diện kiến” sự cao thâm của bậc danh nhân làng võ ấy. Ông lấy côn và tự đánh một đòn rất nặng vào tay trái của mình.

Cú “tự xử” ấy khiến khuỷu tay ông bầm tím, sưng vù. Ôm cánh tay đau đớn ấy, ông đã gõ cửa nhà Huyền Công Đạo. Võ sư Băng Sơn kể, hôm ấy ông đã được mấy phen kinh ngạc. Thấy bộ dạng của ông, Huyền Công Đạo như đã biết tỏng sự việc, nhưng ông vẫn vui vẻ mời ông vào và nói: “Ông muốn ta phóng khí chữa vết thương phải không, được rồi, ông cứ ngồi nguyên đó, ta sẽ chữa cho!”.

Nghe đại sư nói thế, biết là “âm mưu” của mình đã bị đại sư “bắt vị”, nhưng ông vẫn ngồi xuống và toan cởi bỏ hết áo rét để xem bậc trưởng lão... phóng khí chữa bệnh thế nào. Thế nhưng, việc ấy đã bị Huyền Công Đạo ngăn lại: “Không cần, ông cứ ngồi nguyên đó!”. Lời của đại sư khiến ông rất kinh ngạc, bởi hôm đó trời rét như cắt da cắt thịt nên ông đã ních vào người rất nhiều áo rét. Ngoài 2 chiếc áo len, ông còn khoác thêm cả chiếc áo Na- tô dày ở ngoài.

Bởi ăn vận như vậy nên ông không thể tin lão võ sư có thể truyền khí xuyên qua ngần ấy áo để mà chữa thương cho mình. Thế nhưng, lạ kỳ thay, sau khi vận khí, tay đại lão võ sư để cách vết thương của ông đến cả gang tay. Vậy mà, chỉ trong tích tắc, ông đã cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt ở ngay tại nơi “mình tự làm mình khổ” ấy. Tay ông lúc thì nóng ran, lúc thì lạnh toát.

Chừng 3 phút sau, Huyền Công Đạo kết thúc công việc của mình. Và thật bất ngờ, ông thấy tay mình tuyệt nhiên không còn đau đớn nữa. Vết thương thì chỉ qua đêm đó đã lành lại như chưa hề bị va đập.

Cuộc rượu định mệnh

Năm 1985, sau khi đi bộ đội về, võ sư Băng Sơn mở võ đường ở Hà Nội. Ông kể, cái thủa ban đầu cam khó ấy, để võ đường tồn tại được, ông đã phải nhiều lần đích thân đứng ra thi thố võ nghệ để giữ vững uy danh của võ đường. Trong số những đối thủ, có cả những kẻ cố tình phá đám, dẫm đạp lên tinh thần võ đạo.

Thế nhưng, từ sau trận đấu với một võ sư ở quận Hoàn Kiếm, ông đã rất ăn năn, tự hứa với mình không bao giờ ra tay nếu thật sự thấy không cần thiết. Nghe tiếng ông đã từng thọ giáo nhiều bậc đại sư tiếng tăm lừng lẫy và biết ông là đệ tử chân truyền của Chưởng môn Lý Chấn Hòa, một võ sư ở quận Hoàn Kiếm – Hà Nội (cũng theo học một thầy Tàu), đã nhiều lần gửi lời thách đấu. Vị võ sư ấy lực lưỡng, sức mạnh thì kinh hồn, mỗi cú thôi sơn có sức nặng ngàn cân.

Để biểu diễn sức mạnh của mình trước võ lâm đồng đạo, vị võ sư ấy từng dùng tay trần đấm tróc vỏ cây già. Khiêu chiến mãi không được, vị võ sư đó đành qua một người quen của ông, mời ông tới nhà uống rượu. Nghĩ đó là sự ân tình, ông đã vui vẻ nhận lời mà không ngờ nó trở thành cuộc rượu định mệnh của vị võ sư kia.

Võ sư Băng Sơn kể, ban đầu cuộc rượu đó diễn ra rất vui vẻ, thế nhưng, rượu vào thì lời ra, chủ đề võ thuật lại được chủ nhà nhắc tới. Và ông ta có những lời miệt thị, xúc xiểm đến việc mấy lần ông từ chối lời thách đấu. Cùng với sự chế nhạo đó, ông ta khoe những thế võ độc của mình.

Rượu cũng đã ngà ngà, trước sự khoe khoang vô lối của đối phương, võ sư Băng Sơn bảo, những thế võ đó, ông có thể hóa giải được. Và, ngay trong cuộc rượu đó, ông đã “diễn thuyết” cách thức phá chiêu của mình. Bị bóc mẽ trước đám đệ tử của mình, gia chủ đã vô uất ức. Ông ta bảo, Băng Sơn chỉ giỏi... võ mồm, còn quyền cước thì chẳng đến đâu.

Một lần xuất chiêu cả đời day dứt

Vẫn bằng cái giọng khiêu khích, hợm hĩnh, ông ta thách người ngồi đối diện với mình ra sân thi đấu. Trước thái độ quá quắt ấy, hơi men trong người đã làm võ sư Băng Sơn tức giận. Ông đứng phắt dậy, ra sân. Nhưng, với “thói quen” vốn có khi thi đấu của mình, võ sư Băng Sơn kể, ông vẫn nhường cho đối thủ tấn công trước 3 đòn.

Và đúng như đã nói ở trong mâm rượu, hai đòn đầu, khi đối phương tung chiêu độc, ông đã lần lượt hóa giải và nhứ đòn vào những chỗ hiểm của đối phương. Đòn thứ ba cũng vậy, như mãnh thú say mồi, đối phương hùng hục lao tới, nhưng ông cũng nhanh chóng vô hiệu hóa chiêu thức ấy.

Đã quy ước trước, khi hai bên giao đấu, không được cố tình đánh vào những tử huyệt của nhau như yết hầu, mắt, hạ bộ... Sau đòn thứ 3, đáng ra vị võ sư kia phải dừng lại và coi như cuộc đấu đã phân biệt rõ kẻ thắng người thua. Vậy mà, khi ông đã dừng đòn, gia chủ vẫn bất thình lình chơi ngay đòn hiểm, xỉa thẳng tay vào mắt đối phương. Không đề phòng nên trước cú đánh bẩn ấy, ông chỉ kịp ngửa mặt tránh. Tuy thế, ngón tay của đối phương vẫn cầy rách mí mắt trái của ông.

Sau cú đánh đó, tiện tay, gia chủ tung ngay một đòn như trời giáng vào vai trái khiến ông loạng choạng. Biết đối phương quyết hạ độc thủ, hết đường lùi, ông quyết định phản đòn. Khi đối phương chưa kịp thu tay về thì đã bị ông túm lấy giật mạnh về phía trước...

Võ sư Băng Sơn kể, khi đối phương lỡ chớn, lao theo cú giật đó thì ngay lập tức, ông lách sang bên rồi giáng luôn một đòn vào mang tai đối phương và tiếp theo là một đòn vào phần gáy. Đồng thời với sê-ri đó là một cú gối thốc ngược lên phản đà đổ xuống của đối thủ. Dính 3 đòn liên tiếp, vị võ sư cao to ấy bật ngược ra phía sau và nằm bất động.

Võ sư Băng Sơn kể, vài tuần sau, có người đến tìm ông báo tin, vị võ sư ở Hoàn Kiếm đó sau lần tỉ thí với ông đã nằm liệt giường, không thể nào đi lại được nữa. Tin ấy làm ông giật mình, kinh hãi. Có lẽ tại bởi uống rượu, bởi tức giận nên hôm đó ông đã xuống tay quá nặng và những cú đòn đó đã làm kinh mạch của đối phương bị tổn thương, sinh ra bại liệt.

Hối hận, ông đã vội vàng đường sữa lên thăm. Gặp ông, vị võ sư đó buồn bã bảo: “Lỗi này do tôi, ông không phải bận tâm gì. Suốt mấy tuần qua, nằm suy nghĩ, tôi biết, với tính khí ấy của mình thì sớm muộn gì tôi cũng sẽ gặp cảnh này!”.

Võ lâm Việt Nam tùng thư

Theo võ sư Băng Sơn thì cho đến tận bây giờ, vị võ sư ấy vẫn phải sống cảnh liệt giường. Tâm sự với tôi, day dứt ông bảo, nếu có thể thì qua bài báo này, một lần nữa ông gửi lời xin lỗi tới vị võ sư đó và gia đình. Một lời xin lỗi tự đáy lòng mình.

Sự day dứt ấy của võ sư Băng Sơn đã “ngấm” rất sâu vào phong cách dạy môn đồ. Nội quy môn phái, ông nhấn mạnh tinh thần võ đạo, ấy là không được dùng võ công để khuất phục người khác. Đặc biệt hơn, môn sinh của ông, nếu thi đấu với ai mà không được sự đồng ý của thầy thì coi như tự xóa tên mình ra khỏi môn phái.

Đặc biệt, tinh thần ấy đã “chuyển hóa” thành sự trượng nghĩa, nhân ái: Tất cả các môn đồ, nếu cực chẳng đã phải thi đấu thì dứt khoát phải nhường đối phương trước 3 đòn rồi mới được ra tay. “Quy chế” đó đã bất di bất dịch từ lâu lắm rồi!

Mấy lần tôi đến, trong căn nhà cấp 4 tuềnh toàng ở ngay cạnh hồ Thanh Nhàn, đều bắt gặp cảnh võ sư Băng Sơn đang loay hoay viết sách. Ông đang tập trung sức lực của mình để cho ra đời bộ sách Võ lâm Việt Nam tùng thư. Theo võ sư Băng Sơn thì đó là bộ sách ghi chép khá đầy đủ những chặng đường phát triển của võ học Việt Nam.

Phần VIII- Võ bùa "tái xuất giang hồ"

Vào đầu những năm 80 của thế kỷ trước, làng võ Việt xôn xao bởi sự xuất hiện của một phái võ kỳ lạ, gọi là "võ bùa" hay "thần quyền". Người theo môn võ ấy không cần luyện tập quyền cước mà chỉ cần thổi hương, uống bùa, gọi thần chú là có sức mạnh muôn người khôn địch...

Bởi cách thức có phần thần bí đó mà nhiều môn phái khác đã tìm các lò dạy võ bùa để tìm hiểu thực hư, phân tài cao thấp. Sự "truy sát" ấy, cùng nhiều lý do khác nữa nên chỉ ít thời gian sau, võ bùa phải lui vào ẩn dật.

Gần đây, trước sự nở rộ trở lại của phong trào học võ, lại có lời đồn võ bùa đang "tái xuất giang hồ". Chúng tôi đã đi tìm hiểu thực hư xung quanh môn võ này.

Cao nhân ẩn tích

Sau màn ra mắt vào những năm 80 của thế kỷ trước, võ bùa bỗng dưng mất hút một cách khó hiểu trên "chốn giang hồ". Không ai biết đệ tử của võ bùa ở đâu, hiện đang sống như thế nào, còn lao tâm khổ tứ tập luyện hay không?

Gần đây, một lần lang thang trên mạng, tôi tình cờ đọc được thông tin của một môn sinh "chánh phái" nói rằng, trước đây có hai cao thủ phái Thất Sơn đem võ bùa về dạy ở Hà Nội và chính họ là những sư phụ đầu tiên của môn phái ở đất Kinh kỳ. Thông tin trên mơ hồ, chỉ nói người thứ nhất tên Thành, làng võ vẫn gọi là Thành "vuông", người thứ hai tên là Chín, giang hồ gọi là Chín "cụt".

Liên hệ với một số cao thủ võ lâm ngoài Bắc thì được biết, Thành "vuông" tên đầy đủ là Nguyễn Văn Thành, từng sống ở khu vực Ô Chợ Dừa (Hà Nội), giờ đã qua Nga lập nghiệp. Người thứ hai là Chín "cụt", tên đầy đủ là Ngô Xuân Chín, là thương binh, hiện không biết phiêu dạt phương nào.

Thông tin trên làm tôi nhớ lại lần trò chuyện với võ sư Chu Há, Chủ nhiệm võ đường Hồng Gia. Võ sư Há cho biết, thủa trước, Chín "cụt" có tham gia một số phong trào thể thao của người khuyết tật và ngay từ buổi đầu tiên ấy, Chín cùng đệ tử đã từng dùng võ bùa để giành huy chương vàng một hội khỏe năm 1986.

Nhờ manh mối này, tôi vội tìm đến ông Vũ Thế Phiệt, Tổng Thư ký Hiệp hội Thể thao người khuyết tật Việt Nam. Từ số điện thoại ông Phiệt cho, tôi đã tìm được "cao nhân" ẩn tích bấy lâu nay - ông Chín.

Phận duyên tiền định

Vợ chồng ông Xuân Chín hiện đang sống ở một khu đô thị yên ả trên đường Lạc Long Quân (Hà Nội). Trò chuyện, Xuân Chín bảo, Thất Sơn thần quyền với ông như có duyên trời định.

Thời trai trẻ, Chín là lính trinh sát đóng quân ở tỉnh biên giới Cao Bằng. Khi còn ở quê nhà, bởi hiếu động nên Chín từng theo đám trai làng lăn lộn học quyền cước của mấy võ sư vườn, cũng lận lưng dăm ba miếng phòng thân. Bởi thế, khi hay tin trong trung đoàn có một đồng đội thường diễu quyền, phóng cước sau khi xong xuôi việc nhà binh, Chín muốn tìm đến xem "mặt mũi" thế nào và nhân thể thử tài luôn để phân cao thấp.

Sau nhiều lần hò hẹn, "thằng cha" đó cũng nhận lời thách đấu. Thế nhưng sau 2 lần "tỉ thí", Chín đều thua không kịp vuốt mặt. Chín đấm, đá cật lực mà cứ như đánh vào bị bông, đối thủ chẳng hề đổi thay sắc mặt. Đánh nhiều đuối sức, chùn tay, nên đành phải xin thua.

Từ sau trận quyết đấu đó, hai người trở thành bạn. Lúc này Chín mới biết người kia theo học Thần quyền của phái Thất Sơn, từ một sư phụ ở quê nhà, xã Văn Khúc, huyện Sông Thao, tỉnh Phú Thọ. Những câu chuyện mà người bạn kể về môn phái lạ lùng đã khiến Chín mê mệt. Anh ước ao có ngày được về quê bạn bái vị sư phụ ấy làm thầy.

Và rồi cái ngày anh mong mỏi ấy cũng đến. Được sự giới thiệu, ngay đêm hôm ấy, anh đã được diện kiến kỳ nhân. Người ấy là danh sư Nguyễn Văn Lộc, một nông dân chân chất, cũng chỉ hơn anh cỡ trên chục tuổi.

Thế nhưng hôm ấy, ý nguyện, mơ ước của anh đã không thành. Dù đã cố nài nỉ hết nước hết cái nhưng vị danh sư ấy vẫn không chịu thu nạp Chín làm đệ tử. Tuy mưu sự không thành nhưng anh vẫn không thôi hi vọng của mình.

Chừng tháng sau, anh lại tay nải từ Cao Bằng tìm về Phú Thọ. Lần này, thứ mà anh nhận được vẫn chỉ là những cái lắc đầu. Thế rồi, một lần (năm 1981), lúc đi làm nhiệm vụ, anh bị thương phải cắt bỏ hoàn toàn chân phải. Khi vết thương liền da, nhớ miền quê Văn Khúc và ông thầy võ... khó tính, anh lại lóc cóc tìm về.

Đi cùng anh lần này có cả Thành "vuông", một chàng trai Hà Nội, nghe tiếng vị sư phụ kỳ lạ mà háo hức muốn được tỏ tường. Gặp mặt, vị danh sư nói thẳng thừng: "Anh lành lặn tôi còn không nhận, huống chi nay đã là người tàn phế! Anh không học võ được đâu!". Câu nói đó đã làm ruột gan Chín quặn thắt. "Đau" hơn khi bạn đồng hành với anh, Thành "vuông", lại được sư phụ thu nạp.

Uất ức, trước khi ra về anh... thề: "Sư phụ nhận tôi thì 6 tháng tôi xuống một lần! Không nhận thì tháng nào tôi cũng xuống!". Tháng sau, một mình, anh xuống thật. Lần này, thấy anh lóc cóc chống nạng vượt quãng đường hơn 15 cây số, vị danh sư đã động lòng trắc ẩn. Ông đã đồng ý truyền võ cho anh nhưng với điều kiện chờ ngày tốt, về Bắc Giang ông mới dạy.

Võ phái kỳ lạ

"Ngày tốt" ấy là ngày 9/10/1984. Đã hẹn trước, anh Chín có mặt tại nhà một người quen của sư phụ ở làng Mỹ Độ, sát thị xã Bắc Giang. Đến được ít phút thì sư phụ anh cũng xuất hiện. Ngay chiều hôm ấy, anh đã thành người của phái Thất Sơn. Cũng ngay ngày hôm ấy, anh mới tường tận về môn phái của mình.

Theo lời thầy Lộc thì "thủ phủ" của Thất Sơn thần quyền nằm ở Huế, do tông sư Nguyễn Văn Cảo nắm quyền chưởng môn. Sáng tổ Nguyễn Văn Cảo học thần quyền từ một vị cao tăng người Ấn Độ. Cao tăng lưu lạc sang Việt Nam từ khi nào thì đến giờ vẫn không ai biết rõ. Tới Việt Nam, ông chọn vùng Bảy Núi (An Giang) làm chốn tu hành. (Có lẽ bởi bậc thánh nhân tu luyện nơi non thiêng này nên thầy Cảo đã đặt tên môn phái của mình là Thất Sơn).

Dựa trên những căn bản mà vị tu sĩ lạ lùng ấy truyền dạy, thầy Cảo đã truyền dạy thần quyền cho nhiều người khác. Thần quyền học nhanh, do vậy chỉ trong thời gian ngắn, ở Huế đã có rất nhiều người trở thành môn đồ của võ phái này.

Khi nhập môn, môn đồ của môn phái phải đứng trước ban thờ thề đủ 9 điều (Càng học cao thì số lời thề càng tăng thêm và cao nhất là 16 điều). Sau đó, mỗi người sẽ được sư phụ mình phát cho hai lá bùa hộ thân, một vuông, một dài. Trên những lá bùa ấy có vẽ hình đạo sĩ ngồi thiền và những "thông số", "mật mã" riêng của môn phái.

Trước khi truyền thụ những câu thần chú, bí kíp võ công của môn phái thì hai lá bùa ấy được đem đốt, lấy tro hoà vào nước cho người mới nhập môn... uống cạn. Thần chú của môn phái thì có rất nhiều, gồm chú gồng, chú xin quyền, chú chữa thương... Đã được truyền thần chú thì môn sinh cứ tự mình gọi chú mà xin sức mạnh, mà tập quyền cước.

Tuy thế, trước khi tập, người luyện thần quyền phải được sư phụ mình khai thông tất cả các huyệt đạo trên cơ thể. Việc ấy, các sư phụ của Thất Sơn thường làm bằng cách dùng nắm nhang đang nghi ngút khói thổi vào huyệt đạo của đệ tử. Với môn sinh là nam giới thì dùng 7 nén nhang thổi 7 lần vào mỗi huyệt đạo. Môn sinh là nữ thì dùng 9 nén, thổi đúng 9 lần.



Thần chú vào... võ công ra

Anh Chín kể, hôm ấy, xong nghi thức nhập môn, sư phụ Lộc đã kéo anh ra sân và chỉ trong vòng 1 giờ đồng hồ, ông đã truyền thụ xong xuôi cho anh lời chú xin quyền.
Theo lời của sư phụ Lộc, lời chú ấy anh không được phép tiết lộ cho bất kỳ ai nếu chưa được phép của những người đứng đầu môn phái. Truyền chú xong, sư phụ anh bảo, cứ nhẩm theo câu chú ấy mà luyện. Chú "nhập" đến đâu thì công phu tự khắc... ra đến đó.

Thấy thầy dạy mình quá nhanh, anh hết sức ngạc nhiên. Cứ nghĩ, có lẽ bởi gượng ép khi thu nạp nên thầy Lộc mới dạy anh một cách sơ sài đến vậy. Sau này, khi trình độ bản thân được nâng cao, anh mới biết, với anh cuộc truyền thụ kỹ năng cơ bản của môn phái như vậy là quá lâu.
Thường thì khi truyền chú cho đệ tử khác, thầy Lộc chỉ làm trong thời gian vỏn vẹn 15 phút là xong. Anh cũng vậy, khi được phép dạy đệ tử, anh cũng chỉ mất ngần ấy thời gian là đã... hết bài. Còn học như thế nào, luyện như thế nào, trình độ đạt đến đâu là cơ duyên của mỗi người chứ thày không chỉ bảo được.

Ngay chiều hôm ấy, thầy Lộc đã kéo anh ra khoảng sân rộng, bắt đầu luyện tập quyền pháp. Trước khi tập, thầy lấy nắm nhang nghi ngút khói thổi vào tất cả những huyệt đạo trên cơ thể anh. Làm xong, thầy bảo anh nhẩm đọc chú để... gọi võ về. Thật ngạc nhiên, khi vừa đọc chú xong, anh bỗng thấy mình lâng lâng như người say rượu. Lúc thì thấy tay mình nhẹ bẫng, lúc thì thấy nặng như đang khuân cả khối sắt trăm cân.

Chín kể, khi đã "nhập đồng", cứ thấy nhẹ bên tay nào là "chưởng" đánh ra tay ấy. Trạng thái không kiểm soát ấy đã khiến anh lúc thì lăn lộn trên đất, lúc thì nhảy tưng tưng trên không, lao đầu vào tường, vào bụi gai cũng không hề hay biết.

Tỉ thí tranh tài

Hết nghỉ phép, Xuân Chín về nơi an dưỡng. Vì đang chờ chế độ nên anh có nhiều cơ hội để luyện tập môn võ mà mình vừa được học. Cứ đêm đến, anh lại một mình chống nạng lên quả đồi ở gần đó luyện tập. Sáu tháng sau, anh quay lại Văn Khúc để thầy Lộc kiểm tra "trình độ".
Sau bữa cơm chiều, thầy Lộc bảo ông sẽ không trực tiếp kiểm tra mà nhờ thầy "cao tay" hơn thẩm định. Vị ấy tên Cư, ở bến phà Tình Cương, cách nhà thầy Lộc chừng 25 cây số. Thần quyền ở Văn Khúc chính là do ông Cư mang từ trong Huế ra truyền dạy.

Tối hôm đó, hai thầy trò đã đèo nhau đến nhà ông Cư. Biết Chín muốn thử trình độ của mình, ông Cư đã gọi hai đệ tử to như hộ pháp đến. Trước khi đánh, ông Cư giới thiệu, hai đệ tử của ông được gọi là những “cây đấu” của Thất Sơn. Những ai muốn "khẳng định thương hiệu" của riêng mình thì đều phải đánh với hai "cây đấu" ấy.

Ngay phút khởi động, một “cây đấu” đã táng thẳng vào mặt Chín cú "thôi sơn" khiến anh nổ đom đóm mắt. Nhưng ngay sau cú đánh ấy, anh thấy mình tự dưng lùi ra, quay hẳn lưng vào đối thủ. Chẳng cần để mắt động tác khó hiểu của anh, người tấn công lại ngay lập tức lao vào. Thế nhưng, vừa vào gần đến nơi thì bỗng nhiên tay phải Chín vung ra một cú đòn cực mạnh. Một tiếng “bốp” chát chúa vang lên, “cây đấu” ấy bị đánh văng ra góc sân và nằm bất động.

Thấy đệ tử mình bị hạ nhanh một cách khó hiểu, ông Cư vội vàng chạy đến xem thực hư thế nào. Cậu học trò cưng nằm im, mồm miệng be bét máu. Phần thắng đã thuộc về Chín.
Sắp xếp công việc, ít lâu sau, anh Chín lại theo thầy Lộc vào Huế để nhờ tông sư môn phái kiểm tra trình độ thật sự của mình. Chưởng môn phái Nguyễn Văn Cảo (phường Phú Cát) đã đón hai thầy trò anh rất thân tình.

Hôm ấy, nhà thầy Cảo có một đệ tử học Thần quyền được 10 năm, từ Quảng Bình vào thăm. Thầy Cảo bảo Chín đấu với người này. Kịch bản của trận đấu ở Phú Thọ đã được lặp lại. Vào trận, ngay màn dạo đầu, Chín dính đòn tới tấp. Thế nhưng, trong lúc nguy nan, tự nhiên anh thấy chân mình mềm oặt. Xoay lưng lại đối thủ, anh quỳ xuống như người bị trúng đòn chí mạng. Đối thủ thấy vậy thừa thắng lao lên...

Nhưng, như có phép tiên, dù chỉ còn mỗi chân trái mà anh vẫn bật vút lên, lộn trên không một vòng rồi tung cú "thiết cước" vào thẳng bụng đối thủ. Cú đá ấy đã làm vị kia văng ra, thầy Cảo ngay lập tức cho dừng trận đấu. Sau trận đấu đó, bởi quá khâm phục sự tiến bộ kỳ lạ của anh, thầy Cảo đã cân nhắc để anh được thăng đai vượt cấp.
Thế nhưng, điều đó chưa từng có tiền lệ trong môn phái nên thầy đành để anh ở đai đỏ xuất sư. Người đeo đai đó thì đã có thể làm thầy, truyền thụ võ công cho những môn sinh khác. Sáu tháng sau, vào lại Huế, lần này chưởng môn Nguyễn Văn Cảo đích thân ra chợ mua chỉ về se đai tím cho anh.

Dựng nghiệp bất thành

Rời quân ngũ, anh Chín về quê sinh sống, thỉnh thoảng ra Hà Nội gặp gỡ bạn bè. Những năm ấy, phong trào chấn hưng võ thuật cổ truyền ở thủ đô đang ở cao trào, thấy Thất Sơn thần quyền của mình chưa có một tên tuổi trong làng võ Việt, anh và một số người bạn đã quyết tâm gây dựng môn phái.

Để khẳng định sức mạnh của Thần quyền, Hội khoẻ Phù Đổng năm 1986 được tổ chức ở Hà Nội, các bạn anh đã tiến cử anh tham gia. Chuẩn bị cho sự kiện này Chín đã lặn lội lên Cao Bằng, tìm cậu bé mà trước đây anh đã ngẫu hứng truyền thụ võ công, đưa về Hà Nội cùng mình biểu diễn. Cậu bé ấy tên Điệp, khi ấy vừa tròn 6 tuổi.

Tại sân vận động Hàng Đẫy, với tiết mục thần quyền của mình, hai thầy trò một tàn phế, một tóc còn để chỏm đã dinh về hai tấm huy chương vàng trước sự trầm trồ, thán phục của mọi người.
Sau màn ra mắt, được sự "chỉ đường mách lối" của cố võ sư Đỗ Hoá, anh cùng các bạn đã tìm đến một chức sắc ở Hội Võ thuật cổ truyền Hà Nội nhằm đưa môn phái "phát dương quang đại". Thế nhưng, nhiều người cho rằng Thất Sơn thần quyền là tà thuật, mê tín dị đoan nên mong ước của anh đã không thể thành hiện thực.

Dựng phái không thành, anh em tan rã mỗi người một nơi, Xuân Chín đâm nản. Tuy thế, sau này, tham gia phong trào thể thao người khuyết tật, anh vẫn đem thần quyền đi biểu diễn ở khắp nơi.
Năm 2004, tại một cuộc liên hoan võ thuật tại Hàn Quốc, anh đã được ban tổ chức trao tặng huy chương vàng cho tiết mục thần quyền độc đáo của mình. Càng hạnh phúc hơn khi ngay sau đó, hình ảnh của anh, một người cụt chân đang thăng hoa cùng quyền thuật đã được ban tổ chức in lên lịch lưu niệm tặng các vận động viên tham gia.

Cũng từ dạo ấy, bởi cuộc mưu sinh anh đã thôi không tham gia phong trào thể thao nữa. Thần quyền anh cũng ít tập hơn và cũng không truyền dạy bí kíp võ công này cho bất kỳ ai...

Lời thề của phái Thất Sơn

Một lòng hiếu thảo với cha mẹ; Không phản môn phái; Không phản thầy; Không phản bạn; Coi bạn như anh em ruột thịt; Không cưỡng bức kẻ yếu; Không làm điều gian ác; Không ham mê tửu sắc; Không nản chí khi luyện tập; Không thoái lui lúc nguy hiểm; Luôn bảo vệ kẻ yếu; Nhịn kẻ mất lòng ta; Thi hành nghiêm chỉnh những lời thầy dạy; Ôn hoà trong tình bạn; Không tự cao tự đắc; Cứu người trong lúc nguy nan...
Internet

Giai thoại về võ sư được mệnh danh “người đẹp Gò Công”

Không chỉ nổi danh với các chiêu thức võ thuật, võ sư Hồng Long còn có hàng trăm người đẹp “xin chết”.

Giờ đây, người dân xứ võ Gò Công không còn thấy người võ sĩ bách chiến bách thắng ngày nào với khuôn mặt ưa nhìn, thanh tú nữa. Cơn tai biến bất ngờ ập đến khiến ông chẳng thể đi lại, nói năng. Từ đó, vị võ sư vang danh một thời này quyết định “đóng cửa” với cuộc đời. Nhưng, những mảnh ghép quá khứ oai hùng về người võ sĩ thanh sắc, mưu lược toàn tài ấy vẫn luôn được các môn đồ truyền tụng....

Người mà chúng tôi muốn nhắc đến ở đây là võ sư Hồng Long. Được biết, vị võ sư này góp phần rất lớn vào việc “phát dương quang đại” cho hệ phái võ kinh xứ Gò Công.



Hình ảnh hiếm hoi của Hồng Long thời trai trẻ mà môn sinh của ông còn gìn giữ

Bách chiến bách thắng

Hồng Long tên thật là Phạm Văn Thời, con trai thứ bảy của võ sư Phạm Văn Chí, người sáng lập ra võ đường Triệu Tử Long. Nơi ông cất tiếng khóc chào đời chính là cái nôi của nhiều võ sĩ một thời danh chấn miền lục tỉnh. Từ thuở nhỏ, cậu bé Bảy Thời đã nức tiếng thông minh. Hằng ngày được sống bên cạnh người cha, cũng là người thầy tinh thông võ học, Bảy Thời đã sớm am tường và say mê các chiêu thức võ cổ truyền bấy giờ.

Từ thuở niên thiếu đến lúc trưởng thành, Bảy Thời theo học và làm việc tại Sài Gòn - Gia Định (cũ). Năm 1972, cha của ông, võ sư Phạm Văn Chí không may bị mất trong một tai nạn giao thông nghiêm trọng. Nhận được tin dữ, Bảy Thời tức tốc khăn gói về Tiền Giang. Tuy nhiên, khi ông chưa về đến nhà thì bố đã nhắm mắt xuôi tay. Ông yên nghỉ lúc 61 tuổi. Sự ra đi của vị võ sư Gò Công tài ba khiến giới võ học miền Tây không khỏi bàng hoàng thương tiếc.

Vốn tính kiên cường, ngay sau đó Bảy Thời nén lại nỗi đau để dồn tâm luyện võ. Ông từ bỏ công việc ở Sài Gòn, tiếp quản võ đường Triệu Tử Long để thực hiện tâm nguyện của người cha quá cố. Cái tên hiệu Hồng Long thuở xưa do người cha đặt bấy giờ mới được vang danh. Năm ấy Hồng Long vừa tròn 27 tuổi.

Việc xây dựng Võ đường Triệu Tử Long và phát triển bộ môn võ kinh cổ truyền chính là tâm huyết một đời của người cha oanh liệt. Ý thức được điều đó, Hồng Long đã dồn hết tâm sức để gây dựng nên danh tiếng của võ đường và hệ phái võ kinh xứ Gò Công.

Hàng trăm cô gái đi tập võ để gặp Hồng Long

Một buổi chiều Gò Công nắng vàng trên Trường Đua lấp loáng, tôi may mắn có cơ duyên được ngồi với các võ sĩ từng làm nên tiếng tăm của võ đường Triệu Tử Long. Trong lúc cao hứng, võ sĩ Trần Bình Long, người học trò ưu tú của võ sư Hồng Long đã kể những chuyện kỳ thú về dung mạo và tài ăn nói của thầy mình. Được biết, thuở trước, Hồng Long rất hiếm khi thượng đài. Nhưng một khi ông lên sới thì hàng trăm, hàng nghìn cô gái chen chúc đi mua vé. Trước đó, nơi đấu võ đường như chỉ có cánh đàn ông quan tâm, nhưng khi có Hồng Long thì khác. “Nhan sắc” của ông đã khiến không ít cô gái cũng tập tành đến khán đài hay vào võ đường của ông để luyện tập.

Ngày ấy, thầy trò Hồng Long đánh đâu thắng đó nên chẳng mấy chốc tên tuổi đã vang danh từ Nam ra Bắc. Chưa muốn dừng lại, với học vấn và tài thương thảo, Hồng Long không ít lần thuyết phục được Tổng cục võ thuật cho học trò của mình đấu với các võ sĩ nước ngoài. Ông muốn giới thiệu võ thuật cổ truyền Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Sau giải phóng, võ đường Triệu Tử Long do Hồng Long tiếp quản liên tục phát triển, mang tầm ảnh hưởng không nhỏ đối với nền võ thuật miền Tây Nam Bộ. Với sự thông minh trời phú, Hồng Long không ngừng học hỏi, tìm hiểu kiến thức võ thuật của nhiều môn phái khác nhau. Từ đó, dựa trên cái nền của võ Gò Công mà sáng tạo, cải tạo nên những chiêu thức vô cùng ảo diệu.

Năm 30 tuổi, Hồng Long được mời về làm huấn luyện viên võ thuật cho Sở Thể Dục - Thể thao tỉnh Tiền Giang (nay là Sở VH, TT&DL). Lớp vận động viên dưới tay Hồng Long “thiện chiến” vô cùng. Chẳng mấy chốc võ thuật Tiền Giang được bạn đồng môn trên khắp dải đất hình chữ S nghe danh thán phục. Đây được đánh giá là giai đoạn đỉnh cao nhất của võ thuật cổ truyền tỉnh Tiền Giang. Võ đường Triệu Tử Long dưới “bàn tay” của vị chưởng môn Hồng Long “thanh sắc, thao lược toàn tài” chính là trang vàng son, rực rỡ nhất của lịch sử võ kinh xứ Gò Công.



Hồng Long (phải) trên võ đài

Nổi danh “người đẹp Gò Công”

Người ta biết đến Hồng Long không chỉ vì tài năng mà còn ông nổi tiếng thanh sắc hơn người. Để tìm hiểu thực hư về cái danh truyền tụng “người đẹp Gò Công”, chúng tôi đã tìm về xứ võ kinh đất Tiền Giang, nơi Hồng Long sinh ra và lớn lên. Không quá khó để hỏi về Hồng Long vì người dân quanh đây hầu như ai cũng từng nghe danh tiếng.

Theo lời thầy giáo Nguyễn Văn Chính, giáo viên trường THPT Bình Long (huyện Gò Công Tây), người từng là môn đồ của Hồng Long thì: Thời còn trẻ Hồng Long cao gần 1m80, da trắng, mắt sáng, sống mũi cao thanh tú, khuôn miệng hay cười. Tuy ngày đêm luyện võ nhưng lạ là sắc vóc, cốt cách Hồng Long không hề “gân guốc” như những võ sĩ khác. Ông viết chữ đẹp, nói chuyện hay, khiến cho người đối diện rất dễ sinh lòng cảm mến. Các học trò của Hồng Long giờ vẫn còn lưu giữ “bút tích” do ông ký tặng.

Ông Lê Minh Trang, môn sinh của Hồng Long cho biết: “Với thanh sắc và tài mạo như Hồng Long mà theo nghiệp võ thì quả thật xưa nay hiếm”. Và cũng chính Lê Minh Trang đã từng tuyên bố rằng: “Với tài mạo, cách ăn nói của mình, Hồng Long hoàn toàn có thể “điều khiển” được hơn 40.000 khán giả tại sân vận động Cộng Hòa (nay là SVĐ Thống Nhất). Khi ông thượng đài, mọi chiêu thức, câu nói của ông mọi người đều chăm chú nghe”. Vì thế, chẳng ngẫu nhiên mà đại hội Thể Dục - Thể Thao năm ấy, Hồng Long được chọn là người cầm cờ dẫn đầu đoàn diễu hành trong lễ khai mạc.

Nhưng với người tài hoa, số phận thường rất truân chuyên. Đến năm 2001 khi đang tập tenis cùng bạn bè thì võ sư Hồng Long đột ngột ngã quỵ do cơn tai biến. Tai nạn này đã khiến ông bị liệt toàn thân nhưng đầu óc vẫn còn rất minh mẫn, sáng suốt. Có điều, từ đó người ta không còn được gặp Hồng Long nữa. Cửa nhà ông luôn đóng im ỉm, kể cả những người thời xưa từng là học trò của Hồng Long cũng họa hoằn lắm mới được gặp mặt hỏi han.

Chúng tôi ghé ngôi nhà nhỏ của ông cạnh Ao Trường Đua, nhưng chỉ nhận được cái lắc đầu buồn bã của người thân võ sư Hồng Long. Nhìn căn nhà cửa khép, vắng lặng như tờ bỗng miên man buồn khi nhớ lại lúc Bình Long kết thúc câu chuyện. Ông thở dài, cám cảnh cho thầy mà than: “Còn đâu thời oanh liệt”.

Môn phái danh chấn võ lâm

Được biết, ở Gò Công có hệ phái Lâm Sơn phát nguồn từ lực lượng kháng chiến của Trương Định. Sau nhiều thế hệ, hệ phái này phân mảnh thành nhiều chi phái, trong đó có hệ phái võ Gò Công. Sư tổ của hệ phái võ này là võ sư Triệu Tử Long (tên thật là Phạm Văn Chí, bố của Hồng Long). Tương truyền rằng, ông là người đi học võ từ nghĩa quân của Trương Định. Sau khi nghĩa quân thất bại, Tử Long về mai danh ẩn tích tại vùng Gò Công. Ngoài ra, ông còn đi học nhiều thầy võ khác để cuối cùng chọn lọc, sáng tạo ra bài quyền, thế đánh riêng cho hệ phái võ Gò Công sau này. Nhiều võ sư đã thành danh từ võ đường Gò Công như võ sư Hồng Long, võ sư Sơn Long (tên thật Phạm Văn Chơi), võ sư Hồng Yên (tên thật Nguyễn Văn Yên), võ sư Hồng Cầm (tên thật Nguyễn Thanh Hồng), võ sư Trần Bình Long (tên thật Nguyễn Văn Mừng), võ sư Hắc Long, võ sư Ngọc Long, võ sư Huỳnh Long...
Theo nguoiduatin.vn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét