Thứ Sáu, 25 tháng 12, 2015

DU LỊCH QUÁ KHỨ 7/d (Trung Kỳ)

(ĐC sưu tầm trên NET)


HÀN MẶC TỬ

Những văn tài mới nở:
Chế Lan Viên − thi sĩ của vương quốc Chiêm Thành


Trăng sáng như hào quang của ngọc lạ.

Tôi đã đốt đỉnh trầm đặt trên án…trong thanh khí của nguồn mơ hoa…, vì tối hôm nay tôi chuốt lại [a] ngòi bút, mượn hương thơm đưa đẩy lời văn…để giới thiệu một nhà thơ mới. Tôi đã lấy hết tinh lực của hồn, của máu, hấp lại thành một sức mạnh. Nhưng chưa đủ. Tôi đến phải thành tâm, lạy các vì tinh tú, cầu nguyện với những linh hồn thơ, từ muôn năm trước về giúp cho ngòi bút tôi thêm thành thực, lột được chút ít tinh thần văn thơ của ông Chế Lan Viên.

Đảo ngược lại thời gian trong giây phút, ta mơ thấy cả một dân tộc hào hùng! Chiêm Lạp (hay là Lâm Ấp) mà lâu đài tráng lệ đóng từ Quảng Bình, Quảng Ngãi vào tới Phan Rang, Bình Thuận, lấn hết cả giang san của nước Việt…Nhưng sau cuộc “Nam tiến” oanh liệt, còn đâu những thành quách kiêu căng của đám người Hời?

Một dân tộc có lịch sử, có văn minh như Chiêm Thành ngờ đâu lại chịu số kiếp điêu tàn, tiêu diệt! Còn chăng chỉ những ngọn tháp lở lói rải rác đôi nơi cùng với thời gian cố ngạo lại làn nắng úa, và trong đêm sương nặng nề, lắng nghe tiếng oán hờn không bờ bến của những cô hồn vong tộc.

Tôi được ông Chế Lan Viên cho xem tập thơ Điêu tàn của ông trước khi xuất bản. Điêu tàn đã hình dung cả một thời sáng sủa táo bạo, lẫy lừng, trong hơi nặc nồng của máu người tử sĩ, thơm tho bên mình nàng Chiêm nữ…và ủ ê như gió lạnh ngập không gian, và não nùng như tơ trăng ngã im lìm trên cỏ ướt.

Tôi phải kinh ngạc như mọi người khi nhìn thấy ông Chế Lan Viên, một thư sinh hiền lành như một nàng gái mới lớn lên…Làm sao trong tấm linh hồn chất phác ấy đã sớm nở ra những nguồn thơ mới lạ mằn mặn như nước suối Vichy song vẫn ngon môi và mát dạ. Đọc hết tập Điêu tàn, tôi chỉ nghe mãi những tiếng căm hờn đắm đuối như ánh sáng của vừng trăng tan ra thành khí lạnh; tôi chỉ thấy những vẻ hoang tàn rã rời một khi sao vỡ…

Ông Chế Lan Viên, nếu không phải là trích tiên ở thượng giới bị đưa xuống trần gian thì hẳn là một người có “máu” Chàm, nghĩa là kiếp trước ông vốn nòi giống Chiêm Thành vậy. Không thế làm sao ông lại khóc được, − khóc một cách ngon lành…Tôi nhận thấy cái khóc của ông bằng nước mắt thì ít, mà khóc bằng phổi bằng tim bằng hồn bằng máu thì nhiều.

Trong khi ông mường tượng [b] đến cảnh khốc liệt của giải đất Chàm, tự nhiên bùng lửa đỏ, tiếng vàng ngọc tan chảy với tiếng đền đài đổ nát thì ông cảm thấy:

                        Máu đào tuôn tràn ngập [c] cả lòng ta
                        Cả thân ta dầu tan trong hơi thở…

Nhìn thời gian tàn phá những cảnh tráng lệ nguy nga trước, “trên đường về” hôm nay ông chỉ còn gặp những dấu điêu tàn:

                        Đây, những tháp gầy mòn vì mong đợi,
                        Những đền xưa đổ nát dưới thời gian,
                        Những sông vắng lê mình trong đêm tối
                        Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than

và này:

                        Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn,
                        Muôn ma Hời sờ soạng dắt nhau đi.

Trên những mô đất nhuốm thắm ánh tà dương, biết đâu, đấy chẳng phải là cung điện phi tần, mà những hàng đế vương Hời đã mê mệt với hồng nhan:
                       
                        Đây trong ánh ngọc lưu ly mờ ảo,
                        Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà, [d]
                        Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo
                        Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa.

Thi sĩ nghiệm rằng những cảnh hoan lạc đê mê ấy là hình ảnh của thảm hoạ mất nước, nên chi càng nghĩ đến cuộc binh đao, thi sĩ càng hoảng hốt:
                       
Mà vì đâu những đêm mờ vắng vẻ,
                    Bên tai ta xào xạc tiếng chân người
                    Mà rộn ràng loa vang và ngựa hí,
Mà đao thương xoang xoảng dân Chiêm ơi!

Ông Chế Lan Viên đã làm sống lại cả một thời kinh hãi, nhuộm màu lưu huyết. Ta đọc đến phải hồi hộp, có lúc sửng sốt, rít lên như một bại quân tẩu thoát trong ngàn sâu…những cảnh xương máu hỗn độn nặng nề như bước chân con chiến tượng chuyển rừng, đã qua…Thi nhân bấy giờ chỉ ngồi than và mường tượng [b] nhớ tiếc ngày trôi, phác hoạ lại trong tâm hồn những mẩu đời rạng rỡ, phấp phới như lá cờ trương…

Cái cảnh hồn nhiên phớt màu an lạc thật là tài tình trong những nét đơn sơ:
                       
Đây những cảnh thái bình trong Chiêm quốc,
                    Những cô thôn hồng nhuộm nắng chiều tươi
                    Những Chiêm nữ nhẹ nhàng quay về ấp
                    Áo hồng nâu phủ phất xoã lời vui…

Trước vẻ hoang tàn, những đêm “không một mối trăng ngà rung muôn lá  − mà bóng đêm đầy đặc khí u buồn”, chập chờn theo lửa đốm:
                       
Ta hãy nghe trong mồ sâu lạnh lẽo,
                    Tiếng thịt người nẩy nở, tiếng xương rên.
                    Ta hãy nghe mơ màng trong cỏ héo,
                    Tiếng cô hồn lặng thở khí giời đêm.

Nhưng với những hình ảnh mơ hồ, rờn rợn ấy, với tiếng kêu thiêng không chạm vỡ ấy cũng chưa linh động và mầu nhiệm bằng dáng của ma trơi trong lúc lặng:
                       
Đôi cành khô tìm gì trong đêm vắng
                    Vươn thân gầy ngăn đón gót ma Hời,
                    Lắng nghe xem bóng người bay lẳng lặng
                    Về tinh cầu giá lạnh chốn xa xôi…

Bãi tha ma hiu quạnh ấy từng phút lại ghê thêm như bóng tối lan tràn, vồ vập cả bao la…

Ông Chế Lan Viên thi sĩ của dân Chiêm đã sống với những giờ trầm mặc giữa đồng hoang đã thấy và đã nghe những hình những tiếng mơ hồ và huyền bí, và đã nhập hồn vào với gió với mây.

Những khi ông nằm dài trên cửa tháp há miệng chực đớp sao rơi, ông thấy hình như núi đá biến dần ra mây khói, trôi ngập cả dải Ngân Hà, ông lại than thở:
                       
Ta vẫn biết nước kia trôi mãi mãi,
                    Chẳng bao giờ còn giở lại nguồn xa
                     . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
                    Mạch máu ta là những suối đau thương
                    Mà quả đất là khối sầu vô hạn
                    Mà mỗi người là một lời ta thán

Văn thơ của ông cũng ví như ánh sáng không nguồn, như dư âm của một cung đàn cuối mãi đến ngàn xa, và vì thế người ta càng nhận rõ một triết lý, một ý định, một thở dài, trong những bài não nuột. Cả thế giới, cả ánh sáng thơm tho, cả những lời thiết tha thương nhớ đều tan dần trong bóng tối…Đời chỉ là hư ảo, là một làn hương mơ…Cả tập Điêu tàn như một bài văn tế của Bossuet, như một lời than của Shakespeare, như một tiếng sao rụng im lìm không tiếng dội:
                       
Vì có bao giờ tiếng lòng tôi vang động
                    Tiếng lòng tôi vang động đến Hư Vô…

Sự khủng khiếp với sự chết đối với Chế Lan Viên không có gì là dấu diếm nữa. Đây, một sọ dừa rỏn gáy, để trước mặt ông, hãy nghe lời ông phán hỏi:
                       
Này chiếc sọ dừa người kia mi hỡi
                    Dưới làn xanh mỏng mảnh của đầu mi
                    Mi nhớ gì, tưởng gì trong đêm tối
                    Mi trông mong, ao ước những điều chi?
                    Mi nhớ đến những cảnh pháp trường ghê rởn
                    Sọ muôn người lần lượt đuổi nhau rơi
                    Hay mi nhớ những đêm mờ rùng rợn
                    Hồn mi bay trong đám lửa ma trơi?

Nhưng cái sọ dừa vô tri ấy vẫn còn nhe hai hàm răng trắng tinh nguyền rủa lại lời của ông, khiến cho ông điên tiết lên:
                       
                        Hỡi chiếc sọ! ta vô cùng rồ dại
                        Muốn giết mi trong sức mạnh tay ta
                        Để những giọt máu đào còn đọng lại
                        Theo hồn ta tuôn chảy những lời thơ
                        Ta muốn cắn mi ra từng mảnh vụn
                        Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô
                        Để nếm lại cả một thời xưa cũ
                        Cả một giòng năm tháng đã trôi qua.

Nói tóm lại trong tập Điêu tàn, một lời thơ là một lời nức nở, như hạt sương nức nở dưới trời mai.

Tôi đã hớp từng búng máu [e] mê man từng ngụm buồn lả lướt và đã nút [g]  hết chất ngọt ngào trong lỗ miệng người Chiêm nữ.

Tôi đã để lại những niềm kinh hãi, ở trên bãi tha ma, bịt hết tai mắt để đừng nghe thất tuỷ xương nghiến âm thầm trong những cỗ quan tài mục nát.

Tôi đã sống với phút giây choáng váng mà một người tráng sĩ Hời một khi lâm trận mà mí mắt vụt nhiên trào huyết.

Tôi đã lẳng lặng nhìn trăng mơ tưởng cái cảnh hồn nhiên của một xứ mà sắc đẹp hay phô phang dưới làn nắng mỏng.

Linh hồn tôi, tuỷ não tôi đã thấm thía, đã ăn sâu những mùi vị não nề.

Và tôi đã no nóc, đã hả hê, đã sung sướng khi nhận chân được cái tài hoa của ông Chế Lan Viên và thấy ở ông: một linh hồn thi sĩ.       
                                                                               
Nguồn:  Tràng an báo, Huế, 6 Juillet 1937.
GHI CHÚ (của Lại Nguyên Ân, người sưu tầm)

[a] báo gốc là “chuốc lại”, ở đây sửa là “chuốt lại”.
[b] báo gốc là “mườn tượng”, ở đây sửa là “mường tượng”.    
[c] báo gốc là “tràng ngập”, ở đây sửa là “tràn ngập”.    
[d] báo gốc là “vua quan say đắm thịt da ngà”, ở đây thêm “Chiêm” sau từ thứ ba, thành “vua quan    Chiêm..” như trong bản “Điêu tàn” hiện hành.
[e] báo gốc là “lớp từng bưng máu”, ở đây sửa là “hớp từng búng máu”.
[g] báo gốc là “đủ nút”, ở đây sửa là “đã nút”.


0-1989)





Chế Lan Viên Với

“Điêu Tàn” Thời Trẻ & “Di Cảo Thơ” Vào Cuối Đời






    C hế Lan Viên là một nhà thơ, nhà văn hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam.
Tên thật là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1920 tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì thôi học, đi dạy tư kiếm sống. Có thể xem Quy Nhơn, Bình Định là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, nơi đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn của nhà thơ.
Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, với bút danh Lan Viên (từ tên của Yến Lan và ấn tượng vườn /viên/ lan nhiều hoa nhà bạn) sau Hàn Mặc Tử đặt thêm họ Chế thành Chế Lan Viên. Ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn". Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam. Ông cùng với Hàn Mặc Tử, Yến Lan, Quách Tấn được người đương thời gọi là "Bàn thành tứ hữu" của Bình Định. Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông cho ra đời tập văn Vàng sao, tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.
Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia Đoàn xây dựng cùng với Hoài Thanh, Lưu Trọng Lư, Đào Duy Anh. Thời kỳ này, Chế Lan Viên viết bài và làm biên tập cho các báo Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông giai đoạn này cũng chuyển dần về trường phái hiện thực.
Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học. Sau 1975, ông vào sống tại Tp. HCM. Ông mất ngày 19 tháng 6 năm 1989 tại Bệnh viện Thống Nhất, thọ 69 tuổi.
Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Con gái ông, bà Phan Thị Vàng Anh, cũng là một nhà văn nổi tiếng.
Phong cách của Chế Lan Viên
Con đường thơ của Chế Lan Viên "trải qua nhiều biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ", thậm chí có một thời gian dài im lặng (1945-1958).
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ CLV là một thế giới đúng nghĩa "Trường thơ Loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm". Những tháp Chàm "điêu tàn" là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của CLV. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị trong thơ CLV, ta thấy ẩn hiện hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.
Sau năm 1975, "thơ CLV dần trở về đời sống thế sự và những trăn trở của cái ‘tôi’ trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống".
Phong cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lí. "chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông minh, tài hoa". Khai thác triệt để các tương quan đối lập. Và nổi bật nhất là năng lực sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo nhiều ý nghĩa biểu tượng.
-Nhưng vượt lên trên mọi sự yêu ghét, chúng tôi hiểu ông vẫn là một bộ mặt tiêu biểu của thời đại. Nếu nói đến phê bình văn học một thời, phải nói đến Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Vũ Đức Phúc, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức… thì nói đến thơ một thời phải nói đến những Xuân Diệu, Huy Cận, Tế Hanh và một người đứng ở hàng đầu, ở ngay bên Xuân Diệu, cũng giỏi viết tiểu luận như Xuân Diệu và tuy không công phu nhưng lại sắc sảo hơn Xuân Diệu nữa, người ấy là CLV!
THƠ CHẾ LAN VIÊN
1/ Tập thơ Điêu tàn ra đời vào mùa thu 1937, trở thành một trong những hiện tượng nổi bật trong sự phát triển phong trào thơ mới (1932-1945). Về xuất xứ của tập thơ Điêu tàn, tư liệu hãy còn rất mờ nhạt: Điêu tàn được viết khi Chế Lan Viên đang là học trò trường Quốc học Quy Nhơn, tham gia hai nhóm văn thi sĩ ở Quy Nhơn khi đó là Thái Dương văn đoàn và Trường Thơ Loạn. Một linh hồn lạ nhất trong các nhà thơ xưa nay: CHẾ LAN VIÊN trong Thái Dương ĐIÊU TÀN, thơ Chàm − thơ Ma. Một tập thơ đã sửng sốt, rung động lòng người, đã xao xuyến trong làng thơ hiện đại, đã được khen ngợi bởi: HÀN MẶC TỬ (Tràng an), KHÁI HƯNG (Ngày nay), THANH ĐỊCH (Tràng an), TRƯƠNG TỬU (Ích hữu)…
-Đọc Điêu Tàn, người đọc bỡ ngỡ... đến chóang ngợp. Điều “kinh hoàng” hơn: Chế Lan Viên còn dựng dậy, nhập vào những hồn ma, làm họ sống động như những con người thật, đi lại, vật vờ xung quanh đống đổ nát điêu tàn của cả triều đại, cất tiếng than khóc cho số phận nghiệt ngả của dân tộc mình. CLV đã ’’nhập hồn, hóa cốt’’ vào dân tộc Hời… rồi qua họ, bước lên thi đàn Việt Nam như một biểu tượng rực rỡ trong giòng Thơ Mới ở nửa đầu của thế kỷ 20.
Có thể đọc một bài tiêu biểu trong Điêu Tàn - làm thí dụ:
TRÊN ĐƯỜNG VỀ
  Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời…
Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian,
Những sông vắng lê mình trong bóng tối,
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than…

Đây, trong ánh ngọc lưu ly huyền ảo,
Vua quan Chiêm say đắm thịt da ngà,
Những Chiêm nữ mơ màng trong tiếng sáo,
Cùng nhịp nhàng, uyển chuyển uốn mình hoa.

Những cảnh ấy trên đường về ta đã gặp
Tháng ngày qua ám ảnh mãi không thôi,
Và từ đãy lòng ta luôn tràn ngập,
Nỗi buồn thương, nhớ tiếc giống dân Hời !

(Điêu Tàn - 1937)
Tập thơ ra đời được 5 năm, ngay cả Hoài Thanh nhà biên khảo có uy tín trên văn đàn Việt Nam - cũng viết: “Vong linh đau khổ của nòi giống Chàm đã nhập vào Chế Lan Viên, cho nên dầu không phải người họ Chế, CLV vẫn là một nhà thơ Chiêm Thành…”.(Thi nhân VN)
Sau này nhiều người theo đó cũng phát triển, nhận định lạc hướng họa theo: ‘’… tập thơ (Điêu Tàn) miêu tả nỗi cô đơn của một người không tìm thấy sự hòa hợp với cuộc đời…’’
Nếu chúng ta đọc Điêu Tàn theo một cách khác: Mở rộng và suy tư cặn kẽ, sâu sắc hơn, nhận ra - Nghĩa đen, đúng là tác gỉa hướng dẫn người đọc đi vào thế giới mộng ảo và cảm nhận qúa khứ bi thương... Nhưng trấn tĩnh lại, ta chợt giật mình, nhận ra, ở phía sau - nghĩa bóng của Điêu Tàn:
Bao thế kỷ, bao năm qua, dân tộc Việt, nói giống Việt cũng đã bao phen chèo chống cố thoát ra khỏi cảnh bi nô lệ của phong kiến phương Bắc, nhưng vẫn bị chúng đuổi cùng giết tận dù phải bồng bế nhau xuôi giòng sông, chạy xuống sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất mới là Việt Nam ngày nay. Đã có kinh nghiệm của qúa khứ, khi bước vào thử thách hiện thời, tổ tiên ta nhận thức ra :  Quyết không để’’Người Phụ Mình’’ cho dù phải bắt buộc’’Mình Thà Phụ Người’’ để tồn tại. Lịch sử đã ghi lại, chứng minh: Việt Nam đã từng bị vương quốc Chiêm Thành xâm chiếm… vua nhà Trần phải mang con gái cưng của mình hiến cho vua Chiêm, để đổi lại sự yên bình cho giòng tộc Việt ở phía Nam mà vẫn chưa yên. Trong thời đại thế giới hỗn mang trên nguyên tắc: Mạnh được, yếu thua. Hoàn cảnh Việt Nam lúc bấy giờ lại bị ép từ 2 phía: Bắc - phong kiến phương Bắc lăm le thôn tính, lợi dụng cuộc Huynh - Đệ tương tàn của 2 giòng họ: Trịnh - Nguyễn, coi nhà Trịnh như một tên lính xung kích để chờ thời sẵn sàng hớt tay trên nếu Trịnh thôn tính xong Nguyễn.
Đại Việt - Chiêm Thành luôn luôn xâm lấn, đe dọa….
Không còn đường nào khác, thế là cuộc trường chinh: Dẹp, mở rộng phía Nam để yên một mặt, chú tâm chỉ chống một kẻ thù phía Bắc - thay vì chống với cả hai.  Đây là hòan cảnh, là lịch sử. Nếu lần này nữa lại hành xử như qúa khứ: Bồng bế nhau rút chạy? Nhưng bây giờ: chạy đi đâu? Thế là phải thực hiện quy luật: Cùng tắc Biến (Biến tắc thông). Và, thảm cảnh giữa hai quốc gia, hai dân tộc Đại Việt – Chiêm Thành đã xẩy ra không thể nào cưỡng được…
Cao hơn, đúng hơn: CLV viết Điêu Tàn chỉ là cách ‘’mượn xác - hoàn hồn’’ - lấy Xưa nói Nay. Tác gỉa đã đánh thức cả dân tộc bằng một thông điệp: Dân tộc Việt Nam hãy nhìn gương tấy liếp đây : Tổ quốc, dân tộc hay là tiêu vong !
CLV viết Điêu Tàn là có chủ ý: Khơi dậy trong lòng dân tộc tinh thần chống ngoại xâm. Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Chúng ta phải phục hiện sự thực, cho dù quá muộn, nhưng muộn vẫn còn hơn không. Không thể để các thế hệ sau tiếp tục hiểu sai lệch ý tác gỉa và tập thơ Điêu Tàn, chỉ vì vài ý kiến trước đó hiểu chưa đúng do vô tình hoặc cố ý (…) làm biến dạng nguyên tác...
Chê Lan Viên là người yêu tổ quốc, đất nước như bao người Việt Nam khác. Chỉ nói riêng phần thi ca, ông đã viết, làm nổi lên những gía trị, nối tiếp sau Điêu Tàn. Sau các tập thơ, bài thơ và chỉ ngay 4 câu thơ trong bài Tiếng Hát Con Tầu đã đủ đưa ông lên vị trí nhà thơ lớn của dân tộc:
“…
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua lòng lại chẳng yêu thương
Nơi ta ở - chỉ là đất ở
Nơi ta đi - đất bỗng hóa tâm hồn…’’
Nhà Văn - Nghệ Sĩ có thể có nhiều cách thể hiện ca ngợi tổ quốc mình bằng sáng tạo tác phẩm - dài, ngắn. Chế Lan Viên chỉ cần 4 câu thơ đã nói thay cõi lòng của nhiều người. Tổ quốc - Dân tộc  là Đất - Nước. Đọc lên mọi người cảm nhận ngay bởi mấy từ Đất bỗng hóa tâm hồn. Vì là tâm hồn nên Đất trở thành thiêng liêng, thân yêu. Đất - chính là  Mẹ hiền, là Tổ quốc Việt Nam ! Phải nghe tiếp những câu thơ hào hùng trong bài: Tổ quốc có bao giờ đệp thế này chăng - xâu chuỗi lại mới thấy rõ chủ ý của CLV - từ Điêu Tàn, ngược từng cột mốc lịch sử của hôm qua rồi quay trở về hôm nay: Kêu gọi cả Dân tộc đứng lên Bảo Vệ Tổ Quốc khỏi họa xâm lăng đang ngày đêm tiềm ẩn :
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng ?
Chưa đâu !
Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất !
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc,
Hưng Đạo diệt quân Nguyên
   trên sóng Bạch Đằng...


 -Cành đào Nguyễn Huệ
Hẳn nhớ Thăng Long, hẳn nhớ đào ?
Mai vàng xứ Huế có khuây đâu ?
Đào phi theo ngựa về cung nhé !
Nở cạnh đài gương sắc chiến bào.
Những anh hùng dân tộc - đứng đầu các cuộc chống xâm lăng phương Bắc được nhà thơ ghi lại trong từng câu thơ khiến người đọc đương thời cảm động, trỗi dậy khí thế hiên ngang nhờ oai linh của tổ tiên…
2/ Đọc "Di cảo thơ" Chế Lan Viên
Tọa lạc tại quận Tân Phú, TpHCM – “Viên Tĩnh Viên”, Viên là vườn nhà riêng mà trong tâm thức CLV cứ như thể phảng phất hương hoa Phật pháp, Viên âm, viên giác, viên thành…Tĩnh nơi anh CLV là tĩnh tâm theo dõi thế cuộc, suy ngẫm chuyện đời…Trong thời gian gần 8 năm (2/1981-10/1988) chị Vũ Thị Thường –vợ anh, cho biết: “Chính ở nơi chốn cuối cùng này, anh đã sáng tác nhiều bằng cả đời thơ anh trở về trước. Sau khi anh mất, ba tập Di cảo thơ CLV (gồm 534 bài) đả được in ra. Di cảo thơ tập 4 cũng đã gom được 150 bài, còn đang tập hợp tiếp…”
         -Tĩnh Viên mà động lòng người nghìn năm (Tố Hữu)
Di cảo thơ Chế Lan Viên không chỉ có các sáng tác vào những năm cuối đời. Tuy nhiên, nhiều bài thơ viết trong vòng gần 8 năm có vị trí đặc biệt đáng được lưu tâm. Ấy là do chúng được viết trong một hoàn cảnh đặc biệt: nhà thơ tuổi cao, bệnh lại nặng. Chỉ một năm, trong cái “mùa bệnh” 1988 ấy, hơn một lần Chế Lan Viên giãi bày: Biết rồi đêm đến xóa – Tôi vẫn bôi sắc màu (Trò chơi), rồi: Tôi tài năng chưa đầy nửa giọt – Sao chỉ ấy kim kia tôi vẫn phải cầm (Xâu kim).
Nhà thơ ý thức được không phải từng giờ mà từng phút, từng giây cái “buổi mai chót, hay buổi chiều chót hay đêm khuya chót đời anh sắp “tuột” khỏi tay anh tất cả”. Là người sống có trách nhiệm với đời, anh không cho phép bản thân nhừng nghỉ:
         Thời hạn đi tìm của anh đã hết rồi mà bờ bến tít mù xa
         Nhưng dừng lại anh đâu còn anh nữa
         (Tìm thơ)
Có thể nói, với tất cả những sai sót, cả sự nhầm lẫn nữa, Chế Lan Viên – Nhà thơ không khi nào rơi vào tuyệt vọng đến mức xuôi tay chán chường. Đây đó ta có nghe rõ những lời trấn an, mình nhủ mình để đứng vững, để tồn tại. Đừng tuyệt vọng được viết ra chủ yếu từ mục đích này:
         Từ đây xuống mồ
         Còn chán thì giờ
         Cho anh sống
         Miễn anh đừng tuyệt vọng
Nhà thơ đề dưới bài thơ: “Mùa bệnh 1988”. Cũng trong cái “mùa bệnh” ấy, bên cạnh những câu thơ rất “tỉnh” ấy, có nhiều câu thơ rất “say”. Nhà thơ triết lý về bức tranh “Lý ngư vọng nguyệt” để chúng ta có dịp phát hiện thêm chiều kích khác của con người anh:
         Mê đôi mắt si dại kia trăng rơi tõm xuống hồ
Không mảy may vẩn vơ cái bóng đen của sự chết. Chỉ có sự sống, hơn thế sức sống, một sức sống tràn trề. Nhà thơ của chúng ta tự mình vượt qua mình, có nhức nhối đấy, lại trắc trở nữa, nhưng quan trọng là sự đến. Anh đã đến được điểm cao của sự sống ngay nơi giáp ranh với cái chết, rồi thăng hoa thành những vần thơ tâm huyết để lại cho đời. Đó có lẽ là cái chất ngọc quý nhất của thơ Chế Lan Viên trong hai năm cuối đời mình (Phạm Quang Trung).
                                      LỜI KẾT
Theo Chế Lan Viên, nhà thơ là người đi tìm cái thiện, cái chân nhưng phải biểu hiện ra bằng hình thức đẹp. Viết thơ cũng giống như người phụ nữ sinh con, cả xương cả thịt một lần, cả hình ảnh lẫn ý tưởng một lúc. Ông quan niệm: “Thơ nghĩ bằng hình ảnh”. Thế giới hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên vô cùng đặc sắc. Nó vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi của cái tôi trữ tình. Cái tôi cô đơn siêu hình thuở Điêu tàn gắn với thế giới hình ảnh ảm đạm lạnh lẽo mà ghê rợn, đầy rẫy những sọ dừa, xương máu cùng yêu ma. Cái tôi sử thi thời kháng chiến gắn với hàng loạt những hình ảnh tươi sáng, kỳ vĩ, mỹ lệ, hoành tráng. Giai đoạn cuối đời, trong Di cảo, thế giới hình ảnh có xu hướng thu nhỏ tầm vóc, phong phú đa dạng. Hình ảnh trong thơ Chế Lan Viên thường có hai loại: hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ tượng trưng siêu thực.
-Chế Lan Viên viết Điêu Tàn chỉ là cách ‘’mượn xác - hoàn hồn’’ - lấy Xưa nói Nay. Tác gỉa đã đánh thức cả dân tộc bằng một thông điệp: Dân tộc Việt Nam hãy nhìn gương tấy liếp đây : Tổ quốc, dân tộc hay là tiêu vong !
Chế Lan Viên viết Điêu Tàn là có chủ ý: Khơi dậy trong lòng dân tộc tinh thần chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ.
-Thế giới hình ảnh trong Di cảo thơ Chế Lan Viên
Chế Lan Viên là nhà thơ hình thành được phong cách khá sớm. Con đường thơ hơn nửa thế kỉ của Chế Lan Viên là một con đường có nhiều bước ngoặt, biến đổi, tự phủ định với nhiều trăn trở, tìm kiếm ráo riết không lúc nào yên ổn. Chính ý thức về việc "làm sự phi thường", “tột cùng” từ trước cách mạng đã thúc đẩy nhà thơ không ngừng tìm kiếm và chiếm lĩnh được những đỉnh cao trên hành trình thơ đầy gian khổ. Luôn luôn trăn trở với nghề, có ý thức tự giác và thường trực về nghề thơ Chế Lan Viên suy nghĩ nhiều về thơ, người làm thơ, nghệ thuật làm thơ. Những suy nghĩ ấy bắt nguồn từ một ý thức trách nhiệm rất cao của người cầm bút, từ ý hướng cách tân, nỗ lực tìm tòi đổi mới thơ.
Di cảo thơ CLV – di chúc về cuộc đời và nghệ thuật của ông đã gây nên những dao động về cảm xúc thẩm mỹ trong người đọc. Chúng ta vẫn nhận ra một CLV thông minh, hóm hỉnh nhưng ý thức nghệ thuật của ông không còn song hành, đồng nhất với ý thức công dân mà đã vượt lên, hướng về những triết lý nhân sinh sâu thẳm và sự sinh tồn của nhân loại. Nhà thơ CLV đã đi vào hư vô, nhưng niềm tin mãnh liệt của ông về sự tồn tại và sức mạnh của thi ca vẫn sống mãi cùng chúng ta.
Bài thơ:
Ai? Tôi?
Mậu Thân 2000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30
Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2000 người đó?
Tôi! Tôi –người viết những câu thơ cổ võ
Ca tụng người không tiếc mạng mình trong mọi cuộc xung phong.
Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm
Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ
Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,
Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!
Ai chịu trách nhiệm vậy?
Lại chính là tôi!
Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời
Tôi ú ớ.
Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong
Mà tôi xấu hổ.
Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay
Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ
Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười.
(Mới ở dạng phác thảo - trích “Di cảo thơ Chế Lan Viên” tập I -1992)


(Tham khảo: Sách báo – Internet)





Cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ SàiGòn ngày 21.5.2015.



Hàn Mặc Tử - một vầng sáng lạ lùng và dữ dội

Có lẽ những người yêu thi ca đều biết "lời rao trăng" "Ai mua trăng tôi bán trăng cho" nổi tiếng là của nhà thơ kiệt xuất Hàn Mặc Tử - một trong những cây bút nổi bật của dòng thơ lãng mạn Việt Nam. Ông đã biến nỗi đau của đời mình thành khao khát được sống, được yêu, được sáng tạo đến vô cùng… Nỗi đau tận cùng và tình thơ mạnh mẽ đã tạo nên một Hàn Mạc Tử trong lòng người yêu thơ Việt Nam.

Ảnh minh họa.

"Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Trăng nằm yên trên cành liễu đợi chờ
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”.

Rời ghế nhà trường để bước vào đời ở tuổi 18 và trút hơi thở cuối cùng khi chưa tròn 28 tuổi, thời gian va chạm với đời của Hàn Mặc Tử chỉ kéo dài chưa tới 10 năm. Dù sự hiện diện trên cõi đời chỉ như hương hoa trong khoảnh khắc, nhưng bằng tài năng xuất chúng, với nỗi đau của định mệnh nghiệt ngã, Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời một di sản quí báu với nhiều bài thơ “thần bút”, lưu lại những dấu vết bất tử theo thời gian và sống mãi bên cạnh tên tuổi chàng thi sĩ tài hoa nhưng bạc phận.

Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh vào ngày 22/9/1912 tại ngôi làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay thuộc thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Hàn Mặc Tử bộc lộ một tài năng thơ ca từ rất sớm. Năm 16 tuổi, ông đã bắt đầu làm thơ và nổi tiếng trên thi đàn với bài thơ đầu tiên “Vội vàng chi lắm” họa vận bài Gởi nhạn của nhà thơ Mộng Châu.

Năm 1931, với bút hiệu Phong Trần, Hàn Mặc Tử có ba bài thơ “Chùa hoang”, “Gái ở chùa” và “Thức khuya” đăng trên Thực nghiệp Dân báo, được cụ Phan Bội Châu chủ nhân Thi xã Mộng Du họa thơ và đề cao. Đó là những câu thơ tiên phong trong cách tân chữ nghĩa và cách mạng trong tư tưởng:
Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối/ Gió Thu lọt cửa cọ mài chăn.
(Thức khuya).

Từ năm 1935, ông đổi bút hiệu thành Lệ Thanh, rồi Hàn Mặc Tử. "Hàn Mặc Tử" là "chàng bức rèm lạnh" hay "chàng đơn lạnh". Cái tên ấy đã ứng với dự cảm về những năm cuối trên đỉnh thơ cô đơn, lẻ lạnh của riêng ông.

Năm 1936, Hàn Mặc Tử cho xuất bản tập "Gái quê" lừng danh và cũng chính lúc này ông phát hiện mình bị bệnh phong. Ông đã thành lập Trường thơ Loạn, dốc tàn lực viết nên những thi phẩm nổi tiếng.

Hàn Mặc Tử đã đem đến cho thơ mới một phong cách độc đáo và sáng tạo. Bên cạnh những tác phẩm bình dị, trong trẻo, chan chứa tình quê là các tác phẩm đầy những cảm hứng lạ lùng, huyền bí, thậm chí đến điên loạn, phản ảnh trực tiếp một tâm hồn yêu thơ, yêu đời chan chứa, nhưng lại quằn quại vì cơn bệnh phong đau đớn dày vò. Nói như Hoài Thanh trong cuốn Thi nhân Việt Nam: “Đây là một nguồn thơ dào dạt và lạ lùng, vườn thơ Hàn rộng không bờ, bến, càng xa càng ớn lạnh…".

Hàn Mặc Tử là một người đa sầu đa cảm. Gặp ai cũng đem lòng thương nhớ. Vì thế có rất nhiều hình bóng giai nhân đã đi vào thơ của Hàn Mặc Tử, và ông cũng đã đổ biết bao máu lệ để tặng cho họ những vần thơ. Nhờ tình yêu, Hàn Mặc Tử đã cống hiến cho đời những thi phẩm vừa lãng mạn vừa dữ dội.

Mộng Cầm là mối tình đầu của nhà thơ khi hai người gặp gỡ nhau tại Phan Thiết và Quy Nhơn. Hai người thề nguyền gắn bó keo sơn, cùng nhau xướng họa thi văn, hẹn hò trăm năm. Nhưng 6 tháng sau khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh, Mộng Cầm đã đi lấy chồng! Nỗi đau đớn tuyệt vọng của thi sỹ có lúc như phẫn uất, điên cuồng: "Làm sao giết được người trong mộng. Để trả thù duyên kiếp phụ phàng", có lúc chợt vỡ oà thành tiếng khóc não nùng, thê thiết: “Trăng vàng ngọc, trăng ân tình chưa phỉ/Ta nhìn trăng, khôn xiết ngậm ngùi trăng”.

Trong số các người tình của Hàn Mặc Tử, có lẽ không ai yêu ông tha thiết bằng nữ sĩ Mai Ðình, tên thật là Mai Thị Lệ Kiều. Mai Ðình thường gửi những bài thơ ký tên Lệ Kiều xin nhà thơ sửa và đăng báo. Từ đó tình thơ chớm nở. Biết người yêu mang trọng bệnh nhưng bất chấp sự ngăn cản của gia đình cũng như sự né tránh của người yêu, Mai Ðình vẫn gần gũi và chăm sóc ông hết mình. Sau này, khi về thăm mộ nhà thơ, nữ sĩ Mai Ðình đã viết những vần thơ nức nở:

“Bên anh, xin Chúa cho xây mãi
Nấm mồ thương nhớ, khổ thương đau
Hình anh, em khắc trong tim
Cho mai trắng nở quanh viền mộ anh”.

Và còn nhiều nữa những hình bóng giai nhân xuất hiện trong thơ Hàn Mặc Tử, có những người để lại dấu ấn đậm nét, cũng có những người chỉ là cơn gió thoảng qua, nhưng tất cả đều là những nguồn thơ bất tận, được thi sĩ gửi vào những vần thơ tuyệt tác.

Trong những tháng ngày cuối cùng của cuộc đời, Hàn Mặc Tử đã dốc toàn lực viết nên thi phẩm nổi tiếng, trong đó có bài “Đây thôn Vĩ Dạ” in trong tập "Đau thương" để tặng người yêu là Kim Cúc. "Đây thôn Vỹ Dạ" là giọng tình day dứt – là một lời tỏ tình với cuộc đời của một tình yêu tuyệt vọng, đơn phương. Bài thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu con người Vĩ Dạ một cách nồng cháy – nơi chất chứa biết bao kỉ niệm.

Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người đọc.

Hàn Mặc Tử đã trút hơi thở cuối vào sáng sớm một ngày cuối năm 1940 tại nhà thương Quy Hoà trong tiếng chuông nhà nguyện đưa thi sĩ về thế giới bên kia…
Giã từ cõi nhân gian vừa lúc 28 tuổi xuân xanh bởi sự nghiệt ngã của tật bệnh, Hàn Mặc Tử đã ra đi trong đau đớn không phải của thể chất mà ở tâm hồn.

Ngôi sao ấy xẹt qua bầu trời thi ca Việt nhưng đã kịp để lại vầng sáng lạ lùng và dữ dội. Nửa đời người chưa qua hết nhưng Hàn Mặc Tử đã làm tròn sứ mệnh của mình, để lại cho nền văn học Việt Nam một đời thơ giá trị.

Trung tâm Thông tin Tư liệu/TTXVN
 

 
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét