Thứ Tư, 30 tháng 12, 2015

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 52

-Mọi người đều mù quáng đi trên con đường đời của mình! Vì đố ai thấy chính xác con đường ấy!
-Đường đời riêng đã không thấy thì làm sao thấy được đường đời chung, tức định mệnh của nhân loại?
-Chỉ toàn suy đoán và tưởng tượng thôi! Vì vậy, hãy thận trọng trước những " tiên tri" về xã hội!
-Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá!
-Công và tội là hai giá trị tùy thuộc vào nhận thức nên rất dễ chuyển hóa thành nhau. Tuy nhiên chân lý tuyệt đối chỉ có một!

-----------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

Rốt cuộc Tần Thủy Hoàng có phải là một “tên bạo chúa” không?

Tần Thủy Hoàng
Nhắc đến Tần Thủy Hoàng, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến những cụm từ miêu tả về ông như: Đốt sách chôn người tài, tìm thuốc trường sinh bất lão, sát thủ giết Kinh Kha, ngay cả sự tích Mạnh Khương Nữ khóc Trường Thành dù ít dù nhiều cũng có liên quan đến Tần Thủy Hoàng. Nói chung, người đời đã dùng một cụm từ để nói về Tần Thủy Hoàng là “một tên bạo chúa”.
Như vậy, Tần Thủy Hoàng cũng coi như được người đời biết rõ rồi thì hà tất gì phải nói thêm về ông ta? Kỳ thực, còn có rất nhiều người chỉ biết về Tần Thủy Hoàng với tư cách là một hình tượng văn học hay hình tượng dân gian mà lại rất mơ hồ khi nhắc đến ông với hình tượng là một nhân vật lịch sử.
Trong nghiên cứu về lịch sử, các nhà lịch sử học thông thường chia nhân vật lịch sử làm ba loại: Hình tượng lịch sử, hình tượng văn học, hình tượng dân gian. Muốn biết rõ, Tần Thủy Hoàng có phải là một tên bạo chúa hay không, trước hết chúng ta cần hiểu rõ về ba khái niệm này.

1. Hình tượng lịch sử là gì?

Hình tượng lịch sử là nhân vật lịch sử được ghi chép trong tư liệu trực tiếp. Thời Trung Quốc cổ đại, mỗi một triều đại đều có người phụ trách việc ghi chép lịch sử và thường được gọi là “Sử quan”. Tại Trung Quốc thời Xuân Thu, có một vị Sử quan chuyên phụ trách ghi chép việc đại sự của Quốc gia. Đặc biệt là vua của một nước thì càng phải ghi chép mỗi ngày giống như nhật ký của chúng ta ngày nay, nên cũng có câu “Quân cử tất thư”. Hơn nữa, trong Sử quan còn phân chia thành nhiều chức quan như quan ghi chép việc lớn (đại sử quan), quan ghi chép việc nhỏ (tiểu sử quan), quan ghi chép việc trong nước (nội sử quan), quan ghi chép việc bên ngoài nước (ngoại sử quan). Như vậy, có thể thấy rằng thời Trung Quốc cổ đại, việc ghi chép lịch sử là rất nghiêm ngặt, quan ghi chép cũng phải rất cẩn thận và vô cùng minh xác.

2. Hình tượng văn học là gì?

Hình tượng văn học là việc các nhà văn đời sau dựa vào ghi chép lịch sử mà thêm thắt, sửa đổi mà viết lại nhằm giao phó cho nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử một sinh mệnh mới. Thứ mà chúng ta gọi là tác phẩm, sáng tác… Ví dụ: “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của tác giả La Quán Trung. Tác phẩm này được La Quán Trung viết lại dựa theo nguyên tác “Tam quốc chí” của nhà sử học Trần Thọ thời Tây Tấn, Trung Quốc. Trong “Tam quốc diễn nghĩa”, La Quán Trung đã đem những nhân vật lịch sử và những tình tiết cải biến đi rất nhiều, nhằm khiến cho câu chuyện thêm hấp dẫn và sâu sắc. Khi tác phẩm văn học đã được cường điệu hóa lên nhiều rồi thì tính chân thật sẽ bị giảm đi. Cho nên, nhân vật trong hình tượng văn học nhất định đã có sự sai biệt lớn so với hình tượng lịch sử.

3. Hình tượng dân gian là gì?

Không phải tất cả những sự kiện lịch sử đều được các nhà văn cải biên thành tiểu thuyết mà là được dân chúng truyền miệng. Trong quá trình truyền miệng cũng không khỏi có chút thêm thắt, bịa đặt, gia tăng thậm chí cải biến cả nội dung sự kiện. Hơn nữa, nhiều khi vì để biểu đạt tiếng lòng, nguyện vọng của quảng đại người dân nên người dân cũng tự đặt ra một hình tượng dân gian. Ví dụ “Mạnh Khương Nữ khóc Trường Thành” là có ý muốn biểu đạt tiếng lòng của người dân trong việc phản ánh sự gian nan vất vả và sự căm phẫn của người dân vì phải xây dựng Trường Thành theo lệnh của Tần Thủy Hoàng.

Vậy, rốt cuộc Tần Thủy Hoàng có thực sự là một “tên bạo chúa” không?

Thực sự, từ trước đến nay rất nhiều tác phẩm văn học đều xây dựng Tần Thủy Hoàng thành một nhân vật tàn bạo nhưng là tác phẩm văn học, thì việc chủ quan cải biến là việc tất nhiên. Vậy hãy xem trong sử sách ghi chép lại thì Tần Thủy Hoàng là như thế nào. Rất nhiều nhân sĩ đời sau khách quan nhìn nhận đánh giá, lại phát hiện Tần Thủy Hoàng trong cách hành xử cũng có những chỗ hợp lý và sáng suốt.

Thứ nhất: Thuyết pháp “đốt sách chôn người tài” là có chỗ sai lầm

Nói Tần Thủy Hoàng bạo ngược, trong đó có một nguyên nhân chính là ông “đốt sách chôn người tài”, thiêu hủy kinh điển nho giáo, giết chết nhiều phần tử trí thức. Nhưng mà, câu chuyện này không phải hoàn toàn là sự thật!
Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, để hoàn thiện thể chế chính trị quốc gia đã chọn dùng pháp gia của tể tướng Lý Tư làm lý niệm trị quốc, cải sửa chế độ phân đất phong hầu, thiết lập chế độ quận huyện. Nhưng chế độ cải cách này đã bị bộ phận nho sinh thời ấy kịch liệt phản đối. Đặc biệt là một nhóm nhà nho do Thuần Vu Việt dẫn đầu. Họ có khuynh hướng muốn giữ nguyên chế độ phân đất phong hầu mà Vương triều nhà Chu đã áp dụng trước đó. Tuy nhiên, Tần Thủy Hoàng không tiếp thu ý kiến này. Một số nho sinh không chịu chấp nhận điều này đã trích dẫn một số lời thánh hiền trong cổ đại từng nói ra để phê bình tình hình chính sự đương thời, phản đối cải cách, khiến cho Tần Thủy Hoàng phẫn nộ. Thế là, Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt cháy sách cổ của nho gia, kể cả “Tần ký”. Ngoại trừ “Liệt quốc sử ký”, còn lại tất cả thơ và sách không do tiến sĩ cất giữ thì đều phải đến kỳ hạn giao nộp và đốt hết.  Đồng thời những ai dám đàm luận về thơ ca cũng bị đem ra xử tử, không cho phép cá nhân tự học, ai muốn học phải lấy quan lại làm thầy.  Lúc ấy, công tử Phù Tô và và thừa tướng Vương Quản cũng ra sức phản đối cách làm của Doanh Chính. Đồng thời họ kiến nghị Tần Thủy Hoàng dùng học phái nho gia của Khổng Tử để trị quốc. Tần Thủy Hoàng không nghe. Vì để trấn át nho sinh, ông còn hạ lệnh chôn giết rất nhiều thư sinh, phần tử trí thức.
Phải nói rằng, câu chuyện bên trên so với lịch sử chỉ đúng được khoảng một nửa. Việc Tần Thủy Hoàng hạ lệnh đốt cháy sách của nho gia là chuyện có thật. Nhưng, Doanh Chính không chôn sống “nhà nho” mà là chôn sống “thuật sĩ”. Trong “sử ký” của Tư Mã Thiên cũng không có ghi chép những lời này.
Thuật sĩ là chỉ những người chuyên đi bói toán, đoán mệnh cho người khác. Trong “Sử ký” có ghi lại, Tần Thủy Hoàng khi về già si mê với thuật trường sinh bất lão. Thế là, ông phân công Lô Sinh và Hầu Sinh thay ông đi tìm tiên dược. Hai người này biết rõ việc tìm kiếm tiên dược là việc khó khăn và là việc ngoài khả năng, vì vậy sau khi cầm một món tiền lớn rời khỏi kinh thành đã bỏ trốn. Sau khi biết việc này, Tần Thủy Hoàng đã vô cùng giận dữ, hạ lệnh bắt tất cả thuật sĩ trong kinh thành về chôn sống.
Ngoài ra, trong câu chuyện đem khái niệm của từ “Người đọc sách” đánh đồng với “Người học nho giáo” cũng là sai lầm. Thời ấy, “Người đọc sách” được chia thành rất nhiều trường phái như Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Mặc gia… Cho nên, học giả nhà Nho chỉ là một trường phái trong số “Người đọc sách” chứ không đại biểu cho tất cả họ.

Thứ hai: Đối xử tử tế công thần, không lạm sát người vô tội

Sau khi thống nhất đất nước, Tần Thủy Hoàng đối xử với công thần không đến nỗi tệ. Ví dụ như Vương Quản là một thừa tướng từ thời Lã Bất Vi sau này tiếp tục kế nhiệm, đảm nhiệm thừa tướng 20 năm. Vương Quản từng là người đứng đầu trong việc phản đối gay gắt chế độ “phân đất phong quyền” của Tần Thủy Hoàng. Thậm chí, Vương Quản cũng có nhiều lần không đồng ý với những chủ trương của Tần Thủy Hoàng, nhưng không vì thế mà bị Tần Thủy Hoàng xử phạt.
So với Hán Vũ Đế thời Tây Hán và Tào Tháo thời Tam Quốc thì Tần Thủy Hoàng cũng được cho là vị Hoàng Đế ôn nhu rồi.
Tể tướng Đậu Anh thời Tây Hán đã từng trợ giúp Hán Cảnh Đế bình định đất nước, có nhiều chiến công hiển hách. Nhưng về sau chỉ vì xúc phạm đến cậu của Hoàng Đế mà bị bỏ tù rồi bị Hán Vũ Đế hạ lệnh xử tử. Ngoài ra một công thần khác là Chủ Phụ Yển đã từng trợ giúp Hán Vũ Đế làm suy yếu thế lực chính trị của chư hầu tại các địa phương nhưng về sau chỉ vì một chuyện nhỏ lại bị nghi ngờ là tư thông với chư hầu. Cuối cùng, ông bị Hán Vũ Đế hạ lệnh giết cả gia tộc.
Thời Tam Quốc, Tào Tháo cũng nổi danh là người giết đại thần để làm bá chủ. Tuần Vực chính là người mưu tài nhất trong số những người tài dưới trướng của Tào Tháo. Tuần Vực đi theo Tào Tháo mấy chục năm, giúp Tào Tháo dành được thiên hạ, là công thần đứng đầu của Tào Tháo. Nhưng sau này Tuần Vực vì phản đối Tào Tháo xưng vương nên đã bị ép phải chết.
So với những điều này thì Tần Thủy Hoàng ít nhất cũng là người có tấm lòng quảng đại hơn, ông ta còn có can đảm tiếp nhận ý kiến bất đồng, đối đãi với công thần cũng có chút bao dung, độ lượng.
Lý Tín là một vị tướng quân ở bên Tần Thủy Hoàng. Ông ta từng khoe khoang mà tuyên bố rằng chỉ trong vòng hai, ba tháng sẽ chiếm được nước Sở nhưng cuối cùng lại bị tướng quân nước Sở đánh cho đại bại mà bỏ về. Sau này, Tần Thủy Hoàng lại một lần nữa bổ nhiệm lão tướng Vương Tiễn đi đánh nước Sở. Tuy nhiên, Tần Thủy Hoàng vẫn cho Lý Tín làm phó soái. Điều này thể hiện ông rất tín nhiệm đối với hạ thần, tố chất này không phải vị vua nào cũng có.
Cha con Vương Tiễn là những người có công lao rất lớn trong việc giúp Tần Thủy Hoàng giành được thiên hạ. Từ khi Tần Vương được thành lập, Tần Thủy Hoàng vẫn luôn đối xử tốt và yêu mến gia đình Vương Tiễn. Sau này, Vương Tiễn cũng được an hưởng tuổi già.
Trái ngược lại điều này có thể kể đến hoàng đế Lưu Bang. Có câu nói về Lưu Bang thế này: “Giang sơn vừa được, công thần tức rơi”. Hàn Tín chính là một ví dụ điển hình nhất. Hàn Tín vốn là công thần có công lao lớn trong việc trợ giúp Lưu Bang binh chinh thiên hạ. Nhưng mà sau khi Hàn Tín trợ giúp Lưu Bang diệt trừ Hạng Võ đã bị chính Lưu Bang lập mưu kế và giết hại.
Ngoại trừ Lưu Bang ra, còn có Việt Vương Câu Tiễn thời Xuân Thu. Sau khi tiêu diệt Ngô quốc, việc đầu tiên mà Việt Vương Câu Tiễn làm chính là giết chết người cùng chung hoạn nạn với mình – đại thần Văn Chủng. Phạm Lãi là người biết trước Việt Vương Câu Tiễn chỉ có thể là “người cùng chung lúc hoạn nạn chứ không thể là người cùng hưởng phúc” nên đã rời xa sớm mà tránh được kiếp nạn.
Nhiều người vẫn cho rằng Lưu Bang và Việt Vương Câu Tiễn có tài chính trị lỗi lạc, tinh thần vững vàng mà không hề nghĩ rằng về lòng dạ và trí tuệ thì so với Tần Thủy Hoàng, họ không được sáng suốt bằng.

Thứ ba: Từ sau khi thống nhất lục quốc, chưa từng đại tàn sát

Tần Thủy Hoàng thực hiện chiến tranh thống nhất đất nước, kỳ thực số người thương vong là không lớn. Hơn nữa, Tần Thủy Hoàng cũng dùng nhiều chính sách như dụ dỗ lôi kéo hoặc là phương thức hòa bình chứ không phải lúc nào cũng động binh. Tề quốc chính là ví dụ điển hình nhất. Ngoài ra, Tần Thủy Hoàng còn là người có tâm khiêm tốn, lòng khoan dung, điều này được thể hiện rõ nhất ở cuộc chiến Yên quốc.
Trước khi thu phục Yên quốc, thái tử Đan của Yên quốc từng phái Kinh Kha đến ám sát Tần Thủy Hoàng nhưng bị thất bại. Sau này khi Tần Thủy Hoàng đã thu phục được Yên quốc, ông không vì điều này mà trả thù. Sau khi loại bỏ thể chế chính trị của Yên quốc, Tần Thủy Hoàng đã áp dụng chính sách “vỗ về” để đối đãi với người dân Yên quốc, trấn an dân chúng. Thử nghĩ, nếu Doanh Chính là một tên bạo chúa, khi bị thích khách hành thích như vậy chỉ e rằng người dân vô tội cũng khó mà tránh được đại nạn.
Vào thời Tần mạt, Hạng Võ dẫn đầu 40 vạn quân đánh vào thành Hàm Dương, tàn sát hàng loat dân chúng Hàm Dương, thiêu cháy cung A Phòng. Ngọn lửa hừng hực cháy ròng rã ba tháng trời. Tuy nhiên người đời sau chỉ ca ngợi Hạng Võ là một đại anh hùng, còn đối với việc Hạng Võ giết hàng loạt dân Hàm Dương và đốt cháy cung A Phòng thì coi như không thấy…
Tháng 9 năm 879 công nguyên, Hoàng Sào đánh chiếm Quảng Châu. Sau khi đánh chiếm Quảng Châu, Hoàng Sào giết hại 12 vạn dân trong thành đồng thời san bằng Quảng Châu, nơi từng là trung tâm buôn bán với nước ngoài sầm uất thời đó.
Thành Cát Tư Hãn, một đời kiêu hãnh cũng không ngoại lệ. Sau khi tiêu diệt Tây Hạ liền xuôi nam, tiến vào triều đại Nam Tống. Dân chúng bên đường bị cướp bóc không còn thứ gì. Sau khi Mông Cổ thống nhất, cũng không đối xử ngang hàng mà phân cấp người dân thành 4 loại. Người Mông Cổ là cấp 1, người Sắc Mục là thứ hai, người Hán phương bắc là thứ ba, người phương nam là thứ 4.
Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất Trung Quốc không làm theo cách đó. Ông căn cứ pháp luật Tần triều, đối xử với người dân như nhau, tất cả đều ngang hàng. Hơn nữa, Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất lục quốc cũng không giết chết lục quốc quân vương mà là đưa họ đến Hàm Dương giam lỏng, cho họ một con đường sống. Hành động này, đối với rất nhiều vị Hoàng đế tài đức đời sau cũng không làm được.

Thứ tư: Vì sao Tần Thủy Hoàng bị dán nhãn hiệu “bạo chúa”?

Điều đáng thương chính là trải qua hơn 2000 năm qua, Tần Thủy Hoàng luôn bị dán nhãn hiệu là một tên “bạo chúa”. Từ xưa đến nay, trong hình tượng tác phẩm văn học và dân gian, Tần Thủy Hoàng hầu như là nhân vật phản diện, điều này có thực sự công bằng cho ông không?
Truy cứu nguyên nhân có thể thấy rằng điều này là do chính điều kiện lịch sử thời đó tạo thành. Thời Xuân thu chiến quốc, dân chúng sinh ra đã có một loại tư duy cố định. Họ cho rằng thiên hạ này phải “chia năm xẻ bảy” mới là bình thường còn thống nhất là điều không bình thường. Mỗi một người đều có cảm tình với nơi mình sinh sống và không có ước nguyện thống nhất đất nước. Trái lại, “thống nhất” ở một góc độ nào đó mà nói, nó có thể trở thành đại từ “xâm lược”. Vì vậy, dân chúng đều căm hận Tần Thủy Hoàng, ông đã khiến dân chúng mất đi quê hương, biến họ thành người dân mất nước. Căn cứ vào tâm tình loại này, Tần Thủy Hoàng không khỏi bị yêu ma hóa, và cũng trở thành một hình tượng “thiên cổ bạo quân” (bạo chúa ngàn đời).
Theo bạn thì thế nào, Tần Thủy Hoàng trong suy nghĩ của bạn liệu có phải là một tên bạo chúa? Hãy chia sẻ đánh giá của bạn với chúng tôi nhé.
Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch

Tần Thuỷ Hoàng - Vị Hoàng đế "máu lạnh" nhất lịch sử Trung Quốc

Cập nhật lúc: 19:30 13/08/2015

Tần Thủy Hoàng (tiếng Trung Quốc: 秦始皇)(259 TCN – 210 TCN) [1][2], tên thật là Doanh Chính (嬴政), còn có tên khác là Triệu Chính (趙政), là vua của nước Tần ở Trung Quốc từ năm 246 TCN đến 221 TCN trong thời kỳ Chiến Quốc và trở thành vị Hoàng đế sáng lập ra nhà Tần, đồng thời là hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thống nhất vào năm 221 trước Công nguyên sau khi tiêu diệt các nước chư hầu khác. Ông cai trị cho đến khi qua đời vào năm 210 trước Công nguyên ở tuổi 49.
Tự gọi mình là Thủy Hoàng Đế (始皇帝) sau khi Trung Quốc được thống nhất, Tần Thủy Hoàng là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, mở ra gần hai thiên niên kỷ của hoàng gia cai trị Trung Quốc. Sau khi thống nhất, ông và thừa tướng Lý Tư đã thông qua một loạt các cải cách lớn về kinh tế và chính trị. Ông đã tiến hành nhiều dự án khổng lồ, bao gồm việc xây dựng và hợp nhất các bộ phận của Vạn Lý Trường Thành, lăng mộ kích thước thành phố nổi tiếng được bảo vệ bởi đội quân đất nung có kích thước thật, và một hệ thống đường quốc gia lớn, với cái giá của rất nhiều mạng người. Để đảm bảo sự ổn định, ông đặt ra ngoài vòng pháp luật và đốt cháy nhiều cuốn sách và chôn sống một số học giả. Tương truyền ông là người tinh thông ngũ hành,từng nhiều lần dùng phép ngũ hành nhấn chìm các nước đối thủ,làm động đất thiệt hại cho Triệu quốc.
Nhắc đến tính cách hung bạo và tàn ác chẳng mấy ai quên được Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Quốc. Vào năm 221 trước Công nguyên, Tần Thủy Hoàng đã thống nhất đất nước, thành lập chế độ tập quyền về mặt chính trị thống nhất từ trung ương, xây dựng nền quân chủ chuyên chế.
Tan-thuy-hoang-phunutoday-vn
Tần Thuỷ Hoàng. Hình minh họa.
Ông đã có công tiêu diệt các nước chư hầu Thời Chiến Quốc, thống nhất Trung Hoa lập nên một đế quốc rộng lớn. Tuy nhiên, ông cũng được xem là bạo chúa vì chính sách cai trị hà khắc và tàn bạo của mình.
Một điều mà không nhà lịch sử nào phản bác chính là chính sách cai trị độc ác và tàn bạo của Tần Thủy Hoàng. Mặc dù, cuộc cách mạng tàn độc này đã giúp thống nhất Trung Hoa nhưng đây vẫn là một dấu lặng đau lòng trong lịch sử Trung Hoa.
Suốt chiều dài lịch sử cai trị của Tần Thủy Hoảng chính sách độc tôn duy trì chính là sự tàn bạo, đa nghi, xem mạng người như cỏ rác. Tần Thủy Hoàng cai trị một cách độc tài, không chú trọng đến nhân đức, ân nghĩa, trong một thời gian dài không tha tội cho ai, không để ý đến giáo hóa hoặc tuyên truyền cho dân thấu hiểu.
Vốn nghĩ mình là con trời nên Tần Thủy Hoàng luôn thể hiện tính tình gàn dở tự đắc, muốn gì được nấy, tự cho rằng từ xưa đến nay không ai bằng mình. Một trong những quyết định của Tần Thủy Hoàng khiến nhiều văn sĩ đầu rơi máu đổ là chính sáchđốt kinh thi, kinh thư, sách vở trong vòng 30 ngày, truy lùng các học sĩ.
Ông từng ra lệnh chôn sống 460 người ở Hàm Dương vì không cùng quan điểm chính trị. Ngoài ra, một trong những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử là Lã Bất Vi (người được cho là cha ruột của Tần Thủy Hoàng) đã bị chính vị hôn quân này giết chết.
Vì muốn trường sinh bất tử, vị vua này còn sai biết bao người đi tìm thuốc tiên, thần dược. Tần Thủy Hoàng có lẽ là vị vua duy nhất sợ cái chết đến mức điên dại.Quá trình này đã khiến biết bao người dân vô tội bị chết để thỏa mãn cho sở thích quái đản của vị vua này. Lúc còn sống cho xây lăng mộ gồm 3 tầng, trên cùng là ngoại cung, tiếp theo là nội cung và sau cùng là tẩm cung, nằm ở phía Bắc núi Ly Sơn thuộc địa phận tỉnh Thiểm Tây.
Rất nhiều binh sĩ, thợ thuyền được điều động đến để xây lăng mộ cho vị hoàng đế này. Dã man hơn, sau khi thợ chôn cất châu báu, để tránh bị lộ ra ngoài, vị vua này đã sai đóng đường hầm, chôn sống những người thợ ở đây với mục đích biến họ trở thành thần giữ của cho Tần Thủy Hoàng.
 
Năm 211 TCN, một thiên thạch được cho là rơi xuống Đông Quận (东郡) ở chỗ thấp của sông Hoàng Hà. Trên thiên thạch có người ghi dòng chữ "Thủy Hoàng chết thì đất bị chia." [52] Khi Thủy Hoàng biết được, ông đã phái người đi điều tra. Không ai nhận là người đã viết dòng chữ nên tất cả những người sống gần đó đều bị giết. Tảng thiên thạch sau đó bị đốt cháy và nghiền thành bột [12].
Sau đó, Thủy Hoàng đi kinh lý phía đông, Tả Thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu Thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng.
Sau khi tế vua Hạ Vũ ở Cối Kê, Tần Thủy Hoàng trở về kinh. Trên đường trở về phía tây đến bến Bình Nguyên thì bị bệnh.
Thủy Hoàng ghét người ta nói đến việc chết, cho nên quần thần không ai dám nói với nhà vua về việc chuẩn bị cho việc ông qua đời. Khi bệnh càng nặng, nhà vua viết thư đóng dấu của vua gửi đến công tử Phù Tô nói: "Con về Hàm Dương với đám tang, và chôn cất ta ở đấy." Bức thư đã niêm phong ở trong phủ trung xa thuộc quyền Triệu Cao. Bức thư có dấu của nhà vua làm tin chưa giao cho sứ giả, thì Thủy Hoàng qua đời ở Bình Đài (平台), thuộc đất Sa Khâu (沙丘), là nơi cách khoảng hai tháng đi bằng đường bộ cách kinh thành Hàm Dương vào ngày 10 tháng 9 năm 210 TCN theo lịch Julius [22][22][53][54]. Sử liệu phương Tây cho rằng ông chết do uống phải thuốc thủy ngân do các ngự y chế ra[55] mà những viên thuốc này vốn được làm nhằm mục đích giúp cho Tần Thủy Hoàng bất tử [55].
Thừa tướng Lý Tư thấy nhà vua mất ở xa kinh đô nên đã trở thành vô cùng lo lắng rằng tin tức về cái chết của Thủy Hoàng có thể kích hoạt một cuộc nổi dậy lớn trong toàn đế chế [22], bèn giấu kín điều đó, không báo tang, chở quan tài trong một cỗ xe mát, cho một hoạn quan được vua yêu ngồi trong xe, đến đâu thì dâng thức ăn, trăm quan vẫn tâu việc như thường [22]. Viên hoạn quan ở trong xe nghe lời tâu, liền bảo: "Được!". Chỉ có Hồ Hợi, Triệu Cao và một vài hoạn quan thân tín của nhà vua, tất cả có năm sáu người biết là nhà vua đã chết [22].
Xe đi từ Tỉnh Hình đến Cửu Nguyên. Gặp lúc trời nắng, chiếc xe mát phát ra mùi thối, đòng tùy tùng sai các quan đi theo chở trên xe một thạch cá muối để đánh lẫn mùi thối [22]. Đi theo đường thẳng đến Hàm Dương mới báo tang.
Tổng cộng, ông ở ngôi được 35 năm, trong đó 24 năm là làm vua nước Tần từ năm 246 TCN đến năm 222 TCN, và 11 năm làm hoàng đế của đế chế Tần từ năm 221 TCN đến năm 210 TCN.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét