Thứ Bảy, 19 tháng 12, 2015

DU LỊCH QUÁ KHỨ 6/c (Nam Kỳ-Lục Tỉnh)

(ĐC sưu tầm trên NET)

 Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Gò Tháp
Di tích khảo cổ và kiến trúc nghệ thuật Gò Tháp
Di tích lịch sử và khảo cổ Gò Tháp nằm trên địa bàn hai xã Tân Kiều và Mỹ Hòa, thuộc huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp, với diện tích được quy hoạch bảo tồn khoảng 290ha.



Di tích khảo cổ học Gò Tháp được các nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện và công bố vào khoảng những năm cuối của thế kỷ XIX, với tên gọi Prasat Pream Loven (Chùa năm gian). Đây là địa điểm còn lưu giữ được nhiều giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học gắn với nền văn hóa Óc Eo. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại địa điểm này nhiều loại hình di tích, như di tích cư trú, mộ táng, kiến trúc…, phân bố trên địa bàn rộng, đặc biệt, tại khu vực này đã phát hiện được tượng thần Vishnu, Shiva bằng đá sa thạch, có khắc hoa văn và minh văn…

Trong thời kỳ lịch sử cận, hiện đại, khu di tích này gắn liền với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ của nhân dân ta - Nơi đây từng là đại bản doanh của nghĩa quân Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều trong thời kỳ đầu chống Pháp. Trong khoảng những năm 1946 - 1948, Gò Tháp là căn cứ địa của xứ Ủy Nam bộ, Ủy ban Hành chính - Kháng chiến Nam bộ, Khu ủy Khu 8… Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Tiểu đoàn 502 (những người con của quê hương Đồng Tháp) đã đánh sập Viễn vọng đài của quân địch tại đây.

Hiện nay, tại khu vực này còn lưu giữ được nhiều di sản văn hóa có giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học khá tiêu biểu, như:

Gò Tháp Mười: là gò cao nhất, mặt gò xuất lộ nhiều gạch và những khối đá lớn, lòng gò còn khối kiến trúc xây bằng gạch, phần Bắc nằm dưới phế tích ngôi tháp 10 tầng (dựng năm 1956 - 1958), phần Nam còn tương đối nguyên dạng.

Các nhà khảo cổ học đã phát hiện tại đây dấu vết đền thờ thần Vishnu và nhiều hiện vật (02 tượng Vishnu, cánh tay tượng đá, rãnh Yoni vỡ, khuôn đúc đồ trang sức…) thuộc giai đoạn văn hóa Óc Eo.

Gò Minh Sư: nằm cách di tích Gò Tháp Mười khoảng 400m về phía Bắc- Đông Bắc. Gò cao 3,96m, rộng khoảng 1200m2, dạng gần vuông..., mặt gò xuất lộ nhiều mảnh gốm cổ, gạch vỡ, chân tượng cùng nhiều khối đá cuội.

Gò Bà Chúa Xứ: cách Gò Tháp Mười khoảng 570m về phía Bắc. Năm 1984, các nhà khảo cổ đã tiến hành khai quật tại di tích này và phát hiện được nền móng gạch của công trình kiến trúc cổ…

Hố thám sát GT84 - BCX1: được mở ở đỉnh gò phía Tây. Về cơ bản, địa tầng của khu vực này đã bị xáo trộn khá mạnh. Dựa vào những kết quả khai quật, các nhà khảo cổ học cho rằng, lớp đất bên dưới đỉnh gò đã được xử lý và mang những dấu hiệu của hiện tượng xây đắp.

Hố thám sát GT84 - BCX2: nằm tại phía trước Linh Miếu Bà. Trong địa tầng xuất lộ những vỉa gạch xây và một khối nền kiến trúc cổ (dài 25m, rộng 13,8m), có niên đại cách ngày nay khoảng trên 1.500 năm, gắn với văn hóa Phù Nam. Đây là dạng kiến trúc cổ thường gặp ở khu vực Đông Nam Á và Đông Dương.

Miếu Bà Chúa Xứ (Linh Miếu Bà): dựng năm 1973, quay hướng Đông Nam, tường xây bằng gạch. Miếu gồm ba gian, gian giữa thờ Bà Chúa Xứ, hai gian bên đặt khám thờ Tả ban và Hữu ban.

Chùa Tháp Linh (Tháp Linh tự): có bố cục mặt bằng nền hình chữ “Công”, gồm các hạng mục: cổng, sân, chùa, đài Quán Thế Âm, chánh điện, hậu Tổ, nhà tăng ni.

Miếu Hoàng Cô: xưalà nơi thờ bà Nguyễn Phúc Hồng Nga, em gái của vua Gia Long. Năm 2007, Ban Hội hương Gò Tháp đã phục hồi lại miếu bằng vật liệu hiện đại…

Mộ Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều: được xây dựng sau khi ông mất (1866). Địa điểm này vốn là nền đồn Trung, thuộc đại bản doanh Gò Tháp, nơi ông đã từng đóng quân. Tháng 10 năm 1954, Cao Đài Liên minh đã cho xây mộ bằng vật liệu vữa, gạch, xi măng. Hiện nay, mộ nằm phía sau đền thờ chính, xung quanh xây tường rào kiên cố, mái đúc bằng bê tông, cột tròn, thân mộ ốp đá hoa cương, phía trước gắn bia đá,…

Đền thờ Thiên hộ Võ Duy Dương và Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều: xây dựng năm 1958, thờ Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều. Đến năm 1991, đền được sửa chữa và thờ thêm Thiên hộ Võ Duy Dương, vì địa điểm này cũng từng là đại bản doanh mà Thiên hộ Võ Duy Dương đã chiêu mộ nghĩa quân chống lại thực dân Pháp. Các hạng mục chính của đền hiện nay gồm: nghi môn, tượng đài, chính điện…

Hằng năm, tại di tích Gò Tháp tổ chức lễ hội để tưởng nhớ công ơn của Bà Chúa Xứ - ngày 15 tháng 3 (Âm lịch) và hai vị anh hùng dân tộc Thiên Hộ Võ Duy Dương, Đốc Binh Nguyễn Tấn Kiều - ngày 15 tháng 11 (Âm lịch). Trong lễ hội, nhiều hoạt động văn hóa, tâm linh và trình diễn dân gian thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhân dân sở tại và du khách thập phương.

Với những giá trị lịch sử, văn hóa và khoa học đặc biệt của di tích, ngày 27/09/2012, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng Di tích lịch sử và khảo cổ Gò Tháp là Di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 1419/QĐ-TTg).

Cảnh Toàn (Theo Hồ sơ xếp hạng di tích, tư liệu Cục Di sản văn hóa)

Đền thờ anh hùng dân tộc thủ khoa Huân

Được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận di tích quốc gia ngày 15 tháng 06 năm 1987
Thủ Khoa Huân tên thật là Nguyễn Hữu Huân. Sinh năm 1830 (canh dần). Tại làng Tịnh Hà, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường. Nay là xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo. Con ông Nguyễn Hữu Cẩm một nông dân khá giả trong vùng.
Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, khẳng khái, học rất giỏi và rất chăm chỉ học tập. Năm 1852 (dưới triều vua Tự Đức), ông dự thi hương tại Gia Định, đậu thủ khoa (đứng đầu cử nhân). Sau đó ông được làm giáo thọ tức đốc học ở huyện Kiến Hưng tỉnh Định Tường.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (2/1859), ông bỏ chức giáo thọ, từ biệt gia đình tham gia kháng chiến, liên kết với các sĩ phu yêu nước, chiêu mộ nghĩa binh đứng lên chống giặc, ngược với chiến lược hòa mà thực chất là đầu hàng của triều đình nhà Nguyễn.
Tháng 04 năm 1861 Pháp chiếm Mỹ Tho, ông cùng Thiên Hộ Dương phát động khởi nghĩa vào hoạt động: Tân An, lan rộng Mỹ Tho, rất ảnh hưởng đối với sĩ phu Nam Kỳ. Lúc đó Thiên Hộ Dương làm Chánh Quản Đạo, ông làm Phó.
Cuối năm 1861 thấy được ảnh hưởng của ông Pháp sai Tôn Thọ Tường dụ hàng nhưng không thành.
Đầu năm 1862 bị giặt đánh úp, ông bị giặc bắt và giải về Sài Gòn. Pháp giao cho ông Đỗ Hữu Phương (gọi là tổng đốc Phương) đầu sỏ Việt Gian mua chuộc, ông từ chối và khôn khéo tìm cách trở lại hoạt động liên kết với Trương Định.
Tháng 06 năm 1863 giặc phát hiện căn cứ ông ở Thuộc Nhiêu (Cai Lậy) nên bao quây càn quét. Ông và Thiên Hộ Dương chạy thoát về An Giang xây dựng căn cứ Bảy Núi.
Dựa vào điều ước Nhâm Tuất, chúng gửi tối hậu thư buộc quan tỉnh An Giang giao nộp Thủ Khoa Huân và Thiên Hộ Dương. Biết tin, Thiên Hộ Dương trốn thoát sau đó chuyển căn cứ về Đồng Tháp Mười. Còn Thủ Khoa Huân bị bắt giao nộp cho Pháp. Chúng khép ông vào tội chống lại nhà nước Lang Sa (Pháp) phản đối hiệp ước mà triều đình đã ký, kết án 10 năm khổ sai và đài ra đảo Réunion. Sau 07 năm tù chúng ân xá và đưa ông về quản thúc tại nhà Đỗ Hữu Phương (Tổng đốc). Đồng thời cử ông làm giáo thọ dạy bảo “sinh đồ” ở chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía chúng. Ông lợi dụng điều kiện dạy học liên lạc với các sĩ phu yêu nước và hội kín Hoa Kiều “Trường Phát” nhờ mua vũ khí chuẩn bị khởi nghĩa. Trong khi công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa đang khẩn trương thì giặc Pháp nhờ bọn dọ thám đã bắt được thuyền trở vũ khí của nhóm “Trường Phát”. Kế hoạch khởi nghĩa bị vỡ vì không có vũ khí.
Trước tình hình đó ông đã ra lệnh bãi binh, trở về Mỹ Tho họp cùng Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa. Địa bàn hoạt động chạy suốt từ Cai Lậy đến Mỹ Quý (Sa đéc). Trung tâm ngay vùng bến Tranh – đã gây tiếng vang toàn cõi Nam Kỳ.
Để đối phó giặc sai Đốc phủ kiêm địa chủ Trần Bá Lộc từ Vĩnh Long đến Mỹ Tho đem quân đàn áp.
Năm 1875 trong trận giao chiến với giặc bất lợi ông cùng với tùy tùng Đốc binh Hương lẽn về chợ Gạo dự định quá giang thuyền buôn ra Bình Thuận cầu viện. Nhưng Đốc binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc dẫn quân bắt Nguyễn Hữu Huân ở chợ Gạo ngày 15 tháng 05 năm 1875, đem giam tại Mỹ Tho. Sau 04 ngày giam tại Mỹ Tho mọi mưu chước chiêu hàng không thành chúng kết án tử hình Nguyễn Hữu Huân.
Ngày 19 tháng 05 năm 1875 chúng cho tàu chở ông theo dòng Bảo Định về quê Mỹ Tịnh An để hành quyết (12 giờ trưa). Năm ấy ông 45 tuổi.
Suốt 15 năm hoạt động 03 lần khởi nghĩa – 03 lần bị bắt trên chiến trường, trong tù ngục và ngay đến khi bị xử trảm Thủ Khoa Huân luôn nêu tấm gương “tận trung báo quốc” và  “đạo cương thường” vì nước vì dân.
Để tỏ lòng tôn kính nhân dân địa phương đã lập đền thờ cách nơi ông bị xử trảm 100m – ngay trường tiểu học Mỹ Tịnh An. Trước kia do chính sách phản động của bọn thực dân đế quốc nên hàng năm để tưởng nhớ đến ông chỉ có các bô lão địa phương đến viếng âm thầm. Sau khi đất nước thống nhất, lễ thờ cúng ông và những người có công lập làng vào ngày 15/4 (AL) hàng năm – được tổ chức rất trọng thể, có rước đoàn hát bội về phục vụ.
Năm 1995 với sự đồng ý của UBND tỉnh Tiền Giang Đền thờ Thủ Khoa Huân được dời về cạnh ngôi mộ của ông ở ấp Hòa Quới, xà Hòa Tịnh, Huyện Chợ Gạo.

Thủ Khoa Huân và Tuyệt Mệnh Thi ( Thơ Tuyệt Mạng )
Nguyễn Minh Thanh * đăng lúc 08:47:10 PM, Aug 24, 2015 * Số lần xem: 248
Hình ảnh

#1


Thủ Khoa Huân và Tuyệt Mệnh Thi ( Thơ Tuyệt Mạng  )

    Thơ Tuyệt Mạng

Gian nan vó ngựa diệt thù chung
Chỉ tại thua binh mạng phải cùng   
Hãy lắng nghĩa trung lưu vũ trụ
Chớ đem thành bại luận anh hùng
Nổi xung giặc dữ kinh hồn khắp
Liều thác thân tàn rạng tiếng chung
Sóng nước Mỹ Tho pha máu đỏ
Gío Thu chiều úa nhuộm cồn Rồng..!!

                  Nguyễn Minh Thanh cẩn dịch
Chuyển dịch từ nguyên tác Tuyệt Mệnh Thi của Thủ Khoa Huân

絕命詩
汗馬難堪為國仇,
只因兵敗致身休。
英雄莫把贏偷論,
宇宙長看節義留。
無怖以驚胡虜魄,
不降甘斷將君頭。
當年萩水波流血,
龍島秋風起暮愁。


Tuyệt Mệnh Thi     
                  
Hãn mã nan kham vị quốc cừu,
Chỉ nhân binh bại trí thân hưu.
Anh hùng mạc bả doanh thâu luận,
Vũ trụ trường khan tiết nghĩa lưu.
Vô bố dĩ kinh Hồ lỗ phách,
Bất hàng cam đoạn tướng quân đầu.
Ðương niên Tho thuỷ ba lưu huyết,
Long đảo thu phong khởi mộ sầu.

                                    T. K.  HUÂN   

Phụ chú:

Thủ Khoa Huân tức Nguyễn Hữu Huân ( 1830 - 1875 ), người Định Tường, nay tỉnh Tiền Giang.
Ông đổ đầu khoa thi Hương dưới triều Tự ̣Đức năm 1852 nên thường gọi : Thủ Khoa Huân. Là sĩ phu yêu nước đã chiêu mộ nghĩa binh kháng Pháp. Binh bại, bị giặc bắt.
Giặc Pháp dùng bả vinh hoa dụ hàng. Ông khẳng khái từ chối, bị giặc hành hình. Ông bình thản, trước khi mất  đã để lại Tuyệt Mệnh Thi...
Có chỗ nói Tuyệt Mệnh Thi ghi trên, Ông làm để tiếc thương lãnh tụ nghĩa binh Trần Xuân Hoà bị giặc Pháp bắt năm 1862 và đã cắn lưỡi tuẫn tiết!
Không phải Ông làm cho chính Ông.


Địa linh tam giác hợp – Nhân kiệt nhị tộc giao
Vùng đất thiêng Quảng Ngãi với hơn 600 năm hình thành và phát triển- nơi có núi Ấn, song Trà, Cổ Lũy Cô Thôn, Hà Nhai Vãng Độ, là vùng đất sinh ra nhiều anh kiệt, học giả, nhà khoa học, viên tướng, nhà quân sự tài ba, trở thành những người con ưu tú của dân tộc như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng…

Sử sách đã ghi nhận nhiều gương người tài xuất than từ Quảng Ngãi, song cũng có những điều cho tới bây giờ mới chỉ là phát hiện, cần được làm sa1ng tỏ …

Xin mạnh dạn nêu một vấn đề có thể còn nhiều nghi vấn cần làm sáng tỏ - vấn đề Địa linh tam giác hợp: Đó là mối liên hệ kỳ lạ giữa ba vùng đất Quảng Ngãi  - Nghệ An – Đồng Tháp. Ba vùng đất này vô hình chung đã tạo thành một tam giác, có cơ duyên gắn bó với các nhân vật: Võ Duy Ninh – Võ Duy Dương – Nguyễn Sinh Sắc.

Dịp trước Tết 2005, ra Hà Nội, tôi đến thăm nhà văn Sơn Tùng, giáo sư Vũ Khiêu, giáo sư Trường Lưu, giáo sư Hoàng Chương và một vài nhà nghiên cứu khác kể lại những câu chuyện dân gian về mối liên hệ này. Các giáo sư ngạc nhiên và hỏi tôi nhiều điều. Riêng anh Vũ Kỳ - thư ký của Bác Hồ lúc sinh thời – khi mời tôi vào dự hội thảo Văn hiến Quảng Ngãi truyền thống và hiện đại, anh nói với tôi: Bác Hồ thường nhắc nhiều đến Quảng Ngãi với anh Tô (tức cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng), tôi cũng thường nghe Bác nhắc đến Nghĩa Hành, Chơ Chùa, khi cụ Huỳnh Thúc Kháng mật tại Nghĩa Hành, nơi trụ sở Ủy ban Hành chánh kháng chiến Trung Nam bộ đóng tai thôn Phú Bình, Nghĩa Hành và không phải Bác nhắc 1 lần đâu nhé! Khi bàn về việc kết nghĩa hai tỉnh với nhau “tình sâu nghĩa nặng”, nhiều người hỏi tại sao Nghệ An phải kết nghĩa với Quảng Ngãi chứ không phải tỉnh nào khác? Bác chỉ cười.
Tôi hỏi anh Vũ Kỳ:
- Thưa anh, Bác có nói chuyện cụ Nguyễn Sinh Sắc trên đường vào Khánh Hòa có ghé qua Nghĩa Hành và vì sao cụ lai ghé qua Nghĩa Hành.
Anh Vũ Kỳ bảo:
- Chuyện Bác nói về Quảng Ngãi, về Nghĩa Hành thi dài lắm, sâu nặng lắm, đợi đến khi nước nhà thống nhất, Bác Nam sum họp một nhà Bác mới nói được và sẽ về thăm làng Đại An, Quảng Ngãi và về Đồng Tháp Mười viếng mộ cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thiên Hộ Dương. Nhưng ý nguyện của Bác chưa thực hiện được thì Bác đã đi xa, Bác mất năm 1969 và đến năm 1975 đất nước mới thống nhất.
Anh Vũ Kỳ hứa với tôi khi vào dự hội thảo sẽ nói rõ chuyện nay. Vào giưa tháng 4-2005, tôi mang giấy mời tới cho anh thì khi đó anh bị bệnh phải năm viện và chuyện anh định nói với hội thảo thế là không thực hiện được…
Tại Đồng Tháp, nơi ông Võ Duy Dương tụ nghĩa chống Pháp cũng là nơi có mộ cụ Nguyễn Sinh Sắc, nơi đây từ lâu đã xôn xao chuyện nghe đồn “cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là con ông Thiên hộ Võ Duy Dương”.
Gần đây, tôi đọc một cuốn sách rất dày – Anh hùng Võ Duy Dương chống Pháp ở Đồng Tháp Mười (người con của Quảng Ngãi trên đất Tháp Mười) của nhà nghiên cứu – Nhà giáo Thượng Hồng, trong sách có giới thiệu bản sắc phong của vua Tự Đức về Võ Duy Dương quê hương tổ quá Quảng Ngãi; ngay trang đầu tiên của cuốn sách viết: “Kính tặng nhân dân Nghĩa Hành – Quảng Ngãi”.
Lần theo các trang viết của tác phẩm trên, tôi nhận thấy nhiều chi tiết không giống nhau về mặt lịch sử vì chỉ căn cứ vào các tờ trình của mật thám Pháp. Từ đó tôi tìm về gặp anh Võ Thành Tân – người đã đúc di tượng cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc dâng tại Đồng Tháp, Nghệ An và thạc sĩ Võ Kim Chi – người từng viết thư gửi các cơ quan chức năng nhà nước hỏi về than sinh cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Anh Chi đưa tôi xem bảng phả đồ, phả hệ sơ lược của dòng họ Võ thì thấy:
Võ Duy Ninh – Tổng trấn Gia Định – sinh hai người con: Võ Duy Lập, Võ Duy Ngọc. Khi Võ Duy Ninh không đầu hang Pháp, tự vẫn ở Gia Định cũng là lúc Hoàng Diệu không đầu hang Pháp, tuẫn tiết ở Thăng Long. Võ Duy Ninh Và Hoàng Diệu là bạn than cùng xuất phát từ Hưng Yên. Sau hi hay tin cha mình – Võ Duy Ninh – tuẫn tiết ở Gia Định, Võ Duy Lập (tức Võ Duy Dương) lập tức đứng ra chiêu mộ hang ngàn binh sĩ lập ấp, rèn chí, luyện gan cùng với Trương Định, Thủ khoa Huân theo tinh thần bất khuất của cha, tiếp tục chống Pháp đến cùng. Nhờ chiêu mộ hang nghìn hộ dân nhanh chóng như thế, nên ông được triều đình Huế phong chức Thiên Hộ Vương. Ở Nam bộ gọi Vương thành Dương, dần dần chữ Dương thay cho chữ Lập, nên về sau tên Lập bị quên lãng, người ta chỉ gọi ông là Thiên Hộ Dương (Võ Duy Dương) – gắn liền với công cuộc chống Pháp ở Đồng Tháp Mười cho đến hơi thở cuối cùng của ông, lưu danh mãi đến bây giờ và mai sau.
Nhà giáo – nhà nghiên cứu Thượng Hồng, người chuyên theo dấu tích Thiên Hộ Dương suốt hàng chục năm qua, không những biết Thiên Hộ Dương gốc ở Nghĩa Hành – Quãng Ngãi mà còn đem đối chiếu giữa năm sinh, năm mất của Võ Duy Dương – Nguyễn Sinh Sắc và rút ra được kết luận về mối quan hệ giữa hai người là quan hệ phụ tủ - cha con.
Còn phả đồ, phả hệ sơ lược của Võ Duy Ngô và Võ Kim Chi lại ghi tuần tự hơn: Sauk hi rời Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Võ Duy Dương thay hình đổi dạng ra Phan Thiết – Bình Thuận, tìm cách tung tinh đánh lạc hướng để che mắt mật thám Pháp, rồi lần về quê Đại An – Hành Thuận – Nghĩa Hành… Sau lên Chợ Chùa mai danh ẩn tích, Võ Duy Dương (Võ Duy Lập, tức Võ Quá) sinh hạ Võ Cường, Võ Kỳ, Võ Sắc, Võ Thị Thắm, Võ Thị Lan. Sau khi rời Đồng Tháp Mười về quê, Võ Sắc vừa lên 4 tuổi. Thấy Sắc thong minh, lại biểu lộ ý chí của mình, ông liền tìm cách lien lạc với ông Hoàng Đường, người có quan hệ ruột thịt với Tổng trấn Hoàng Diệu và là bạn than với Tổng trấn Võ Duy Ninh, cùng xuất phát từ Hưng Yên vào dạy học ở Nghệ An. Ông tìm cách nhờ đồng môn, đồng đạo, đưa Võ Sắc về xứ Nghệ.
Nhờ có đường dây liên lạc nên danh sư Hoàng Đường đã nhận Võ Sắc làm học trò của minh. Bọn mật thám Nam kỳ vừa báo cho Pháp biết là Võ Duy Dương chết ở biển Thần Phù, nhưng mặt khác lại ra sức truy nã ngày càng ráo riết trong khắp cả nước. Thầy Hoàng Đường tìm đủ mọi cách để cho Võ Sắc có cha và lấy họ của người gọi là cha, đó là Nguyễn Sinh thay vì họ Võ Duy. Võ Duy Sắc trở thành Nguyễn Sinh Sắc là như vậy. Sau đó, thầy Hoàng Đường gả con gáp đầu là Hoàng Thị Loan cho Nguyễn Sinh Sắc. Đúng là nhân kiệt nhị tộc giao.
Những điều đã chỉ dẫn trên cộng thêm nhân chứng qua các đời, vật chứng gần 150 năm tọa lạc trên đất thôn Đại an, xã Hành Thuận, đó là ngôi mộ của cụ Tổng trấn Gia Định Võ Duy Ninh – cho thấy đất thiêng Quảng Ngãi đã sinh ra bao nhân tài kiệt xuất, bao học giả trí thức, các nhà khoa học, các tướng lĩnh tài ba…
Song vấn đề mà chúng tôi đặt ra trên đây cần phải được nghiên cứu kỹ càng, cần phải có chứng cứ khoa học xác đáng, sự minh chứng rõ ràng hơn nữa. Mong rằng đó là một đề tài sớm được các nhà khoa học, các giáo sư, các học giả tìm hiểu, nghiên cứu sáng tỏ.
ST

Khởi nghĩa Võ Duy Dương

Thiên hộ Võ Duy Dương, một lãnh tụ quân sự có tài có đức, với tầm nhìn chiến lược đã biết tập hợp lực lượng quần chúng quanh mình để xây dựng lực lượng. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng tên tuổi và sự nghiệp chống giặc giữ nước của ông mãi mãi gắn chặt với mảnh đất Đồng Tháp Mười anh hùng.

Võ Duy Dương (1827 – 1866) là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân ở thôn Cù Lâm Nam, thuộc phủ Tuy Viễn, trấn Bình Định (nay là thôn Nam Tượng, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, Bình Định). Tổ sáu đời của Võ Duy Dương là Võ Hữu Mạn từ miền Bắc vào Cù Lâm Nam lập nghiệp. Tương truyền, ông rất khỏe mạnh và giỏi võ nghệ, được bà con tôn là Ngũ linh Dương.

Năm 1857, ông cùng một số bạn bè hưởng ứng chính sách khai hoang của Nguyễn Tri Phương, vượt biển vào Nam tìm đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười (nay thuộc địa bàn huyện Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè tỉnh Tiền Giang), chiêu dân, khai hoang lập ấp.

Tháng 2/1859, thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định, ông phong chức Chánh quản đạo cùng thủ khoa Nguyễn Hữu Huân chiêu mộ nông dân lập đội nghĩa ứng kéo về Gia Định đánh Pháp. Thành Gia Định vỡ, quân triều đình rút về Biên Hòa. Ông vượt biển về kinh, bái yết vua Tự Đức hiến kế đuổi giặc. Lúc bấy giờ, triều đình chưa có đối sách dứt khoát đối với thực dân Pháp, nên tạm thời điều Võ Duy Dương về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích. Ông hoàn thành nhiệm vụ và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.

Tháng 5/1861, Võ Duy Dương đóng quân ở Bình Cách, liên kết với Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hòa ở Thuộc Nhiêu và hợp cùng Đỗ Thúc Tịnh xây dựng một đồn chiến lược tại Mỹ Quý (Tân Thành - Mỹ Quý), chia cắt lực lượng địch trong tỉnh Định Tường.

Đầu năm 1862, thực dân Pháp đột kích căn cứ Thuộc Nhiêu, Trần Xuân Hòa bị bắt rồi tự tử, Võ Duy Dương điều Thủ khoa Huân đến xây dựng lại và bảo vệ Thuộc Nhiêu. Sau đó, thực dân Pháp mang đại quân tấn công Tân Thành - Mỹ Quý, nghĩa quân chống cự quyết liệt suốt 57 ngày đêm, Đỗ Thúc Tịnh hy sinh, Nguyễn Hữu Huân bị bắt ở Thuộc Nhiêu, Thiên hộ Dương thoát được rút về Bình Cách.

Đầu năm 1863, thực dân Pháp tập trung quân đánh bật Trương Định ra khỏi căn cứ Tân Hòa (Gò Công) và liên tục tấn công nghĩa quân Thiên hộ Dương. Đến cuối tháng 4, Thiên hộ Dương rút về cố thủ ở Xoài Tư (vùng giáp ranh Cái Bè – Cai Lậy (Tiền Giang hiện nay). Để bảo tồn lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài, Thiên hộ Dương cử Thủ Khoa Huân sang ba tỉnh miền Tây vận động nhân dân ủng hộ tiền bạc mua vũ khí, còn ông phân tán nghĩa quân về các thôn ấp tránh sự lùng sục của giặc. Tại An Giang, ông liên kết với Thạch Bướm, một lãnh tụ nghĩa quân người Khmer.

Tháng 7/1864, Thủ khoa Huân bị bắt. Tháng 8/1864, Trương Định hy sinh, nghĩa quân đứng trước nguy cơ tan vỡ. Với quyết tâm chống giặc cứu nước, Thiên hộ Dương trở lại Xoài Tư, từ đó rút vào Đồng Tháp Mười chuẩn bị cho giai đoạn chiến đấu mới.

Sau hơn một năm xây dựng căn cứ Tháp Mười trên cơ sở lực lượng có sẵn và lực lượng tại chỗ của Đốc binh Kiều (Nguyễn Tấn Kiều), Thống Linh (Nguyễn Văn Linhvà đông đảo nông dân khắp nơi với chiến thuật “tức kỳ yểm cố”, đến giữa năm 1865, thế và lực của nghĩa quân tương đối vững, nghĩa quân Đồng Tháp Mười bắt đầu tấn công Cái Bè, Cái Thia, Cai Lậy, Mỹ Quý... 

Vào đêm 21 rạng ngày 22/7/1865, Thiên hộ Dương cho nghĩa quân triệt hạ đồn Mỹ Trà gây thiệt hại nặng cho thực dân Pháp khiến Phó Đô đốc Roze phải đưa viện binh từ Sài Gòn xuống cứu viện. Chúng đốt phá triệt hạ làng Mỹ Trà và Mỹ Ngãi để trả thù.

Tháng 4/1866, De Lagrandière cho tập trung quân của bốn dinh tham biện Tân An, Mỹ Tho, Cai Lậy và Cần Lố chia làm ba mũi tấn công vào Đồng Tháp Mười. Sau gần mười ngày chiến đấu, nghĩa quân mất một số tiền đồn. Để bảo tồn lực lượng, Thiên hộ Dương ra lệnh bỏ đại đồn Tháp Mười, rút lui theo hai hướng: hướng Tây về biên giới, hướng Đông về Cái Thia (Cái Bè). 

Thiên hộ Dương rút về Cao Lãnh rồi lên biên giới liên kết với nghĩa quân Trương Tuệ và nghĩa quân Campuchia A-cha Xoa.  Ngày 7/6/1866, Liên quân Việt – Khơ me tấn công đồn Tây Ninh, hạ tại trận 12 lính Pháp, trong đó có chủ tỉnh Tây Ninh Larclauze và viên thiếu úy Le Sage. 

Ngày 14/6/1866, thực dân Pháp do trung tá Marchaise chỉ huy rơi vào ổ phục kích của nghĩa quân tại rạch Dinh. Bằng cung nỏ, gươm giáo và một số ít súng trường, nghĩa quân đã dũng cảm đánh giáp lá cà giết chết Marchaise và nhiều lính Pháp. Số còn lại bỏ chạy toán loạn. 

Chiến thắng rạch Dinh và Tây Ninh đã gây một tiếng vang lớn. Trong cuốn “Histoire de la Cochinchine”, Paulin Vial đã viết: “Trong khi Pháp lo những cuộc hành binh khác, tin trận rạch Dinh và tin số quân bị thiệt hại của ta (Pháp) lan tràn ra ngoài công chúng như một lửa thuốc súng. Các lãnh tụ khởi nghĩa phái người đi cổ vũ khắp nơi, đến cả trong hàng ngũ chúng ta (Pháp), đến cả trong phố Sài Gòn và họ tìm cách tấn công ta tại thủ phủ của ta”.  

Ngày 7/6/1866, dưới sức ép của thực dân Pháp, vua Tự Đức ra chỉ dụ truy nã Võ Duy Dương, A-cha Xoa và Trương Quyền, nghĩa quân bị cô lập.
Ngày 27/6/1866, thực dân Pháp điều quân đến bao vây, tập kích vào căn cứ của Võ Duy Dương. Nghĩa quân chủ động đánh mở ra ba hướng: Trảng Bàng; sông Bến Nghé, Bình Điền. Nghĩa quân kháng cự quyết liệt nhưng cuối cùng đành chịu thiệt hại nặng nề tại ấp Bình Thủy, Ba Hầm và Bình Điền. 
 Bảng ghi nhận công lao người anh hùng dân tộc
Võ Duy Dương.

Từ ngày 2/7 đến ngày 11/7/1866, Liên quân Việt - Khơ me còn chạm trán với Pháp trong các trận: Trà Vang (Tây Ninh), Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Long Trì (Tân An), Bình Thới. 

Tháng 10/1866, Thiên hộ Dương cho người mang mật báo đến vua Tự Đức. Tháng 11/1866, ông và các thuộc hạ tâm phúc vượt biển về Kinh, đến cửa Thần Mẫu (Cần Giờ) bất ngờ bị Lý Sen, một tên cướp biển giết chết. Vua sai người tìm xác chôn cất và chu cấp cho gia đình ông.

Thiên hộ Võ Duy Dương, một lãnh tụ quân sự có tài có đức, với tầm nhìn chiến lược đã biết tập hợp lực lượng quần chúng quanh mình để xây dựng lực lượng. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng tên tuổi và sự nghiệp chống giặc giữ nước của ông mãi mãi gắn chặt với mảnh đất Đồng Tháp Mười anh hùng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét