THỰC TẠI & HOANG ĐƯỜNG 48/e
CHƯƠNG VIII: NÓNG – LẠNH
“Nhiệt thể hiện ở chuyển
động của các hạt vật chất.”
M.V. Lômônôxốp
“Tính chất kỳ lạ nhất của
năng lượng là khả năng biến đổi của nó. Một trong những dạng phổ biến nhất của
năng lượng trong tự nhiên là năng lượng chuyển động hay động năng. Năng lượng
nhiệt là nguồn dự trữ động năng của các phân tử hoặc nguyên tử chuyển động hỗn
loạn và liên tục.”
K.A Gladkov
(tiếp theo)
Đây là biểu
diễn toán học của qui luật biến đổi tiềm áp suất trong hệ Ho.
Có thể viết
thành phần số mũ của cơ số e dưới dạng khác vì:
Ở phần V,
chương IV, chúng ta có đề xuất ra một loại gia tốc hướng tâm (hoặc ly tâm) mà
theo ký hiệu qui ước ở đây, nó có dạng:
Đặt gia tốc ấy
là
thì công thức tính Ph được viết lại:
Rất có thể biểu diễn này đích đáng hơn biểu diễn trên về sự phân bố tiềm áp suất của lực lượng bức xạ
Nếu qui luật trên
thực sự tồn tại thì “quĩ đạo” lan truyền có tính phổ biến của một bức xạ
trong hệ Ho có thể có dạng như
đường q được minh họa ở hình 1, và đặc biệt hơn, sẽ dẫn đến ý niệm:
trong môi trường kg nội tại của mọi hệ cô lập và cân bằng nhiệt động có áp suất Po lớn hơn áp suất của
môi trường ngoài, luôn tồn tại một hiệu ứng dãn nở (ngược với hiệu ứng hấp dẫn)
“đẩy” các bức xạ lan truyền theo hướng xuyên tâm, từ (trọng) tâm ra ngoài. Hãy tưởng tượng Vũ Trụ là một hệ cô lập và cân bằng nhiệt động thì nó chính là một hệ có tính giãn nớ (ảo)!!!
Chúng ta biết
rằng tích PV có thứ nguyên năng
lượng. Sự có mặt của P còn cho biết năng
lượng ấy, nếu xét theo thuyết động học phân tử, chính là một phần động năng của
các hạt khí lý tưởng trong hệ nhiệt động và trong trường hợp hệ cô lập cân bằng
nhiệt động thì đúng bằng:
(với m là khối lượng của một
hạt khí và v là vận tốc trung bình
của các hạt khí). Theo quan niệm của chúng ta, nguyên nhân sâu xa nhất làm cho chuyển động hỗn loạn
(chuyển động Brao) của các hạt khí trong một hệ cô lập được duy trì là nhờ có
sự tương tác giữa chúng và lực lượng bức xạ. Do yêu cầu nghiêm ngặt về chuyển
hóa KG mà vận động của bức xạ điện từ (hay có thể gọi là bức xạ KG) là không
thể triệt tiêu được. Nếu trong hệ cô lập không hiện diện lực lượng bức xạ KG
cùng với vận động của nó thì trong thực tại khách quan, các hạt khí của hệ đó
không thể chuyển động Brao được, thậm chí là cũng không chuyển động di dời vị
trí.
Khi trong hệ Ho, ngoài lực lượng bức xạ
còn có một số lượng
đáng kể các hạt (phân tử) khí lý tưởng thì vì sự chiếm chỗ của các hạt khí lý
tưởng đó mà các thông số trạng thái nhiệt động (P, V, T) của Ho ít nhiều bị biến đổi
đi.
Chúng ta cho
rằng, nếu số lượng phân tử khí trong một hệ cô lập cân bằng nhiệt động đủ nhiều
thì chuyển động hỗn loạn của chúng phản ánh gần đúng sự vận động của khối bức
xạ
trong hệ ấy. Nghĩa là
trong một khoảng biến đổi các thông số trạng thái nhiệt động nào đó và với một
độ chính xác nhất định, có thể dùng các phương trình trạng thái khí lý tưởng và
phương trình cơ bản của thuyết động học phân tử thay cho biểu diễn toán học về
mối quan hệ nhân quả giữa vận động của khối bức xạ
và các thông số trạng
thái P, V, T mà chúng ta đã đề xuất
(dù biểu diễn đó có thể vẫn ở dạng sơ phác, chưa chuẩn, nhưng chúng ta tin ,
chí ít là về mặt định tính, nó phản ánh đúng thực tại).
Thực ra, phương
trình trạng thái khí lý tưởng vẫn còn cho ra kết quả rất sai biệt so với kết
quả rút ra được từ thực hành thí nghiệm. Theo nhiệt học giải thích, đó là do
trong thực tế, kích thước của các phân tử khí không thể bỏ qua được, vì vậy,
thể tích dành cho chuyển động tự do của chúng phải nhỏ hơn thể tích của hệ cô
lập. Nghĩa là thể tích thực của hệ cô lập không phải bằng V mà chỉ bằng V-b, trong đó b là số hạng hiệu đính
phụ thuộc vào bản chất của chất khí. Mặt khác, khi đối với khí lý tưởng, các
phân tử được qui ước không tương tác nhau, thì đối với khí thực trong thực tế,
các phân tử của chúng ít nhiều có tương tác với nhau. Do đó, áp suất trong hệ
cô lập không phải bằng P mà phải bằng P+Pi . Người ta đã chứng minh được Pi tỉ lệ với bình phương
mật độ phân tử khí trong hệ (N2 / V2) cho nên có thể viết:
trong đó,
là hệ số tỷ lệ phụ
thuộc vào bản chất chất khí.
Qua đúc kết
thực nghiệm và giải thích theo tinh thần trên, năm 1873, nhà vật lý Vandevan
thiết lập được phương trình trạng thái mang tên ông đối với khí thực:
với: m2 là khối lượng của khí
thực trong hệ
V là thể tích của khí
thực
Nếu viết cho
một mol khí thực thì vì lúc này
nên phương
trình có dạng:
với
là thể tích của một
mol khí thực
Thực nghiệm
chứng tỏ phương trình Vandevan có thể áp dụng được cho khí thực trong một giới
hạn rộng của áp suất và nhiệt độ. Tuy nhiên phương trình đó không áp dụng được
đối với các trạng thái hỗn hợp.
Để đến với
phương trình trạng thái có dạng như của Vandevan, chúng ta có cách giải thích
khác.
Như chúng ta đã
quan niệm, nguyên nhân sâu xa nhất về những biểu hiện nhiệt và nhiệt độ trong
thế giới vĩ mô chính là sự vận động có tính hỗn loạn của khối bức xạ trong thế
giới vi mô. Do đó biểu diễn toán học đích thực, phù hợp với thực tại về mối
quan hệ nhân quả ấy phải được viết đối với vận động ấy của khối bức xạ. Tuy
nhiên, khi trong hệ nhiệt động cô lập xuất hiện các phân tử khí và số lượng
phân tử khí đủ lớn thì vì sự vận động tổng hợp của khối phân tử khí là sự phản
ánh và phản ánh tương đối đúng tính chất vận động của khối bức xạ nên trên cơ
sở vận động của khối khí cũng có thể thiết lập được một cách gần đúng sự biến
đổi trạng thái của hệ nhiệt động cô lập. Dù sao, chúng ta vẫn cho rằng biểu
diễn:
(với: V là thể tích bất kỳ của
khối khí có khối lượng M
N là số lượng phân tử
khí trong hệ nhiệt động cô lập
m là khối lượng một phân
tử khí
là chưa xác
thực. Vì sao? Vì ở đây, tốc độ trung bình
là kết quả tính toán
theo suy luận của hệ quan sát trong môi trường kg chân không (ngoài hệ nhiệt
động cô lập). Vì môi trường kg trong hệ nhiệt động cô lập có mức hoạt động (mức
năng lượng bởi tồn tại bức xạ) cao hơn mức hoạt động của môi trường kg chân
không bên ngoài hệ (được qui ước bằng 0) cho nên khi qui đổi giá trị
ra theo thang đo thời
gian của hệ quan sát trong môi trường kg chân không bên ngoài hệ thì sẽ có giá
trị
*, với:
Giả sử quãng
đường trung bình di dời trong một đơn vị thời gian được xác định bởi hệ quan
sát đặt trong hệ cân bằng nhiệt động cô lập là X'. Nếu qui đổi ra theo thang đo khoảng cách của hệ quan sát
trong chân không ngoài hệ cô lập, thì theo biểu thức (2’) trong số sáu biểu
thức cơ bản mà chúng ta đã thiết lập và nêu ra trước đây, với trường hợp cos=0, sẽ có:
Với
là đại diễn mức năng
lượng của hệ
cân bằng nhiệt động cô lập so với chân
không.
Gọi thời gian
trung bình để hạt phân tử đạt được quãng đường ấy là t, thì hệ quan sát ngoài hệ sẽ xác định được:
Đó cũng chính
là:
Suy ra:
Nếu tưởng tượng
rằng vận tốc toàn phần của phân tử khí trong hệ đang xét là w còn
và
là hai vận tốc thành
phần của nó thì từ biểu thức cơ bản (4) trong sáu biểu thức cơ bản vừa nhắc
lại, với trường hợp
, cũng rút ra được:
Và suy ra:
Thay
cho
trong biểu thức (*)
thì chúng ta có được biểu diễn mới:
Hay:
Chúng ta cho rằng biểu diễn (*)(*) mới là biểu diễn xác đáng nhất của thuyết động học phân tử khí. Có thể đưa nó về dạng mà Vandevan đã xác lập. Biết:
Giữ cho nhiệt độ T của hệ cô lập không đổi, nghĩa là theo quan niệm của chúng ta giữ cho lượng bức xạ
Quá trình tăng
(hay giảm) thể tích của hệ cô lập trong điều kiện nhiệt độ T không đổi sẽ làm cho
mật độ năng lượng giảm (hoặc tăng) một cách thích ứng, kéo theo sự giảm (hoặc
tăng) một cách tương ứng đồng thời cả mức năng lượng (ở đây là
) lẫn áp suất (ở đây là P) của hệ. Như vậy, có thể tìm được một số
sao cho:
Đến đây với vài
thao tác đơn giản, chúng ta sẽ có phương trình dạng mà Vandevan đã thiết lập.
Nếu cái quan
niệm giữa bức xạ và nhiệt (cũng như nhiệt độ) có mối quan hệ nhân – quả một
cách trực tiếp là có lý thì cần phải cho rằng giữa biểu diễn (*)(*)(*) và công
thức Planck có mối quan hệ gắn bó và rất có thể suy ra từ biểu diễn đó công
thức Planck.
Khi hệ cô lập
cân bằng nhiệt động Ho chỉ chứa toàn bức xạ
thì vận động nội tại của nó phải diễn tiến theo qui luật mà công thức Planck đã
chỉ ra vì hệ Ho lúc này chính là một
hốc đen tuyệt đối, và đồng thời cũng phải tuân theo qui luật mà biểu diễn
(*)(*)(*) đã nêu ra.
Trên cơ sở nhận
định đó, chúng ta viết lại biểu diễn:
Xét mối quan hệ
giữa áp suất Po trên mặt ngăn cách hệ Ho với môi trường bên
ngoài và trên áp suất pA trên mặt giả cầu SA, lập luận như đã trình bày phía trên, chúng ta sẽ thiết lập
được biểu diễn tương tự như biểu diễn (*)(*)(*):
Khi h là vô cùng nhỏ thì có
thể coi:
với m là khối lượng trung
bình của bức xạ phát (hoặc thu) qua SA
Từ biểu diễn đó
có thể viết lại:
với mc2 là năng lượng toàn
phần trung bình tính cho một bức xạ được phát (hoặc thu) qua SA
Đó là một biểu
diễn chẳng khác nào bức tranh tĩnh tại hay ảnh chụp vì tất cả các đại lượng
trong đó đều ở tình trạng bất động.
Trong hiện thực
mà chúng ta đang sống, có một hiện tượng rất ít người chú ý đến. Chẳng hạn, khi
thấy một chiếc xe tải chở một tảng đá thì chúng ta thường nghĩ đơn thuần là
chiếc xe tải đang chở một khối lượng vật chất M nào đó đến đâu đó chứ
ít khi nghĩ cặn kẽ hơn là xe tải đang di dời một năng lượng MC2. Cách nghĩ thứ nhất có nguồn gốc sâu xa từ cảm nhận trực
giác về vật chất trong hiện thực. Cách nghĩ thứ hai xuất phát từ trình độ nhận
thức về bản chất vật chất đã trở nên sâu sắc mà người có công đầu có lẽ là
Anhxtanh.
Trên cơ sở cách
nghĩ thứ nhất mà vật lý học đi đến quan niệm: nếu vận tốc chiếc xe tải là v thì tảng đá đã được
“nạp” một động lượng là Mv (theo Niutơn) hay một
động năng Mv2 (theo Lépnit). Còn
theo Anhxtanh thì khi tảng đá đứng yên khối lượng của nó chỉ là Mo<M (nghĩa là năng lượng
toàn phần của tảng đá lúc này bằng Moc2). Chỉ khi chuyển động với vận tốc v, khối lượng của tảng đá mới là M (vì Anhxtanh cho rằng
khối lượng của một vật tăng theo sự tăng vận tốc của nó) và năng lượng toàn
phần của tảng đá lúc này (cũng theo Anhxtanh) bằng:
Nghĩa là tảng
đá được nạp thêm một lượng năng lượng dưới dạng động năng.
Nhưng thử hỏi:
sự được nạp thêm động năng (hay động lượng) ấy có thực chất không hay chỉ có
tính giả tạo, hình thức? (Theo quan niệm mới của chúng ta thì động năng của một vật là Mv2, khi tương tác với vật khác, tuân theo nguyên lý tương hỗ và bỏ qua ma sát, nó làm cho vật thứ hai (có cùng khối lượng M!) có lượng động năng đúng bằng 1/2Mv2, lượng này chuyển hóa từ năng lượng toàn phần của bản thân vật thứ hai mà thành chứ không phải do vật gây ra va chạm truyền cho như quan niệm xưa nay!). Nhưng chúng ta đã quan niệm thì hiện tượng đó không
phải là hoàn toàn giả tạo, không phải đơn thuần chỉ là sự ngộ nhận của con
người. Rõ ràng là tùy thuộc vào vị trí, trạng thái chuyển động so với hệ quan
sát cũng như sự nhận định chủ quan của hệ quan sát mà thấy tảng đá nhận thêm
hay cho bớt, ít hay nhiều động năng (hay động lượng). Cần phải khẳng định rằng,
sự tồn tại và vận động của tảng đá là duy nhất đối với chính nó, hơn nữa, sự
tăng hay giảm năng lượng của nó chỉ có thể xảy ra khi thực sự nó nhận được thêm
khối lượng từ bên ngoài hay cho đi bớt khối lượng của nó (qua đây mới thấy năng lượng không thể tác rời khỏi vất chất, hay có thể nói: không có khối lượng, thì không có năng lượng!). Trong cùng một thời
điểm, sự hiện hữu khác nhau của nó trước những hệ quan sát khác nhau chỉ là
hình thức, được qui định bởi mối quan hệ khách quan về góc độ, vị trí, trạng
thái chuyển động… giữa nó với mỗi hệ quan sát và sự nhận định, đánh giá chủ quan
của nó của mỗi hệ quan sát ấy. Như vậy, thực tại khách quan là duy nhất, nhưng
sự thể hiện của nó trước những hệ quan sát khác nhau là khác nhau, hay có thể
nói: trước mỗi thực thể quan sát, thực tại khách quan biến thành hiện thực của
thực thể quan sát đó. Như vậy, hiện thực là thực tại khách quan được xác định
bởi một thực thể quan sát theo cách đặc thù của nó. Điều đó cũng có nghĩa là
mỗi thực thể quan sát, mỗi hệ quan sát đều có một hiện thực phù hợp với nó.
Trên cơ sở hiện thực ấy, quan sát và tư duy tìm hiểu và nhận thức Tự Nhiên
Tồn Tại. Quá trình nhận thức sẽ ngày càng nâng cao trình độ hiểu biết và trình
độ hiểu biết càng cao sẽ làm cho hiện thực trực giác thuở ban đầu càng trở nên được
trừu tượng hóa, và đến một lúc nào đó, hiện thực sẽ trở nên hoàn toàn thấu
suốt, sáng tỏ, hoàn toàn xác đáng, tương hợp với thực tại khách quan hơn bao
giờ hết.
Quan niệm năng
lượng của một vật biến đổi theo sự biến đổi vận tốc của vật lý cổ điển cũng như
quan niệm khối lượng của vật biến đổi theo sự biến đổi vận tốc của Anhxtanh, đã
mâu thuẫn gay gắt, không thể dung hòa được với nguyên lý bảo toàn năng lượng
hay khối lượng – một nguyên lý thuộc hàng cơ bản nhất của Tự Nhiên.
Để giải quyết
mâu thuẫn đó, trước sau gì vật lý học cũng tất yếu phải thừa nhận quan niệm về
vật chất và năng lượng như triết học duy tồn đã quan niệm, với biểu diễn tổng
quát:
MC2=MoC2+MV2
(hay: MC=MoC+MV)
Như vậy, tảng
đá có khối lượng M nghĩa là nó có một
năng lượng toàn phần Mc2 và năng lượng đó là
bất biến về giá trị tuyệt đối (nếu bỏ qua hiện tượng thu-phát bức xạ!) trong suốt quá trình tồn tại của tảng đá. Giả sử
rằng tảng đá đứng yên tuyệt đối trong Vũ Trụ (nghĩa là vận tốc di dời của nó
bằng 0 so với “điểm”
- “vị trí” của hạt KG
thông thường, mà theo hình dung của chúng ta là hạt KG thông thường đứng yên
một cách tuyệt đối trong vĩnh hằng!), lúc đó, cũng một cách tuyệt đối, năng
lượng nội tại của nó bằng năng lượng toàn phần của nó. Khi tảng đá di dời với
vận tốc w trước một hệ quan sát đặt tại điểm
nào đó (nghĩa là hệ
quan sát đứng yên tuyệt đối), thì năng lượng toàn phần của tảng đá cũng phải
tuyệt đối chuyển hóa một cách thực sự thành hai thành phần nội năng và động
năng, và:
MC2=MoC2+Mw2
là một biểu
diễn tuyệt đối.
Nhưng trong
hiện thực của chúng ta, không thể xác định được một hệ quan sát có đứng yên
tuyệt đối hay không, cho nên nếu nó đứng yên thì sự đứng yên ấy là “không chắc
chắn”, do đó, chỉ mang tính tương đối (và thậm chí là theo qui ước). Nếu tảng
đá chuyển động với vận tốc V so với hệ quan sát
đứng yên tương đối thì năng lượng toàn phần của nó sẽ phải chuyển hóa theo quan
điểm đánh giá của hệ quan sát ấy, và vì thế mà biểu diễn:
MC2=MoC2+MV2
cũng mang tính
“phập phù”, có thể là tuyệt đối, có thể là tương đối thuần túy (do trình độ kỹ
thuật, trình độ hiểu biết… gây ra) của quan sát thì tính chủ quan của nó vẫn
còn và đây là tính chủ quan có nguồn gốc khách quan, không thể loại bỏ được. Vì
hiện thực là phản ánh thực tại khách quan trước quan sát nên nó cũng mang tính
khách quan. Nhưng do quan sát có tính đặc thù chủ quan nên hiện thực đồng thời
còn nhuộm màu chủ quan. Do đó, nếu thực tại là một khách quan tuyệt đối thì có
thể nói: hiện thực là một khách quan tương đối. Có thể nói khách quan tương đối
là khách quan tuyệt đối thể hiện qua lăng kính đặc thù của quan sát và tư duy
nhận thức.
Thời cổ đại, do
chưa nhận biết được tính tương đối của hiện thực khách quan cũng như tin chắc
vào quan sát trực giác mà con người cho rằng Trái Đất đứng yên còn tất cả thiên
thể trong Vũ Trụ vận động quanh nó. Thuyết Địa tâm của Ptôlêmê là sự đúc kết
quan sát bầu trời của một thời đại trên quan niệm ấy.
Trong một thời
gian rất dài, đến hơn 1000 năm, thuyết địa tâm của Ptôlêmê đã ngự trị trong
niềm tin con người như là một chân lý không còn bàn cãi và bất di bất dịch.
Phải đợi đến khi châu Âu vượt qua Đêm trường trung cổ, bước vào thời kỳ Phục
Hưng, mới xuất hiện những ý kiến (không công khai) nghi ngờ thuyết địa tâm đó.
Vào thế kỷ XIV, Orexem, một giám mục người Pháp, đã cho rằng, mọi chuyển động
đều có thể được nhìn nhận một cách tương đối. Đó là một phát kiến cực kỳ quí
báu và mang tính cách mạng vào thời điểm ấy. Phát kiến của Orexem không thể
không tác động đến Côpecnic, khích lệ ông, trên cơ sở các kết quả đo đạc thiên
văn thu thập được từ trước cho đến lúc đó, đề ra thuyết Nhật tâm, cho rằng Mặt
Trời mới đứng yên, còn các thiên thể, trong đó có Trái Đất, thì quay quanh nó.
Ngày nay, ai
cũng thừa nhận Mặt Trời đứng yên còn Trái Đất quay quanh Mặt Trời. Nhưng ít
người để ý rằng nói như thế là đã có một thỏa thuận ngầm (một qui ước ngầm) và
chỉ đúng trong một phạm vi nhất định. Câu nói đó chỉ đúng trong phạm vi hiện
thực là Thái Dương Hệ. Nếu mở rộng hiện thực khảo sát ra đến phạm vi dải Ngân
Hà thì nhận định Mặt Trời đứng yên là sai, vì hoạt cảnh của Thái Dương Hệ trong
mối tương quan với tâm Ngân Hà đã hiện lên rất khác biệt. Hiện tượng đó chính
là do bị chi phối bởi tính khách quan tương đối của hiện thực và tính khách
quan tương đối của hiện thực cũng là một sự thực khách quan không thể bác bỏ
được. Tuy nhiên, không phải vì sự chi phối đó mà con người không thể nhận thức
được sự vận động vật chất trong hiện thực của mình. Một khi đã biểu diễn toán
học một cách chính xác vận động của Thái Dương Hệ cũng như của từng thiên thể
của nó đối với tâm Ngân Hà thì dễ dàng rút ra được hoạt cảnh trong Thái Dương
Hệ khi hạn chế phạm vi hiện thực khảo cứu là chính bản thân Thái Dương Hệ.
Tính tương đối
của chuyển động là có thực, trạng thái và quĩ đạo của một chuyển động có thể
được thấy khác nhau trong những phạm vi hiện thực khác nhau. Hơn nữa, trong
cùng một phạm vi hiện thực, có thể qui ước một cách tùy tiện đâu là đứng yên,
đâu là chuyển động. Làm được như thế là vì trong hiện thực, con người không thể
xác định dứt khoát được giữa hai mặt tuyệt đối và tương đối của chuyển động,
nhưng sâu xa hơn nữa là nhờ đặc tính tương phản đối ứng (trong đó có đối xứng,
thuận nghịch…) của Tự Nhiên. Chính vì vậy mà thuyết địa tâm trong nghiên cứu
thiên văn, thuyết Phlôgistôn trong nghiên cứu hóa học mới có thể xuất hiện và
ngự trị trong khoa học một thời gian dài được.
Dễ thấy sự qui
ước là con dao hai lưỡi, có thể làm sáng tỏ hiện thực hơn nhưng cũng có thể gây
ngộ nhận, làm hiểu sai hiện thực. Một qui ước đúng đắn, trước hết và trên hết,
bao giờ cũng phải phù hợp thực sự với hiện thực khách quan. Trong phạm vi Thái
Dương Hệ mà qui ước Trái Đất đứng yên còn Mặt Trời quay quanh Trái Đất thì đó
là qui ước lầm lạc, phi hiện thực và trước sau gì cũng bị đào thải trên con
đường nhận thức khoa học. Đây cũng chính là sự bộc lộ ra tính khách quan của
qui ước.
Trong hiện
thực, chuyển động và đứng yên không chỉ bộc lộ ra tính tương đối mà đồng thời
còn bộc lộ ra tính tuyệt đối của chúng. Dù nói chung, hiện thực của con người
là vô cùng rộng lớn, nhưng vì những lý do như đã trình bày, luôn phải qui ước
(hay coi như ngầm thỏa thuận) phạm vi, qui mô hiện thực khi khoa học nói chung
và vật lý học nói riêng muốn nghiên cứu hiệu quả các hiện tượng xảy ra trong
đó. Chẳng hạn, khi con người nghiên cứu sự chuyển động của các hành tinh xung
quanh Mặt Trời và xác định được quĩ đạo của chúng có dạng đường elíp, thì coi
như (dù vô ý thức) đã qui ước phạm vi hiện thực là Thái Dương Hệ, coi Thái
Dương Hệ là một hiện thực độc lập, không có mối quan hệ nào đối với bên ngoài
nó. Đó là một qui ước ngầm, qui ước mà như không qui ước, thậm chí là hoàn toàn
vô tình, nhưng chính vì thế mà nó hợp lý và những kết quả nghiên cứu rút ra
được một cách phi mâu thuẫn nội tại đều phù hợp thực sự với hiện thực khách
quan. Tuy nhiên, khi nghiên cứu chuyển động của các hành tinh ấy trong dải Ngân
Hà thì mặc nhiên phải mở rộng phạm vi hiện thực của nghiên cứu khoa học ra qui
mô rộng lớn bằng dải Ngân Hà. Rõ ràng là trong hiện thực ấy, vì Mặt Trời chuyển
động quay quanh tâm Ngân Hà nên dù các hành tinh của Thái Dương Hệ vẫn quay
quanh Mặt Trời thì quĩ đạo của chúng không còn dạng đường elíp nữa. Do đó, cùng
diễn tả chuyển động của các hành tinh trong Thái Dương Hệ thì ở những phạm vi
hiện thực khác nhau, sẽ phải có những biểu diễn toán học khác nhau. Dù sao, vì
cùng diễn tả về một thực tại khách quan duy nhất, cũng như sự chuyển biến biểu
diễn toán học về chuyển động của các hành tinh từ phạm vi hiện thực này sang
phạm vi hiện thực khác là có tính chủ quan, hình thức và đồng điệu nên có thể
chuyển động chúng một cách tương ứng thành nhau. Đó cũng chính là một trong
những bộc lộ về tính
tương đối của chuyển động và đứng yên.
Hoàn toàn có
thể qui ước phạm vi hiện thực là Thái Dương Hệ để nghiên cứu những hiện tượng
chuyển động xảy ra trên Trái Đất. Trong hiện thực ấy, rõ ràng chỉ có Mặt Trời
là đứng yên, còn tất cả các hành tinh của nó đều chuyển động. Do đó, một cách
hợp lý, đương nhiên phải chọn (tâm) Mặt Trời làm mốc so sánh, nghĩa là làm gốc
tọa độ qui chiếu.
Làm như thế quả
là ngược đời, “đường quang không đi, lại đâm quàng bụi rậm”! Về mặt thực tiễn
và ứng dụng thì đó là hành động ngô nghê, phi lý. Khi Trái Đất quay quanh Mặt
Trời thì tất cả những gì thuộc về nó cũng quay quanh Mặt Trời như thế (ở đây,
chúng ta bỏ qua sự tự quay của Trái Đất) cho nên hoàn toàn có loại bỏ, không
cần chú ý đến chuyển động ấy trong việc xác định trạng thái chuyển động của một
vật nào đó trên mặt đất cũng thỏa mãn yêu cầu ứng dụng thực tiễn. Sau đó nếu có
“nhà thông thái rỗi hơi” nào muốn qui chiếu biểu diễn chuyển động của vật ấy về
gốc tọa độ Mặt Trời thì chỉ việc “thêm” vào biểu diễn ấy những thông số chuyển
động của Trái Đất quanh Mặt Trời là… xong ngay một công trình không đến nỗi vô
tích sự, vì ít ra cũng chọc được cho thiên hạ cười một mẻ lộn ruột.
Như vậy, dù vô
tình hay hữu ý, dù qui ước hay không qui ước, mặc nhiên tồn tại một phạm vi
hiện thực nhất định đối với những khảo sát chuyển động của vạn vật (động học,
động lực học) ở một mức độ tổng quát nào đó mà những kết quả toán học thiết lập
được, nếu vượt ra khỏi phạm vi đó sẽ không còn nghiệm đúng nữa. Điều đó cho
thấy một qui ước hợp lý (phù hợp với hiện thực), dù là chủ quan thì đồng thời
cũng mang tính khách quan. Chẳng hạn, khi xác định chiếc xe tải chở tảng đá
chạy với vận tốc v, thì có nghĩa chúng ta đã mặc nhiên thừa nhận phạm vi hiện
thực là môi trường ở bề mặt Trái Đất và vận tốc ấy là so với (cột) mốc đứng yên
nào đó trên mặt đất. Nếu lúc đó chúng ta cố tình qui ước phạm vi hiện thực là
Thái Dương Hệ thì rõ ràng cái qui ước ấy hoàn toàn chủ quan, khiên cưỡng và do
đó mà cũng thiếu tính khách quan. Có lẽ chính vì điều đó mà xưa kia, trong niềm
tin mù quáng vào cảm nhận trực giác, loài người đã cho rằng Trái Đất đứng yên
trong Vũ Trụ để rồi làm xuất hiện thuyết Địa Tâm của Ptôlêmê.
Nhưng trên cơ
sở nào xác định tương đối được phạm vi hiện thực đối với một khảo sát chuyển
động nào đó? Chúng ta cho rằng, trên cơ sở về mối quan hệ giữa chuyển động di
dời và sự đứng yên. Khi chúng ta ở trong một toa tàu hỏa chuyển động đều và
khảo sát chuyển động của một vật nào đó thì mặc nhiên chúng ta đã “gói gọn”
phạm vi hiện thực của khảo sát ấy là không gian bên trong toa tàu và không gian
ấy là đứng yên. Vì sàn, vách, trần của toa tàu xác định không gian của nó nên
chúng cũng đứng yên và có thể chọn bất cứ điểm nào cố định trên đó làm mốc đứng
yên để khảo sát chuyển động. Nói rộng ra, nếu chọn môi trường Trái Đất là phạm
vi hiện thực để khảo sát chuyển động trên mặt đất thì mặt đất sẽ là mặt đứng
yên. Nếu chọn phạm vi hiện thực là Thái Dương Hệ thì không gian thuộc Thái
Dương Hệ là đứng yên, và vì Mặt Trời được “gắn cố định” trong không gian ấy nên
nó được coi là cột mốc đứng yên để khảo sát chuyển động của các hành tinh trong
Hệ. Qua đó, có thể rút ra kết luận: Xét về mặt khảo sát chuyển động, bao giờ
cũng xác định tương đối được một phạm vi (qui mô) hiện thực được cho là đứng
yên tuyệt đối với mọi chuyển động trong hiện thực ấy. Do đó, trong hiện thực ấy
bao giờ cũng có ít nhất là một điểm đứng yên tuyệt đối của nó (tương tự như
điểm bất động trong toán học) để dựa vào đó mà khảo sát mọi chuyển động trong
đó. Khi điểm mốc dựa vào đó để khảo sát mọi chuyển động là điểm đứng yên tuyệt
đối trong phạm vi hiện thực thì tất cả mọi chuyển động trong hiện thực ấy cũng
mang tính tuyệt đối (đối với phạm vi hiện thực ấy). Đó chính là một trong những
biểu hiện về tính tuyệt đối của sự chuyển động và đứng yên. Trong phạm vi hiện
thực là môi trường Trái Đất, không thể phủ nhận sự đứng yên tuyệt đối của mặt
đất và những gì gắn cố định vào nó cũng như không thể phủ nhận tính tuyệt đối
của những chuyển động trên mặt đất, so với mặt đất. Có thể qui ước một vật
chuyển động nào đó là đứng yên để khảo sát sự chuyển động của những vật khác,
song đó chỉ mang tính chủ quan, khiên cưỡng, tạm thời và siêu hình vì không phù
hợp với hiện thực khách quan. Có thể qui ước một trái núi chuyển động và một
con ngựa đang phi là đứng yên so với trái núi. Nhưng qui ước như thế là hoàn
toàn phi lý, không tương thích, không phản ánh đúng, thậm chí là phản ánh trái
ngược với hiện thực khách quan…
Qua sự trình
bày có phần lê thê, thiếu mạch lạc ở trên chúng ta rút ra nhận xét nhỏ này: khi
nói chiếc xe tải chở tảng đá có khối lượng M với vận tốc v, thì coi như chúng ta đã qui ước ngầm rằng vận tốc ấy được
xác định trong một hệ tọa độ nào đó có gốc tọa độ cố định trên mặt đất và vì
gốc tọa độ ấy đứng yên tuyệt đối trong phạm vi hiện thực ở Trái Đất nên giá trị
vận tốc v cũng là giá trị tuyệt
đối trong hiện thực ấy. Nghĩa là chuyển động với vận tốc v là một hiện tượng
khách quan “chắc như đinh đóng cột” và:
Mc2=Moc2+Mv2
là biểu diễn
toán học về sự chuyển hóa năng lượng toàn phần của tảng đá, xảy ra thực sự
trong hiện tượng khách quan. Nếu ai đó trên chiếc xe tải cho rằng tảng đá đứng
yên thì phải hiểu ngầm là tảng đá chỉ đứng yên so với người đó thôi chứ thực
ra, một cách khách quan, tảng đá (và cả người đó) vẫn đang bị di dời bởi chiếc
xe tải có vận tốc v. (Nếu biết vận tốc tuyệt đối w trong thực tại khách
quan thì chắc chắn sẽ qui đổi được vận tốc tuyệt đối v trong hiện thực khách
quan về vận tốc ấy, nghĩa là có thể chuyển biến biểu diễn năng lượng toàn phần
của một vật chuyển động trong hiện thực khách quan thành biểu diễn năng lượng
toàn phần của vật đó trong thực tại khách quan).
Năng lượng toàn
phần của tảng đá có khối lượng M được xác định là Mc2. Lượng năng lượng đó là bất biến trong thực tại khách quan
và trong bất cứ một hiện thực khách quan nào, một khi khối lượng của tảng đá
chưa bị biến đổi.
Giả sử rằng quãng
đường thẳng và thời gian vận chuyển tảng đá của chiếc xe tải lần lượt là x và t thì theo quan niệm của
vật lý cổ điển, chiếc xe tải cần phải tiêu tốn một “công sức” (thực ra là một
xung lực):
Có thể hiểu
biểu diễn đó theo hai hướng:
- Trong môi
trường không có ma sát, chiếc xe tải sẽ phải vận chuyển tảng đá với vận tốc
nhanh dần đều bởi tác động của một lực:
với
là gia tốc của chuyển
động.
- Trong môi
trường có ma sát, để đảm bảo chiếc xe tải chuyển động thẳng đều với vận tốc v trên quãng đường x, cần phải duy trì một lực tác động đến nó để cân bằng với
lực ma sát, trong suốt thời gian t.
Rõ ràng, cách
hiểu thứ nhất “ám chỉ” chiếc xe tải chuyển động trong môi trường không có lực
cản (ngoài trường lực) và cách hiểu thứ hai ám chỉ nó chuyển động trong môi
trường có lực cản (trong trường lực). Nhưng dù chiếc xe tải chuyển động ngoài
hay trong trường lực (cản) thì để duy trì lực F trên suốt quãng đường
(hay trong suốt thời
gian t), phải hình dung rằng lực F cũng có vận tốc cùng
phương chiều với vận tốc v và có giá trị (ít ra)
là bằng vận tốc v. Nghĩa là biểu diễn hiện tượng theo xung lực - động lượng là
chưa hoàn chỉnh và hoàn chỉnh hơn phải là biểu diễn sau:
F.v.t=M.v2
Hay: 
Và từ đó, vật
lý cổ điển đưa ra khái niệm “công” (thành phần
ở vế trái của biểu
diễn) và khái niệm động năng (thành phần m.v2 ở vế phải của biểu
diễn).
Có thể phát
biểu: muốn vận chuyển tảng đá có khối lượng M qua quãng đường dài x trong khoảng thời gian t (hay muốn “tạo ra” một
động năng M.v2 (cũng có thể hiểu “tạo
ra” một động lượng M.v chuyển động với vận
tốc v)), chiếc xe tải phải bỏ ra một công (chưa tính công bỏ ra để
tự vận chuyển bản thân nó) chí ít cũng phải bằng:
Trong thực tiễn
ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào đời sống lao động - sản xuất, trước yêu cầu
xác định số công cần thiết (hay lượng công sức phải tiêu tốn) để vận chuyển
(hay truyền đi) một lượng vật chất (được hiểu như là một khối lượng) đến đâu
đó, thì biểu diễn toán học về công ở trên đã đủ đáp ứng, thậm chí là đáp ứng
một cách mỹ mãn. Tuy nhiên thực tiễn cũng chỉ ra rằng so sánh giữa hai con ngựa
hoặc giữa con bò và con ngựa, thường vẫn xảy ra sự chênh lệch nhau về sức kéo,
nghĩa là khả năng sinh công trong cùng một khoảng thời gian là khác nhau. Kinh
nghiệm ấy dẫn đến khái niệm “công suất”. Công suất là một đại lượng vật lý về
trị số bằng công do lực sinh ra trong một đơn vị thời gian. Qua đó, trong số
hai máy có khả năng sinh công, máy nào có công suất lớn hơn thì máy đó được
đánh giá là mạnh hơn. Nếu ký hiệu công suất là W thì biểu diễn toán học
nhằm xác định nó là:
Cơ học cổ điển
được xây dựng nên trên cơ sở những quan niệm về vật chất và sự tác động qua lại
giữa chúng được rút ra từ cảm nghiệm chủ quan nặng về trực giác và có phần ngộ
nhận. Nếu chỉ xét trong phạm vi đáp ứng cho nhu cầu nhận thức phát sinh trong
thực tiễn lao động - sản xuất thông thường, mang tính thực dụng thì cơ học cổ
điển coi như đã hoàn thành sứ mạng vẻ vang của nó.
Quá trình tiếp
tục tìm hiểu, khám phá bản chất các hiện tượng còn bí ẩn xảy ra trong hiện thực
khách quan cũng như khám phá bản chất đích thực của vật chất đã tất yếu làm cho
hiện thực khách quan vật lý dần mở rộng cả về phía Vũ Trụ vĩ mô lẫn Vũ Trụ vi
mô. Nhiều hiện tượng có vẻ thuần túy thuộc lĩnh vực cơ học không những không
thể giải thích được bằng cơ học cổ điển mà còn làm bộc lộ ra những mâu thuẫn
gay gắt, không khắc phục được về mặt quan niệm, bộc lộ ra ngay trong các biểu
diễn toán học cơ bản nhất của nó.
Như vậy, cơ học
cổ điển không đủ khả năng giúp cho con người nhận thức rốt ráo, triệt để về
thực tại khách quan vật lý và tất yếu trong vật lý học phải nảy sinh cuộc cách
mạng về nhận thức như chúng ta đã kể, đi liền với những tên tuổi lẫy lừng như
Anhxtanh, Planck, Bo…
Bây giờ, chúng
ta thử xem xét hiện tượng chiếc xe tải vận chuyển tảng đá khối lượng M với vận tốc v theo một cách quan sát
hơi khác với truyền thống.
Chúng ta cho
rằng đại lượng biểu diễn tổng lực lượng vật chất của một vật xác đáng nhất,
triệt để nhất, tổng quát nhất, chính là năng lượng toàn phần. Vậy thì, khi
chiếc xe tải vận chuyển tảng đá khối lượng M trên một quãng đường x và trong thời gian t, diễn tả cho đầy đủ phải là: chiếc xe tải vận chuyển một
năng lượng MC2 với vận tốc v, và như thế, biểu diễn toán học không còn là Mv nữa mà phải là MC2v , hay có thể viết:
FC2t=MC2v
Nếu không chú ý
đến chiếc xe tải thì coi như tảng đá “tự thân” chuyển động ngoài “trường” lực
cản (không bị ma sát) với vận tốc tuyệt đối v trong hiện thực khách
quan. Do đó, năng lượng toàn phần của nó, trước quan sát, phải chuyển hóa, phân
định thành hai thành phần là năng lượng nội tại và động năng (Moc2 và Mv2).
Có thể nói,
chiếc xe tải vận chuyển tảng đá bằng cách chủ động tương tác cơ học với tảng
đá, làm cho tảng đá “bị” chuyển động với vận tốc v. Vì bị chuyển đổi trạng thái từ đứng yên sang chuyển động
nên năng lượng toàn phần của nó bị chuyển hóa một phần đúng bằng Mv2. Nếu thế, phải kết luận rằng, “công sức” mà chiếc xe tải bỏ
ra vận chuyển tảng đá với vận tốc v cũng chính là “công
sức” làm chuyển hóa một phần năng lượng toàn phần của tảng đá thành động năng Mv2 của nó và dạng năng
lượng này là có thực, có thể quan sát thấy, có thể xác định chắc chắn được
trong hiện thực khách quan. Hay nói nôm na: đó là lượng công sức làm cho trọng
tâm của tảng đá (và do đó mà cả tảng đá) “bị” chuyển động với vận tốc v.
Để dẫn đến nhận
định trên thì trước hết chúng ta viết lại các biểu diễn:
MC2=MoC2+Mv2
Và:
Đặt: C2-v2=V2 thì có:
MC2=MV2+Mv2
Như vậy:
FC2t = (FV2+Fv2)t
= (MV2+Mv2)v = MC2v
Ở đây, MV2 là năng lượng nội tại
của tảng đá đang chuyển động với vận tốc v trong hiện thực khách
quan. Năng lượng đó chỉ “bị” chiếc xe tải “bớt
đi” chút ít để làm thể hiện ra trong hiện thực khách quan lượng động năng của
tảng đá mà thôi chứ ngoài ra không còn “thấy” bất cứ một biến đổi nào khác nữa.
Hay nói khác đi, vận động nội tại của tảng đá đang chuyển động, không chịu bất cứ
một tương tác nào với chiếc xe tải, và hơn nữa, nó luôn ở trạng thái cân bằng
động. Vì V2 là ảo, có thể tính
toán ra được chứ không thể “thấy” trong hiện thực khách quan, ngoài ra nó còn
là một đại lượng vô hướng, cho nên năng lượng nội tại MV2 cũng mang tính ảo,
không hiện hữu hoặc có thể cho là hiện hữu một cách tĩnh tại tuyệt đối trong
hiện thực khách quan ấy (tồn tại mà không hiện hữu!). Vậy trong hiện thực khách
quan thông thườn (ở tầng nấc vĩ mô) V2 phải bằng 0 và có thể
rút ra từ biểu diễn vừa nêu ở trên:
Fv2t=Mv2v
Suy ra: Fx=Mv2
(Về mặt nhận
thức, phải thấy
. Tuy nhiên, vì FV2t=MV2v, nên vẫn suy ra được biểu thức tính công của cơ học cổ
điển!)
Đến đây, có thể
hiểu vì sao biểu thức tính công hay công suất là chính xác và đắc dụng cho hoạt
động khoa học - kỹ thuật trong hiện thực khách quan thông thường của con người.
Tuy nhiên, càng tìm hiểu sâu về phía Vũ Trụ vi mô, nghĩa là càng mở rộng phạm
vi hiện thực khách quan vật lý theo chiều sâu, thì những biểu diễn toán học của
cơ học cổ điển, trong đó có biểu diễn công và công suất, cũng dần trở nên bất
cập, thiếu chính xác, thậm chí là không ứng dụng được.
Theo cơ học cổ
điển định nghĩa, năng lượng là số đo mức độ vận động của vật chất. Từ định
nghĩa đó mà đi đến quan niệm: một hệ vật chất có năng lượng thì nó sẽ có khả
năng sinh công. Điều quan trọng là thực nghiệm cũng như hoạt động thực tiễn chỉ
ra rằng, độ biến thiên năng lượng của một hệ vật chất bằng công mà hệ đã trao
đổi với bên ngoài.
Còn chúng ta
quan niệm: năng lượng là lượng vật chất vận động (chính xác hơn: là lượng KG
vận động). Trong thực tại khách quan, một thực thể cũng chính là một lượng vật
chất vận động hay một lượng năng lượng. Lượng năng lượng này còn được gọi là
năng lượng toàn phần của thực thể, được xác định bằng khối lượng của thực thể
nhân với bình phương giá trị vận tốc cực đại C trong Vũ Trụ. Năng lượng
toàn phần của thực thể luôn được bảo toàn một khi khối lượng của thực thể đó
không biến đổi. Tuy nhiên, trong mối tương quan về vận động giữa thực thể với
mỗi đối tác mà lượng năng lượng toàn phần của thực thể ấy phân định tương đối
thành hai phần tương phản nhau, chuyển hóa qua lại nhau. Có thể gọi hai thành
phần năng lượng ấy một cách chung nhất là “nội năng” và “ngoại năng”. Trước
quan sát và nhận thức, nội năng được cho là có các tính: chìm khuất, tiềm ẩn,
tĩnh tại, còn ngoại năng thì có các tính: nổi trội, hiện thực, hoạt động.
Trên cơ sở quan
niệm của chúng ta về năng lượng mà thấy, bất cứ vật nào cũng có khả năng sinh
công, dù thụ động hay chủ động. Trong hiện thực khách quan,, khi thấy một vật
(chủ động) sinh công, tác động đến một vật khác, thì tuân theo nguyên lý tác
dụng tương hỗ, vật bị tác động cũng đồng thời (bị động) sinh công đúng bằng
ngần ấy tác động trở lại. Tuy nhiên, không thể có bất cứ vật nào chủ động sinh
công được nếu trước đó nó không tương tác với môi trường chứa nó (gồm cả các thực
thể khác nó), vì như thế sẽ phạm vào một trong những nguyên lý cơ bản của Tự Nhiên:
nguyên lý nhân quả. Tóm lại, vật nào cũng có khả năng sinh công nhưng muốn biến
khả năng đó thành hiện thực thì đối với một vật, điều kiện tiên quyết là phải
tương tác với môi trường chứa nó.
Khi chiếc xe
tải vận chuyển tảng đá thì có nghĩa chiếc xe tải đã sinh công. Có như thế là
nhờ động cơ của nó tác động đến bánh xe. Động cơ hoạt động được là nhờ phản ứng
gây cháy (phản ứng oxy hóa khí) ở áp suất cao giữa nhiên liệu (xăng, dầu) và
khí oxy trong xilanh tác động làm chuyển động pitông đồng thời khí thải bị tống
ra môi trường. Cứ cố tình giả sử rằng tự thân chiếc xe tải làm cho động cơ
(thuộc nội tại) của nó hoạt động thì nó cũng không thể chủ động sinh công vận
chuyển tảng đá được nếu không có sự tương tác (hiện tượng ma sát) giữa các bánh
xe của nó với mặt đường (thuộc về môi trường chứa nó).
Có thể suy đoán
rằng, nguyên nhân làm cho các pitông của động cơ xe tải sinh công là sự cưỡng
bức chuyển hóa đột biến một phần tĩnh năng thành động năng nhờ phản ứng cháy
làm biến đổi vật chất (biến đổi các nguyên tử tham gia phản ứng thành các
nguyên tử khác sau phản ứng). Nhưng nguyên nhân cơ bản và sâu xa nhất là sự
giải phóng có tính bùng phát bức xạ KG ẩn chứa tiềm năng trong các chất tham
gia phản ứng của các thực thể vi mô tương tác, chuyển hóa lẫn nhau để tự phân
hủy và tái tạo thành các chất mới. Chính sự vận động của lực lượng bức xạ này
đã làm cho nhiệt độ và áp suất, trong xilanh tăng vọt, tạo điều kiện chuyển hóa
năng lượng toàn phần của pitông theo hướng từ nội năng sang động năng và sinh
công.
Khi pitông sinh
công làm cho tảng đá thể hiện ra một động năng Mv2 thì đồng thời tảng đá
cũng tác động lại pitông làm xuất hiện quá trình chuyển hóa năng lượng ngược
lại trong xilanh: theo hướng từ động năng sang tĩnh năng. Nếu không có sự xả
thải sản phẩm cháy ra môi trường và sự cung cấp nhiên liệu mới (nghĩa là khối
lượng vật chất trong xilanh không bị biến đổi) thì năng lượng toàn phần trong
đó bất biến về lượng. Tình hình đó rõ ràng làm mất (dần?) khả năng sinh công
nhằm vận chuyển tảng đá (cũng như vận chuyển bản thân xe tải) của động cơ xe
tải. Muốn duy trì sự vận chuyển xe tải, động cơ phải lặp lại quá trình ban đầu,
nghĩa là phải loại bỏ chất thải trong xilanh, nạp nhiên liệu mới và tạo phản
ứng cháy trong điều kiện áp suất cao…
Nếu ngay khi sự
nổ, do phản ứng cháy trong điều kiện áp suất cao xảy ra, pitông bị cố định
chặt, không hoạt động được, thì vận động vật chất trong lòng xilanh rõ ràng là
cũng không sinh công được, nghĩa là “cái gì của Xêda phải trả lại cho Xêda”.
Nói chặt chẽ hơn, nếu giả sử rằng vách ngăn môi trường nội tại xilanh với môi
trường bên ngoài cách ly hoàn toàn hai môi trường ấy, thì vận động vật chất
trong lòng xilanh không thể sinh công tác động đến bất cứ vật nào thuộc môi
trường bên ngoài. Lúc đó nội tại xilanh không khác một hệ nhiệt động bị cô lập
và do đó sớm muộn gì cũng phải đạt đến trạng thái cân bằng (bền) nhiệt động.
Giả sử tiếp
rằng, ngay sau vụ nổ, tất cả các thực thể trong lòng xilanh đều tồn tại dưới
dạng bức xạ điện từ và lòng xilanh là một hốc cầu thì lúc này “trước mắt” chúng
ta đích thị là hệ Ho cô lập, chứa toàn bức
xạ và ở trạng thái cân bằng nhiệt động - hay có thể gọi nó dưới một cái tên
quen thuộc mà cũng ngắn gọn hơn: hốc đen tuyệt đối Ho.
Đối với môi
trường bên ngoài, vận động vật chất trong hốc đen tuyệt đối Ho không thể sinh công.
Khẳng định như thế tưởng hiển nhiên nhưng thực ra là không chắc chắn. Nếu xét
theo góc độ coi mặt cách ly môi trường Kg hốc Ho với môi trường ngoài
thuộc về môi trường ngoài thì vì khi lực lượng bức xạ tác động đến nó thì nó
đồng thời cũng tác động trở lại lực lượng bức xạ, làm chuyển hóa năng lượng
toàn phần của các bức xạ tác động vào nó, nghĩa là làm cho động năng của các
bức xạ ấy đổi chiều từ hướng vào nó sang hướng ra xa nó. Mặt cách ly rõ ràng là
đã bị động sinh công liên tục cho nên lực lượng bức xạ trong hốc Ho phải đóng vai trò liên
tục chủ động sinh công, tác động đến mặt cách ly, nghĩa là sinh công đối với
môi trường bên ngoài. Vì hệ Ho là hệ cô lập và cân
bằng nhiệt động nên sự thu công và phát công của mặt cách ly cũng cân bằng.
Hiển nhiên, nếu
không tồn tại mặt cầu cách ly So thì hệ Ho cũng không thể tồn
tại. Chính mặt So đã đóng vai trò quyết
định đến sự bảo toàn năng lượng trong hệ Ho và làm cho vận động
nội tại của hệ Ho không những được cân
bằng mà còn được duy trì lâu dài, nghĩa là có tính tuần hoàn theo chu kỳ và
tính vĩnh cửu.
Vì hệ Ho cũng chính là hốc đen
tuyệt đối nên mặt cầu cách ly So cũng được coi là mặt
thu - phát đồng thời năng lượng bức xạ trong nội tại hệ Ho và sự thu - phát đó là
cân bằng.
Như chúng ta đã
hình dung, trong hốc đen tuyệt đối Ho, nếu mặt cầu So được coi là một mặt
thực thu phát (ảo) năng lượng bức xạ một cách cân bằng thì mặt cầu ảo SA đồng tâm với nó và
cách nó một khoảng h, cũng được coi là mặt thu phát (thực) năng lượng bức xạ một
cách cân bằng. Có thể cho đó là đặc tính cơ bản nhất của hốc đen tuyệt đối dạng
cầu, và nếu đúng thế thì tất cả các mặt ảo đồng tâm với So đều là mặt thu phát
cân bằng năng lượng bức xạ.
Cần phải có một
biểu diễn toán học tổng quát cho các nhận định nêu trên và chúng ta cho rằng có
thể xây dựng biểu diễn đó trên cơ sở biểu diễn mà chúng ta đã xác lập:
Với: p là tiềm áp suất trên
mặt cầu ảo bất kỳ S (mặt này đồng tâm với
mặt cầu So)
N là số bức xạ có trong
phần thể tích V (phần thể tích này
được giới hạn bởi mặt ảo S)
m là khối lượng bức xạ
được xác định tại mặt S
c là vận tốc di dời cực
đại tuyệt đối trong Vũ Trụ
h là hằng số Planck
K là hằng số bônzman
T là nhiệt độ tuyệt đối
trong hốc Ho.
Vì phát và thu
năng lượng bức xạ tại mặt S là hai quá trình tương
phản nhau, bằng nhau về lực lượng nhưng ngược chiều nhau, nên chỉ cần xét đến
một quá trình. Chúng ta xét quá trình phát năng lượng bức xạ. Nếu coi khối cầu
có mặt bao ngoài S là một hệ thu - phát
bức xạ thì hướng phát của nó là có chiều từ tâm ra và vuông góc với mặt S (hướng kính).
Có thể thấy
hiện tượng vận chuyển tảng đá của chiếc xe tải và hiện tượng phát bức xạ của
mặt cầu S là hoàn toàn tương tự
nhau về mặt di dời năng lượng trong không gian. Trong biểu diễn vừa nêu lại ở
trên, chúng ta thấy vế trái là tiềm áp suất p. Tiềm áp suất p là một đại lượng ảo,
được xác định bằng tổng (tiềm) lực chia cho diện tích (ảo) của mặt S, nghĩa là bằng một (tiềm) lực do bức xạ gây ra, tác động lên
một đơn vị diện tích (ảo) của mặt S. Đương nhiên, sự tác động đó cũng chỉ là một quá trình ảo
(phi thực).
Tương phản của
ảo là thực. Cho nên có thể biến đổi một quá trình ảo thành quá trình thực tương
phản với nó. Tiềm lực là một đại lượng mang tính ảo (dù là trong thế giới vật
lý). Công hay công suất được thiết lập trên cơ sở tiềm lực và được biểu diễn
với sự có mặt của đại lượng tiềm lực, cũng mang tính ảo (chưa thực). Như vậy,
tương tự như trong cơ học cổ điển, nếu chúng ta nhân hai vế của biểu diễn tiềm
áp lực ở trên với tích của hai đại lượng: diện tích mặt cầu ảo S, và tốc độ lan truyền qua mặt S của các bức xạ (giả sử
là v), thì sẽ có được biểu diễn công suất phát bức xạ (ảo) của
mặt cầu ảo S. Gọi công suất phát bức xạ (ảo) qua mặt S là
, chúng ta có:
Nếu chúng ta
chia trở lại các vế của biểu diễn đó cho diện tích mặt ảo S, thì theo định nghĩa của nhiệt học, sẽ có được biểu diễn
năng suất bức xạ toàn phần của mặt S tại nhiệt độ T, ký hiệu là ET:
Đến đây chúng
ta đưa ra hai nhận xét:
- Vì trong chân
không vận tốc lan truyền của bức xạ điện từ (mà chúng ta gọi là bức xạ KG) luôn
bằng C, nên phải cho rằng vận tốc giả định v trong biểu diễn chính
là C. Mặt khác, vì trong hốc Ho mật độ năng lượng lớn
hơn so với mật độ năng lượng trong chân không (được qui ước bằng 0), nên tất
yếu quãng đường mà bức xạ di dời trong đó sau một đơn vị thời gian, theo đánh
giá của hệ quan sát trong chân không (bên ngoài hốc Ho) phải ngắn hơn quãng đường đạt được trong chân không sau
cũng một đơn vị thời gian đó. Như vậy, phải thêm vào vế cuối của biểu diễn trên
một hệ số nhân có giá trị đúng bằng:
với
là số chỉ mức năng
lượng trong hốc Ho so với chân không
- Vì vận động
của bức xạ trong hốc Ho (cô lập và cân bằng
nhiệt động) là ổn định và được duy trì một cách điều hòa, cho nên trong trường
hợp lý tưởng vận động ấy phải tuân theo một cách nghiêm ngặt qui luật có biểu
diễn toán học ở trên. Như vậy, quá trình lan truyền và chuyển hóa của mọi bức
xạ giữa nội năng và động năng của chúng cũng phải tuân thủ theo một qui định
chung. Hơn nữa, đi kèm với quá trình lan truyền (theo hướng kính) và chuyển hóa
năng lượng đó là quá trình biến đổi từ bức xạ có tần số này thành bức xạ có tần
số khác. Chúng ta cho rằng, để phù hợp với biểu diễn toán học ở trên thì tần số
bức xạ trong hốc Ho tăng dần một cách đều
đặn theo hướng kính từ ngoài đến tâm và ngược lại, trong một khoảng tần số
và khoảng tần số này
được xác định tùy thuộc vào trạng thái nhiệt động của mỗi hốc đen tuyệt đối (đây phải chăng là hiện tượng đã xảy ra trong Vũ Trụ dưới tên gọi "sự dịch về phía đỏ của tần số" mà loài người đã ngộ nhận, dẩn đến quan niệm Vũ Trụ giãn nở - học thuyết Big Bang?!).
Điều đó dẫn đến suy lý: trên mỗi mặt cầu ảo chỉ tồn tại duy nhất một loại bức
xạ có tần số xác định và là đặc trưng cho mặt cầu ảo ấy. Như vậy, năng suất bức
xạ toàn phần tại một mặt cầu ảo nào đó trong hốc Ho cũng chính là năng
suất bức xạ riêng phần của nó, hay, đối với mặt S:
Từ hai nhận xét
đó, chúng ta viết ra biểu diễn:
Chúng ta phân
vế phải của biểu diễn thành hai phần:
Và biến đổi lần
lượt hai thành phần ấy:
+ Biến đổi thành
phần
:
Có thể xác định
thể tích V theo đường kính biểu
kiến của một bức xạ (khi nó định xứ):
với n' là một hệ số (dương)
Và:
với t là đơn vị thời gian
qui ước của hệ quan sát đặt trong chân không, bên ngoài hốc Ho.
Từ đó:
Vì
với t' là đơn vị thời gian
“riêng” của nội tại bức xạ, được xác định trong hệ Ho. (Giữa t và t' có mối quan hệ:
). Ngoài ra cũng vì
:
Nên:
+ Xét thành
phần
:
Có thể hình
dung: C2 là số chỉ tổng năng
lượng toàn phần có trong hốc Ho,
là số chỉ tổng năng
lượng nội tại của bức xạ “hiện diện” ở mặt cầu ảo S. Hay phát biểu đơn giản hơn, đó là tỷ số giữa mức năng lượng
tại mặt ảo S và mức năng lượng cực
đại có thể có trong hốc Ho. Suy đoán thêm rằng, tỷ số về mức năng lượng đó có mối quan
hệ khăng khít với các đại lượng khác trong việc thể hiện quá trình vận động nội
tại một cách cân bằng và điều hòa của hốc đen tuyệt đối Ho. Một trong những mối quan hệ đó là:
Có thể thay chỉ
số C2 bằng Eo. Biết rằng thành phần tử số ở vế trái cũng như vế phải có
giá trị rất nhỏ so với thành phần đóng vai trò mẫu số của chúng, nên có thể viết
chúng dưới dạng vi phân của mẫu số:
Sau khi lấy dấu
tích phân sẽ có:
Vậy:
Để đến được với
công thức Planck, không còn cách nào khác, chúng ta phải “hạ quyết tâm” rằng:
Cuối cùng rồi
cũng phải đến hồi kết. Trong dân gian Việt Nam có câu: “Có thờ có thiêng, có
kiêng có lành”. Hiểu đại khái: dù chưa biết chắc sự hiển linh có thật hay không
thì cứ thờ, cứ kiêng, chẳng mất gì mà may ra còn được thọ nhận. Từa tựa như vậy
còn có thành ngữ: “Cầu được, ước thấy”. Nghĩa là hãy bền lòng nuôi hy vọng, hay
kiên tâm mà cầu ước, rồi thì cũng ra đạt được điều mong muốn, và lúc đó sẽ phải
tin vào sự hiển linh, vào điều mà M. Planck khẳng định: "“Một chân lý mới của khoa học thường thắng
lợi không phải bằng cách những kẻ chống đối nó sẽ được thuyết phục và tuyên bố
mình được dạy dỗ, mà đúng hơn bằng cách những kẻ chống đối dần dần chết hết và
thế hệ mới ngay từ đầu được làm quen với nó”.
Đối với riêng
chúng ta, không còn gì phải bàn cãi: hiện tượng hiển linh là có thật, bởi vì
trong suốt cuộc hành trình dài dằng dặc cho đến đây của mình, có nhiều lúc gặp
phải những vấn đề cam go, thực sự nan giải, thậm chí đã tưởng hoàn toàn bế tắc,
thì đâu đó từ phía không thể ngờ nổi, vọng về những thì thầm mách bảo kỳ diệu,
đóng vai trò vạch đường chỉ lối cho chúng ta tiếp tục tiến lên.
Và lần này nữa,
đặt cược niềm tin vào quan niệm về bản chất nhiệt và nhiệt độ của mình, chúng
ta đã cố công mở ra con đường xuất phát từ phương trình trạng thái khí lý tưởng
kết hợp với phương trình cơ bản của thuyết động học phân tử để đến với công
thức Planck. Dù con đường ấy là kết quả đẫm màu suy lý thiên vị, chủ quan “duy
ý chí” nên cũng không ít thô kệch, khiên cưỡng, thì chúng ta vẫn cho rằng con
đường ấy đồng thời cũng là kết quả của một sự mách bảo tâm linh. Nghĩa là dù
con đường ấy có phù phiếm và nực cười đến mấy thì vẫn hàm chứa chân lý. Ai chế
nhạo mặc lòng, chúng ta cứ “tạc” ra đây điều mà chúng ta tâm huyết, và vật lý tương lai sẽ chứng thực:
Từ:
Mời xem:
Nhận xét
Đăng nhận xét