.
. Nhà Hậu Lê gồm có 2 giai đoạn:
.
Đặc biệt, thời Lê Trung Hưng tuy kéo dài nhưng các Hoàng đế nhà Lê mất
thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Thời kỳ đầu gọi là
.
đã nắm hết quyền hành. Công thần
không thần phục họ Trịnh, ly khai ở phía nam, do đó phần lớn hậu kỳ thời Lê trung hưng, nước
.
TNĐT- Đồn Úc Kỳ thuộc xã Nhã Lộng, Phú
Bình là nơi Nguyễn Danh Phương tụ quân khởi nghĩa chống lại triều đình
phong kiến Lê-Trịnh. Cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng Đồn Úc kỳ đã trở
thành nhân chứng của một thời oanh liệt, là niềm tự hào của nguời dân
Phú Bình.
QUẬN HE NGUYỄN HỮU CẦU VỚI HỎA NGƯU TRẬN ĐỘC ĐÁO
Hỏa Ngưu Trận
Nguyễn Hữu Cầu (?–1751) xuất thân trong gia đình nông dân nghèo huyện ở
huyện Thanh Hà, Hải Dương. Ông có tài cả văn lẫn võ, lại bơi lội rất
giỏi nên còn được gọi là quận He (He là tên một loài cá biển). Khi tập
hợp nông dân khởi nghĩa chống tập đoàn Lê – Trịnh, ông đã lấy vùng Đồ
Sơn làm căn cứ từ năm 1741 – 1751. Nghĩa quân có lúc đông tới hàng vạn
người, chúa Trịnh nhiều lần cử quân đến đánh dẹp nhưng đều bị quân
Nguyễn Hữu Cầu đánh cho tan tác.
Tuy vậy, những nỗ lực của chúa Trịnh cũng đạt được thành quả nhất
định. Trong một trận đánh không không cân sức, nghĩa quân đã bị bao vây
bốn phía, gần như không còn đường thoát. Quận Trịnh tin chắc sẽ bắt được
Nguyễn Hữu Cầu nên đã bắc loa dụ hàng nghĩa quân.
Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Hữu Cầu đã huy động toàn bộ số trâu của nông
dân trong vùng để thực hiện Hỏa ngưu trận. Ông cho buộc những mũi lao
nhọn vào sừng và hai bên sườn từng con trâu. Sau đó, đuôi trâu được buộc
giẻ tẩm nhựa thông và châm lửa đốt đồng loạt.
Đàn “trâu lửa” điên cuồng vì nóng lao thẳng vào nơi tợp hợp của quân
Trịnh, húc và dẫm đạp dữ dội làm đội quân này rối loạn. Nhân đó, Nguyễn
Hữu Cầu tung quân chủ lực ra đánh khiến quân Trịnh tan vỡ…
Sách Binh Thư Yếu Lược viết về chiến thuật này như sau: “Dùng con trâu
già bỏ đi, buộc dao sắc vào sừng, hai bên mình cặp tre sát vào chân cho
không thể quay được, trên lưng đội một ống pháo sắt lớn chứa một đấu
thuốc, thuốc để quanh co ở trong pháo; pháo chứa những thuốc liệt hỏa,
thần sa, thần hỏa. Phàm khi quân giặc rất nhiều quân ta rất ít, dùng
trâu ấy xông vào người ngựa gặp phải tức thì tan nát. Khi xông vào trận
giặc thì lửa phát pháo nổ, thế như sấm động, ầm một tiếng không kịp bịt
tai. Dù khó nhọc mấy ở trong mấy trùng vây của giặc cũng phá tan được”.
HOÀNG CÔNG CHẤT VỚI CÔNG CUỘC
TIỄU TRỪ GIẶC PHẺ GIẢI PHÓNG TÂY BẮC (1751-1769)
TS. Phạm Văn Lực
Khoa Sử - Địa, Trường Đại học Tây Bắc
Abstract: The
writing mentions the chaotic situation of the Northwest in the period
of the ninth – eighteenth century and the role of Hoang Cong Chat in the
eradication of Phe Invader in order to liberate the Northwest,
contribute to the protection of the nation’s special strategic frontier.
Tóm tắt
Bài
viết đề cập đến tình hình loạn lạc của Tây Bắc trong thời kỳ từ IX đến
XVIII và vai trò của Hoàng Công Chất trong việc tiễu trừ giặc Phẻ giải
phóng Tây Bắc, góp phần bảo vệ vùng biên ải có tầm chiến lược đặc biệt
quan trọng của Tổ quốc.
1. Đặt vấn đề
Tây
Bắc một phần của lãnh thổ Việt Nam, một bộ phận của Tổ quốc Việt Nam là
địa bàn sinh sống lâu đời của trên 20 dân tộc anh em : Thái, Mông, Lự,
Hoa, Kinh, Mường, Tày, Nùng, Dao, La Ha, Khơ Mú, Kháng, Mảng, Lào, La
Hủ…
Trong
lịch sử cũng như trong giai đoạn hiện nay, Tây Băc có tầm chiến lược
quan trọng cả về kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và trong quan hệ
giao lưu quốc tế. Xuất phát từ tầm quan trọng đó nên trong lịch sử Tây
Bắc đã trở thành đối tượng nhòm ngó, xâm lược của nhiều thế lực ngoại
bang, nhất là trong các thế kỷ IX đến thể kỷ XVIII, do đó công cuộc đấu
tranh bảo vệ vùng biên ải Tây Bắc thiêng liêng của Tổ quốc được đặt ra
hết sức bức thiết. Trong phạm vi của một bài viết, tôi xin đề cập đến
vấn đề này như sau:
2. Tình hình Tây Bắc trong các thế kỷ IX-XVIII.
Từ
đầu công nguyên, ở Tây Bắc đã có nhiều dân tộc: Khơ Mú, Kháng, Mảng, La
Ha, Xinh Mun...(thuộc nhóm tiếng Nam á) và một số tụ điểm của cư dân
thuộc nhóm tiếng Tày-Thái (Thái, Lào, Lự) sinh sống. Thời đó họ sống với
nhau rất bình đẳng. Truyền thuyết quả bầu của dân tộc Thái có nói đến
“333 giống Thái, 555 giống Xá; Xá ở địa vị làm anh, Thái ở địa vị làm
em”. Đồng thời, ta cũng thấy nói giữa các nhóm dân tộc thuộc ngôn ngữ
khác nhau này, quan hệ chủ yếu là đoàn kết hữu nghị. Văn hóa Thái ảnh
hưởng đến văn hóa của các dân tộc khác và ngược lại. Cuốn sách mo của
người Lự ở vùng Mường Thanh ghi lại: “Đó là thời kỳ thanh bình, người
Lự, người Thái, người Xá ăn chung ở đụng, suốt ngày nghe tiếng cười dưới
đồng, thâu đêm nghe tiếng trai gái tỏ tình bên đồi, bên nương…Lự chài
ven sông được cá, Thái gặt lúa dưới đồng, Xá giã gạo bên sân nhà bình
bong” [2, tr.57]
Thế
nhưng, từ thế kỷ IX do sự thiên di của nhóm cư dân Tày – Thái (Lự,
Thái, Lào, San…) ở vùng Xíp xoong pănna thuộc miền nam Trung Quốc xuống
phía nam và vào vùng Tây Bắc đã tạo nên những cuộc tranh chấp đất đai
quyết liệt kéo dài giữa nhóm cư dân bản địa Nam á với các nhóm Thái vừa
mới thiên di đến. Rồi sau đó giữa các chúa Thái, chúa Lự lại xung đột
với nhau để khẳng định quyền bá chủ trong khu vực; kết quả người Lự vào
chiếm cứ cánh đồng Mường Thanh (Điện Biên) và phát triển thế lực lên đến
Lai Châu, Mường Lay, Sìn Hồ. Để chiếm cứ lâu dài và chống lại các chúa
Thái, tại Mường Thanh, chúa Lự cho xây thành Tam Vạn rộng 1/5 cánh đồng
bên trong chứa được 3 vạn cối giã gạo bằng guồng nước và 3 vạn quân nên
tiếng Thái gọi là “Sam Mứn”, còn người Thái thất thế phải theo đường
Tuần Giáo rút về chiếm cứ từ vùng Mường Muổi (Thuận Châu) trở xuống.
Trong thế kỷ XI đến thế kỷ XVII các chúa Thái ở Mường Sang (Mộc Châu)
lại lục đục với các chúa Thái ở Mường Muổi (Thuận Châu) và các chúa Thái
vùng Mường Lay (Lai Châu)… Cứ như thế vùng đất Tây Bắc cho đến thế kỷ
XVIII hầu như không lúc nào được bình yên. Các vương triều phong kiến
dưới xuôi (Triều Lý, Trần, Lê) đã nhiều lần mang quân lên đánh dẹp nhưng
do đường xá xa xôi, địa hình hiểm trở nên không mấy hiệu quả.
Tình
trạng loạn lạc ở Tây Bắc thời kỳ này, cộng với sự “nghiêng ngả” của các
chúa Lự, lúc theo Việt chống Lào, lúc lại dựa vào Lào chống Việt, nhiều
khi họ còn dung túng cho các chúa Thái bất mãn chống đối triều đình
Trung ương dưới xuôi, mưu đồ cát cứ…Thực tế đó càng làm cho tình hình
Tây Bắc thêm phức tạp “bản mường không yên vui”, dân tình đói khổ nên đã
tạo cơ hội cho các đám giặc cỏ ở Lào và miền Nam Trung Quốc tràn sang
cướp phá.
Khảng
giữa thế kỷ XVIII, gữa lúc xung đột giữa các chúa Thái, chúa Lự ngày
càng trở nên quyết liệt; triều đình phong kiến Trung ương lại suy yếu
không còn đủ sức khống chế đến vùng Tây Bắc, lũ giặc Pẻ (hay còn gọi là
Phọng, Nhuồn) - một tộc người trong nhóm cư dân Tày – Thái ở Thượng Lào
và miền Vân Nam Trung Quốc do tên tướng tự xưng là Phạ chẩu Tin Tòng
tràn sang cướp phá miền biên giới giữa nước ta với Lào, sau đó kéo vào
chiếm cứ đất Điện Biên; các chúa Lự không chống nổi phải chạy lên vùng
Mường Lự (Bình Lư), Sìn Hồ, kết thúc 19 đời chúa Lự ngự trị ở đất Mường
Thanh [2, tr.67].
Đúng
lúc giặc Pẻ đang tìm cách để kéo xuống cướp phá Sơn La, thì phìa Khuyên
muốn dựa vào chúng để tranh giành ngôi Chúa của chú ruột mình là Cầm
Tom ở Mường Muổi (Thuận Châu- Sơn La) nên y đã đưa đường cho bọn giặc
tràn xuống cướp phá Sơn La gây bao cảnh tang tóc cho bản, mường…Trước sự
cướp phá của giặc Pẻ, các chúa Thái phải cầu cứu triều đình phong kiến
dưới xuôi mang quân lên đánh dẹp và phải vất vả lắm quân triều đình mới
đuổi được chúng về Mường Thanh. Thế nhưng, tại đây giặc Pẻ lại ngày càng
trở nên hung hãn, thả sức cướp phá, gay bao tội ác với bản mường; chúng
thẳng tay tàn sát nhân dân, hãm hiếp đàn bà, con gái; man dợ hơn chúng
còn bắt tất cả trẻ em trong vùng dồn vào một cánh đồng trũng, sau đó
tháo nước vào giết hết, đến khi nước cạn cả cánh đồng phơi trắng đầu lâu
và xương người. Vì thế đồng bào Thái ở Điện Biên gọi cánh đồng này là
“Tòng Khao” nhằm ghi lại tội ác tày trời của lũ giặc Pẻ; hoặc như cánh
đồng Hong Cúm (gọi nhầm là Hồng Cúm) mang tên đó là vì xưa nhân dân chạy
giặc không kịp, vứt lại đó các “cúm” là các hòm đan bằng tre hay mây
đựng các vật báu; hoặc như khe Hong Ma Nao (tức khe chó rét) mang tên đó
vì do đồng bào quá khiếp sợ giặc Pẻ phải chạy trong đêm, quá vội vớ
nhầm chó tưởng là con địu đi, đến khe trên sờ đến địu mới biết là chó,
bèn vứt bỏ lại đó, lũ chó bị rét chết hàng loạt …[2, tr.70]
Giặc
dã đã làm cho dân chúng Mường Thanh phải phiêu dạt khắp nơi, căn thù
giặc Pẻ nhiều thủ lĩnh Thái và các dân tộc khác đã tập hợp lực lượng
đánh lại, nhưng nhiều lần đều bị thất bại…Tất cả những người chống đối
(cả gia đình, người thân của họ) đều bị chúng dùng cực hình tàn sát dã
man, như cho voi dày, tẩm dầu vào đốt đến chết, đầu lâu bị mang ra bêu
dưới chân thành Tam Vạn. Để tránh bị truy nã, một số người phải chạy
sang Mường Puồn (nay là tỉnh Sầm Nưa của Lào) và họ đã gặp nghĩa quân
của Hoàng Công Chất mới từ dưới xuôi kéo lên đang trú tại đó; tất cả đều
tự nguyện theo Ông để đi đánh giặc Pẻ giải phóng quê hương.
3. Nghĩa quân Hoàng Công Chất tiễu trừ giặc Pẻ, giải phóng Tây Bắc
Hoàng Công Chất (1706-1769),
Ông còn có tên gọi là Hoàng Công Thư, quê ở làng Đại Lan, huyện Đông
An (Đại Quan, Châu Giang, Hưng Yên), cũng có tài liệu nói rằng Ông ở Phú
Xuyên – Hà Tây, hoặc ở Vũ Thư -Thái Bình [3, tr.53]. Ông là một lãnh tụ
nông dân kiệt xuất, dựng cờ khởi nghĩa chống lại triều đình Lê -Trịnh
cứu dân nghèo vì nghĩa lớn “Bảo Quốc an dân” diệt cường hào ác bá, lấy
của giàu chia cho dân nghèo, với hoài bão xoá bỏ bất công, lập lại kỷ
cương, phục hưng đất nước thống nhất giang sơn, thái bình muôn thưở.
Từ
năm 1739, Hoàng Công Chất - người anh hùng áo nâu đã tập hợp nông dân
nghèo nổi dậy hoạt động ở vùng Sơn Nam. Nghĩa quân có sở trường về thuật
đánh du kích “Khi tan, khi hợp”. Để tăng cường lực lượng chống lại
triều đình họ Trịnh thời Lê mạt, từ năm 1739 đến 1741, Hoàng Công Chất
luôn liên kết với các lãnh tụ khởi nghĩa nông dân khác như: Vũ Đình
Dung, Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ hoạt động chiến thuyền khắp vùng hạ lưu
sông Hồng. Năm 1739, viên đốc lãnh Sơn Nam Hoàng Kim Tào tiến đánh nghĩa
quân nhiều lần không được. Năm 1740, Trịnh Doanh chia quân ra làm 3 đạo
và cử Cao Quận công Trịnh Kinh tiến đánh theo đường bộ, Trịnh quận công
Hoàng Công Kỳ và Nhạc thọ hầu Phạm Trần Công cầm đầu đánh hai cánh thuỷ
binh, tiến dọc hai bờ sông Hồng; về sau họ Trịnh lại cử Nguyễn Trọng
Cảnh thống lĩnh cả đạo quân đóng đồn ở huyện Thượng Nguyên (nay thuộc
tỉnh Nam Định) để chế ngự các mặt. Cùng năm ấy, Trịnh Doanh lại phái đốc
trán Vũ Tà Liên và Đõ Doãn Thành hợp binh đánh vào Đông An, huyện Khoái
Châu (nay thuộc tỉnh Hưng Yên) nhưng không thắng nổi nghĩa quân.
Đến
năm 1743, Trịnh Doanh sai thống lĩnh Trương Nhiêu tập trung quân đánh
vào nghĩa quân, nhưng không thành. Cuối năm 1743, Hoàng Công Chất trá
hàng, tạo thời cơ chấn chỉnh lực lượng. Trịnh Doanh bằng lòng ban quân
tước cho Hoàng Công Chất quản lĩnh một khu vực Sơn Nam nhưng với điều
kiện Chất phải giải binh và về triều yết bái. Tuy nhiên, Hoàng Công Chất
không nghe và chiếm lấy Khoái Châu, tiếp tục chống chúa Trịnh.
Hoàng
Công Chất vẫn chiếm giữ Khoái Châu suốt hai năm 1744 – 1745. Cuối năm
1745, Hoàng Công Chất cho quân tập kích bắt sống Hoàng Công Kỳ. Chiến
thắng này cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chống chúa Trịnh của nông dân Sơn Nam.
Từ năm 1746- 1748, Hoàng Công Chất phối hợp với Nguyễn Hữu Cầu (tức
quận He) hoạt động ở vùng Sơn Nam, có lần đã bao vây chiếm phủ Ngự Thiên
(tức huyện Hưng Nhân sau này, thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Đến
cuối năm 1748, sau khi tấn công vào thành Thăng Long bị thất bại,
Nguyễn Hữu Cầu về Sơn Nam hợp lực với nghĩa quân Hoàng Công Chất cùng
chiến đấu. Chúa Trịnh tập trung quân đánh vào Sơn Nam. Trước sự tấn công
mạnh mẽ của triều đình, nghĩa quân bị thất bại. Hoàng Công Chất phải
chạy vào Thanh Hoá, liên kết với Lê Duy Mật (một hoàng thân của nhà lê
bất mãn với chúa Trịnh chống lại Triều đình), còn Nguyễn Hữu Cầu thì vào
Nghệ An. Đến năm 1751, Nguyễn Hữu Cầu, Nguyễn Danh Phương bị quân triều
đình bắt được và bị tử hình, phong trào nông dân tạm lắng xuống. Cuộc
khởi nghĩa Lê Duy Mật ở vào thế khó khăn, buộc phải chuyển địa bàn lên
miền Trung du và Thượng Du. Hoàng Công Chất từ miền Thượng Du Thanh Hoá
tiến sang Mường Puồn (nay là tỉnh Sầm Nưa của Lào) và lên hoạt động ở
Tây Bắc.
Khi
vào Tây Bắc, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã phối hợp với quân của thủ
lĩnh người Thái là tướng Ngải, tướng Khanh (Cương mục có chép Chất liên
kết với thủ lĩnh Thành) đánh giặc Pẻ cứu dân, bảo vệ miền biên giới tổ
quốc.
Được
sự ủng hộ của chúa Thái và các dân tộc giúp đỡ, nghĩa quân Hoàng Công
Chất theo hai con đường từ Sông Mã tiến lên bao vây thành Tam Vạn. Trận
đánh diễn ra hết sức quyết liệt. Giặc Phẻ không sao chống cự được, cuối
cùng phải bỏ thành Tam Vạn chạy đến Pú Vằng (Khu đồi Độc Lập) hiện nay.
Đến đây, giặc Pẻ đã huy động toàn bộ lực lượng và dùng các loại vũ khí
lợi hại nhất lúc bấy giờ như: súng to châm mồi thuốc súng, bắn đạn chì
gém tầm gần, nghĩa binh của Hoàng Công Chất bị thương vong rất nhiều,
không sao tiến lên được. Trong lúc khó khăn, một số nghĩa binh của Hoàng
Công Chất là người Lự, người Lào tham mưu và hai tướng Ngải, Khanh hiến
kế cho một bộ phận người Lào, người Lự tới trước cửa thành của phạ chẩu
Tin Tòng (tướng giặc Pẻ) xin hàng, chúng tin là thật nên nhận. Đêm đến,
quân Hoàng Công Chất tiến đánh, được bộ phận trá hàng làm nội gián đánh
ra nên quân của Công Chất thắng lớn, chém được Tin Tòng. Tàn quân giặc
Pẻ phải ngược sông Nậm Nú và Nậm Rốm chạy sang Lào.
Đuổi
được giặc Pẻ, Hoàng Công Chất một mặt ra sức củng cố lực lượng, tu sửa
thành lũy để ổn định lâu dài ở Tây Bắc và chống lại triều đình phong
kiến dưới xuôi; một mặt cũng hành binh lên phía Sìn Hồ, Bình Lư quy phục
một số chúa Lự trước đây chạy trốn giặc Pẻ; đồng thời ông cũng tìm cách
mở rộng thế lực xuống tận miền Tuần Giáo, Sơn La, phía Bắc Hòa Bình và
sang đến miền “sông Thao nước đỏ”. Lúc đầu Hoàng Công Chất chọn thành
Tam Vạn làm nơi đóng đại bản doanh. Sau đó, nhận thấy thành tuy rộng
nhưng bố phòng sơ lược, không hợp với các loại vũ khí mới xuất hiện thời
kỳ này như súng thần công, súng hỏa mai… lại không hợp với việc phòng
thủ từ mặt Lào sang cũng như từ dưới xuôi đánh lên, ông đã quyết định
cho xây thành ở Chiềng Lè (nay thường gọi là thành Bản Phủ, thuộc xã
Noong Hẹt, huyện Điện biên). Thành Bản Phủ rộng 80 mẫu, có vị trí lợi
hại, dựa lưng vào sông Nậm Rốm, tiến thoái đều tiện lợi, có đường thành
đắp bằng đất ngoài trồng tre gai mang từ xuôi lên (tre ngà), bên ngoài
có hào sâu 10 mét, rộng 4-5 mét voi ngựa có thể đi trên mặt thành. Thành
có 4 cửa: đông, tây, nam, băc; ở mỗi cửa có đắp đồn cao, có vọng tiêu
và lính gác. Trong thành có khu ngoại vi là nơi lính đóng. Trong thành
Hoàng Công Chất còn cho quân lính đào 133 giếng và ao thuộc nhiều hình
dạng khác nhau, mục đích để trữ nước cho nghĩa quân vào mùa khô. Hiện
nay ở Điện Biên còn tìm thấy nhiều di tích của nơi nhà ở của quân lính,
nơi làm xưởng sản xuất vũ khí, kho lương, nơi chăn ngựa, giữ voi. Gữa
thành là phủ của thủ lĩnh Hoàng Công Chất và bộ tham mưu.
Cho đến nay ở Điện Biên còn lưu truyền bài hát ca ngợi thành Bản Phủ:
“Thành to, thành đẹp
Thành vững đứng giữa cánh đồng
Giặc nào chẳng khiếp víaHào vây quanh thành sâu hơn mười sải
Mặt thành rộng hai chục sải tay
Ngựa phi, voi chạy,lính đứng gươm trần sáng loáng
Chúa cưỡi ngựa đứng trên mặt thành uy nghiêm
Nào ta hãy lấy tre về trồng cho khắp
Tre Mường Thanh chúa bảo đừng lấy
Hãy lấy tre có gai vàng như ngà
Tận miền xuôi về trồng mới tốt
Lấy hơn 40 ngàn khóm
Bao quanh thành, thành vững, chúa yên lòng” [2, tr.74]
Trong
khoảng thời gian từ 1754-1769, từ Mường Thanh, Hoàng Công Chất mang
quân đi đánh chiếm lại miền Thập Châu thuộc An Tây xưa đã bị bọn quan
lại Trung Quốc, tỉnh Vân Nam cướp đoạt từ trước, tức các châu: Chiêu tấn
(vùng Sìn Hồ hiện nay): châu Quỳnh Nhai; Châu Lai (Mường Lay, Mường Tè,
Mường Xo tức Phong Thổ hiện nay). Luân Châu (một phần huyện Tuần Giáo
hiện nay và khu vực Mường Mùn) thuộc tỉnh Lai Châu (nay thuộc tỉnh Điện
Biên) và các đất Quảng Lãnh, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Toàn, Tuy Phụ,
Khiếm Châu nay thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Nghĩa quân còn liên kết
với nghĩa quân của Lê Duy Mật lúc đó lập căn cứ ở núi Trình Quang, thuộc
tỉnh Trấn Ninh. Sử sách cũ chép có nhiều lần hai toán nghĩa quân này
liên kết với nhau khống chế suốt một dải miền thượng Thanh Hoá, Nghệ An
đến miền Hưng Hoá tức miền Tây Bắc ngày nay, Hoàng Công Chất và Lê Duy
Mật lại uy hiếp triều đình bằng những cuộc tập kích vào vùng sông Thao,
mạn Sơn Tây. Hoàng Công Chất chiếm toàn bộ 12 Châu Thái, tức miền Sơn
La, Nghĩa Lộ và Bắc Hoà Bình. Các tù trưởng Thái như: Bun Phanh, Hà Công
Ứng và tù trưởng Mường như Đinh Công Hồ chống lại nhưng đều bị thua.
Như
vậy, Hoàng Công Chất đã hoàn toàn làm chủ Tây Bắc, các chúa đất người
Mường, người Thái cả một dải sông Đà, sông Thao, sông Mã đều thuần phục
Ông và không chịu cống nạp về triều đình nữa. Mường Thanh trở thành khu
trung tâm văn hoá, chính trị của đất Tây Bắc.
Cho đến nay dân tộc Thái ở Tây Bắc còn lưu truyền một bài hát ca ngợi người anh hùng Hoàng Công Chất, trong đó có câu
Dưới xuôi có vua
Trên này có chúa…
Chúa thật lòng yên dân
Chúa dựng bản mường
Mọi người mới được yên ổn làm ăn…
Nghe chăng tiếng hát của quân Keo Chất trong phủ
Ngân vang khắp cánh đồng Mường Thanh bao la
Tưởng
nhớ công ơn người anh hùng áo nâu Hoàng Công Chất và Tướng Lò Ngải, Lò
Khanh, nhân dân trong vùng đã xây đền đúc tượng để tôn thờ và hàng năm
đều mở hội cúng tế, tưởng nhớ đến người anh hùng đã có công dẹp loạn..
Kết luận
Trong
bối cảnh các chúa Thái, chúa Lự lục đục tranh giành quyền bá chủ trong
khu vực, giặc dã lại thường xuyên cướp phá gây bao cảnh tang tóc cho
nhân dân; phong kiến Miến Điện, Xiêm La sau khi đã chinh phục được vương
quốc Luông Phara bang (1753-1765) và một số quốc gia trong khu vực,
đang tìm cách thôn tính Tây Bắc thì Hoàng Công Chất đã kịp thời kéo quân
vào đánh đuổi giặc Pẻ, củng cố được sự thống nhất quốc gia, giành lại
những phần đất bị phong kiến Trung Quốc lấn chiếm trước đây, vỗ an được
dân chúng... có thể nói đây là đóng góp lớn nhất của Ông đối với việc
bảo vệ vùng biên ải Tây Bắc thiêng liêng của Tổ quốc.
Ngoài
việc giải phóng Tây Bắc, Hoàng Công Chất còn liên kết với nghĩa quân
của Lê Duy Mật chống lại triều đình Lê – Trịnh ở miền Thanh Hoá, Mộc
Châu, Sơn Tây, Mai Châu... làm cho tập đoàn phong kiến đương thời phải
lo chống đỡ hết sức vất vả. Việc làm này đã góp phần đẩy chế độ phong
kiến Lê – Trịnh vốn đã tàn tệ nhanh chóng đi đến sụp đổ…Tuy nhiên, trong
lúc sự nghiệp còn rang rở thì cuối năm 1769, Hoàng Công Chất qua đời,
con là Hoàng Công Toản lên thay, nhưng không đủ sức chống lại triều đình
Lê – Trịnh và bị đàn áp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. (1987) Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam, NXB Khoa học xã hội Hà Nội, tr 392
2. Đinh Xuân Lâm (1979), Điện Biên trong lịch sử, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Đinh Xuân Lâm, Trương Hữu Quýnh (2000), Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Quang Ngọc (2006). Tiến trình Lịch sử Việt Nam. NXB Giáo Dục Hà Nội.
5.
Nguyễn Phan Quang (1996): Phong trào nông dân và các dân tộc miền núi
dưới triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX: Tóm tắt luận án Phó tiến sỹ Lịch
sử; Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Tài liệu lưu tại Thư viện Đại học sư
phạm Hà Nội.
6. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2001). Đại cương lịch sử Việt Nam. Toàn tập. NXB GD. HN.
7.
Tài liệu lịch sử địa phương của các dân tộc, như: Kể truyện bản mường
của người Thái, Sách Mo của người Lự, Sách Mo của người Mường…
Nhận xét
Đăng nhận xét