Trần Bá Lộc
GIAI THOẠI VỀ TỔNG ĐỐC TRẦN BÁ LỘC
(1838-1900)
Các
bạn có biết trong tỉnh Mỹ Tho có hai ngôi mộ chôn đứng là của ai không ?
Xin thưa rằng ngôi mộ thứ nhất của một người con bất hiếu bị "trời
trồng" chôn trong xã Khánh Hậu, sau này thuộc tỉnh Long An. Ngôi mộ thứ
hai là của Trần Bá Lộc, đi tàu gần tới Mỹ Tho thấy ngôi mộ sừng sững ở
đầu ngã ba sông.
Trần Bá Lộc là một trong những người oán
hận triều đình Huế chỉ vì gia đình ông có đạo, đã bị ngược đãi. Thân phụ
Lộc là Trần Bá Phước, người Quảng Bình, đổ Tú Tài vào Nam lập nghiệp
với tư cách một thầy đồ. Ban đầu cụ Phước dạy học tại Cái Nhum Rau Má
(Vĩnh Long) sau đó đổi lên cù lao Giêng (Châu Đốc). Đây là các xứ đạo
lâu đời nhờ vào vị trí khuất lấp với bên ngoài, nên các giáo sĩ vẫn lén
lút truyền đạo. Trần Bá Lộc chào đời tại đây năm 1838, cuối đời vua Minh
Mạng. Lớn lên nhằm lúc triều đình cho thi hành một chánh sách cấm đạo
khắt khe vì sự khiêu khích của người Pháp. Nhiều cố đạo bị bắt giam, có
vị bị hành quyết như Thánh Minh bị giết năm 1854 tại bến đò Đình Khao
(Vĩnh Long). Nhiều tín đồ bị đánh đập tàn nhẫn buộc phải bỏ đạo. Có kẻ
bị lưu đày. Thân phụ Lộc, cụ Trần Bá Phước bị bắt giam tại Châu Đốc một
thời gian rồi đày đi Bình Định. Năm đó Lộc 16 tuổi. Bao nhiêu thù hận
Lộc đổ trút lên đầu quan lại địa phương và triều đình Huế. Càng thương
cha bao nhiêu, Lộc càng căm thù bấy nhiêu.
Theo nhận xét của người
Pháp lúc còn học ở trường nhà dòng, người Pháp nhìn nhận rằng Lộc tỏ ra
thông minh, có chí khí, học hành tiến bộ. Trong thời gian cha bị phát
lưu tại Bình Định, giáo hội tiếp tục nuôi nấng và dạy dỗ Lộc. Mối cảm
tình với thực dân phát sinh từ đó. Sau khi cưới vợ, một người có đạo
Công giáo, được hơn một năm Lộc bị quan lại địa phương bắt bớ, đánh đập
rồi giam luôn. Nhưng sau đó Lộc trốn thoát được. Lúc đó Pháp cũng vừa
làm chủ tình thế ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, cần mua chuộc người bản xứ ra
hợp tác. Khai thác hận thù trong tâm của Lộc, giáo hội khuyên Lộc nên
gia nhập hàng ngũ Pháp để tránh bị trả thù. Lộc âm thầm đem gia đình lên
Mỹ Tho, rồi nhờ một ông cố đạo gọi là cha Marc che chở để sống trong
lãnh thổ của Pháp.
Cũng do sự tiến dẫn và giới thiệu của
Marc, Lộc xin vào làm lính mã tà. Lộc lập nhiều thành tích nhờ dọ thám,
điềm chỉ cho Pháp bắt các thân hào nhân sĩ ủng hộ nghĩa quân, nên Lộc
được thăng Cai, rồi lên Đội rất nhanh. Năm sau, Lộc đã lập nghiệp vững
chắc ở đây rồi, Pháp cấp cho Lộc một căn nhà lá, vợ thì nuôi heo kiếm
thêm tiền. Từ đó, tiền bạc và địa vị của Lộc thăng tiến nhanh như diều
gặp gió. Vốn có ác cảm với quan quân của triều đình, Lộc đàn áp các
nghĩa quân không nới tay. Nhờ biểu lộ lòng trung thành với thực dân qua
các vụ đánh dẹp, chém giết, lại biết chữ quốc ngữ, chữ Hán, cho nên mới
26 tuổi, Lộc được bổ làm tri huyện, tức chủ quận Cái Bè năm 1865. Lộc là
người Việt Nam đầu tiên được Pháp bổ làm chủ quận Nam Kỳ. Hai năm sau,
Lộc được thăng Đốc Phủ Sứ. Lúc nầy Lộc vừa đóng vai trò võ quan để bình
định các cuộc khởi nghĩa cho Pháp, vừa giữ vai trò cố vấn cho Pháp về
vấn đề an ninh lãnh thổ, hành chánh và chánh sách cai trị nữa.
Kinh
nghiệm cho biết rằng hễ kẻ có tài hay tự phụ. Lộc không thoát khỏi
thông lệ đó. Khi đã thăng phủ, vẫn còn ngồi ở quận Cái Bè, Lộc lấn quyền
cả người Pháp. Lộc coi như mình có quyền hành trên những người Pháp
đang phục vụ tại đây. Ông ta viết đơn gởi cho Giám Đốc Nội Vụ đề nghị
thăng cấp cho người Pháp trong quận, và coi đó như nhiệm vụ của mình.
Ngồi quận Cái Bè trong 30 năm, công lao hãn mã đã nhiều, mà vẫn không
còn tiến thân được nữa, điều đó chứng tỏ người Pháp không thích ông và
dùng người có giai đoạn. Những cuộc đánh dẹp trong Đồng Tháp Mười, Vũng
Liêm, Cầu Ngang, Rạch Giá, Phú Quốc...có thể nói bất cứ cuộc khởi nghĩa
nào ở Nam Kỳ cũng có Lộc dẫn quân đi đàn áp dã man.
Có một lần Lộc
họp cùng Phủ Đức, ruồng bắt cuộc khởi nghĩa của Thủ Khoa Huân ở vùng Gò
Công lên đến Chợ Gạo, khiến cho cọp, chồn, nai chạy tán loạn vào các
thôn xóm. Khi ngồi chủ quận Cái Bè, mỗi lần báo cáo điều gì lên Thống
Đốc Nam Kỳ, Lộc luôn luôn dùng chữ "Phụng lệnh quan lớn Nguyên Soái",
nịnh bợ cấp trên hết lòng. Theo Lộc, nhà cầm quyền cần dạy dân chúng về
luân lý, đạo đức của Pháp. Lộc nói người Công Giáo luôn luôn trung thành
với Pháp, chỉ có các phần tử theo Nho giáo mới làm loạn.
Ông
Durrwell nhận xét về Trần Bá Lộc như sau:"Lộc đàn áp dã man các cuộc
khởi nghĩa, và thẳng tay dùng bạo lực để dẹp các cuộc bạo động. Dưới con
mắt của người Pháp, Lộc là một trong những viên chức Việt Nam ra hợp
tác đáng tín nhiệm nhứt, và là một thí dụ điển hình để những người Việt
khác noi gương!"
Lộc chém giết các nghĩa quân dã man hơn
cả người Pháp rất nhiều, nên dân chúng oán hận mà không làm gì được. Có
một lần Lộc đi dự lễ khánh thành một nhà việc làng ở Mỹ Tho, bị ám sát,
nhưng thoát chết. Để dẹp tan các cuộc khởi nghĩa và dụ hàng, Lộc bắt cha
mẹ, vợ con các lãnh tụ phải chỉ chỗ họ ẩn núp, kêu họ ra đầu thú, nếu
không đạt mục đích, Lộc sẵn sàng hạ sát họ. Đối với Lộc, phương tiện nào
cũng tốt miễn đạt tới mục tiêu thì thôi.
Nhìn về nông thôn, theo
báo cáo của Lộc với Thống Đốc Nam Kỳ, thì đó là một bức tranh ảm
đạm:"Các viên chức làng xã thường thụt két, biển thủ tiền bạc để ăn xài
riêng, hút á phiện và lạm dụng quyền hành. Mỗi khi bắt dân chúng làm sưu
thì họ hàng với những người ấy được miễn, không ai dám kêu ca. Tiền bạc
thâu góp trong các dịp lễ lạc, họ bỏ túi xài riêng". Lộc nói thêm:"Các
món tiền trợ cấp cho dân quê đều vô túi mấy ông làng (Nên nhớ đây là
tiền trợ cấp tử tuất cho gia đình những người lính đã theo Pháp bị tử
trận). Khi trả lương cho họ, phải làm sổ sách hẳn hòi. Mỗi lần có lễ lạc
như cúng đình là đóng góp tự nguyện, không bắt buộc. Sau cùng , làm sưu
phải đồng đều". Với báo cáo đó, Lộc tỏ ra nắm vững tình hình ở thôn quê
và am hiểu luật lệ hành chánh, vì lẽ đó nên Pháp rất tin cậy.
Ngôi Mộ Chôn Đứng
Năm
1886, Lộc được Pháp điều động ra Bình Định để đánh dẹp cuộc khởi nghĩa
của Mai Xuân Thưởng. Xong việc, Lộc được thưởng Bắc Đẩu Bội Tinh và
thăng hàm Tổng Đốc Thuận Khánh, nên dân chúng gọi ông là Tổng Đốc Lộc.
Sau đó, Lộc về quê tại Cái Bè và Mỹ Tho. Lộc rất tự phụ, chê cả người
Pháp là bất lực, kém hiểu biết tình hình địa phương. Cũng chính vì thế
người Pháp không ưa ông ta, nhưng phải nhìn nhận rằng:"Lộc là người dùng
phương tiện cẩu thả, nhưng đạt mục đích chắc chắn". Tham Biện Mỹ Tho
phê bình Lộc như sau:"người ta có thể phàn nàn lão già nầy về hành động
dã man lúc trước nhưng tôi nghĩ trong hàng ngũ viên chức bản xứ hiện
nay, khó tìm được người biết kính bề trên và tận tụy với quyền lợi của
nước Pháp như hắn". (Hồ sơ Trần Bá Lộc của Durrwell, năm 1931)
Toàn
quyền Paul Doumer vào Nam nhiều lần. Lần nào ông ta cũng có xuống nhà
thăm Lộc. Theo P.Doumer vào những năm cuối đời của ông ta, Lộc là một
trong những người giàu nhứt ở Nam Kỳ. Trước khi chết, Lộc còn hơn hai
ngàn mẫu ruộng và làm chủ cả cù lao Qưới Thiện. Để tưởng thưởng công lao
hãn mã của Lộc, năm 1899, P.Doumer cho Lộc làm thành viên của phái
đoàn, tháp tùng với P.Doumer viếng thăm Bangkok. Ân huệ đó làm cho Lộc
rất hãnh diện. Ngoài ra P.Doumer còn cất nhắc Lộc trước khi chết được
vào Hội Đồng Tối Cao Đông Dương, có nhiệm vụ lo về an ninh lãnh thổ.
Lộc
mất năm 1900 trong sự lãnh đạm của Pháp lẫn Việt. Trước khi chết, Lộc
dặn con phải chôn đứng. Đám ma của Lộc quàn đủ 100 ngày để khách khứa xa
gần viếng thăm. Mỗi ngày đều có làm heo , bò đãi khách khứa rần rần. Lễ
động quan có binh lính bắt súng chào và đưa tới huyệt. Lộc chết không
ai tưởng nhớ, nhưng người Pháp cho lấy tên Lộc để đặt tên cho một con
kinh từ Bà Bèo tới Rạch Ruộng do chính Lộc chỉ huy dân phu đào. Công
việc đào kinh rất nặng nhọc, giữa đồng nhiều muỗi, vắt, đĩa và thiếu
nước uống, khiến cho nhiều người chết vì bệnh sốt rét và dịch tả. Kinh
Tổng Đốc Lộc đã góp phần làm cho vùng hai bên bờ kinh được phong phú.
GIAI THOẠI VỀ TRẦN BÁ THỌ
Phải chăng cây độc không trái, hay ít trái, nên Trần Bá Lộc chỉ có một người con duy nhứt là Trần Bá Thọ. Theo cuốn
"Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt" thì
từ năm 1886 trở đi Nam Kỳ đã bắt đầu gởi người du học qua Pháp. Bốn năm
sau số du học sinh lên đến 90 người . Thọ là một trong những người du
học đầu tiên đó, cùng với Huỳnh Công Miêng con Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn
(1). Thọ và người chú ruột là Trần Bá Hữu theo học trường Laseyne ở
Pháp. Những người đi Pháp học trong buổi đầu không phải để lấy bằng cấp,
mà chỉ học chữ Pháp đủ sức làm thông ngôn, giao dịch với Pháp mà thôi.
Cầu Rạch Miểu
Sau
khi ở Pháp về, Trần Bá Thọ vừa làm Hội Đồng Quản Hạt Nam Kỳ, vừa lo
quản lý ruộng đất khổng lồ của cha để lại. Cũng giống như cha, khi ra
làm việc với Pháp, Thọ vẫn nóng tánh, hay có những ý kiến trái ngược với
quyền lợi của Pháp. Trần Bá Thọ có một người con gái gả cho con trai út
của cụ Trương Vĩnh Ký là Trương Vĩnh Tống. Trong thời gian làm hội
đồng, Trần Bá Thọ có nhiều hoạt động đáng lưu ý.
Trước hết, trong
các phiên họp hội đồng, Thọ đưa ra nhận xét:"Vai trò cai tổng trong mỗi
quận rất quan trọng, nhờ họ làm trung gian truyền lệnh từ quận xuống xã,
và đốc xuất việc thâu thuế. Cai tổng do các làng bầu ra, nhưng phải
được nhà cầm quyền cấp tỉnh hợp thức hóa. Mỗi cai tổng có phó tổng phụ
tá. Thọ nói tìm và bổ nhiệm một cai tổng có khả năng không phải dễ, và
Thọ cũng phàn nàn lương cai tổng quá thấp, nên khó kiếm người có khả
năng, mà còn làm cho họ tham nhũng, hối lộ. Còn các ông làng, mỗi lần đi
công tác lên tỉnh, lên quận mất nhiều ngày mà không có công tác phí,
khiến họ phải ăn hối lộ".
Bến Mỹ Tho
Trong
một phiên họp hội đồng, Thọ nêu ý kiến báo chí sẽ tường thuật các phiên
họp ấy cho dân chúng biết. Viên Thống Đốc Nam Kỳ chủ tọa trả lời rằng:
"Me-sừ
Thọ rất thông minh, nhưng không hiểu biết nội bộ. Nếu cho dân chúng
biết mọi cuộc thảo luận của Hội Đồng Quản Hạt, chúng ta sẽ khó đạt mục
đích. Cần phải giấu họ."
Đã từng nghe dân chúng phàn nàn
về việc làm của cha trước đây nên vào năm 1908, Trần Bá Thọ cho xuất bản
quyển:"Nhị Thập Tứ Hiếu" bằng Pháp văn và Quốc ngữ để giáo dục dân
chúng về luân lý, đạo đức của Nho giáo. Trong lời tựa sách, Thọ viết:
"người
Việt không kính trọng các kẻ hợp tác với Pháp và nói tiếng Pháp vì họ
bị cô lập không nói được tiếng ấy và cũng không được giáo dục nữa."
Trước
kia, Lộc đã từng chủ trương dạy chữ Quốc ngữ cho người Công giáo . Thọ
nói rằng vì thiếu sách nên ông phải soạn ra. Lập luận này bị ông Diệp
Văn Cương không tán thành bằng cách nói rằng không có lý do gì mà không
dạy Nho giáo bằng Pháp văn, trong khi tiếng Pháp chính là công cụ để
khai hoá. Còn Hội Đồng Lê Văn Phát thì cho rằng cần duy trì tiếng Pháp
để người Pháp hiểu sinh hoạt, lịch sử Nam Kỳ mà họ đang cai trị. Trong
khi đó, Giám Mục Mossand phàn nàn nhờ hấp thụ văn hoá Pháp do nhu cầu
cai trị, mà một số người tỏ ra ít trung thành với Pháp. Ông Diệp Văn
Cương, du học Pháp, đổ Tú Tài 2, về làm Hội Đồng đã phản đối:
"Lời
tuyên bố xuất phát từ một vị đứng đầu Giáo Hội Truyền Giáo Nam Kỳ như
một sự tố cáo tất cả người Việt du học bên Pháp đều chống lại Pháp,
trong đó có tôi chẳng hạn. Điều đó không đúng."
Dư
luận Nam Kỳ cho rằng Trần Bá Thọ giống cha, lúc làm Hội Đồng dám ăn
nói, tỏ ra cứng đầu, không nể nang ai hết. Về sau Thọ quy dân lập ấp,
xây chợ, cất nhà ở Sa Đéc, lúc ấy thuộc phủ Tân Thành, nơi Lộc từng trấn
nhậm và có rất nhiều đất đai. Dân chúng Sa Đéc còn nhắc đến Trần Bá Thọ
bằng hai câu liễn đối:
Tân thị Mỹ Thành, chánh bổ Lục na sáng tạo
Quy dân lạc lợi, Hùng đường, Trần Bá Thọ kinh dinh
Về sau, không biết buồn việc gia đình ra sao, Thọ dùng súng lục tự tử.
Chùa Vĩnh Tràng
Trần
Bá Lộc còn hai người em trai khác là Trần Bá Tường và Trần Bá Hựu. Cả
hai đều ra cộng tác với Pháp rất sớm, vì nhờ lập được nhiều thành tích
đàn áp, bắn giết các nghĩa quân, nên được Pháp rất tin cậy. Trần Bá Hựu
làm chủ quận Long Thành, còn Trần Bá Tường ngồi quận tại Long Xuyên. Năm
1875, Trần Bá Tường tham gia vào cuộc càn quét nghĩa quân trong cuộc
khởi nghĩa Làng Linh do Phó Quản Cơ Trần Văn Thành lãnh đạo. Pháp nhiều
lần dụ hàng, đem quan chức ra làm mồi câu nhử, mua chuộc nhưng Trần Văn
Thành khẳng khái:
Thà thua xuống láng, xuống bưng
Bỏ ra đầu giặc, lỗi chủng quân thần
Mỹ Tho Xưa
Trong
trận nầy, Trần Bá Tường có người dọ thám trước, rồi tự mình dẫn một
cánh quân, phối hợp với quân của Quản Hiếm (một người Việt theo Pháp)
đánh úp đồn Bảy Thưa là bản doanh của lãnh tụ Trần Văn Thành. Khu vực
này được tổ chức phòng thủ kiên cố, và tinh thần chiến đấu của binh sĩ
rất cao. Từ đó về sau người ta không còn nghe nhắc tới Trần Bá Tường
nữa.
Có một giai thoại về Trần Bá Thọ như sau:
"Tại
Gia Định có một sĩ phu tên Nguyễn Văn Thạnh quê quán ở Định Tường, đậu
khoá thi Hương (cử nhân) làm quan tại Bình Thuận. Ông Thạnh là một nhà
Nho có khí tiết. Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ , Cử Thạnh từ
quan trở về tìm cách liên lạc với nghĩa quân để tham gia. Ghe bầu của
ông vừa vào cửa Cần Giờ thì bị quân Pháp khám xét. Sau khi lục soát,
chúng tìm được nhiều mã tấu, gươm giáo giấu dưới khoang hầm. Âm mưu bại
lộ , Cử Thạnh bị bắt giải về Sài Gòn . Nghe tin, Tôn Thọ Tường tới xin
bảo lãnh, mời về nhà đãi tiệc để dụ dỗ. Thạnh khẳng khái từ chối. Tường
không dám ép mà chỉ nói:
-
Nhân các hữu kỳ chí (Ai có chí hướng của người nấy)
Mấy
tháng sau, Cử Thạnh về quê sống ẩn dật. Lúc nầy Trần Bá Lộc đã ngồi chủ
quận Cái Bè, nghe danh Cử Thạnh nên mời ông ta về nhà làm gia khách dạy
con là Trần Bá Thọ. Cha nào con nấy, Trần Bá Thọ tuy còn là học trò,
nhưng cũng bộc lộ nhiều cử chỉ ngang ngạnh. Một hôm thấy thầy đồ Nguyễn
Văn Thạnh rậm râu, hay hút thuốc, Trần Bá Tọ liền tới gần và nói:
- Thưa thầy, thầy có thể cho phép con ra một câu đối?
- Được, trò cứ làm trước .- Cử Thạnh trả lời.
Trần Bá Thọ liền đọc:
"Râu ba chòm lém dém, miệng hút thuốc phì phèo".
Nhìn
lại thấy Thọ tuy còn nhỏ tuổi, nhưng đầu hói, tóc thưa, đi đâu cũng cầm
ba-ton ra vẻ hống hách, nên Cử Thạnh ứng khẩu đối ngay:
"Tóc vài sợi le the, tay cầm gậy ngúc ngắc."
Chưa thoả mãn, Thọ xin thầy đối một câu nữa của hắn:
"Phụ từ, tử hiếu, sanh con thế ấy là vàng"
Bực mình, thấy đứa học trò ngạo mạn, Cử Thạnh liền đáp:
"Tham phú, phụ bần, đụ mẹ thằng nào ở bạc!"
Xấu hổ, từ đó Trần Bá Thọ không còn xấc láo với thầy học nữa.
Thành Phố Mỹ Tho
HUỲNH CÔNG TẤN
(1837-1874)
Trước
năm 1945, phía trước nhà lồng chợ Gò Công có một tấm bia đá lớn của
Pháp dựng lên để kỷ niệm một người Việt có công tận tụy với nước Pháp :
"À la mémoire de Lãnh Binh Huỳnh Công Tấn, Chevalier de Légion d'honneur, fidèle serviteur de la France" (Tưởng nhớ Huỳnh Công Tấn, Lãnh Binh, Bắc Ðẩu Bội Tinh, công bộc trung thành với nước Pháp).
Ngày
9 tháng Ba năm 1945, Nhật đảo chánh Pháp. Dân chúng Gò Công phẩn uất,
kéo tới đập phá tấm bia ấy để xoá tan dấu vết của thực dân.
Huỳnh
Công Tấn là người quê quán tại Gò Công, sinh năm 1837 trong một gia đình
nông dân ít học. Năm 1859 thành Gia Định thất thủ, Tấn mới 22 tuổi.
Theo bức ảnh minh hoạ trong quyển sách :"
Sự có mặt của người Pháp ở Nam Kỳ và Cam Bốt" nói
trên thì Tấn có một dáng dấp rất khác biệt với Đỗ Hữu Phương hồi trai
trẻ. Nếu Phương có dáng dấp một thư sinh thì Tấn là con người cục mịch,
gương mặt thô, vuông, hằn lên nét đanh ác. Tấn mặc bộ đồ đen . Lúc Gia
Định mới thất thủ, Tấn gia nhập hàng ngũ nghĩa quân chống Pháp, dưới
quyền chủ tướng Trương Công Định. Ba năm sau, phòng tuyến Chí Hoà bị hạ,
triều đình Huế ký Hàng Ước 1862 nhường 3 tỉnh Biên Hoà, Gia Định, Định
Tường cho Pháp. Mất địa bàn kháng chiến, Trương Công Định dẫn quân về Gò
Công, dựa vào địa thế hiểm trở vùng Vàm Láng ("đám lá tối trời") để
tiếp tục kháng Pháp. Trong một cuộc hành quân vùng Gò Công, Tấn gạt binh
sĩ, rồi bỏ trốn qua Tân An. May mắn cho Tấn, ở đây hắn gặp một người
bạn cũ tên Nguyễn Hữu Nguơn, đã đầu thú Pháp, hướng dẫn Tấn về Sài Gòn
trình diện.
Còn
theo lời kể của cụ Nguyễn Văn Vực cho biết:"Tấn vốn đam mê đàn bà con
gái, hay chọc ghẹo, nên bị chủ tướng Định cảnh cáo. Có lần Định tát tai
Tấn về việc nầy, nên Tấn sanh tâm thù oán. Từ đó Tấn tìm dịp trốn đi ra
hàng giặc". Một tài liệu khác nữa nói rằng:"Trong lúc hai bên giao
chiến, Tấn bị Pháp bắt. Để đoái công chuộc tội, Tấn xin cung khai đầy đủ
mọi việc quân thư của Trương Công Định". Tài liệu nầy do Vial, Giám Đốc
Nội vụ ghi lại trong tập hồ sơ "Lãnh Binh Tấn ngày 31 tháng bảy 1869".
Để
được Pháp tin cậy, Tấn ra tay dọ thám, chỉ điểm cho Pháp ruồng bố nghĩa
quân. Chỉ một năm sau, Tấn lập được nhiều thành tích, Pháp cho Tấn làm
đội trưởng.
Quê dốt, không tham vọng nhưng rất tàn ác, Tấn
không từ bỏ một dịp may nào để tiến thân và làm giàu. Có quyền trong
tay, Tấn bắt người tình nghi, đánh đập để khảo của. Tấn làm giàu bằng
cách tổ chức sòng bạc, chiếm đất của các điền chủ bỏ chạy qua miền Tây
lánh nạn. Đồng thời, Tấn bắt thường dân làm sưu cho mình. Chỉ trong 10
năm, Tấn trở thành một người giàu có nhứt Gò Công. Bằng cách cướp đoạt,
Tấn có hàng ngàn mẫu ruộng. Tấn lập công với Pháp bằng cách đem quân qua
Cần Giuộc bao vây, bắt được lãnh tụ nghĩa quân Bùi Duy Nhứt. Với thành
công mới, Pháp phong cho Tấn chức Lãnh Binh, là chức quan đàng cựu, coi
tất cả binh lính trong một tỉnh.
Có lẽ do lòng căm thù cá nhơn,
Tấn coi nghĩa quân còn hơn kẻ thù, mặc tình bắt bớ, tra khảo, bắn giết
không nương tay. Tấn làm nô bộc cho chủ Pháp rất hăng hái. Có lần Tấn
dám chê bai Tham Biện Pháp là người bất tài vô dụng:"Bởi quan Tham Biện
chúng tôi xưa nay là qua coi binh, chưa từng biết việc dân (hành chánh)
cho nên việc quan làm thì làm bậy, nói thì chẳng thông lý sự, dường như
kẻ ngu si dốt nát".
Giám Đốc Nội Vụ thấy Tấn lạm quyền quá đáng,
muốn tìm cách đổi Tấn đi miền Đông, nhưng Tấn lại lập thêm nhiều công
trạng mới, nên được giữ lại.
Người Pháp dùng Tấn như một tay sai
đắc lực chớ không ưa Tấn. Trong một chuyến từ Gò Công về Sài Gòn bằng
ghe bầu, Tấn bị bịnh và chết trên ghe, lúc mới 37 tuổi. Tấn có hai người
con trai là Huỳnh Công Miêng và Huỳnh Công Viễn. Để nuôi dưỡng tay sai
trung thành, Pháp cho Huỳnh Công Miêng qua pháp du học. Lúc về nước,
Miêng theo Trần Bá Lộc đánh dẹp nhiều nơi. Sau đó Miêng chán nản, bỏ
quan, trở thành một công tử ăn chơi khét tiếng miền Nam. Dân chúng gọi
bằng "Cậu Hai Miêng". Cậu Hai sống theo kiểu giang hồ hảo hán, lưu linh
miễn tử khắp Nam Kỳ. Mỗi lần hết tiền, Cậu Hai vào thăm các tham biện,
chủ quận để hỏi tiền xài. Pháp nhớ công ơn cha cậu, nên cũng nể mặt, cho
cậu ít nhiều. Cậu sống ngang tàng, không ai dám làm gì dù có phạm tội
chút ít (Xin xem thêm "Nam Kỳ Lục Tỉnh" tập I).
Cậu Hai
mất năm 1895, chôn ở Sài Gòn. Cuộc đời Cậu Hai Miêng được dân chúng thán
phục, truyền tụng sâu rộng bằng nhiều tập thơ "Cậu Hai Miêng".
Trong quyển "Quốc Âm Hiệp Tuyển" của Lê Quang Chiếu (người Cần thơ) có bài thơ điếu Cậu Hai Miêng như sau:
"
Số hệ ai làm hỡi cậu Miêng?
"Ba mươi tám tuổi, dõi huỳnh tuyền,
"Sao lờ Bến Nghé, xiêu người ngó,
"Khói toả Cầu Kho, thảm vợ hiền'
"Đứng bực phong lưu trời vội dứt,
"Những trang hào kiệt đất không kiêng
"Nhựt báo đòi nơi đã khắp truyền"
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét