CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 97
-Mọi người đều mù quáng đi trên con đường đời của mình! Vì đố ai thấy chính xác con đường ấy!
-Đường đời riêng đã không thấy thì làm sao thấy được đường đời chung, tức định mệnh của nhân loại?
-Chỉ toàn suy đoán và tưởng tượng thôi! Vì vậy, hãy thận trọng trước những " tiên tri" về xã hội!
-Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá!
-Công và tội là hai giá trị tùy thuộc vào nhận thức nên rất dễ chuyển hóa thành nhau. Tuy nhiên chân lý tuyệt đối chỉ có một!
---------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
I.Stalin và hai con Vasily và Svetlana.
Liệu Xtalin có thể cứu được con trai ra khỏi trại tù binh của Đức?
Tù binh VIP
-Đường đời riêng đã không thấy thì làm sao thấy được đường đời chung, tức định mệnh của nhân loại?
-Chỉ toàn suy đoán và tưởng tượng thôi! Vì vậy, hãy thận trọng trước những " tiên tri" về xã hội!
-Và đời ta, ta không thể đánh giá đúng được mà phải để đời sau đánh giá!
-Công và tội là hai giá trị tùy thuộc vào nhận thức nên rất dễ chuyển hóa thành nhau. Tuy nhiên chân lý tuyệt đối chỉ có một!
---------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Bức thư bí mật Stalin gửi thầy giáo của con trai
TP - Không những là một nhà lãnh đạo nổi tiếng thế
giới, I.Stalin còn là một người cha, một người biết cầu thị khi đã trực
tiếp viết một bức thư bí mật cho thầy giáo của con trai mình, chỉ rõ
khuyết điểm của con và mong thầy giáo giúp con tiến bộ. Bức thư được giữ
kín suốt 53 năm, khi được công bố đã làm lay động những người làm bố,
làm mẹ.
Trong
cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945) chống phát xít Đức, Iosif
Stalin - nhà lãnh đạo tối cao của Liên Xô đã cho 2 người con ruột và cậu
con nuôi của mình ra mặt trận, trực tiếp chiến đấu chống lại quân thù.
Người con trai đầu Yakov Dzhugashvili (con trai với bà vợ đầu tiên - Ekaterina Svanidze) sinh năm 1907, đã chiến đấu trong lực lượng Pháo binh, rồi bị bắt làm tù binh trong một trận đánh gần thành phố Smolensk cửa ngõ phía tây của nước Nga. Theo nhiều tài liệu, Stalin đã từ chối đề nghị đổi con trai mình lấy Thống chế Đức Friedrich Paulus bị Hồng quân Liên Xô bắt sống tại trận Stalingrad. Năm 1943, Yakov bị mất trong trại tập trung của quân Đức. Người con trai thứ hai là Vasily Iosifpovich Stalin là một phi công chiến đấu, đã lập nhiều chiến công hiển hách. Người con nuôi của ông là Artyom Fedorovich Sergeyev đã trở thành một sĩ quan pháo binh, chiến đấu dũng cảm, bị bắt làm tù binh và sau đó mưu trí vượt ngục để trở về đội ngũ.
Cậu con trai “trái tính trái nết”
Vasily Iosifpovich Stalin là con trai của Stalin với người vợ thứ hai, bà Nadezhda Alliluyeva. Vasily sinh ngày 24/3/1921 tại bệnh viện Kremli, thủ đô Moskva. Vasily có một người em gái là Svetlana Alliluyeva (sinh năm 1926). Sau khi vợ mất(1932), Stalin chuyển các con từ điện Kremli về nhà nghỉ ở Zubalov và do bận bịu công việc của người đứng đầu nhà nước Liên Xô, mọi việc chăm sóc con cái ông đều nhờ vú nuôi và các nhân viên an ninh, đứng đầu là tướng Nikolai Vlasik đảm nhiệm.
Nhờ các tư liệu giải mật sau này, chúng ta biết thời kỳ đó, Stalin và các con trao đổi với nhau chủ yếu qua đường thư tín. Ngoại trừ những cuộc gặp ít ỏi, do quá bận, Stalin biết tin về các con chủ yếu qua các báo cáo của lực lượng an ninh.
Ngày 5/5/1937, Chính phủ Liên Xô quyết định thành lập các Trường thiếu sinh quân đặc biệt. Đầu vào của trường là các em học sinh lớp 8,9, 10 được tuyển chọn kỹ càng và theo học chương trình phổ thông trung học cùng các môn học chuyên ngành.
Mỗi lớp học có khoảng 25-30 em. Theo nhiều tài liệu, Artyom Fedorovich Sergeyev, con nuôi của Stalin cùng con trai thứ của Stalin là Vasily (cùng sinh năm 1921) đã nhập học trường Thiếu sinh quân pháo binh đặc biệt số 2, ở Krasnaya Presnya (Moskva). Trường có nhiệm vụ đào tạo các thiếu sinh quân trở thành các chính ủy tương lai trong lực lượng pháo binh
Vào nửa cuối thập niên 30, để con cái trưởng thành trong quân ngũ là mơ ước của hàng triệu gia đình Liên Xô. Ai cũng hy vọng môi trường quân đội sẽ giúp con mình khỏe mạnh, sống có tổ chức, kỷ luật. Thời đó, trong dân gian đã lan truyền những câu ca: "Thông minh vào pháo binh, Bảnh bao vào kỵ binh, Lãng tử vào hải quân, Còn lại vào bộ binh”. Pháo binh, khi đó là số 1, như ở bên ta “nhất y, nhì dược” một thời.
Vasily Stalin, sau những cú sốc tinh thần (mẹ cậu là Nadezhda Alliluyeva tự tử năm 1932, khi cậu 11 tuổi) đã trở nên một con người khác. Cậu đã rời bỏ trường phổ thông số 175 dành cho con em lãnh đạo, xin vào trường Thiếu sinh quân. Ở ngôi trường này, được nuông chiều bởi là con trai của lãnh tụ tối cao, “ngựa quen đường cũ”, Vasily tiếp tục lười học và nghịch phá, bất tuân kỷ luật. Nhưng mọi thông tin về cậu con trai của mình, Stalin không biết, bởi các nhân viên an ninh và Ban giám hiệu nhà trường giữ kín như bưng.
Sau này, Vasily Stalin có viết lại về quãng đời đó của mình:
“Khi còn nhỏ, tôi đã không còn mẹ và không có điều kiện được bố kèm cặp, dạy bảo thường xuyên, tôi sống và lớn lên trong vòng bảo vệ của những người đàn ông là nhân viên an ninh, không được dạy bảo về luân lý và tính nhẫn nại.
Chính điều này đã để lại dấu ấn lên tính cách và quãng đời sau này của tôi”.
Một thầy giáo dạy môn Lịch sử của trường, sau khi chứng kiến “cậu ấm” của Stalin sa sút trầm trọng với sự nuông chiều vô lối của Ban giám hiệu, đã dũng cảm viết thư “tố cáo” với Stalin, một việc làm khá “tày trời” thời đó.
Đó là thầy giáo Vladimir Vasilevich Martyshkin.
Và một điều bất ngờ đã xảy ra: Dù bận trăm công nghìn việc, Stalin đã viết thư trả lời thầy giáo Martyshkin và yêu cầu được giữ kín nội dung.
Bức thư này tưởng như đã chìm sâu vào quên lãng.
Nhưng không. Báo “Giáo viên” (Uchitelskaya Gazeta) của Liên Xô, số 17 năm 1991 đã đăng bài báo của O.Martyshkin-con trai của thầy giáo Martyshkin cho biết gia đình ông vẫn giữ bức thư Stalin gửi ngày 8/6/1938 cho thầy giáo dạy môn lịch sử của con trai mình.
Vasily Stalin trên khoang lái máy bay Yak-9 trong thời kỳ chiến tranh.
Bức thư được yêu cầu giữ kín
O.Martyshin viết trong bài báo của mình:
“Bố tôi, Vladimir Vasilevich Martyshkin vào cuối thập niên 30 dạy môn lịch sử ở Trường (thiếu sinh quân pháo binh đặc biệt) số 2, và một trong những học trò của ông là Vasily Stalin. Bố tôi cho rằng cậu bé cũng có năng lực, nhưng cậu hay nghịch ngợm, thường tận dụng vị thế của mình để giải quyết các vấn đề trong trường. Cậu có thể im thin thít khi được hỏi, còn khi nhận điểm kém thường dọa là sẽ tự tử. Bố tôi không cho mình quyền đối xử với con trai Stalin khác với các học trò trong lớp, cho cậu điểm 2 vào cuối năm học. Tôi không rõ là Vasily có báo cho thầy Hiệu trưởng biết điều này hay là ông ấy tự biết do theo dõi. Ngay sau đó, Hiệu trưởng đã gọi bố tôi lên và yêu cầu ông tự tay sửa điểm, từ 2 thành 4 điểm (thang điểm học ở Liên Xô, điểm 5 là cao nhất-NV). Bố tôi thẳng thừng từ chối. Khi đó, trước mặt bố tôi, Hiệu trưởng đã cầm bút sửa điểm và ít lâu sau, bố tôi bị đuổi việc.
Khi đó, tìm được việc làm ở Moskva là điều không thể. Phải nuôi 2 con nhỏ, tình trạng của bố tôi khi đó cực kỳ tồi tệ. Không biết phải cầu cứu ai, ông liền quyết định viết thư cho Stalin.
Bức thư đó chúng tôi không được biết nội dung, hy vọng nó vẫn còn được lưu giữ đâu đó trong các kho lưu trữ. Tôi chỉ biết, trong thư, bố tôi kể hết về sự dối trá, sự quỵ lụy của mọi người trước Vasily trong trường học.
Mùa hè năm 1938, gia đình chúng tôi sống ở vùng Udelnaya dọc tuyến xe lửa Kazan. Một lần, có chiếc ô tô phóng đến. Hai người đàn ông bước xuống, vẻ quan trọng, nói họ muốn gặp thầy giáo Martyshkin. Mẹ tôi đáp ông đang vào thành phố, sắp về rồi và mời họ vào nhà ngồi đợi. Tuy nhiên, các vị khách từ chối và vào xe ngồi chờ. Có thể dễ hình dung là khi đó mẹ tôi lo lắng biết nhường nào trong suốt 2 tiếng chờ bố về. Tôi nghĩ, chắc mẹ đang lo bố sẽ bị bắt. Khi bố về, 2 người đàn ông mời luôn ông vào xe, chắc không muốn có ai nghe thấy nội dung cuộc nói chuyện. Nhưng thay vì chở ông đi mất tích, họ chuyển cho bố tôi bức thư của Stalin. Họ còn nói tác giả bức thư không muốn nội dung được công khai cho nhiều người biết. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, không còn ai chứng kiến sự việc này còn sống. Điều này cho phép tôi đã đến lúc công bố một tư liệu quý giá.
Bức thư của Stalin được ông viết tay, trên giấy chắc được xé ra từ một cuốn sổ cỡ vừa, khoảng một trang rưỡi. Còn đây là nội dung:
Gửi thầy giáo Martyshkin!
Tôi đã nhận được bức thư của thầy về những trò lố của cháu Vasily Stalin. Xin cảm ơn thầy đã gửi thư.
Sở dĩ tôi viết trả lời thầy muộn, là do công việc quá nhiều. Tôi xin lỗi thầy về điều đó.
Con trai tôi, Vasily là một thanh niên hư hỗn, có năng lực rất bình thường, là một đứa tự kỷ, thường nói dối, ưa dọa nạt những kẻ yếu, hay trơ tráo, với tư chất yếu đuối, nói đúng hơn, là vô tổ chức.
Chính những kẻ dung dưỡng, luôn tâm niệm đó là “con trai Stalin” đã làm hư cháu.
Tôi mừng, vì nhờ thầy mà tôi biết vẫn còn một giáo viên có lòng tự trọng, đối xử với cháu Vasily như với tất cả học trò khác, và yêu cầu đứa trò ngỗ ngược đó phải tuân theo quy chế chung của trường học.
Chính các hiệu trưởng, như thầy đã đề cập, là dạng người chẳng ra sao (nguyên văn: dạng giẻ rách-ND), đã làm hư cháu Vasily. Dạng người đó không xứng có mặt trong trường học, và nếu như cháu Vasily vẫn chưa kịp tự giết mình, là bởi ở đất nước chúng ta vẫn còn có những giáo viên không nỡ để cho đứa học trò “con ông cháu cha”, tính khí thất thường đó trượt dài thêm nữa.
Tôi có một lời yêu cầu: Đề nghị thầy cần nghiêm khắc hơn với Vasily và thầy đừng sợ bất cứ lời đe dọa “tự tử” nào của đứa học trò trái tính trái nết này.
Nếu làm vậy, thầy sẽ luôn được tôi ủng hộ.
Thật tiếc là chính tôi cũng không có điều kiện gần gũi với Vasily. Nhưng tôi hứa với thầy dần dần tôi sẽ đưa cháu vào khuôn khổ.
Xin chào thầy!
I.Stalin, ngày 8/6/1938
Điều kỳ diệu đã xảy ra. Nỗi sợ hãi và căng thẳng của bố mẹ tôi ngay lập tức được giải tỏa. Tất nhiên là bố mẹ tôi rất vui mừng vì sự công bằng đã được phục hồi, bằng một cách bất ngờ nhất.
Bố mẹ tôi không phải chờ lâu. Bố tôi ít lâu sau đã được nhận trở lại trường. Giữa ông và Vasily sau đó có quan hệ khá là tốt đẹp.
Bay lên, Vasily!
Đó cũng nhan đề của một bộ phim tài liệu về Vasily Stalin do kênh 1 của Nga sản xuất. Bộ phim nói về sự trưởng thành của người con trai thứ của Stalin, một thời đã từng là học sinh cá biệt.
Các tài liệu được giải mật sau này của Liên Xô cho biết, sau khi nhận được thư của Stalin, thầy giáo Martyshin còn viết thêm một bức thư khác nữa gửi nhà lãnh đạo đất nước (gửi sau ngày 5/7/1938). Qua nội dung, chúng ta có thể biết sau khi Stalin gửi thư vài ngày, thầy giáo Martyshin đã được nhận lại về trường. Bức thư có đoạn:
“Đã nhiều lần tôi nói với các đồng nghiệp là cần phải cho đồng chí biết sự thật về chuyện học hành của cháu Vasily, nhưng họ đáp “Nếu đồng chí Stalin biết, cũng chả có ích gì, nếu không còn nguy hiểm ấy chứ”, hoặc “Anh im đi. Sự im lặng tô điểm thêm cho tuổi trẻ của anh đấy”...
Xin lỗi đồng chí vì sự làm phiền, nhưng tôi không thể giấu đồng chí một quan sát của riêng tôi: Đó là Vasily luôn cảm thấy đau đớn, ân hận vì những điều đã làm phiền lòng người bố mà cháu yêu thương hết mực.
Có một lần, khi tâm sự với tôi, Vasily có nói là cháu sẵn sàng làm tất cả những gì để lấy lại sự tin tưởng của bố, để được gần gũi với bố hơn”.
Và Vasily Stalin đã không phụ lòng tin cậy của bố. Sau khi tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân, Vasily vào học tại trường Không quân Kacha ở Crưm, tốt nghiệp xong anh phục vụ trong lực lượng không quân. Trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Vasily Stalin đã dũng cảm tham gia 26 trận không chiến và bắn rơi 2 máy bay địch, được tặng thưởng huân chương Suvorov hạng nhì, huân chương Cờ Đỏ và huân chương Aleksandr Nevsky. Sau chiến tranh, Vasily Stalin có thời kỳ là Tư lệnh Lực lượng Không quân phòng thủ Moskva. Vasily Stalin mất năm 1962, khi mới 41 tuổi.
Người con trai đầu Yakov Dzhugashvili (con trai với bà vợ đầu tiên - Ekaterina Svanidze) sinh năm 1907, đã chiến đấu trong lực lượng Pháo binh, rồi bị bắt làm tù binh trong một trận đánh gần thành phố Smolensk cửa ngõ phía tây của nước Nga. Theo nhiều tài liệu, Stalin đã từ chối đề nghị đổi con trai mình lấy Thống chế Đức Friedrich Paulus bị Hồng quân Liên Xô bắt sống tại trận Stalingrad. Năm 1943, Yakov bị mất trong trại tập trung của quân Đức. Người con trai thứ hai là Vasily Iosifpovich Stalin là một phi công chiến đấu, đã lập nhiều chiến công hiển hách. Người con nuôi của ông là Artyom Fedorovich Sergeyev đã trở thành một sĩ quan pháo binh, chiến đấu dũng cảm, bị bắt làm tù binh và sau đó mưu trí vượt ngục để trở về đội ngũ.
Cậu con trai “trái tính trái nết”
Vasily Iosifpovich Stalin là con trai của Stalin với người vợ thứ hai, bà Nadezhda Alliluyeva. Vasily sinh ngày 24/3/1921 tại bệnh viện Kremli, thủ đô Moskva. Vasily có một người em gái là Svetlana Alliluyeva (sinh năm 1926). Sau khi vợ mất(1932), Stalin chuyển các con từ điện Kremli về nhà nghỉ ở Zubalov và do bận bịu công việc của người đứng đầu nhà nước Liên Xô, mọi việc chăm sóc con cái ông đều nhờ vú nuôi và các nhân viên an ninh, đứng đầu là tướng Nikolai Vlasik đảm nhiệm.
Nhờ các tư liệu giải mật sau này, chúng ta biết thời kỳ đó, Stalin và các con trao đổi với nhau chủ yếu qua đường thư tín. Ngoại trừ những cuộc gặp ít ỏi, do quá bận, Stalin biết tin về các con chủ yếu qua các báo cáo của lực lượng an ninh.
Ngày 5/5/1937, Chính phủ Liên Xô quyết định thành lập các Trường thiếu sinh quân đặc biệt. Đầu vào của trường là các em học sinh lớp 8,9, 10 được tuyển chọn kỹ càng và theo học chương trình phổ thông trung học cùng các môn học chuyên ngành.
Mỗi lớp học có khoảng 25-30 em. Theo nhiều tài liệu, Artyom Fedorovich Sergeyev, con nuôi của Stalin cùng con trai thứ của Stalin là Vasily (cùng sinh năm 1921) đã nhập học trường Thiếu sinh quân pháo binh đặc biệt số 2, ở Krasnaya Presnya (Moskva). Trường có nhiệm vụ đào tạo các thiếu sinh quân trở thành các chính ủy tương lai trong lực lượng pháo binh
Vào nửa cuối thập niên 30, để con cái trưởng thành trong quân ngũ là mơ ước của hàng triệu gia đình Liên Xô. Ai cũng hy vọng môi trường quân đội sẽ giúp con mình khỏe mạnh, sống có tổ chức, kỷ luật. Thời đó, trong dân gian đã lan truyền những câu ca: "Thông minh vào pháo binh, Bảnh bao vào kỵ binh, Lãng tử vào hải quân, Còn lại vào bộ binh”. Pháo binh, khi đó là số 1, như ở bên ta “nhất y, nhì dược” một thời.
Vasily Stalin, sau những cú sốc tinh thần (mẹ cậu là Nadezhda Alliluyeva tự tử năm 1932, khi cậu 11 tuổi) đã trở nên một con người khác. Cậu đã rời bỏ trường phổ thông số 175 dành cho con em lãnh đạo, xin vào trường Thiếu sinh quân. Ở ngôi trường này, được nuông chiều bởi là con trai của lãnh tụ tối cao, “ngựa quen đường cũ”, Vasily tiếp tục lười học và nghịch phá, bất tuân kỷ luật. Nhưng mọi thông tin về cậu con trai của mình, Stalin không biết, bởi các nhân viên an ninh và Ban giám hiệu nhà trường giữ kín như bưng.
Sau này, Vasily Stalin có viết lại về quãng đời đó của mình:
“Khi còn nhỏ, tôi đã không còn mẹ và không có điều kiện được bố kèm cặp, dạy bảo thường xuyên, tôi sống và lớn lên trong vòng bảo vệ của những người đàn ông là nhân viên an ninh, không được dạy bảo về luân lý và tính nhẫn nại.
Chính điều này đã để lại dấu ấn lên tính cách và quãng đời sau này của tôi”.
Một thầy giáo dạy môn Lịch sử của trường, sau khi chứng kiến “cậu ấm” của Stalin sa sút trầm trọng với sự nuông chiều vô lối của Ban giám hiệu, đã dũng cảm viết thư “tố cáo” với Stalin, một việc làm khá “tày trời” thời đó.
Đó là thầy giáo Vladimir Vasilevich Martyshkin.
Và một điều bất ngờ đã xảy ra: Dù bận trăm công nghìn việc, Stalin đã viết thư trả lời thầy giáo Martyshkin và yêu cầu được giữ kín nội dung.
Bức thư này tưởng như đã chìm sâu vào quên lãng.
Nhưng không. Báo “Giáo viên” (Uchitelskaya Gazeta) của Liên Xô, số 17 năm 1991 đã đăng bài báo của O.Martyshkin-con trai của thầy giáo Martyshkin cho biết gia đình ông vẫn giữ bức thư Stalin gửi ngày 8/6/1938 cho thầy giáo dạy môn lịch sử của con trai mình.
O.Martyshin viết trong bài báo của mình:
“Bố tôi, Vladimir Vasilevich Martyshkin vào cuối thập niên 30 dạy môn lịch sử ở Trường (thiếu sinh quân pháo binh đặc biệt) số 2, và một trong những học trò của ông là Vasily Stalin. Bố tôi cho rằng cậu bé cũng có năng lực, nhưng cậu hay nghịch ngợm, thường tận dụng vị thế của mình để giải quyết các vấn đề trong trường. Cậu có thể im thin thít khi được hỏi, còn khi nhận điểm kém thường dọa là sẽ tự tử. Bố tôi không cho mình quyền đối xử với con trai Stalin khác với các học trò trong lớp, cho cậu điểm 2 vào cuối năm học. Tôi không rõ là Vasily có báo cho thầy Hiệu trưởng biết điều này hay là ông ấy tự biết do theo dõi. Ngay sau đó, Hiệu trưởng đã gọi bố tôi lên và yêu cầu ông tự tay sửa điểm, từ 2 thành 4 điểm (thang điểm học ở Liên Xô, điểm 5 là cao nhất-NV). Bố tôi thẳng thừng từ chối. Khi đó, trước mặt bố tôi, Hiệu trưởng đã cầm bút sửa điểm và ít lâu sau, bố tôi bị đuổi việc.
Khi đó, tìm được việc làm ở Moskva là điều không thể. Phải nuôi 2 con nhỏ, tình trạng của bố tôi khi đó cực kỳ tồi tệ. Không biết phải cầu cứu ai, ông liền quyết định viết thư cho Stalin.
Bức thư đó chúng tôi không được biết nội dung, hy vọng nó vẫn còn được lưu giữ đâu đó trong các kho lưu trữ. Tôi chỉ biết, trong thư, bố tôi kể hết về sự dối trá, sự quỵ lụy của mọi người trước Vasily trong trường học.
Mùa hè năm 1938, gia đình chúng tôi sống ở vùng Udelnaya dọc tuyến xe lửa Kazan. Một lần, có chiếc ô tô phóng đến. Hai người đàn ông bước xuống, vẻ quan trọng, nói họ muốn gặp thầy giáo Martyshkin. Mẹ tôi đáp ông đang vào thành phố, sắp về rồi và mời họ vào nhà ngồi đợi. Tuy nhiên, các vị khách từ chối và vào xe ngồi chờ. Có thể dễ hình dung là khi đó mẹ tôi lo lắng biết nhường nào trong suốt 2 tiếng chờ bố về. Tôi nghĩ, chắc mẹ đang lo bố sẽ bị bắt. Khi bố về, 2 người đàn ông mời luôn ông vào xe, chắc không muốn có ai nghe thấy nội dung cuộc nói chuyện. Nhưng thay vì chở ông đi mất tích, họ chuyển cho bố tôi bức thư của Stalin. Họ còn nói tác giả bức thư không muốn nội dung được công khai cho nhiều người biết. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, không còn ai chứng kiến sự việc này còn sống. Điều này cho phép tôi đã đến lúc công bố một tư liệu quý giá.
Bức thư của Stalin được ông viết tay, trên giấy chắc được xé ra từ một cuốn sổ cỡ vừa, khoảng một trang rưỡi. Còn đây là nội dung:
Gửi thầy giáo Martyshkin!
Tôi đã nhận được bức thư của thầy về những trò lố của cháu Vasily Stalin. Xin cảm ơn thầy đã gửi thư.
Sở dĩ tôi viết trả lời thầy muộn, là do công việc quá nhiều. Tôi xin lỗi thầy về điều đó.
Con trai tôi, Vasily là một thanh niên hư hỗn, có năng lực rất bình thường, là một đứa tự kỷ, thường nói dối, ưa dọa nạt những kẻ yếu, hay trơ tráo, với tư chất yếu đuối, nói đúng hơn, là vô tổ chức.
Chính những kẻ dung dưỡng, luôn tâm niệm đó là “con trai Stalin” đã làm hư cháu.
Tôi mừng, vì nhờ thầy mà tôi biết vẫn còn một giáo viên có lòng tự trọng, đối xử với cháu Vasily như với tất cả học trò khác, và yêu cầu đứa trò ngỗ ngược đó phải tuân theo quy chế chung của trường học.
Chính các hiệu trưởng, như thầy đã đề cập, là dạng người chẳng ra sao (nguyên văn: dạng giẻ rách-ND), đã làm hư cháu Vasily. Dạng người đó không xứng có mặt trong trường học, và nếu như cháu Vasily vẫn chưa kịp tự giết mình, là bởi ở đất nước chúng ta vẫn còn có những giáo viên không nỡ để cho đứa học trò “con ông cháu cha”, tính khí thất thường đó trượt dài thêm nữa.
Tôi có một lời yêu cầu: Đề nghị thầy cần nghiêm khắc hơn với Vasily và thầy đừng sợ bất cứ lời đe dọa “tự tử” nào của đứa học trò trái tính trái nết này.
Nếu làm vậy, thầy sẽ luôn được tôi ủng hộ.
Thật tiếc là chính tôi cũng không có điều kiện gần gũi với Vasily. Nhưng tôi hứa với thầy dần dần tôi sẽ đưa cháu vào khuôn khổ.
Xin chào thầy!
I.Stalin, ngày 8/6/1938
Điều kỳ diệu đã xảy ra. Nỗi sợ hãi và căng thẳng của bố mẹ tôi ngay lập tức được giải tỏa. Tất nhiên là bố mẹ tôi rất vui mừng vì sự công bằng đã được phục hồi, bằng một cách bất ngờ nhất.
Bố mẹ tôi không phải chờ lâu. Bố tôi ít lâu sau đã được nhận trở lại trường. Giữa ông và Vasily sau đó có quan hệ khá là tốt đẹp.
Bay lên, Vasily!
Đó cũng nhan đề của một bộ phim tài liệu về Vasily Stalin do kênh 1 của Nga sản xuất. Bộ phim nói về sự trưởng thành của người con trai thứ của Stalin, một thời đã từng là học sinh cá biệt.
Các tài liệu được giải mật sau này của Liên Xô cho biết, sau khi nhận được thư của Stalin, thầy giáo Martyshin còn viết thêm một bức thư khác nữa gửi nhà lãnh đạo đất nước (gửi sau ngày 5/7/1938). Qua nội dung, chúng ta có thể biết sau khi Stalin gửi thư vài ngày, thầy giáo Martyshin đã được nhận lại về trường. Bức thư có đoạn:
“Đã nhiều lần tôi nói với các đồng nghiệp là cần phải cho đồng chí biết sự thật về chuyện học hành của cháu Vasily, nhưng họ đáp “Nếu đồng chí Stalin biết, cũng chả có ích gì, nếu không còn nguy hiểm ấy chứ”, hoặc “Anh im đi. Sự im lặng tô điểm thêm cho tuổi trẻ của anh đấy”...
Xin lỗi đồng chí vì sự làm phiền, nhưng tôi không thể giấu đồng chí một quan sát của riêng tôi: Đó là Vasily luôn cảm thấy đau đớn, ân hận vì những điều đã làm phiền lòng người bố mà cháu yêu thương hết mực.
Có một lần, khi tâm sự với tôi, Vasily có nói là cháu sẵn sàng làm tất cả những gì để lấy lại sự tin tưởng của bố, để được gần gũi với bố hơn”.
Và Vasily Stalin đã không phụ lòng tin cậy của bố. Sau khi tốt nghiệp trường Thiếu sinh quân, Vasily vào học tại trường Không quân Kacha ở Crưm, tốt nghiệp xong anh phục vụ trong lực lượng không quân. Trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Vasily Stalin đã dũng cảm tham gia 26 trận không chiến và bắn rơi 2 máy bay địch, được tặng thưởng huân chương Suvorov hạng nhì, huân chương Cờ Đỏ và huân chương Aleksandr Nevsky. Sau chiến tranh, Vasily Stalin có thời kỳ là Tư lệnh Lực lượng Không quân phòng thủ Moskva. Vasily Stalin mất năm 1962, khi mới 41 tuổi.
Sự thật về cái chết con trai cả Xtalin
(ĐVO)
- Để cứu nhân loại khỏi thảm họa Phát Xít, nhân dân Liên Xô đã
chịu nhiều tổn thất vô cùng to lớn. Hơn 20 triệu người đã hy
sinh, trong đó có con trai cả của Tổng tư lệnh tối cao Hồng quân
Liên Xô- Đại nguyên soái I.V. Xtalin. Đã có nhiều lời đồn đại
về số phận của anh. Nhân kỷ niệm 68 năm ngày chiến thắng Phát
Xit, người viết muốn gửi tới bạn đọc một thông tin về thượng
úy pháo binh Hồng Quân, con trai cả của I.V.Xtalin mà người viết
thu thập được từ các nguồn báo chí Nga.
Liệu Xtalin có thể cứu được con trai ra khỏi trại tù binh của Đức?
70 năm trước đây, vào ngày 14/4/1943,
con trai cả của I.V. Xtalin là Iakov Dgulashvili (họ thật của
Xtalin-ND) đã hy sinh trong trại tập trung của Phát xít Đức. Như
mọi người đã biết, trước đó không lâu lãnh tụ Xô Viết đã từ
chối không đổi Thống chế Paolus để lấy lại “giọt máu” của
mình.
Câu nói đã đi vào huyền thoại của ông: “Tôi không đổi một nguyên soái lấy một người lính” đã lan truyền khắp thế giới khi đó và làm tất cả kinh ngạc vì sự thông thái chính trị nhưng đồng thời cũng là một sự tàn nhẫn nếu nhìn từ ở góc độ của một người cha.
Câu nói đã đi vào huyền thoại của ông: “Tôi không đổi một nguyên soái lấy một người lính” đã lan truyền khắp thế giới khi đó và làm tất cả kinh ngạc vì sự thông thái chính trị nhưng đồng thời cũng là một sự tàn nhẫn nếu nhìn từ ở góc độ của một người cha.
Tuy nhiên, sau chiến tranh trên các
báo chí Phương Tây rộ lên tin đồn là cuối cùng Xtalin cũng đã
đổi hàng trăm tù binh sỹ quan Đức để cứu Iakov ra khỏi trại tù
binh, đưa sang Mỹ sống dưới một cái tên giả. Sự thật thì như
thế nào?
Ya. I. Dzhugashvili (18/3/1907 - 14/4/1943) |
Tù binh VIP
Chàng sỹ quan trẻ Iakov Dzugashvili
bị bắt làm tù binh ngay những ngày đầu chiến tranh, ngày
16/7/1941, khi các đơn vị Hồng quân đang buộc phải rút lui ở khu
vực ngoại ô Vitebsk. Trước đó, Iakov là một thượng úy trẻ mới
tốt nghiệp Học viện pháo binh và khi đến chào cha đã nhận
được lời dặn dò: “Hãy ra mặt trận và chiến đấu”, chưa từng
được qua “thử lửa”.
Đồng đội tại trung đoàn pháo 14
của sư đoàn tăng số 14, nơi Iakov chỉ huy một khẩu đội, đã không
thấy anh này trở về sau khi đơn vị rơi vào vòng vây của quân
Đức trong một trận đánh gần khu vực biên giới. Iakov, khác với
một số đồng chí cùng trung đoàn, đã không tìm lại được đơn vị
và được coi là đã mất tích.
Sau đó mấy ngày, phản gián Đức đã
thả vào lãnh thổ Xô Viết các tờ truyền đơn, trên đó có ảnh
con trai Xtalin chụp chung cùng các sỹ quan Phát Xít Đức.
Trên các tờ truyền đơn ghi rõ rằng
Iakov Dzugashvili “đã đầu hàng cùng hàng nghìn sỹ quan và binh
lính khác” và vì thế vẫn “sống, khỏe mạnh, và cảm thấy rất
thoải mái”. Đồng thời, quân Đức cũng khuyên tất cả hãy noi
gương của Iakov: “Tại sao các bạn lại chọn một cái chết chắc
chắn, trong khi con trai của tên đầu sỏ tối cao của các bạn đã
đầu hàng..?”
Người ta cũng thường nhắc đến một
câu nói nổi tiếng khác của I.Xtalin “Tôi không có một đứa con
trai như vậy”- sau khi đã đọc tờ truyền đơn nói trên I. Xtalin
muốn nói gì? Người trong bức ảnh trên truyền đơn không phải là
Iakov? Hay là Xtalin không muốn thừa nhận đứa con trai phản bội?
Không ai có thể biết được.
Cho đến hiện nay vẫn còn lưu giữ
được bản gốc các biên bản hỏi cung Iakov Dzugashvili trong các
trại tập trung. Từ các biên bản gốc này thấy rõ một điều là
Iakov đã xử sự hoàn toàn đường hoàng, không khai báo với người
Đức bất kỳ một bí mật quân sự nào và từ chối hợp tác với
quân Đức.
Sau này nhà sử học X. Kudriashov đã
viết: “Iakov nói chung là không có gì nhiều để kể với quân
Đức, ngoài những cảm nhận cá nhân... Quân Đức đã hỏi Iakov về
chiến tranh, nhưng với một thượng úy thì có gì nhiều để kể?
Anh không biết những gì quá đặc biệt.
Chỉ biết một điều chắc chắn rằng
Ikov bị giam giữ 2 năm trong các trại tập trung ở một chế độ
tù binh VIP- đầu tiên ở Hammelburg, sau đó tại Lubeck, và sau
cùng là Shchsenhausen. Và Iakov cũng được canh giữ cẩn thận để
làm con bài mặc cả trong một trò chơi chính trị và phương tiện
để gây sức ép đặc biệt lên I.Xtalin.
Người Đức đã thử sử dụng con bài
này vào mùa đông năm 1942-1943, sau thất bại tại Xtalingrad. Hitle
đã nhờ bá tước Bernadot là người đại diện của hội “Chữ thập
đỏ” Thụy Sỹ đề nghị Xtalin đổi Iakov lấy thống chế Paolus. Đề
nghị trên đã bị bác bỏ.
Con gái của Xtalin là Xvetlana
Allillueva, nhiều năm sau đã viết trong quyển sách của mình là
“20 bức thư gửi bạn” như sau: “Mùa đông năm 42-43 bố tôi (Xtalin)
đã bất ngờ nói với tôi trong một cuộc gặp hiếm hoi giữa hai
bố con: “Người Đức đề nghị cha đổi Iasha (tên gọi âu yếm của
Iakov-ND) lấy một người nào đó của chúng. Lẽ nào cha lại mặc
cả với chúng! Chiến tranh là chiến tranh!”. Vài tháng sau buổi
nói chuyện đó Iakov hy sinh.
Những hồi ức của nguyên soái Zukov
Có quan điểm cho rằng lãnh tụ không
muốn cứu con trai cả vì không có một tình cảm cha con thực sự
ấm áp với Iakov và cho rằng con trai mình là bị suy nhược
thần kinh và không thành đạt.
Cũng cần phải nói rằng, quả thực
I.Xtalin không trực tiếp tự mình dạy dỗ con trai cả. Iakov sinh
năm 1907 và khi mới 6 tháng tuổi đã mồ côi mẹ. Mẹ của anh,
người vợ đầu của Xtalin là Kato Svanhidze qua đời bị bệnh thương
hàn và Iakov được bà đem về nuôi dưỡng .
Cậu bé hầu như không biết gì về
người cha- một người cách mạng hoạt động bí mật và mãi đến
năm 1921, khi Xtalin đã là một nhân vật quan trọng ở Liên Xô lúc
bấy giờ, anh mới được đưa về sống tại Matxcơva. Lúc này, Xtalin
đã có người vợ thứ hai và đã có 2 con- Xvetlana và Vasili.
Cậu bé Iakov 14 tuổi, lớn lên ở
vùng sâu vùng xa, nói tiếng Nga rất kém, tỏ ra không sẵn sàng
cho cuộc sống ở Matxcova trong gia đình mới của cha. Người ta
nói rằng I.Xtalin luôn không hài lòng với việc học hành của
Iakov- đầu tiên ở trường phổ thông, sau đó ở Trường đại học
công nghệ, và cuối cùng là ở Học viện quân sự.
Ông cũng không hài lòng với cuộc
sống riêng trắc trở của Iakov. Khi chàng trai mới 18 tuổi, người
cha đã cấm không cho cưới một cô gái mới 16 tuổi với một câu
ngắn gọn “quá sớm”. Vì quá thất vọng, Iakov đã dùng súng tự
sát nhưng may mắn thoát chết vì đạn sượt qua đầu.
Lúc đó Xtalin đã gọi Iakov là đồ
“du côn và kẻ dọa dẫm” và xa lánh Iakov: “Kệ cho nó sống ở đâu
và với ai mà nó muốn!”. Ông cũng không ủng hộ mối quan hệ
của con mình với Olga Golưsheva quê ở thành phố Uriupinsk: Iakov
làm cô này có con nhưng lại không cưới.
Năm 1936, khi con trai cả Xtalin chính
thức đăng ký kết hôn với một nữ diễn viên múa của thành phố
Odessa là Iulia Melser, vợ cũ của một nhân viên NKVD (Bộ nội
vụ). Sau khi đôi vợ chồng trẻ sinh một cô con gái là Galia,
Xtalin mới nguôi giận và cấp cho họ một căn hộ khá tiện nghi
tại phố Grannoski (Matxcova).
Vào năm 1941, sau khi Iakov bị bắt
làm tù binh, Galia cũng bị bắt vì nghi ngờ là có liên lạc với
tình báo Đức.
“Vợ của Iakov, có vẻ không phải là
một con người đáng tin cậy,- Xtalin nói với con gái Xvetlana
(chi tiết này được kể lại trong “ 20 bức thư gửi bạn”), - cần
phải làm rõ việc này…. Còn con gái của Iakov (Galia) hãy cứ
để cháu ở chỗ con (Xvetlana). Trong khi mọi việc được cơ quan an
ninh điều tra thì Iulia bị giam 2 năm nhưng cuối cùng cô cũng
được trả tự do.
Người thực sự hiểu rõ là I.Xtalin
rất yêu con trai đến mức nào chính là nguyên soái Zukov (lúc đó
là phó Tổng tư lệnh tối cao và thường xuyên làm việc với
I.Xtalin), trong hồi ký của mình ông đã kể lại một buổi nói
chuyện không chính thức với Tổng tư lệnh tối cao (I.Xtalin) như
sau:
“Thưa đồng chí Xtalin, từ lâu tôi đã
muốn biết về số phận của con trai đồng chí. Có tin tức gì
về Iakov không?”- Zukov hỏi Xtalin. Sau một khoảng thời gian im
lặng rất lâu I. Xtalin trả lời với giọng nghẹn lại: “Iakov không
trốn thoát được khỏi trại tù binh. Bọn phát xít đã bắn chết
nó. Theo các tin tức thu thập được, quân Đức đã giam cách ly
Iakov với các tù binh khác và tuyên truyền để nó phản bội tổ
quốc”. Theo lời Zukov thì ông cảm thấy I. Xtalin rất đau buồn
trước cái chết của con trai.
Bí mật của Ibarruri
Có nhiều bằng chứng cho thấy là
trên thực tế I.Xtalin đã không hề phó mặc con trai mình cho số
phận và đã nhiều lần tìm cách cứu Iakov ra khỏi trại tù binh.
Đã có nhiều nhóm biệt kích được thả xuống lãnh thổ Đức để
tìm cách giải cứu tù binh Iakov Dzugashvili .
Một nhân chứng đã trực tiếp tham
gia vào một trong các chiến dịch như vậy và hiện còn sống tại
Anapa là Ivan Kotenhev đã kể lại cho báo “Độc lập” về chiến
dịch đó như sau: Nhóm biệt kích được máy bay bay đêm đưa vào
lãnh thổ Đức. Nhóm này đã nhảy dù thành công vào sâu trong
hậu phương quân Đức. Sau đó họ giấu dù, xóa sạch các dấu viết,
đến tảng sáng thì đã nối được liên lạc với nhau. Quãng đường
đến trại tập trung còn khoảng chừng 20 km… Bắt đầu công việc
trinh sát cực kỳ khó khăn.
Cũng theo lời kể của Kotenhev thì
khi đến nơi họ mới biết rằng Iakov đã được chuyển đến trại
tập trung khác ngay trước đó. Cả nhóm được lệnh quay về. “Việc
quay về khó khăn hơn nhiều, - và rất tiếc, nhóm cũng phải
chịu tổn thất..”
Chiến dịch thứ 2 cũng thất bại,
và chiến dịch này đã được một nữ đảng viên cộng sản nổi
tiếng người Tây Ban Nha Dololes Ibarruri kể lại trong hồi ký của
mình. Theo Ibarruri, tham gia chiến dịch có một người Tây Ban Nha
mang giấy tờ tùy thân tên một sỹ quan của “Sư đoàn xanh” của
Franko .
Nhóm này được tung vào hậu phương
của Đức năm 1942 để cứu Iakov từ trại tập trung Zaksenhauzen.
Tất cả những người tham gia đều hy sinh.
Vĩ thanh
Ngày 14/04/1943, tù binh Iakov
Dzugasgvili chạy ra khỏi phòng giam chung với một số tù binh quan
trọng khác, lao vào hàng rào dây thép gai và hét lên “Hãy bắn
tao đi!”. Lính canh đã bắn vào đầu Iakov.
Mãi nhiều năm sau, khi có điều kiện
tiếp cận với các hồ sơ cần thiết của phát xít Đức, người ta
mới biết sự thật về cái chết của anh. Có lẽ chính vì vậy
mà ngay sau chiến tranh mới có tin đồn là con trai Xtalin dù sao
cũng đã được cứu sống.
I.Xtalin chăm sóc con dâu Iulia và
cháu nội Galia chu đáo cho đến tận khi ông mất. Theo lời kể của
Galina Dzygashvili thì ông nội đối xử rất dịu dàng với cô và
lúc nào cũng nói với cô về người cha đã hy sinh: “Cháu giống
bố quá, giống bố quá…”
Lê Hùng
Số phận bi kịch của con trai Stalin bị Phát xít Đức bắt
27/05/2011 14
37
Tháng 4 năm 1943, Iacop Djugasvili-cón trai cả của Stalin đã chết trong trại tập trung Dacxenhauden của Đức. Số phận của Iacop dường như gắn với câu nói nổi tiếng đầy nghiệt ngã của Stalin: “Tôi không đánh đổi một thống soái lấy một người lính”.
Iacop quả là người không may mắn, bị bắt làm tù binh ngay từ những ngày đầu tiên của chiến tranh, ngày 16 tháng 7 năm 1941, gần Vitebxk, khi sư đoàn tăng số 14, trong đó thượng uý Djugasvili chỉ huy đại đội pháo binh, đã rơi vào vòng vây của phát xít Đức.
Anh tỏ ra rất can đảm khi làm tù binh 1 năm chín tháng mà không yêu cầu sự khoan dung của người Đức (mà họ thì chờ đợi điều đó và sự thật cũng đã mở lượng khoan hồng nếu đạt được cái giá thoả thuận từ anh) và không yêu cầu sự trợ giúp của bố (chính anh cũng hiểu rõ rằng điều đó là vô ích).

Iacop giữa vòng vây quân Đức
Iacop - đứa con “bán hoang dại” trong mắt cha
Iacop sinh ngày 30 tháng 3 năm 1907, ở Bacu, từ cuộc hôn nhân đầu tiên của Stalin với Ekaterina Svanidze. Ekaterina là chị gái của Aliosa Svanidze, bạn cùng hoạt động bí mật với Stalin. Stalin rất yêu Ekaterina. Song chẳng bao lâu sau ngày cưới (lúc ấy Iacop chưa đầy tuổi ) Ekaterina đã chết vì bệnh nặng. Khi chôn cất bà, Stalin đã khóc. Rồi sau đấy không bao giờ người ta thấy ông khóc nữa. Tuy vậy, tình yêu của ông với Ekaterina cũng không ngăn cản việc ông sau này huỷ hoại gần như cả dòng họ Svanidze.
Stalin có bốn người con trai. Ngoài Iacop và Vaxili (con trai của Stalin với Nadegiơda Allilueva - cuộc hôn nhân thứ hai của ông), ông còn hai người con ngoài giá thú: một người là kết quả của mối tình khi ông bị đi đày ở Xenvưregodoxk năm 1911 và một người, ở Turukhanxk năm 1917.
Khi mà những người bên ngoại đưa Iacop đến chỗ cha ở Matxcova, ông đón tiếp con trai chẳng chút mặn mà. Iacop gần như không nói bằng tiếng Nga, vì thế Stalin đã gọi anh là “bán hoang dại”. Và anh đã cảm thấy mình hoàn toàn không thoải mái khi ở trong nhà của cha, nếu như không có người mẹ kế là Nadegiơda Allilueva (hơn anh có 10 tuổi) đã đón tiếp anh như người ruột thịt. Bà là một phụ nữ nghiêm túc.
Ngay từ năm 1925 Iacop đã dự định lấy vợ, dường như anh muốn nhanh chóng rời khỏi mái nhà của cha và bắt đầu cuộc sống tự lập. Stalin cấm anh lấy vợ và nói rằng anh cần phải tốt nghiệp đại học.
Sự lạnh lùng và áp lực của cha đối với Iacop đã làm anh quá bức bối và tìm đến cái chết. Anh tự sát trong phòng bếp, nhưng viên đạn đã không trúng đích. Stalin nổi giận tuyên bố với Nadegiơda: “Mặc nó sống ở đâu nó muốn và ở với ai nó muốn.”
Iacop cùng Dôia của mình đến Leningrad. Hai người sống ở đó, trong nhà người thân của Nadegiơda. Iacop đã tốt nghiệp khoá học sửa chữa điện tử. Năm 1929 Dôia sinh con gái, không lâu sau cô bé bị chết. Sau sự kiện bi thảm đó, cuộc hôn nhân của họ bị tan vỡ.
Dường như đầu hàng, Iacop quay về Matxcova, thi đỗ vào đại học giao thông. Người cha vẫn không tham dự vào công việc của anh như trước kia. Sau cuộc hôn nhân dầu tiên có kết thúc buồn thảm, rất lâu sau Iacop không lấy vợ, dù như người ta vẫn nói anh rất có duyên với phụ nữ.
Quả thật, anh là người rất thú vị trong phong cách thời bấy giờ vì anh có vẻ đẹp lãng mạn, đặc biệt là đôi mắt, trong đó có cả nét sâu thẳm, cả sự dịu hiền pha lẫn nỗi buồn man mác. Đôi mắt này anh được thừa hưởng từ mẹ. Có lẽ phụ nữ say đắm anh vì những phẩm chất thực của anh, chứ không phải vì anh là con trai của Stalin
Năm 1934, Iacop làm quen với cô gái xinh đẹp tên là Onga. Số phận đưa đẩy cho họ được gặp nhau. Onga từ Uriupinxk về Matxcova để thi vào trường kỹ thuật hàng không. Tại Matxcova cô đã quen với Iacop. Lúc này Nadegiơđa không còn nữa. Bà đã quyên sinh năm 1932.
Từ mối quan hệ không hôn thú này cậu con trai Epgheni đã ra đời. Onga bỏ học ở trường kỹ thuật hàng không, trở về quê để sinh con, cho con mang họ mình. Không lâu sau Iacop nhắn tin đề nghị đổi họ của con trai sang họ mình. Và Onga đã làm theo.
Nếu như Iacop tới năm 14 tuổi mới được gặp cha, thì Epgheni được gặp cha sớm hơn nhiều. Năm lên hai tuổi cậu đã được mẹ đưa về Matxcova để gặp cha. Song kể từ đó Epgheni không bao giờ được gặp cha nữa. Lúc này Iacop đã cưới nữ diễn viên Iulia Mentsep và họ đã có một cô con gái. Như Epgheni kể lại, người vợ mới của Iacop đã yêu cầu mẹ ông, bà Onga, để con trai mình lại Matxcova với gia đình của họ. Nhưng mẹ ông không bao giờ làm thế.
Stalin thì không bao giờ chấp nhận Onga bởi nguồn gốc Do Thái của cô. Và khi Iacop bị bắt làm tù binh, Stalin đã ra lệnh bắt Onga.
Ngay trước chiến tranh Iacop Djugasvili đã tốt nghiệp Học viện pháo binh của Hồng quân công nông (RKKA ), trở thành quân nhân chuyên nghiệp và được đưa ra mặt trận hai ngày sau khi quân Đức bội ước, tấn công Liên Xô.

Xác Iacop bên hàng rào
Thượng uý Iacop Djugasvili bắt đầu cuộc chiến đấu của mình ngày 27 tháng 6 năm 1941 sau khi tiếp nhận chỉ huy đại đội pháo của trung đoàn lựu pháo số 14. Đại đội của anh tác chiến trong dải tấn công của tập đoàn quân xe tăng số 4 thuộc cụm tập đoàn quân “Trung tâm” của Đức.
Ngày 4 tháng 7 đại đội bị bao vây ở khu vực Vitebxk. Ngày 16 tháng 7 Iacop bị bắt làm tù binh. Chiến tranh đối với anh đã kết thúc, song những thử thách nghiệt ngã nhất đang chờ anh ở phía trước.
“Người lính” Iacop đã bị "ruồng bỏ" như thế nào?
Đối với Stalin - tổng tư lệnh - thì đây là đòn khủng khiếp nhất : bắt đầu chiến tranh đã thất bại nặng nề, đã thế lại trao vào tay đối phương một con bài tuyên truyền nữa.
Khi vòng vây của quân Đức đã thít chặt Vitebxk, đại tá chỉ huy sư đoàn tăng số 14 (đại đội của Iacop nằm trong biên chế của sư đoàn này), đã lệnh riêng cho trưởng phòng đặc biệt đưa Iacop lên xe của mình thoát ra khỏi vòng vây, nhưng Iacop từ chối. Vài giờ sau xe quay lại lần nữa, kết quả vẫn vậy. Đó là ngày 11 tháng 7, khi ấy Vitebxk đã thất thủ .
Việc Iacop bị bắt làm tù binh đã gây nên phản ứng dữ dội từ cả hai phía. Ngày 20 tháng 7 năm 1941 đài phát thanh Beclin đã phát đi bản tin: “Báo cáo từ ban tham mưu của thống soái Kliuge cho biết ngày 16 tháng 7 ở Liozno, Đông - Nam Vitebxk, binh lính quân đoàn cơ giới của tướng Smidt đã bắt được con trai của Stalin - thượng uý Iacop Djugasvili, chỉ huy đại đội pháo thuộc quân đoàn bộ binh số 7 của tướng Vinogradop”.
Cũng trong ngày hôm ấy từ Tổng hành dinh đã đánh đi một bức mật mã: “Giucop ra lệnh ngay lập tức làm rõ và báo cáo về Bộ tư lệnh mặt trận: chỉ huy đại đội pháo của trung đoàn lựu pháo 14 sư đoàn tăng 14 - thượng uý Djugasvili Iacop Ioxiphovich đang ở đâu”.
Từ đó thấy rõ rằng các nhân viên đặc biệt đã mất hoàn toàn dấu vết của Iacop từ vài ngày trước khi anh bị bắt và các cuộc tìm kiếm anh chỉ được khôi phục sau thông tin mà đài địch đã đưa.
Vào lúc đó thì Iacop đã bị bắt được 4 ngày. Ngày 18 tháng 7 năm 1941 anh đã bị hỏi cung ở ban tham mưu của tướng Giunter phon Kliuge, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng số 4, cụm tập đoàn quân “Trung tâm“( vài tuần sau ông ta đã trở thành tư lệnh cụm tập đoàn quân này).
Iacop vẫn bình thường. Anh hiểu rõ rằng anh không phải là một tù binh bình thường, mà là một con bài trong trò chơi của các “ông lớn”. Và anh cũng chẳng chờ đợi sự giúp đỡ từ đâu cả.
Ngày 19 tháng 7 năm 1941 Iacop được gửi thư cho bố. Anh viết rất ngắn gọn: “Bố kính mến! Con bị bắt làm tù binh. Con vẫn khoẻ và sắp tới sẽ được đưa đến 1 trong số các trại sĩ quan ở Đức. Giao tiếp bình thường. Con chúc bố khoẻ. Con gửi lời chào đến mọi người. Iacop”.
Stalin nhận được thư này rất muộn màng, mãi vào ngày 7 tháng 8 năm 1941. Không phải ông nhận được, mà là biết được sự kiện bức thư từ Zđanop (lúc bấy giờ là uỷ viên Hội đồng quân sự phương diện quân Tây Bắc) còn Zđanop thì nhận được tờ truyền đơn của Đức có in bức thư này.
Ngày 16 tháng 8 mệnh lệnh đáng buồn nổi tiếng số 270 của Tổng hành dinh Bộ tổng tư lệnh tối cao của Hồng quân, đã được ký, theo đó “những chỉ huy và chính trị viên đầu hàng quân thù” đã bị tuyên bố là “những kẻ đào ngũ cố ý, gia đình của họ sẽ bị bắt như gia đình của những kẻ đã vi phạm lời thề và phản bội tổ quốc của mình”.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà gần như ngay lập tức sau mệnh lệnh này, tháng 9 năm 1941, Iulia - vợ của Iacop đã bị bắt. Mùa xuân năm 1943 Iulia được ra khỏi tù, đầu bạc trắng.
Mùa thu năm 1942 Iacop bị đưa đến Beclin, ngành tuyên truyền của Gobbens đã làm việc với anh ở đó. Người Đức thu xếp cho anh ở khách sạn đầy đủ tiện nghi, nhưng không thể đạt thêm được điều gì từ anh, ngoài cái đã đạt được từ trước: chụp được vẻ mặt thất thần của anh hồi tháng 7 và ghi lại được nhận xét của anh về tình trạng hỗn loạn trong các đơn vị Hồng quân.
Đầu năm 1942 Iacop bị đưa vào trại tập trung, đó là trại sĩ quan “Oflag XIII- Đ” ở Hammelburg. Mùa xuân năm đó bị chuyển đến trại tập trung ở Liubec. Tại đây anh được gặp gỡ với một người tên Cazbegi, cũng là tù binh chính trị, vốn là quận vương ở Grudia. Lãnh đạo trại muốn Cazbegi gần gũi Iacop để tìm ra được chìa khoá, nhằm khám phá con người luôn lặng lẽ và trong tình trạng trầm cảm như anh.
Sau chiến tranh Cazbegi đã để lại vài trang hồi ký ngắn ngủi về chân dung con người của Iacop Djugasvili. Anh ta viết rằng, Iacop đã từng thú nhận với anh ta là đã “yêu thầm” mẹ kế của mình- Nadegiơda Allilueva. Một vài lần Iacop nói về Nadegiơda: “Đó là một thiên thần, người duy nhất ngọt ngào và dịu dàng với tôi, sau mẹ…”
Có tin rằng cuối năm 1942 Iacop lại bị đưa đến Beclin theo lệnh của Himmler, chính ông ta cùng Rodenberg đã gặp gỡ anh. Tháng 2 năm 1943 Iacop bị đưa đến trại tập trung Dacxenhauden, tới lán gỗ đặc biệt cùng con trai cựu thủ tướng Pháp Leon Blium và cháu họ của Churchill. Lúc ấy người Đức đã có ý định đánh đổi Iacop lấy thống soái Paulius (ông ta đã trở thành hàng binh ngày 31 tháng 1 năm 1943). Lời đề nghị này đã được chuyển qua chủ tịch Hội chữ thập đỏ Thuỵ Điển là công tước Becnadot.
Câu trả lời của Stalin đã trở nên nổi tiếng: “Tôi không đánh đổi một thống soái lấy một người lính”. Câu chuyện này đã bay khắp thế giới, Iacop chắc chắn đã biết về nó qua hệ thống truyền thanh trong trại.
Ngày14 tháng 4 năm 1943 Iacop Djugasvili đã chết trong hoàn cảnh chưa được làm rõ. Hoặc là anh bị bắn trong khi “có ý định bỏ trốn”. Hoặc là trước khi bị bắn anh đã kịp chạy tới hàng rào và chết vì bị điện cao thế giật khi chạm vào nó.
Phản ứng của người cha thật đặc biệt: gần như ngay sau đó Iulia - vợ goá của Iacop, được thả ra khỏi nhà tù ở Quibưsep.
Cuộc đời bi kịch của Iacop đã kết thúc như vậy. Cái chết đã là sự giải thoát đối với chính Iacop, đối với người vợ goá và đứa con gái bé nhỏ của anh.
(Theo VTC/Tuyệt mật)
Lớn
lên, Archiom cùng con trai thứ của Xtalin là Vaxili vào học ở trường
quân sự. Về cuối đời binh nghiệp, ông là trung tướng của quân đội
Xôviết. Gần đây, tờ báo Tin nhanh là cơ quan thông tin đầu tiên "bật mí"
câu chuyện về Archiom và được ông trả lời những câu hỏi lý thú.
Một ngôi nhà vườn không to tát cầu kỳ nhưng thoáng đãng. Ông già có khuôn mặt phúc hậu, hồn nhiên và hoạt bát, tươi cười cởi mở đón khách. Nhìn ông, không ai nghĩ là năm nay ông đã sang tuổi 86.
Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa khách và chủ.
- Archiom Fedorovich, ông là người con nuôi của lãnh tụ Xtalin nhưng nhiều người không biết chuyện này? Vì sao vậy? Có điều gì bí ẩn?
- Thật là đơn giản, vì tôi chưa một lần kể với ai rằng tôi là con nuôi Xtalin, rằng tôi được gia đình Xtalin nuôi dưỡng thành người. Mẹ tôi cũng hoàn toàn im lặng về điều đó.
- Sau khi Xtalin mất và cả con trai Vaxili của Xtalin nữa thì Khrusov có biết ông không?
- Khrusov không biết tôi, hoàn toàn không biết tôi. Và cả Brejnev nữa, cũng không biết tôi. Đó là điều tốt cho tôi.
- Ông đã trở thành con nuôi Xtalin như thế nào?
- Bố tôi và Xtalin là bạn chiến đấu, thân nhau từ năm 1906, khi còn hoạt động bí mật. Cả hai đều là đại biểu của các đại hội Đảng trước Cách mạng. Cả hai từng cùng bị tù và bị đi đày.
Từ năm 1917, họ luôn sát cánh cùng nhau cho tới ngày bố tôi mất do một tai nạn giao thông bất ngờ. Khi cùng đoàn đi dự Đại hội 10 của Đảng rồi được cử đi trấn áp cuộc nổi loạn ở Cronstad (tháng 3/1921), bố tôi đã đề nghị với Xtalin rằng, nếu bố tôi có mệnh hệ gì thì nhờ Xtalin chăm sóc gia đình tôi, vì lúc ấy tôi còn trong bụng mẹ.
Cũng vào lúc đó Vaxili – con trai thứ hai của Xtalin ra đời. Thế là từ 5 tháng tuổi, tôi được gia đình Xtalin nuôi dưỡng, sống cùng một phòng với Vaxili cho tới năm 16 tuổi.
- Tôi không thể hiểu nổi, bởi chính ông không chỉ đơn giản là một thành viên của gia đình vị nguyên thủ quốc gia mà sau này còn là một vị tướng của quân đội Xôviết nữa. Đấy có phải là cái kim trong đụn cỏ khô đâu?
- Tôi phục vụ trong quân đội mà không cần “ô dù”, không cần đặc cách để tiến thân. Tôi đóng quân ở xa Moskva. Vào những năm 1937-1938, tôi học ở trường quân sự, rồi sau là học viên của Trường sĩ quan pháo binh Leningrad số 2.
Tốt nghiệp trường đó năm 1940, tôi được chỉ huy một trung đội. Khi chiến tranh nổ ra, từ ngày 28/6/1941, tôi chỉ huy một trung đội pháo. Chiến trận diễn ra ác liệt, không cân sức. Chúng tôi bị quân Đức đông gấp bội ném bom, bắn phá hủy diệt. Sau khi xe pháo bị đánh tan, tôi được cử chỉ huy một đại đội bộ binh.
Bị quân thù bao vây chặt, chúng tôi đã phá vây và tập hợp lại thành một đội quân du kích. Tôi đã bị quân Đức bắt trong thế không còn đường thoát. Bị chúng đưa tới trại tập trung rồi vào nhà tù ở Orsa. Tôi may mắn tìm cách chạy thoát được.
Dĩ nhiên, nếu lúc ấy có ai đó biết rõ lý lịch tôi thì chắc tôi khó thoát! Rồi tôi lại trở về tham gia các đơn vị chiến đấu, hết trận này tới trận khác.
- Ông là con nuôi Xtalin, nhiều năm được sống trong gia đình của lãnh tụ. Ông thấy Xtalin thế nào? Có người cho là khuôn mặt Xtalin trong ảnh là được tô điểm.
- Xtalin không bao giờ tô điểm gì, rất tự nhiên. Khuôn mặt hiền hậu, không có tì vết gì. Nói chung khuôn mặt ông trông rất thông minh, giản dị của một con người tốt. Có một phụ nữ từng bị hại trong những năm bị trấn áp là Kira Pavlovna khi được hỏi về Xtalin cũng trả lời: “Nếu nói thật thì ông là một người khả ái”.
- Thế Xtalin nuôi dạy ông như thế nào?
- Bố nuôi tôi là một người cha ân cần và mẫu mực, điềm đạm. Về bản chất, ông là một con người năng nổ, linh hoạt nhưng rất mô phạm. Ông không cho phép đứa trẻ tự coi mình là người không biết suy nghĩ. Ông nói chuyện với chúng tôi, với Vaxili, với con gái út Svetlana về những vấn đề một cách nghiêm túc rõ ràng, dễ hiểu.
Có lúc ông đưa chúng tôi ra làm gương cho nhau trong sinh hoạt, đối xử. Ví như khi thấy những khiếm khuyết của Vaxili thì ông đã đưa tôi ra làm gương. Và ông biết đó là điều không hay cho Vaxili. Thực ra thì Vaxili là người tốt, anh ấy có thể hiến dâng tất cả, tặng tất cả, nhưng bản chất là người hiếu thắng.
Trong số những món quà Xtalin cho tôi có hai cuốn truyện hay. Ông đề tặng tôi trong cuốn sách “Robinson Cruso” của Daniel Defo: “Tặng Tomic thân yêu của cha, chúc con lớn lên thành người Bolsevich giác ngộ, kiên định và dũng cảm”.
Ông gọi tôi là Tomic để kỷ niệm tên cha tôi thời hoạt động cách mạng ở nước ngoài theo cách gọi của người địa phương nơi đó.
Do rất bận công việc nhà nước nên ông ít khi chơi với con cái. Khi có chút thì giờ rảnh rỗi, hay khi đi làm về mà con cái chưa đi ngủ thì ông mới trò chuyện.
- Thế ông có nhớ gì về Trosky?
- Tất nhiên là có. Chính xác là khi tôi lên 6 tuổi, lần đầu tiên tôi chú ý tới ông ấy. Tôi lập tức có ấn tượng không tốt: ông có chòm râu nhỏ, luôn tỏ ra dữ tợn, đôi mắt nhìn xuyên suốt, lạnh lùng. Tôi có cảm nhận đầu tiên rằng đó là con người không tốt.--PageBreak--
Bố tôi và Trosky là 2 người đối nghịch. Các chiến hữu của bố tôi luôn đề phòng sao cho họ không nổi nóng mỗi khi gặp nhau, bởi vì bố tôi là người nắm vững những phương thức đấu tranh, còn Trosky thì đóng vai trò tên phản bội, đạo đức giả.
Hắn chỉ luôn tìm cách thụi ngầm địch thủ đằng sau lưng, khi trước mặt thì tỏ ra là “bạn hữu”. Lúc đó hầu hết đều nhận ra bộ mặt thật của Trosky.
- Thế ông có nhớ gì về Beria không?
- Tôi có ấn tượng u ám. Mỗi khi Beria tới nhà Xtalin thì không khí thật nặng nề khó chịu. Tuy nhiên lúc đó Beria là một nhân vật to tát, có vai vế. Tất cả năng lượng nguyên tử là ở ông ta. Không phải vô cớ mà nhà bác học I.Curtratov đã khuyên và thậm chí còn nằng nặc yêu cầu Chính phủ để cho Beria thay Molotov đứng đầu dự án nguyên tử...
- Xin hỏi hơi tò mò một chút: Các vị lãnh đạo “tu chỉnh, sửa
sang nhan sắc” của mình ở đâu? Ví như cần cắt tóc, cạo râu chẳng hạn?
- Ở Kremlin có một hiệu cắt tóc, cạo râu chung cho tất cả. Tôi thấy hình như bố tôi tự cạo râu cho mình, vì tôi không còn nhớ ai đến làm cho bố tôi cả. Còn cắt tóc thì ông cũng tới hiệu chung đó. Một hôm, tôi đã tới hiệu cắt tóc. Đang ngồi chờ theo thứ tự thì Mikhain Ivanovich Kalinin đi tới.
Tôi lập tức nhường chỗ của mình cho ông. Nhưng ông đã từ chối và nói: “Không, không được làm thế. Bây giờ tới lượt của cháu thì cháu cứ vào. Lẽ nào chúng ta lại có cái luật cho phép Kalinin không phải xếp hàng vào hiệu cắt tóc?
Không có luật lệ nào như thế. Tôi là người ký ra văn bản luật pháp thì tôi trước hết phải thi hành luật đó... Nào, cháu cứ mạnh dạn thực hiện cái quyền của mình...”.
- Đúng là “đã có những người như thế trong thời đại chúng ta?...".
- Tôi nhớ lại một vài sự kiện mà Ivan Alexandrovich Serov, Bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia lúc đó kể khá tỉ mỉ. Chắc các anh đã từng nghe chuyện đơm đặt về Xtalin rằng ông không ra chiến trường.
Thì đây, một hôm ông ra lệnh: Chuẩn bị đi ra mặt trận. Ông Serov đã chuẩn bị xe cộ, còn người đi theo thì rất ít. Họ đi đến Phương diện quân miền Tây. Xtalin chú ý tới công việc ở đó; sự hoạt động của không quân ta; kiểm tra rồi khen ngợi Không quân tầm xa của tướng Golovanov vì đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ chiến đấu được giao.
Rồi Xtalin đến Phương diện quân Kalinin. Từ sở chỉ huy ở đó, ông gọi về Moskva cho Georgi Maximilianovich Malenkov. Malenkov liền hỏi: “Thưa đồng chí Xtalin, đồng chí gọi từ đâu đấy?”. Trả lời: “Từ đâu, đó là điều không quan trọng...”.
Một cuộc trao đổi công việc rất lâu, một lần nữa tên của Golovanov lại được nhắc tới ở mức cao nhất. Lúc đó Xtalin nói với Malenkov: “Ngày mai trên các báo sẽ đăng tin về việc Golovanov được phong hàm Nguyên soái Không quân”.
Rồi lập tức nhiều người gọi điện chúc mừng Tư lệnh Không quân Golovanov, Xtalin cũng gọi chúc mừng vị Tư lệnh này được phong hàm Nguyên soái. Ông Golovanov nói rằng, ông không được biết gì về việc đó. Xtalin nói ngay: “Hãy đọc báo đi!”.
- Ông sống ở gia đình lãnh tụ như thế nào?
- Từ năm 1923 đến 1927, tôi và Vaxili cùng được nuôi dạy ở nhà trẻ. Ngoài chúng tôi – là những đứa con mà cha mẹ không có điều kiện và thì giờ chăm nuôi do quá bận rộn với công việc quốc gia, còn có một số khác không nhà cửa, mồ côi cha mẹ... Tất cả có 50 đứa, gọi vui là “nhà trẻ 50”.
Các bà bảo mẫu chăm sóc chu đáo và tận tình dạy dỗ, không phân biệt đó là con Xtalin hay trẻ vô gia cư và mồ côi cha mẹ. Về sau tất cả chúng tôi đều được đi học ở trường phổ thông, rồi chúng tôi vào học trường quân sự. Khi chiến tranh nổ ra, chúng tôi đều lập tức ra chiến trường.
- Thế khi nào thì ông và Vaxili gặp nhau lần cuối cùng?
- Chúng tôi vẫn còn được gặp nhau khi anh ấy vào nằm điều trị ở quân y viện.
Tham gia chiến tranh, Vaxili được thưởng 4 huân chương. Các bạn cùng lứa, có người được thưởng nhiều hơn. Một lần, đội bay ném bom của Đức ồ ạt tấn công vào hậu phương của ta. Khi phát hiện ra chúng, Vaxili lập tức phóng máy bay lên chặn đánh mặc dù máy bay của anh chưa kịp trang bị đầy đủ vũ khí.
Bộ chỉ huy ở mặt đất chứng kiến hành động mưu trí và dũng cảm đó đã ghi danh để phong anh hùng. Tuy nhiên, khi đã biết đó là con trai Xtalin thì họ đã hạ xuống một bậc: chỉ tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ...
Về Vaxili – người bạn, người anh em của tôi đã có nhiều bài viết không đúng sự thật, thậm chí còn vu khống. Và ngày nay có người vẫn tiếp tục cố tình bóp méo hình ảnh của anh... Sự thật không phải như vậy.
- Xin hỏi, ông có coi Xtalin là một người cha thật sự?
- Vâng, tôi rất tự hào về cả hai người cha của mình. Tôi tự hào vì cả hai được an táng ở bức tường Điện Kremlin. Những ngày sinh và ngày mất của hai người, tôi đều mang những bó hoa tươi thắm đến dâng trước mộ, bày tỏ lòng thành kính, biết ơn của mình. Tôi rất tự hào về hai người cha của mình
Nguyễn Hữu Dy
Suốt 2 ngày trời Stalin bị tai biến, không một bác sĩ nào được gọi đến.
Vào cuối buổi chiều ngày 28/2/1953, sau một ngày đọc báo cáo, nói chuyện với các cận vệ, đi dạo trong khu vườn tuyết phủ rồi thư giãn bằng cách tắm hơi, Stalin đến điện Kremli và gặp bốn đồng chí quen thuộc, trong đó có thêm Thống chế Vorochilov – một trong những lãnh đạo quân đội hiếm hoi còn được ông ưu ái. Sau cuộc họp khoảng hai mươi phút thì các lãnh đạo cao cấp kia xem phim, còn ông rời văn phòng làm việc và trở về nghỉ ngơi tại khu biệt thự đồng quê của mình ở Kountsevo.
Vào khoảng 23h, những người đồng chí ghé khu biệt thự của
Stalin, có vẻ như là họ muốn thăm ông. Như thường lệ, đó là một buổi tối
nghiêm túc và vui nhộn. Họ nói chuyện với nhau về kinh tế, và nhiều hơn
một tí về chiến tranh Triều Tiên... Vào khoảng 4 giờ sáng, Stalin tiễn
chân các khách mời đến tận những chiếc Limousine của họ. Ông ta nhìn họ
khuất dần, trở về căn phòng ấm cúng, cho các cận vệ đi nghỉ, rồi thả
người trên chiếc ghế sofa trong phòng ăn. Người ta đóng cửa lại. Ánh
sáng trong ngôi nhà nghỉ lần lượt được tắt đi.
Stalin thường đi ngủ rất muộn và không ai dám đánh thức ông dậy. Từ vệ sĩ, những người giúp việc cho tới quản gia, không ai có quyền bước vào phòng nếu không được gọi. Ông thường ngủ đến 10 hay tận 11 giờ trưa hôm sau. Có thể nói giấc ngủ của ông là bất khả xâm phạm. Do vậy vào sáng ngày 1/3, khi mặt trời đã lên cao, ánh nắng đã chiếu rọi cả vào phòng thì ông vẫn chưa dậy.
Người quản gia không dám đánh thức ông. Các cận vệ chờ đợi được gọi vào. Thời gian trôi qua, nhưng không ai lo lắng cả. Lãnh tụ có thể đã thức dậy làm việc trong đêm, hoặc đang tập trung vào mớ hồ sơ. Ông có đầy đủ đồ ăn thức uống trong phòng. Có thể là ông không muốn ai làm phiền.
12 giờ trưa, rồi 13 -14h vẫn chưa thấy lãnh tụ ra ngoài như thường lệ. Tâm trạng lo ngại mơ hồ có thể cảm thấy nơi những cận vệ và phía người quản gia. Bất chợt vào khoảng 18h30 mới có ánh sáng đèn trong phòng ông, đội cận vệ nhẹ lòng được một chút. Đến 22h, một chiếc xe hơi của điện Kremli mang đến các thư từ và hồ sơ. Trưởng đội cận vệ trực hôm ấy, Lozgatchev, vẫn còn do dự nhưng rốt cuộc quyết định bước vào gian phòng ăn nhỏ.
Khi cánh cửa được dè dặt mở ra, anh hiểu vì sao đã không được triệu đến trong ngày: Stalin nằm dài trên thảm trải sàn, mặc chiếc áo lót mình, còn chiếc quần pyjama thì ướt đẫm nước tiểu. Lozgatchev vội chạy đến và nhận ra Stalin vẫn còn sống, nhưng không nói được nữa, chỉ rên nhỏ. Chiếc đồng hồ và tờ báo Pravda rơi dưới đất. Đồng hồ ngưng ở vạch 6h30.
Đại tá Starotsine và quản gia Boutouzova được gọi đến. Người ta đưa ông lên chiếc ghế sofa, rồi chuyển sang một chiếc ghế dài khác trong phòng ăn lớn, thoáng khí hơn. Tuy nhiên, không một cận vệ nào cảm thấy sự cần thiết phải gọi một bác sĩ ngay lập tức bởi họ lo sợ việc này có thể gây hậu quả xấu trong thời điểm bị cho là có vụ âm mưu phản loạn “áo choàng trắng”.
Và Khrustalev đã gọi điện khẩn cho bộ chính trị, nhưng đầu dây bên kia chậm trả lời và không nhanh chóng gọi cấp cứu. Chính sự chậm trễ gọi bác sĩ trong thời điểm cần thiết và duy nhất để cứu tính mạng Stalin đã gây nghi ngờ rằng ông bị đội trưởng đội bảo vệ tiêm thuốc ngủ theo lệnh của giám đốc KGB Beria.
Đến ba giờ sáng, tức hơn 20 tiếng đồng hồ sau khi Stalin bị tai
biến, Beria và Malenkov mới đến nơi. Beria quát mắng các cận vệ đang
nài nỉ gọi bác sĩ. Ông ta và các quan chức chính phủ muốn tận mắt xem
có phải đúng là ông bị trúng gió như lời bà phục vụ đã nói không. Beria
cho rằng ông chỉ đang ngủ, những tiếng thở dốc của ông có thể bị lầm
tưởng là tiếng ngáy.
Ông ta còn chặn họng viên cảnh vệ và bà phục vụ: "Các người còn hoảng loạn nỗi gì? Đi ngay khỏi đây, cấm không được phá rối giấc ngủ của lãnh tụ”. Ông ta còn đe dọa sẽ tính sổ với họ rồi cùng với các quan chức chính phủ đi ra xe. Nhưng chỉ sau đó vài giờ, họ lại trở lại vì bà phục vụ và các nhân viên cảnh vệ đã bực tức không thể kiên nhẫn được nữa.
Có thể Beria đã hiểu rằng Stalin sẽ không qua khỏi nếu không được chạy chữa. Nhưng nếu không cố gắng cứu chữa cho Stalin thì vẫn hơn. Quyền lực đang bỏ trống, và tốt nhất nên nắm lấy. Cuối cùng các quan chức chính phủ yêu cầu phải đưa người bệnh sang một phòng bên cạnh, cởi bỏ quần áo cho ông và đặt ông lên giường.
Lúc đó các bác sĩ vẫn chưa tới và nhìn từ góc độ y học, có thể nói việc đưa người bệnh rời khỏi chỗ ngã là không có lợi, khi người bệnh bị trúng gió thì không nên di chuyển. Và một điều cần phải nói là những bác sĩ ở ngay gần đó cũng không được gọi tới khám cho Stalin.
Trong khi ông nằm chờ được cứu chữa thì Beria và ba ủy viên “Bộ Chính trị cơ động” tranh luận gay gắt để phân chia quyền hành, củng cố vị trí mình và giữ cho các đối thủ tiềm năng phải đứng ngoài cuộc. Các cận vệ và người hầu cận ở Kountsevo nhận lệnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra. Thế nên thêm một ngày nữa trôi qua, mà không có bác sĩ nào được mời đến.
Cuối cùng, các nhân viên của MGB và Maria Boutouzova, càng lúc càng lo lắng, cố gắng liên lạc lần nữa với Malenkov. Ông này xiêu lòng, bèn gọi cho Beria và Khrouchtchev, hai người này đùn đẩy sang Bộ trưởng Y tế Tratiakov. Rốt cuộc ông bộ trưởng cho gửi đến một toán y bác sĩ do giáo sư Loukomski dẫn đầu. Họ đến nơi vào lúc 7 giờ sáng ngày 03/03, tức 48 giờ sau khi Stalin gặp nạn.
Một cái chết khó hiểu
Đến lúc này Stalin mới được các bác sĩ thăm khám. Họ run rẩy vì sợ hãi, bắt tay vào công việc. Họ cởi quần áo bệnh nhân, gỡ bộ răng giả ra và chẩn đoán. Nhịp tim và huyết áp thấp, nửa người bên phải bị liệt, nửa người trái bị những cơn co giật. Kết quả tỏ ra bi quan: Stalin bị xuất huyết não trái, nặng đến nỗi có thể chắc chắn rằng ông ta không bao giờ còn làm việc được nữa.
Các bác sĩ kê toa thuốc để rửa và đặt những con đỉa sau tai trái. Rồi đáng sợ thay, đội ngũ hùng hậu ra đi, để lại một bác sĩ thần kinh, một bác sĩ đa khoa, một nữ y tá. Người bệnh được chỉ định là phải…nghỉ ngơi và ăn kiêng.
Vào cuối ngày, các thành viên Bộ Chính trị trở về điện Kremli. Việc điều hành tạm thời được giao cho Malenkov. Vị trí người đứng đầu an ninh nội chính của Beria càng vững chắc hơn. Cùng với Malenkov và Khrouchtchev, ông ta còn được giao trách nhiệm sắp xếp các giấy tờ của Stalin. Ba người này lập tức bắt tay vào công việc, mở các rương giấy tờ bí mật nhất và hủy đi tất cả những gì tố cáo họ có tham gia các vụ thanh trừng trong quá khứ và hiện tại.
Đến sáng 4/3 các đài phát thanh đã có thể công bố căn bệnh của Stalin. Sáng sớm 5/3, radio loan báo mạng sống của Stalin đang lâm nguy. Tại Kountsevo, Stalin dường như vẫn luôn ngủ trên chiếc ghế sofa, đôi khi có mở mắt, phát ra được đôi ba tiếng động nhưng không thể nào trả lời những câu nói được người ta thầm thì bên tai.
Sau này, con gái ông cho biết: “Có lúc ông bỗng mở mắt ra, nhìn bao quát những ai đang đứng xung quanh. Đó là một cái nhìn khủng khiếp, hoảng loạn và giận dữ, chứa đầy nỗi kinh hoàng trước tử thần và khuôn mặt của các thầy thuốc không quen biết bao quanh. Ánh mắt ấy bao trùm lấy chúng tôi trong một chớp mắt. Rồi ông giơ bàn tay trái lên – có thể là ông chỉ cho chúng tôi điều gì đó trên cao, hoặc là ông đe dọa tất cả mọi người. Hành động này khó thể hiểu được”.
Vào buổi sáng 5/3, Stalin yếu dần: buồn nôn, khó thở, ói ra máu, trụy tim mạch liên tục, biến chứng ở tim và ngộp thở. Đến buổi chiều hôm đó, ông trút hơi thở cuối cùng. Thi hài ông được đưa đi để phẫu thuật. Mọi người ở biệt thự đều tuân lệnh của Beria là rời khởi đây. Bà phục vụ, viên cảnh vệ, những người từng đòi gọi bác sĩ ngay lập tức để khám cho Stalin đã bị buộc thôi việc. Và tất cả mọi người ở đây đều được lệnh là phải giữ mồm giữ miệng.
Ngôi biệt thự bị đóng cửa, cửa lớn bị niêm phong giống như chưa từng có sự tồn tại của tòa biệt thự. Ngày 9/3, xác của Stalin được trọng thể đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng tại lăng mộ ở Quảng trường đỏ.
Như vậy trong cái chết của Stalin rõ ràng là có bàn tay của Beria và những quan chức chính phủ. Một điều dễ nhận thấy là hành động của các quan chức chính phủ khi thấy Stalin lâm nạn khiến người ta khó hiểu. Vì sao sau khi nhận được điện báo của người cảnh vệ, Beria và những cộng sự của ông ta đã đến khu biệt thự mà họ không gọi ngay cho bác sĩ?
Khi họ nghe Beria nói rằng Stalin đang ngủ, đừng làm cho ông ta mất ngủ, thế là tất cả họ lại trở về nhà và điều này làm cho người ta cảm thấy kỳ quặc. Sự việc càng làm tăng thêm nghi vấn là, sau khi viên cảnh vệ phát hiện Stalin đang mặc quần áo ngủ nằm dưới nền nhà, vì sao anh ta lại không gọi y tá đến giúp sức? Cần biết rằng, thời gian quý báu đó đã bị bỏ lỡ.
Vấn đề cuối cùng này đã được trả lời ngay sau khi Stalin mất không lâu. Lãnh tụ Stalin đã xây dựng cho mình một đội con tin có một chế độ quản lý riêng, theo quy tắc làm việc tỉ mỉ đã được Beria phê chuẩn, nếu không được ông ta phê chuẩn thì bác sĩ không được đến chỗ Stalin. Biện pháp phòng ngừa này được áp dụng sau khi Viện sĩ Venogratop bị bắt.
Nói thực ra, “vụ án y tế” từng sôi động một thời bắt đầu từ Venogratop. Bác sĩ riêng của Stalin phát hiện thấy tình hình sức khỏe của ông đã xấu đi rất nhiều, viện sĩ đề nghị cần giảm bớt nhiều công việc quá căng thẳng, Stalin tỏ ra tức giận với việc chẩn đoán này. Từ đó, ông không cho phép viện sĩ vào căn phòng của mình nữa, và ít lâu sau, bác sĩ bị tống vào tù.
Khi Stalin qua đời, người ta phát hiện có một lá thư ngay trong phòng của ông, nó được viết bởi cố Tổng thống Nam Tư Josip Broz Tito, người đã cầm quyền cai trị nhà nước Nam Tư trong suốt 27 năm. Stalin đã cố gắng bằng mọi giá phải tiêu diệt Josip Broz Tito trong nhiều dịp khác nhau. Ông cảm thấy bất ổn với Tito vì Tito có cơ hội thoát khỏi các quốc gia Serbia, Croatia và Slovenia và đưa Nam Tư trở thành một nhà nước độc lập, thoát khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô.
Stalin luôn sống trong trạng thái cảnh giác với Tito và từng ám sát Tito đến 22 lần vào những năm sau Thế chiến II. Trong lá thư bí mật mà Tito gửi cho Stalin có lời tuyên bố rằng trong khi Stalin phái đi nhiều “thích khách” thì Tito chỉ cần một là đủ.
Chính điều này đã khiến sử gia danh tiếng người Slovenia Joze Pirjrvec nghi ngờ rằng Tito có thể ra lệnh cho một thích khách Nam Tư tiến hành ám sát Stalin. Tuy nhiên, xoay quanh cái chết của vị lãnh tụ Liên Xô một thời này vẫn còn trùng trùng nghi vấn mà có lẽ chỉ có nhân vật chính mới thực sự biết nó là gì.
Số phận bi kịch của con trai Stalin bị Phát xít Đức bắt
27/05/2011 14
Tháng 4 năm 1943, Iacop Djugasvili-cón trai cả của Stalin đã chết trong trại tập trung Dacxenhauden của Đức. Số phận của Iacop dường như gắn với câu nói nổi tiếng đầy nghiệt ngã của Stalin: “Tôi không đánh đổi một thống soái lấy một người lính”.
Iacop quả là người không may mắn, bị bắt làm tù binh ngay từ những ngày đầu tiên của chiến tranh, ngày 16 tháng 7 năm 1941, gần Vitebxk, khi sư đoàn tăng số 14, trong đó thượng uý Djugasvili chỉ huy đại đội pháo binh, đã rơi vào vòng vây của phát xít Đức.
Anh tỏ ra rất can đảm khi làm tù binh 1 năm chín tháng mà không yêu cầu sự khoan dung của người Đức (mà họ thì chờ đợi điều đó và sự thật cũng đã mở lượng khoan hồng nếu đạt được cái giá thoả thuận từ anh) và không yêu cầu sự trợ giúp của bố (chính anh cũng hiểu rõ rằng điều đó là vô ích).
Iacop giữa vòng vây quân Đức
Iacop - đứa con “bán hoang dại” trong mắt cha
Iacop sinh ngày 30 tháng 3 năm 1907, ở Bacu, từ cuộc hôn nhân đầu tiên của Stalin với Ekaterina Svanidze. Ekaterina là chị gái của Aliosa Svanidze, bạn cùng hoạt động bí mật với Stalin. Stalin rất yêu Ekaterina. Song chẳng bao lâu sau ngày cưới (lúc ấy Iacop chưa đầy tuổi ) Ekaterina đã chết vì bệnh nặng. Khi chôn cất bà, Stalin đã khóc. Rồi sau đấy không bao giờ người ta thấy ông khóc nữa. Tuy vậy, tình yêu của ông với Ekaterina cũng không ngăn cản việc ông sau này huỷ hoại gần như cả dòng họ Svanidze.
Stalin có bốn người con trai. Ngoài Iacop và Vaxili (con trai của Stalin với Nadegiơda Allilueva - cuộc hôn nhân thứ hai của ông), ông còn hai người con ngoài giá thú: một người là kết quả của mối tình khi ông bị đi đày ở Xenvưregodoxk năm 1911 và một người, ở Turukhanxk năm 1917.
Khi mà những người bên ngoại đưa Iacop đến chỗ cha ở Matxcova, ông đón tiếp con trai chẳng chút mặn mà. Iacop gần như không nói bằng tiếng Nga, vì thế Stalin đã gọi anh là “bán hoang dại”. Và anh đã cảm thấy mình hoàn toàn không thoải mái khi ở trong nhà của cha, nếu như không có người mẹ kế là Nadegiơda Allilueva (hơn anh có 10 tuổi) đã đón tiếp anh như người ruột thịt. Bà là một phụ nữ nghiêm túc.
Ngay từ năm 1925 Iacop đã dự định lấy vợ, dường như anh muốn nhanh chóng rời khỏi mái nhà của cha và bắt đầu cuộc sống tự lập. Stalin cấm anh lấy vợ và nói rằng anh cần phải tốt nghiệp đại học.
Sự lạnh lùng và áp lực của cha đối với Iacop đã làm anh quá bức bối và tìm đến cái chết. Anh tự sát trong phòng bếp, nhưng viên đạn đã không trúng đích. Stalin nổi giận tuyên bố với Nadegiơda: “Mặc nó sống ở đâu nó muốn và ở với ai nó muốn.”
Iacop cùng Dôia của mình đến Leningrad. Hai người sống ở đó, trong nhà người thân của Nadegiơda. Iacop đã tốt nghiệp khoá học sửa chữa điện tử. Năm 1929 Dôia sinh con gái, không lâu sau cô bé bị chết. Sau sự kiện bi thảm đó, cuộc hôn nhân của họ bị tan vỡ.
Dường như đầu hàng, Iacop quay về Matxcova, thi đỗ vào đại học giao thông. Người cha vẫn không tham dự vào công việc của anh như trước kia. Sau cuộc hôn nhân dầu tiên có kết thúc buồn thảm, rất lâu sau Iacop không lấy vợ, dù như người ta vẫn nói anh rất có duyên với phụ nữ.
Quả thật, anh là người rất thú vị trong phong cách thời bấy giờ vì anh có vẻ đẹp lãng mạn, đặc biệt là đôi mắt, trong đó có cả nét sâu thẳm, cả sự dịu hiền pha lẫn nỗi buồn man mác. Đôi mắt này anh được thừa hưởng từ mẹ. Có lẽ phụ nữ say đắm anh vì những phẩm chất thực của anh, chứ không phải vì anh là con trai của Stalin
Năm 1934, Iacop làm quen với cô gái xinh đẹp tên là Onga. Số phận đưa đẩy cho họ được gặp nhau. Onga từ Uriupinxk về Matxcova để thi vào trường kỹ thuật hàng không. Tại Matxcova cô đã quen với Iacop. Lúc này Nadegiơđa không còn nữa. Bà đã quyên sinh năm 1932.
Từ mối quan hệ không hôn thú này cậu con trai Epgheni đã ra đời. Onga bỏ học ở trường kỹ thuật hàng không, trở về quê để sinh con, cho con mang họ mình. Không lâu sau Iacop nhắn tin đề nghị đổi họ của con trai sang họ mình. Và Onga đã làm theo.
Nếu như Iacop tới năm 14 tuổi mới được gặp cha, thì Epgheni được gặp cha sớm hơn nhiều. Năm lên hai tuổi cậu đã được mẹ đưa về Matxcova để gặp cha. Song kể từ đó Epgheni không bao giờ được gặp cha nữa. Lúc này Iacop đã cưới nữ diễn viên Iulia Mentsep và họ đã có một cô con gái. Như Epgheni kể lại, người vợ mới của Iacop đã yêu cầu mẹ ông, bà Onga, để con trai mình lại Matxcova với gia đình của họ. Nhưng mẹ ông không bao giờ làm thế.
Stalin thì không bao giờ chấp nhận Onga bởi nguồn gốc Do Thái của cô. Và khi Iacop bị bắt làm tù binh, Stalin đã ra lệnh bắt Onga.
Ngay trước chiến tranh Iacop Djugasvili đã tốt nghiệp Học viện pháo binh của Hồng quân công nông (RKKA ), trở thành quân nhân chuyên nghiệp và được đưa ra mặt trận hai ngày sau khi quân Đức bội ước, tấn công Liên Xô.
Xác Iacop bên hàng rào
Thượng uý Iacop Djugasvili bắt đầu cuộc chiến đấu của mình ngày 27 tháng 6 năm 1941 sau khi tiếp nhận chỉ huy đại đội pháo của trung đoàn lựu pháo số 14. Đại đội của anh tác chiến trong dải tấn công của tập đoàn quân xe tăng số 4 thuộc cụm tập đoàn quân “Trung tâm” của Đức.
Ngày 4 tháng 7 đại đội bị bao vây ở khu vực Vitebxk. Ngày 16 tháng 7 Iacop bị bắt làm tù binh. Chiến tranh đối với anh đã kết thúc, song những thử thách nghiệt ngã nhất đang chờ anh ở phía trước.
“Người lính” Iacop đã bị "ruồng bỏ" như thế nào?
Đối với Stalin - tổng tư lệnh - thì đây là đòn khủng khiếp nhất : bắt đầu chiến tranh đã thất bại nặng nề, đã thế lại trao vào tay đối phương một con bài tuyên truyền nữa.
Khi vòng vây của quân Đức đã thít chặt Vitebxk, đại tá chỉ huy sư đoàn tăng số 14 (đại đội của Iacop nằm trong biên chế của sư đoàn này), đã lệnh riêng cho trưởng phòng đặc biệt đưa Iacop lên xe của mình thoát ra khỏi vòng vây, nhưng Iacop từ chối. Vài giờ sau xe quay lại lần nữa, kết quả vẫn vậy. Đó là ngày 11 tháng 7, khi ấy Vitebxk đã thất thủ .
Việc Iacop bị bắt làm tù binh đã gây nên phản ứng dữ dội từ cả hai phía. Ngày 20 tháng 7 năm 1941 đài phát thanh Beclin đã phát đi bản tin: “Báo cáo từ ban tham mưu của thống soái Kliuge cho biết ngày 16 tháng 7 ở Liozno, Đông - Nam Vitebxk, binh lính quân đoàn cơ giới của tướng Smidt đã bắt được con trai của Stalin - thượng uý Iacop Djugasvili, chỉ huy đại đội pháo thuộc quân đoàn bộ binh số 7 của tướng Vinogradop”.
Cũng trong ngày hôm ấy từ Tổng hành dinh đã đánh đi một bức mật mã: “Giucop ra lệnh ngay lập tức làm rõ và báo cáo về Bộ tư lệnh mặt trận: chỉ huy đại đội pháo của trung đoàn lựu pháo 14 sư đoàn tăng 14 - thượng uý Djugasvili Iacop Ioxiphovich đang ở đâu”.
Từ đó thấy rõ rằng các nhân viên đặc biệt đã mất hoàn toàn dấu vết của Iacop từ vài ngày trước khi anh bị bắt và các cuộc tìm kiếm anh chỉ được khôi phục sau thông tin mà đài địch đã đưa.
Vào lúc đó thì Iacop đã bị bắt được 4 ngày. Ngày 18 tháng 7 năm 1941 anh đã bị hỏi cung ở ban tham mưu của tướng Giunter phon Kliuge, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng số 4, cụm tập đoàn quân “Trung tâm“( vài tuần sau ông ta đã trở thành tư lệnh cụm tập đoàn quân này).
Iacop vẫn bình thường. Anh hiểu rõ rằng anh không phải là một tù binh bình thường, mà là một con bài trong trò chơi của các “ông lớn”. Và anh cũng chẳng chờ đợi sự giúp đỡ từ đâu cả.
Ngày 19 tháng 7 năm 1941 Iacop được gửi thư cho bố. Anh viết rất ngắn gọn: “Bố kính mến! Con bị bắt làm tù binh. Con vẫn khoẻ và sắp tới sẽ được đưa đến 1 trong số các trại sĩ quan ở Đức. Giao tiếp bình thường. Con chúc bố khoẻ. Con gửi lời chào đến mọi người. Iacop”.
Stalin nhận được thư này rất muộn màng, mãi vào ngày 7 tháng 8 năm 1941. Không phải ông nhận được, mà là biết được sự kiện bức thư từ Zđanop (lúc bấy giờ là uỷ viên Hội đồng quân sự phương diện quân Tây Bắc) còn Zđanop thì nhận được tờ truyền đơn của Đức có in bức thư này.
Ngày 16 tháng 8 mệnh lệnh đáng buồn nổi tiếng số 270 của Tổng hành dinh Bộ tổng tư lệnh tối cao của Hồng quân, đã được ký, theo đó “những chỉ huy và chính trị viên đầu hàng quân thù” đã bị tuyên bố là “những kẻ đào ngũ cố ý, gia đình của họ sẽ bị bắt như gia đình của những kẻ đã vi phạm lời thề và phản bội tổ quốc của mình”.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà gần như ngay lập tức sau mệnh lệnh này, tháng 9 năm 1941, Iulia - vợ của Iacop đã bị bắt. Mùa xuân năm 1943 Iulia được ra khỏi tù, đầu bạc trắng.
Mùa thu năm 1942 Iacop bị đưa đến Beclin, ngành tuyên truyền của Gobbens đã làm việc với anh ở đó. Người Đức thu xếp cho anh ở khách sạn đầy đủ tiện nghi, nhưng không thể đạt thêm được điều gì từ anh, ngoài cái đã đạt được từ trước: chụp được vẻ mặt thất thần của anh hồi tháng 7 và ghi lại được nhận xét của anh về tình trạng hỗn loạn trong các đơn vị Hồng quân.
Đầu năm 1942 Iacop bị đưa vào trại tập trung, đó là trại sĩ quan “Oflag XIII- Đ” ở Hammelburg. Mùa xuân năm đó bị chuyển đến trại tập trung ở Liubec. Tại đây anh được gặp gỡ với một người tên Cazbegi, cũng là tù binh chính trị, vốn là quận vương ở Grudia. Lãnh đạo trại muốn Cazbegi gần gũi Iacop để tìm ra được chìa khoá, nhằm khám phá con người luôn lặng lẽ và trong tình trạng trầm cảm như anh.
Sau chiến tranh Cazbegi đã để lại vài trang hồi ký ngắn ngủi về chân dung con người của Iacop Djugasvili. Anh ta viết rằng, Iacop đã từng thú nhận với anh ta là đã “yêu thầm” mẹ kế của mình- Nadegiơda Allilueva. Một vài lần Iacop nói về Nadegiơda: “Đó là một thiên thần, người duy nhất ngọt ngào và dịu dàng với tôi, sau mẹ…”
Có tin rằng cuối năm 1942 Iacop lại bị đưa đến Beclin theo lệnh của Himmler, chính ông ta cùng Rodenberg đã gặp gỡ anh. Tháng 2 năm 1943 Iacop bị đưa đến trại tập trung Dacxenhauden, tới lán gỗ đặc biệt cùng con trai cựu thủ tướng Pháp Leon Blium và cháu họ của Churchill. Lúc ấy người Đức đã có ý định đánh đổi Iacop lấy thống soái Paulius (ông ta đã trở thành hàng binh ngày 31 tháng 1 năm 1943). Lời đề nghị này đã được chuyển qua chủ tịch Hội chữ thập đỏ Thuỵ Điển là công tước Becnadot.
Câu trả lời của Stalin đã trở nên nổi tiếng: “Tôi không đánh đổi một thống soái lấy một người lính”. Câu chuyện này đã bay khắp thế giới, Iacop chắc chắn đã biết về nó qua hệ thống truyền thanh trong trại.
Ngày14 tháng 4 năm 1943 Iacop Djugasvili đã chết trong hoàn cảnh chưa được làm rõ. Hoặc là anh bị bắn trong khi “có ý định bỏ trốn”. Hoặc là trước khi bị bắn anh đã kịp chạy tới hàng rào và chết vì bị điện cao thế giật khi chạm vào nó.
Phản ứng của người cha thật đặc biệt: gần như ngay sau đó Iulia - vợ goá của Iacop, được thả ra khỏi nhà tù ở Quibưsep.
Cuộc đời bi kịch của Iacop đã kết thúc như vậy. Cái chết đã là sự giải thoát đối với chính Iacop, đối với người vợ goá và đứa con gái bé nhỏ của anh.
(Theo VTC/Tuyệt mật)
Xtalin trong ký ức của người con nuôi
11:00 04/12/2007Người cha đẻ của Archiom Sergeiev là nhà cách mạng Fedor Sergeiev - lúc đó được các chiến hữu gọi là "Đồng chí Archiom". Năm 1921, ông bị mất vì một tai nạn bất ngờ. Cậu bé Archiom được gia đình Xtalin cưu mang nuôi dưỡng.
Sĩ quan pháo binh Archiom Sergeiev trên chiến trường. |
Một ngôi nhà vườn không to tát cầu kỳ nhưng thoáng đãng. Ông già có khuôn mặt phúc hậu, hồn nhiên và hoạt bát, tươi cười cởi mở đón khách. Nhìn ông, không ai nghĩ là năm nay ông đã sang tuổi 86.
Dưới đây là cuộc trò chuyện giữa khách và chủ.
- Archiom Fedorovich, ông là người con nuôi của lãnh tụ Xtalin nhưng nhiều người không biết chuyện này? Vì sao vậy? Có điều gì bí ẩn?
- Thật là đơn giản, vì tôi chưa một lần kể với ai rằng tôi là con nuôi Xtalin, rằng tôi được gia đình Xtalin nuôi dưỡng thành người. Mẹ tôi cũng hoàn toàn im lặng về điều đó.
- Sau khi Xtalin mất và cả con trai Vaxili của Xtalin nữa thì Khrusov có biết ông không?
- Khrusov không biết tôi, hoàn toàn không biết tôi. Và cả Brejnev nữa, cũng không biết tôi. Đó là điều tốt cho tôi.
- Ông đã trở thành con nuôi Xtalin như thế nào?
- Bố tôi và Xtalin là bạn chiến đấu, thân nhau từ năm 1906, khi còn hoạt động bí mật. Cả hai đều là đại biểu của các đại hội Đảng trước Cách mạng. Cả hai từng cùng bị tù và bị đi đày.
Từ năm 1917, họ luôn sát cánh cùng nhau cho tới ngày bố tôi mất do một tai nạn giao thông bất ngờ. Khi cùng đoàn đi dự Đại hội 10 của Đảng rồi được cử đi trấn áp cuộc nổi loạn ở Cronstad (tháng 3/1921), bố tôi đã đề nghị với Xtalin rằng, nếu bố tôi có mệnh hệ gì thì nhờ Xtalin chăm sóc gia đình tôi, vì lúc ấy tôi còn trong bụng mẹ.
Cũng vào lúc đó Vaxili – con trai thứ hai của Xtalin ra đời. Thế là từ 5 tháng tuổi, tôi được gia đình Xtalin nuôi dưỡng, sống cùng một phòng với Vaxili cho tới năm 16 tuổi.
- Tôi không thể hiểu nổi, bởi chính ông không chỉ đơn giản là một thành viên của gia đình vị nguyên thủ quốc gia mà sau này còn là một vị tướng của quân đội Xôviết nữa. Đấy có phải là cái kim trong đụn cỏ khô đâu?
- Tôi phục vụ trong quân đội mà không cần “ô dù”, không cần đặc cách để tiến thân. Tôi đóng quân ở xa Moskva. Vào những năm 1937-1938, tôi học ở trường quân sự, rồi sau là học viên của Trường sĩ quan pháo binh Leningrad số 2.
Tốt nghiệp trường đó năm 1940, tôi được chỉ huy một trung đội. Khi chiến tranh nổ ra, từ ngày 28/6/1941, tôi chỉ huy một trung đội pháo. Chiến trận diễn ra ác liệt, không cân sức. Chúng tôi bị quân Đức đông gấp bội ném bom, bắn phá hủy diệt. Sau khi xe pháo bị đánh tan, tôi được cử chỉ huy một đại đội bộ binh.
Bị quân thù bao vây chặt, chúng tôi đã phá vây và tập hợp lại thành một đội quân du kích. Tôi đã bị quân Đức bắt trong thế không còn đường thoát. Bị chúng đưa tới trại tập trung rồi vào nhà tù ở Orsa. Tôi may mắn tìm cách chạy thoát được.
Dĩ nhiên, nếu lúc ấy có ai đó biết rõ lý lịch tôi thì chắc tôi khó thoát! Rồi tôi lại trở về tham gia các đơn vị chiến đấu, hết trận này tới trận khác.
- Ông là con nuôi Xtalin, nhiều năm được sống trong gia đình của lãnh tụ. Ông thấy Xtalin thế nào? Có người cho là khuôn mặt Xtalin trong ảnh là được tô điểm.
- Xtalin không bao giờ tô điểm gì, rất tự nhiên. Khuôn mặt hiền hậu, không có tì vết gì. Nói chung khuôn mặt ông trông rất thông minh, giản dị của một con người tốt. Có một phụ nữ từng bị hại trong những năm bị trấn áp là Kira Pavlovna khi được hỏi về Xtalin cũng trả lời: “Nếu nói thật thì ông là một người khả ái”.
- Thế Xtalin nuôi dạy ông như thế nào?
- Bố nuôi tôi là một người cha ân cần và mẫu mực, điềm đạm. Về bản chất, ông là một con người năng nổ, linh hoạt nhưng rất mô phạm. Ông không cho phép đứa trẻ tự coi mình là người không biết suy nghĩ. Ông nói chuyện với chúng tôi, với Vaxili, với con gái út Svetlana về những vấn đề một cách nghiêm túc rõ ràng, dễ hiểu.
Có lúc ông đưa chúng tôi ra làm gương cho nhau trong sinh hoạt, đối xử. Ví như khi thấy những khiếm khuyết của Vaxili thì ông đã đưa tôi ra làm gương. Và ông biết đó là điều không hay cho Vaxili. Thực ra thì Vaxili là người tốt, anh ấy có thể hiến dâng tất cả, tặng tất cả, nhưng bản chất là người hiếu thắng.
Trong số những món quà Xtalin cho tôi có hai cuốn truyện hay. Ông đề tặng tôi trong cuốn sách “Robinson Cruso” của Daniel Defo: “Tặng Tomic thân yêu của cha, chúc con lớn lên thành người Bolsevich giác ngộ, kiên định và dũng cảm”.
Ông gọi tôi là Tomic để kỷ niệm tên cha tôi thời hoạt động cách mạng ở nước ngoài theo cách gọi của người địa phương nơi đó.
Do rất bận công việc nhà nước nên ông ít khi chơi với con cái. Khi có chút thì giờ rảnh rỗi, hay khi đi làm về mà con cái chưa đi ngủ thì ông mới trò chuyện.
- Thế ông có nhớ gì về Trosky?
- Tất nhiên là có. Chính xác là khi tôi lên 6 tuổi, lần đầu tiên tôi chú ý tới ông ấy. Tôi lập tức có ấn tượng không tốt: ông có chòm râu nhỏ, luôn tỏ ra dữ tợn, đôi mắt nhìn xuyên suốt, lạnh lùng. Tôi có cảm nhận đầu tiên rằng đó là con người không tốt.--PageBreak--
Bố tôi và Trosky là 2 người đối nghịch. Các chiến hữu của bố tôi luôn đề phòng sao cho họ không nổi nóng mỗi khi gặp nhau, bởi vì bố tôi là người nắm vững những phương thức đấu tranh, còn Trosky thì đóng vai trò tên phản bội, đạo đức giả.
Hắn chỉ luôn tìm cách thụi ngầm địch thủ đằng sau lưng, khi trước mặt thì tỏ ra là “bạn hữu”. Lúc đó hầu hết đều nhận ra bộ mặt thật của Trosky.
- Thế ông có nhớ gì về Beria không?
- Tôi có ấn tượng u ám. Mỗi khi Beria tới nhà Xtalin thì không khí thật nặng nề khó chịu. Tuy nhiên lúc đó Beria là một nhân vật to tát, có vai vế. Tất cả năng lượng nguyên tử là ở ông ta. Không phải vô cớ mà nhà bác học I.Curtratov đã khuyên và thậm chí còn nằng nặc yêu cầu Chính phủ để cho Beria thay Molotov đứng đầu dự án nguyên tử...
Ngôi nhà của Archiom Sergeiev. |
- Ở Kremlin có một hiệu cắt tóc, cạo râu chung cho tất cả. Tôi thấy hình như bố tôi tự cạo râu cho mình, vì tôi không còn nhớ ai đến làm cho bố tôi cả. Còn cắt tóc thì ông cũng tới hiệu chung đó. Một hôm, tôi đã tới hiệu cắt tóc. Đang ngồi chờ theo thứ tự thì Mikhain Ivanovich Kalinin đi tới.
Tôi lập tức nhường chỗ của mình cho ông. Nhưng ông đã từ chối và nói: “Không, không được làm thế. Bây giờ tới lượt của cháu thì cháu cứ vào. Lẽ nào chúng ta lại có cái luật cho phép Kalinin không phải xếp hàng vào hiệu cắt tóc?
Không có luật lệ nào như thế. Tôi là người ký ra văn bản luật pháp thì tôi trước hết phải thi hành luật đó... Nào, cháu cứ mạnh dạn thực hiện cái quyền của mình...”.
- Đúng là “đã có những người như thế trong thời đại chúng ta?...".
- Tôi nhớ lại một vài sự kiện mà Ivan Alexandrovich Serov, Bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia lúc đó kể khá tỉ mỉ. Chắc các anh đã từng nghe chuyện đơm đặt về Xtalin rằng ông không ra chiến trường.
Thì đây, một hôm ông ra lệnh: Chuẩn bị đi ra mặt trận. Ông Serov đã chuẩn bị xe cộ, còn người đi theo thì rất ít. Họ đi đến Phương diện quân miền Tây. Xtalin chú ý tới công việc ở đó; sự hoạt động của không quân ta; kiểm tra rồi khen ngợi Không quân tầm xa của tướng Golovanov vì đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ chiến đấu được giao.
Rồi Xtalin đến Phương diện quân Kalinin. Từ sở chỉ huy ở đó, ông gọi về Moskva cho Georgi Maximilianovich Malenkov. Malenkov liền hỏi: “Thưa đồng chí Xtalin, đồng chí gọi từ đâu đấy?”. Trả lời: “Từ đâu, đó là điều không quan trọng...”.
Một cuộc trao đổi công việc rất lâu, một lần nữa tên của Golovanov lại được nhắc tới ở mức cao nhất. Lúc đó Xtalin nói với Malenkov: “Ngày mai trên các báo sẽ đăng tin về việc Golovanov được phong hàm Nguyên soái Không quân”.
Rồi lập tức nhiều người gọi điện chúc mừng Tư lệnh Không quân Golovanov, Xtalin cũng gọi chúc mừng vị Tư lệnh này được phong hàm Nguyên soái. Ông Golovanov nói rằng, ông không được biết gì về việc đó. Xtalin nói ngay: “Hãy đọc báo đi!”.
- Ông sống ở gia đình lãnh tụ như thế nào?
- Từ năm 1923 đến 1927, tôi và Vaxili cùng được nuôi dạy ở nhà trẻ. Ngoài chúng tôi – là những đứa con mà cha mẹ không có điều kiện và thì giờ chăm nuôi do quá bận rộn với công việc quốc gia, còn có một số khác không nhà cửa, mồ côi cha mẹ... Tất cả có 50 đứa, gọi vui là “nhà trẻ 50”.
Các bà bảo mẫu chăm sóc chu đáo và tận tình dạy dỗ, không phân biệt đó là con Xtalin hay trẻ vô gia cư và mồ côi cha mẹ. Về sau tất cả chúng tôi đều được đi học ở trường phổ thông, rồi chúng tôi vào học trường quân sự. Khi chiến tranh nổ ra, chúng tôi đều lập tức ra chiến trường.
- Thế khi nào thì ông và Vaxili gặp nhau lần cuối cùng?
- Chúng tôi vẫn còn được gặp nhau khi anh ấy vào nằm điều trị ở quân y viện.
Tham gia chiến tranh, Vaxili được thưởng 4 huân chương. Các bạn cùng lứa, có người được thưởng nhiều hơn. Một lần, đội bay ném bom của Đức ồ ạt tấn công vào hậu phương của ta. Khi phát hiện ra chúng, Vaxili lập tức phóng máy bay lên chặn đánh mặc dù máy bay của anh chưa kịp trang bị đầy đủ vũ khí.
Bộ chỉ huy ở mặt đất chứng kiến hành động mưu trí và dũng cảm đó đã ghi danh để phong anh hùng. Tuy nhiên, khi đã biết đó là con trai Xtalin thì họ đã hạ xuống một bậc: chỉ tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ...
Về Vaxili – người bạn, người anh em của tôi đã có nhiều bài viết không đúng sự thật, thậm chí còn vu khống. Và ngày nay có người vẫn tiếp tục cố tình bóp méo hình ảnh của anh... Sự thật không phải như vậy.
- Xin hỏi, ông có coi Xtalin là một người cha thật sự?
- Vâng, tôi rất tự hào về cả hai người cha của mình. Tôi tự hào vì cả hai được an táng ở bức tường Điện Kremlin. Những ngày sinh và ngày mất của hai người, tôi đều mang những bó hoa tươi thắm đến dâng trước mộ, bày tỏ lòng thành kính, biết ơn của mình. Tôi rất tự hào về hai người cha của mình
Nguyễn Hữu Dy
Cái chết tức tưởi và khó hiểu của Stalin
Suốt 2 ngày trời Stalin bị tai biến, không một bác sĩ nào được gọi đến.
Có một nhân vật mà
lịch sử đã tốn không ít giấy mực khi viết về ông, ca ngợi có, lên án
cũng có, đúng như lời tiên đoán của ông trước khi mất rằng: “Sau khi tôi
mất đi, chắc chắn có nhiều kẻ đổ rác trên nấm mồ của tôi”. Nhân vật đó
chính là nhà lãnh tụ Xô Viết Joseph Stalin. Ông mất năm 1953, nhưng
trong suốt 60 năm qua, người ta vẫn không ngừng nghiên cứu về ông, về cả
cái chết đầy bí ẩn của ông.
Đã có không ít những nghi vấn xoay
quanh cái chết của nhà lãnh tụ Xô Viết này và trong suốt nhiều năm nay
người ta vẫn cố công đi tìm sự thật. Mới đây, Cục lưu trữ Nga đã bất ngờ
công bố những tài liệu quý về Stalin khiến không ít những cái đầu tò mò
cảm thấy thỏa mãn vì có thể phần nào giải đáp được những hoài nghi,
thắc mắc của họ về nhân vật này.
Người đàn ông trong khu biệt thự đồng quê
Khi đó ở tuổi 73, Stalin vẫn là một
người hăng say với công việc. Ông vẫn làm việc 15 đến 16 tiếng đồng hồ
mỗi ngày. Dường như ông vẫn muốn nắm mọi thứ, muốn biết tất cả, đọc và
ghi chú một lượng báo cáo khổng lồ, dự vô số cuộc họp, thảo ra các thông
cáo, chỉnh sửa các bài báo, viết lại các sách về lịch sử và tiếp tục
soạn thảo các lý luận chính trị. Đôi khi ông cũng dành chút thì giờ cho
những vấn đề nhỏ nhặt như viết thư trả lời cho một nhà giáo bất mãn với
cấp trên, hay một công nhân đang cần một lời khuyên từ ông.
Stalin vẫn ăn mặc rất giản dị, với
những bộ quần áo đơn sơ, chiếc nón kết cũ và đôi giày bốt đã sờn. Đôi
khi ông mặc nguyên quần áo, ngủ quên suốt đêm trên chiếc ghế sofa. Về
sức khỏe, ông yếu hẳn đi từ sau khi chiến tranh chấm dứt. Những người
thân cho biết, đôi khi ông ngất xỉu vì lao lực. Ông bị thấp khớp trầm
trọng và nghiêm trọng hơn là một chứng bệnh ở não đã gây ra những giây
phút lú lẫn và hoang tưởng.
Ngay cả trong hành lang điện Kremli,
Stalin chỉ di chuyển khi có cả một đội ngũ cận vệ đi phía trước và phía
sau hộ vệ. Khi đi ra ngoài, ông sử dụng ba chiếc xe hơi, trong đó có hai
chiếc nhằm đánh lạc hướng. Chỉ có những đầu bếp trung thành mới được
nấu ăn cho ông, và các chai rượu đặt trên bàn phải còn nguyên nắp.
Văn phòng của ông trong dinh thự chính
phủ được coi như nhà ở thực thụ, một nhà nghỉ rộng mênh mông và tiện
nghi ở Kountsevo là những ngôi đền thánh được giám sát chặt chẽ, được
bảo vệ bởi những cận vệ đã qua chọn lựa gắt gao, và chỉ nhận lệnh trực
tiếp từ Stalin.
Nếu vào cuối ngày, Stalin muốn giải
trí một chút ở nhà hát Bolchoi hay trong phòng chiếu phim của điện
Kremli, thì luôn có những người tâm đầu ý hợp trong chính phủ đi kèm.
Những buổi tối như thế nhất thiết phải kết thúc tại Kountsevo, cách điện
Kremli nửa tiếng đồng hồ đi ô tô. Khi đó Stalin nghỉ ngơi ở một trong
những căn phòng của mình, đôi khi trên chiếc ghế dài ở một trong những
phòng khách.
Vào cuối buổi chiều ngày 28/2/1953, sau một ngày đọc báo cáo, nói chuyện với các cận vệ, đi dạo trong khu vườn tuyết phủ rồi thư giãn bằng cách tắm hơi, Stalin đến điện Kremli và gặp bốn đồng chí quen thuộc, trong đó có thêm Thống chế Vorochilov – một trong những lãnh đạo quân đội hiếm hoi còn được ông ưu ái. Sau cuộc họp khoảng hai mươi phút thì các lãnh đạo cao cấp kia xem phim, còn ông rời văn phòng làm việc và trở về nghỉ ngơi tại khu biệt thự đồng quê của mình ở Kountsevo.
Stalin. |
Stalin thường đi ngủ rất muộn và không ai dám đánh thức ông dậy. Từ vệ sĩ, những người giúp việc cho tới quản gia, không ai có quyền bước vào phòng nếu không được gọi. Ông thường ngủ đến 10 hay tận 11 giờ trưa hôm sau. Có thể nói giấc ngủ của ông là bất khả xâm phạm. Do vậy vào sáng ngày 1/3, khi mặt trời đã lên cao, ánh nắng đã chiếu rọi cả vào phòng thì ông vẫn chưa dậy.
Người quản gia không dám đánh thức ông. Các cận vệ chờ đợi được gọi vào. Thời gian trôi qua, nhưng không ai lo lắng cả. Lãnh tụ có thể đã thức dậy làm việc trong đêm, hoặc đang tập trung vào mớ hồ sơ. Ông có đầy đủ đồ ăn thức uống trong phòng. Có thể là ông không muốn ai làm phiền.
12 giờ trưa, rồi 13 -14h vẫn chưa thấy lãnh tụ ra ngoài như thường lệ. Tâm trạng lo ngại mơ hồ có thể cảm thấy nơi những cận vệ và phía người quản gia. Bất chợt vào khoảng 18h30 mới có ánh sáng đèn trong phòng ông, đội cận vệ nhẹ lòng được một chút. Đến 22h, một chiếc xe hơi của điện Kremli mang đến các thư từ và hồ sơ. Trưởng đội cận vệ trực hôm ấy, Lozgatchev, vẫn còn do dự nhưng rốt cuộc quyết định bước vào gian phòng ăn nhỏ.
Khi cánh cửa được dè dặt mở ra, anh hiểu vì sao đã không được triệu đến trong ngày: Stalin nằm dài trên thảm trải sàn, mặc chiếc áo lót mình, còn chiếc quần pyjama thì ướt đẫm nước tiểu. Lozgatchev vội chạy đến và nhận ra Stalin vẫn còn sống, nhưng không nói được nữa, chỉ rên nhỏ. Chiếc đồng hồ và tờ báo Pravda rơi dưới đất. Đồng hồ ngưng ở vạch 6h30.
Đại tá Starotsine và quản gia Boutouzova được gọi đến. Người ta đưa ông lên chiếc ghế sofa, rồi chuyển sang một chiếc ghế dài khác trong phòng ăn lớn, thoáng khí hơn. Tuy nhiên, không một cận vệ nào cảm thấy sự cần thiết phải gọi một bác sĩ ngay lập tức bởi họ lo sợ việc này có thể gây hậu quả xấu trong thời điểm bị cho là có vụ âm mưu phản loạn “áo choàng trắng”.
Và Khrustalev đã gọi điện khẩn cho bộ chính trị, nhưng đầu dây bên kia chậm trả lời và không nhanh chóng gọi cấp cứu. Chính sự chậm trễ gọi bác sĩ trong thời điểm cần thiết và duy nhất để cứu tính mạng Stalin đã gây nghi ngờ rằng ông bị đội trưởng đội bảo vệ tiêm thuốc ngủ theo lệnh của giám đốc KGB Beria.
Ông ta còn chặn họng viên cảnh vệ và bà phục vụ: "Các người còn hoảng loạn nỗi gì? Đi ngay khỏi đây, cấm không được phá rối giấc ngủ của lãnh tụ”. Ông ta còn đe dọa sẽ tính sổ với họ rồi cùng với các quan chức chính phủ đi ra xe. Nhưng chỉ sau đó vài giờ, họ lại trở lại vì bà phục vụ và các nhân viên cảnh vệ đã bực tức không thể kiên nhẫn được nữa.
Có thể Beria đã hiểu rằng Stalin sẽ không qua khỏi nếu không được chạy chữa. Nhưng nếu không cố gắng cứu chữa cho Stalin thì vẫn hơn. Quyền lực đang bỏ trống, và tốt nhất nên nắm lấy. Cuối cùng các quan chức chính phủ yêu cầu phải đưa người bệnh sang một phòng bên cạnh, cởi bỏ quần áo cho ông và đặt ông lên giường.
Lúc đó các bác sĩ vẫn chưa tới và nhìn từ góc độ y học, có thể nói việc đưa người bệnh rời khỏi chỗ ngã là không có lợi, khi người bệnh bị trúng gió thì không nên di chuyển. Và một điều cần phải nói là những bác sĩ ở ngay gần đó cũng không được gọi tới khám cho Stalin.
Trong khi ông nằm chờ được cứu chữa thì Beria và ba ủy viên “Bộ Chính trị cơ động” tranh luận gay gắt để phân chia quyền hành, củng cố vị trí mình và giữ cho các đối thủ tiềm năng phải đứng ngoài cuộc. Các cận vệ và người hầu cận ở Kountsevo nhận lệnh không được tiết lộ những gì đã xảy ra. Thế nên thêm một ngày nữa trôi qua, mà không có bác sĩ nào được mời đến.
Cuối cùng, các nhân viên của MGB và Maria Boutouzova, càng lúc càng lo lắng, cố gắng liên lạc lần nữa với Malenkov. Ông này xiêu lòng, bèn gọi cho Beria và Khrouchtchev, hai người này đùn đẩy sang Bộ trưởng Y tế Tratiakov. Rốt cuộc ông bộ trưởng cho gửi đến một toán y bác sĩ do giáo sư Loukomski dẫn đầu. Họ đến nơi vào lúc 7 giờ sáng ngày 03/03, tức 48 giờ sau khi Stalin gặp nạn.
Một cái chết khó hiểu
Đến lúc này Stalin mới được các bác sĩ thăm khám. Họ run rẩy vì sợ hãi, bắt tay vào công việc. Họ cởi quần áo bệnh nhân, gỡ bộ răng giả ra và chẩn đoán. Nhịp tim và huyết áp thấp, nửa người bên phải bị liệt, nửa người trái bị những cơn co giật. Kết quả tỏ ra bi quan: Stalin bị xuất huyết não trái, nặng đến nỗi có thể chắc chắn rằng ông ta không bao giờ còn làm việc được nữa.
Các bác sĩ kê toa thuốc để rửa và đặt những con đỉa sau tai trái. Rồi đáng sợ thay, đội ngũ hùng hậu ra đi, để lại một bác sĩ thần kinh, một bác sĩ đa khoa, một nữ y tá. Người bệnh được chỉ định là phải…nghỉ ngơi và ăn kiêng.
Vào cuối ngày, các thành viên Bộ Chính trị trở về điện Kremli. Việc điều hành tạm thời được giao cho Malenkov. Vị trí người đứng đầu an ninh nội chính của Beria càng vững chắc hơn. Cùng với Malenkov và Khrouchtchev, ông ta còn được giao trách nhiệm sắp xếp các giấy tờ của Stalin. Ba người này lập tức bắt tay vào công việc, mở các rương giấy tờ bí mật nhất và hủy đi tất cả những gì tố cáo họ có tham gia các vụ thanh trừng trong quá khứ và hiện tại.
Đến sáng 4/3 các đài phát thanh đã có thể công bố căn bệnh của Stalin. Sáng sớm 5/3, radio loan báo mạng sống của Stalin đang lâm nguy. Tại Kountsevo, Stalin dường như vẫn luôn ngủ trên chiếc ghế sofa, đôi khi có mở mắt, phát ra được đôi ba tiếng động nhưng không thể nào trả lời những câu nói được người ta thầm thì bên tai.
Sau này, con gái ông cho biết: “Có lúc ông bỗng mở mắt ra, nhìn bao quát những ai đang đứng xung quanh. Đó là một cái nhìn khủng khiếp, hoảng loạn và giận dữ, chứa đầy nỗi kinh hoàng trước tử thần và khuôn mặt của các thầy thuốc không quen biết bao quanh. Ánh mắt ấy bao trùm lấy chúng tôi trong một chớp mắt. Rồi ông giơ bàn tay trái lên – có thể là ông chỉ cho chúng tôi điều gì đó trên cao, hoặc là ông đe dọa tất cả mọi người. Hành động này khó thể hiểu được”.
Vào buổi sáng 5/3, Stalin yếu dần: buồn nôn, khó thở, ói ra máu, trụy tim mạch liên tục, biến chứng ở tim và ngộp thở. Đến buổi chiều hôm đó, ông trút hơi thở cuối cùng. Thi hài ông được đưa đi để phẫu thuật. Mọi người ở biệt thự đều tuân lệnh của Beria là rời khởi đây. Bà phục vụ, viên cảnh vệ, những người từng đòi gọi bác sĩ ngay lập tức để khám cho Stalin đã bị buộc thôi việc. Và tất cả mọi người ở đây đều được lệnh là phải giữ mồm giữ miệng.
Ngôi biệt thự bị đóng cửa, cửa lớn bị niêm phong giống như chưa từng có sự tồn tại của tòa biệt thự. Ngày 9/3, xác của Stalin được trọng thể đưa đến nơi an nghỉ cuối cùng tại lăng mộ ở Quảng trường đỏ.
Như vậy trong cái chết của Stalin rõ ràng là có bàn tay của Beria và những quan chức chính phủ. Một điều dễ nhận thấy là hành động của các quan chức chính phủ khi thấy Stalin lâm nạn khiến người ta khó hiểu. Vì sao sau khi nhận được điện báo của người cảnh vệ, Beria và những cộng sự của ông ta đã đến khu biệt thự mà họ không gọi ngay cho bác sĩ?
Khi họ nghe Beria nói rằng Stalin đang ngủ, đừng làm cho ông ta mất ngủ, thế là tất cả họ lại trở về nhà và điều này làm cho người ta cảm thấy kỳ quặc. Sự việc càng làm tăng thêm nghi vấn là, sau khi viên cảnh vệ phát hiện Stalin đang mặc quần áo ngủ nằm dưới nền nhà, vì sao anh ta lại không gọi y tá đến giúp sức? Cần biết rằng, thời gian quý báu đó đã bị bỏ lỡ.
Vấn đề cuối cùng này đã được trả lời ngay sau khi Stalin mất không lâu. Lãnh tụ Stalin đã xây dựng cho mình một đội con tin có một chế độ quản lý riêng, theo quy tắc làm việc tỉ mỉ đã được Beria phê chuẩn, nếu không được ông ta phê chuẩn thì bác sĩ không được đến chỗ Stalin. Biện pháp phòng ngừa này được áp dụng sau khi Viện sĩ Venogratop bị bắt.
Nói thực ra, “vụ án y tế” từng sôi động một thời bắt đầu từ Venogratop. Bác sĩ riêng của Stalin phát hiện thấy tình hình sức khỏe của ông đã xấu đi rất nhiều, viện sĩ đề nghị cần giảm bớt nhiều công việc quá căng thẳng, Stalin tỏ ra tức giận với việc chẩn đoán này. Từ đó, ông không cho phép viện sĩ vào căn phòng của mình nữa, và ít lâu sau, bác sĩ bị tống vào tù.
Khi Stalin qua đời, người ta phát hiện có một lá thư ngay trong phòng của ông, nó được viết bởi cố Tổng thống Nam Tư Josip Broz Tito, người đã cầm quyền cai trị nhà nước Nam Tư trong suốt 27 năm. Stalin đã cố gắng bằng mọi giá phải tiêu diệt Josip Broz Tito trong nhiều dịp khác nhau. Ông cảm thấy bất ổn với Tito vì Tito có cơ hội thoát khỏi các quốc gia Serbia, Croatia và Slovenia và đưa Nam Tư trở thành một nhà nước độc lập, thoát khỏi sự ảnh hưởng của Liên Xô.
Stalin luôn sống trong trạng thái cảnh giác với Tito và từng ám sát Tito đến 22 lần vào những năm sau Thế chiến II. Trong lá thư bí mật mà Tito gửi cho Stalin có lời tuyên bố rằng trong khi Stalin phái đi nhiều “thích khách” thì Tito chỉ cần một là đủ.
Chính điều này đã khiến sử gia danh tiếng người Slovenia Joze Pirjrvec nghi ngờ rằng Tito có thể ra lệnh cho một thích khách Nam Tư tiến hành ám sát Stalin. Tuy nhiên, xoay quanh cái chết của vị lãnh tụ Liên Xô một thời này vẫn còn trùng trùng nghi vấn mà có lẽ chỉ có nhân vật chính mới thực sự biết nó là gì.
Lãnh tụ Xôviết J. Stalin: Vẫn là một biểu tượng

Trong tâm trí không ít người dân Xôviết cũ, Stalin vẫn là một biểu tượng gắn bó với một giai đoạn tuy có nhiều gian khó và mất mát nhưng cũng rất hào hùng của Liên bang Xôviết. Stalin vẫn tiếp tục được tôn vinh là nhà chính trị đã có vai trò rất quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của Liên Xô.
Đã hơn 55 năm trôi qua kể từ ngày 5/3/1953, khi lãnh tụ Xôviết Joseph Stalin qua đời, để lại sau lưng mình một di sản đồ sộ và không hẳn lúc nào cũng có thể đánh giá một cách rành rẽ. Tuy nhiên, theo những điều tra xã hội gần đây ở không chỉ riêng nước Nga mà cả trong không gian Xôviết cũ, trong tâm trí không ít người dân ở khu vực này, Stalin vẫn là một biểu tượng gắn bó với một giai đoạn tuy có nhiều gian khó và mất mát nhưng cũng rất hào hùng của Liên bang Xôviết.
Stalin vẫn tiếp tục được tôn vinh là nhà chính trị đã có vai trò rất quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của Liên Xô. Thậm chí cách đây vài ba năm từng có tới 42% trong số 1.600 người tham gia cuộc điều tra xã hội ở Nga cho rằng, họ ủng hộ hoặc không có gì chống lại việc trên chính trường nước Nga hôm nay lại xuất hiện một nhà lãnh đạo tối cao như Stalin.
Tất nhiên, lịch sử đã sang trang khác và không thể có chuyện lặp lại quá khứ nhưng nếu hiểu đúng hơn về một lãnh tụ như Stalin thì luôn có thể rút ra được những bài học hữu ích cho tương lai.
Sức hấp dẫn của một lãnh tụ ở tầm cỡ như Stalin đôi khi lại nằm trong chính tính cách phức tạp và không bao giờ là một chiều của ông. Trong những tình huống bình thường, có thể một nhân cách như Stalin không thể hiện rõ ràng lắm toàn bộ kích cỡ của mình nhưng mỗi khi lâm sự, đặc biệt là trong những tình huống nghiêm trọng, những tinh hoa trong con người lãnh đạo bẩm sinh như Stalin lại được thăng hoa lên những tầm cao ít ai ngờ tới được.
Chính vì thế nên không chỉ những đối tác mà ngay cả các đối thủ của ông cũng nhiều lúc phải ngả mũ bày tỏ sự thán phục ông.
Tướng Charles de Gaull trong cuốn "Hồi ký chiến tranh" của mình, đã nhận xét: "Stalin có một uy tín to lớn, và không chỉ riêng ở nước Nga. Ông biết "thuần hóa" kẻ thù, không hoảng hốt khi núng thế và không say sưa thắng lợi. Mà ông lại là người có nhiều chiến thắng hơn thất bại...".
Ông tướng nhiều võ công trong chiến tranh thế giới thứ hai từng làm Tổng thống Pháp đã đặc biệt ấn tượng về cách hành xử của J. Stalin trong thời gian tiến hành hội nghị ở Tehran năm 1943, khi lãnh đạo ba quốc gia Đồng minh lớn nhất là Liên Xô, Mỹ và Anh ngồi lại cùng nhau thống nhất kế hoạch kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai: "Stalin trò chuyện ở Tehran như một người có quyền đòi hỏi người ta phải báo cáo mình. Không bộc lộ kế hoạch của mình cho hai thành viên khác tham gia cuộc họp là Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Anh William Churchill, ông lại đạt được việc buộc họ phải trình bày với ông kế hoạch của họ để ông bổ sung những điều chỉnh.
Roosevelt đã nghiêng về phía ông để bác bỏ ý tưởng của Churchill về việc các lực lượng vũ trang phương Tây tấn công rộng rãi qua Italia, Nam Tư và Hy Lạp tới Vienne, Praha và Budapest. Mặt khác, người Mỹ cũng đồng tình với người Xôviết, bác bỏ, bất chấp những yêu cầu của người Anh, việc xem xét trong cuộc họp những vấn đề chính trị liên quan tới Trung Âu, và đặc biệt là vấn đề về Ba Lan, nơi mà Hồng quân chuẩn bị tấn công...".
Kết quả đạt được tại Tehran năm 1943 với cách hành xử khôn khéo của Stalin đã tạo cho Liên Xô có được những yếu tố thuận lợi hơn trong cuộc hành binh chống lại chủ nghĩa phát xít và xây dựng mô hình mới cho châu Âu sau này…
Chính Thủ tướng Anh Churchill, người thực ra rất có ác cảm với chế độ Xôviết cũng từng phải công nhận: "Một hạnh phúc lớn lao đối với nước Nga là trong những năm thử thách khổng lồ, đất nước này được thiên tài, tướng quân sắt đá Stalin lãnh đạo. Ông ấy là nhân vật kiệt xuất nhất, bao trùm lên cái thời nhiều biến động mà cuộc đời ông ấy đã trôi qua.
Stalin là con người nhiệt huyết phi thường và ý chí không gì bẻ gẫy nổi, cứng rắn, khốc liệt trong trò chuyện, người mà ngay cả tôi, kẻ được giáo dục tại nghị viện Anh, cũng không có gì cưỡng lại được. Stalin trước hết có một óc hài hước phong phú, khả năng thâu nhận những ý tưởng một cách chuẩn xác. Sức mạnh này trở nên vĩ đại ở Stalin đến nỗi ông ấy là người độc nhất vô nhị giữa những nhà lãnh đạo quốc gia mọi thời và mọi nơi.
Stalin đã gây cho chúng tôi một ấn tượng kỳ vĩ. Ông ấy có trí anh minh sâu sắc, tư duy hợp lý, không bao giờ biết hoảng loạn. Ông ấy là một nghệ nhân bất khả chiến bại trong những khoảnh khắc khó khăn kiếm tìm lối thoát từ những tình huống tuyệt vọng nhất. Ông ấy là một nhân vật rất phức tạp.
Ông ấy xây dựng và thuần hoá một đế chế mênh mông. Đó là người biết tiêu diệt kẻ thù của mình bằng chính kẻ thù của mình... Lịch sử, dân tộc không bao giờ quên lãng những người như thế".
Tất nhiên, một cuộc đời có nhiều góc cạnh như của Stalin không bao giờ chỉ để lại những nhận định một chiều. Cho tới ngày hôm nay vẫn còn vô số những "nghi án" về sự đúng sai cách hành xử của vị lãnh tụ này trong những thời điểm khác nhau của lịch sử quốc gia Xôviết. Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận được là, Stalin quả thực là một lãnh tụ lớn, rất biết cách đối nhân xử thế.
Ở Nga vẫn còn truyền tụng rất nhiều giai thoại thú vị về cách hành xử mẫn tiệp và hóm hỉnh của lãnh tụ Stalin trong những tình huống cực kỳ đa dạng. Trong trường hợp của văn hào Xôviết Mikhail Sholokhov (1905/1984), có thể thấy rằng, Stalin là vị lãnh tụ rất biết trọng nhân tài.
Ngay từ khi "Sông Đông êm đềm" mới ra đời, những kẻ ác ý đã tung tin đồn rằng, đây là bộ tiểu thuyết của một nhà văn khác, chứ không phải của Sholokhov. Điều này khiến nhà văn cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, thậm chí còn gây nhiều khó khăn cho ông. Đến mức, như Sholokhov về sau kể lại, tòa soạn tạp chí "Tháng 10" đã dừng in tập tiếp theo của "Sông Đông êm đềm” vì ngại những tin đồn.
Cực chẳng đã, Sholokhov đành phải cầu cứu ở "ông anh cả" của văn học Xôviết lúc đó là Maxim Gorky. Rồi sau một thời gian có điện thoại hồi âm của Gorky: "Giờ này ngày kia tới. Sẽ có đồng chí Stalin. Đấy mới là người quyết định số phận của anh. Sẽ nói chuyện trong bữa ăn trưa".
Lúc đó, trong thâm tâm Sholokhov cũng ngại lãnh tụ không thích những nhân vật mà ông trong "Sông Đông êm đềm" cho là có lỗi trong việc chống culắc nhưng cũng không còn biết bấu víu vào đâu nên đúng hẹn, Sholokhov cũng liều tới nhà Gorky để gặp Stalin...
Nhà văn kể: "Tất cả cùng ngồi. Gorky im lặng là chính, hút thuốc mù mịt... Stalin ra câu hỏi cho tôi: "Tại sao lại viết về viên tướng Kornilov mềm như vậy?". Tôi trả lời, hình ảnh và hành động của viên tướng Kornilov được tôi miêu tả không nương tay, nhưng thực sự tôi đã dựng nên nhân vật này như một người đã được giáo dục bởi đạo đức danh dự và dũng cảm của một sĩ quan. Ông ta đã chạy khỏi trại tù binh. Ông ta đã yêu Tổ quốc...
Stalin kêu lên: "Sao, thế là danh dự? Ông ta chống lại nhân dân! Một rừng giá treo cổ và một biển máu!". Tôi phải nói rằng, lập luận này đã thuyết phục tôi. Về sau tôi đã điều chỉnh theo hướng đó".
M. Sholokhov kể tiếp: "Stalin ra câu hỏi mới: "Lấy ở đâu ra việc thái quá của Bộ Chính trị sông Đông của Đảng và Ủy ban Cách mạng?" (Đây chính là chủ đề chống culắc). Tôi đáp, mọi việc đã được viết ra rất trung thực theo tài liệu lưu trữ. Nhưng các nhà làm sử đã tránh đi những sự việc này và đã kể chuyện nội chiến không giống như sự thật cuộc đời...
Cuối cuộc gặp, Stalin chậm rãi nói: "Một số người cho rằng bộ tiểu thuyết này sẽ làm vui những kẻ thù của chúng ta, bọn Bạch vệ đang sống lưu vong ở nước ngoài...".
Rồi ông hỏi tôi và Gorky: "Hai đồng chí nói gì về chuyện này?". Gorky trả lời: "Bọn chúng thì ngay cả những cái tốt đẹp, hay ho nhất cũng có thể bóp méo đi mà chống lại chính quyền Xôviết". Tôi cũng đáp: "Đối với bọn Bạch vệ thì ít có điều tốt trong tiểu thuyết này. Chẳng gì thì tôi cũng đã miêu tả sự thất bại hoàn toàn của chúng ở vùng sông Đông và Kuban".
Khi ấy, Stalin mới nói: "Đúng, tôi đồng ý. Việc miêu tả các sự kiện trong tập ba của "Sông Đông êm đềm" hữu ích cho chúng ta, cho cách mạng". Rồi ông hứa là sách sẽ được in...
Quả thực sau đó "Sông Đông êm đềm" tiếp tục được in. Năm 1965, bộ tiểu thuyết này đã được trao giải thưởng Nobel về văn học.
Các giai thoại còn lại tới hôm nay cũng kể rằng, Stalin luôn trân trọng Sholokhov, đến mức gần như "nuông" nhà văn. Sholokhov ngay cả khi đang giữ cương vị chủ đạo ở Hội Nhà văn Liên Xô cũng rất hay cùng bạn đồng nghiệp Alexander Fadeyev "chén anh, chén chú". Thậm chí, có hôm được lãnh tụ mời tới nói chuyện, nhà văn vẫn còn "tây tây".
Những kẻ xấu bụng tưởng như thế thì Sholokhov sẽ bị nhà lãnh đạo tối cao, vốn rất chỉn chu trong thủ tục hành chính, quở mắng. Thế nhưng, Stalin đã có cách hành xử khác.
Một lần, gặp nhà văn lớn, Stalin cười cười hỏi:
- Thế nào, đồng chí nhà văn, một tuần đồng chí cùng đồng chí Fadeyev uống rượu mấy ngày?
Sholokhov đành cười trừ cho qua chuyện. Thấy vậy, Stalin bảo cô thư ký:
- Cô ghi lại đi! Quyết định của Bộ Chính trị. Mỗi tuần đồng chí Sholokhov và đồng chí Fadeyev chỉ uống rượu từ thứ hai tới thứ năm thôi, còn lại ngày thứ sáu phải làm việc! Đừng như bây giờ, bảy ngày rượu say cả bảy!
Nói đoạn, ông dứ dứ ngón tay về phía văn hào. Cả hai bật cười sảng khoái...
Một năm, vào đúng ngày sinh nhật của mình, Sholokhov mời bạn bè thân thiết nhất tới một nhà hàng ở Moskva uống rượu. Bất thình lình, người phục vụ tới nói nhỏ với ông:
- Thưa ông, ông có điện thoại từ Điện Kremli!
Sholokhov cầm lấy ống nghe. Từ đầu dây bên kia vang lên giọng nói đầy uy vũ:
- Thế nào, bạn mình có việc vui mà lại quên mình rồi hả?!
- Dạ, thưa... Tôi... - Sholokhov định biện bạch.
- Không có tôi gì cả, tôi đang chờ anh đây. Cho tôi uống mừng sinh nhật anh với. Xe đang chờ ở ngoài cửa đấy!
Sholokhov ra ngoài. Quả nhiên, một chiếc xe sang trọng đang chờ ngoài cửa. Hóa ra là, Stalin nghe ai đó nói tới sinh nhật của Sholokhov nên đã quyết định là kiểu gì thì ông cũng đích thân chúc mừng nhà văn lớn. Trọng kẻ sĩ không bao giờ là việc vô ích đối với các chính trị gia!
Trong tâm trí không ít người dân Xôviết cũ, Stalin vẫn là một biểu tượng gắn bó với một giai đoạn tuy có nhiều gian khó và mất mát nhưng cũng rất hào hùng của Liên bang Xôviết. Stalin vẫn tiếp tục được tôn vinh là nhà chính trị đã có vai trò rất quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của Liên Xô.
Đã hơn 55 năm trôi qua kể từ ngày 5/3/1953, khi lãnh tụ Xôviết Joseph Stalin qua đời, để lại sau lưng mình một di sản đồ sộ và không hẳn lúc nào cũng có thể đánh giá một cách rành rẽ. Tuy nhiên, theo những điều tra xã hội gần đây ở không chỉ riêng nước Nga mà cả trong không gian Xôviết cũ, trong tâm trí không ít người dân ở khu vực này, Stalin vẫn là một biểu tượng gắn bó với một giai đoạn tuy có nhiều gian khó và mất mát nhưng cũng rất hào hùng của Liên bang Xôviết.
Stalin vẫn tiếp tục được tôn vinh là nhà chính trị đã có vai trò rất quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của Liên Xô. Thậm chí cách đây vài ba năm từng có tới 42% trong số 1.600 người tham gia cuộc điều tra xã hội ở Nga cho rằng, họ ủng hộ hoặc không có gì chống lại việc trên chính trường nước Nga hôm nay lại xuất hiện một nhà lãnh đạo tối cao như Stalin.
Tất nhiên, lịch sử đã sang trang khác và không thể có chuyện lặp lại quá khứ nhưng nếu hiểu đúng hơn về một lãnh tụ như Stalin thì luôn có thể rút ra được những bài học hữu ích cho tương lai.
Sức hấp dẫn của một lãnh tụ ở tầm cỡ như Stalin đôi khi lại nằm trong chính tính cách phức tạp và không bao giờ là một chiều của ông. Trong những tình huống bình thường, có thể một nhân cách như Stalin không thể hiện rõ ràng lắm toàn bộ kích cỡ của mình nhưng mỗi khi lâm sự, đặc biệt là trong những tình huống nghiêm trọng, những tinh hoa trong con người lãnh đạo bẩm sinh như Stalin lại được thăng hoa lên những tầm cao ít ai ngờ tới được.
Chính vì thế nên không chỉ những đối tác mà ngay cả các đối thủ của ông cũng nhiều lúc phải ngả mũ bày tỏ sự thán phục ông.
Tướng Charles de Gaull trong cuốn "Hồi ký chiến tranh" của mình, đã nhận xét: "Stalin có một uy tín to lớn, và không chỉ riêng ở nước Nga. Ông biết "thuần hóa" kẻ thù, không hoảng hốt khi núng thế và không say sưa thắng lợi. Mà ông lại là người có nhiều chiến thắng hơn thất bại...".
Ông tướng nhiều võ công trong chiến tranh thế giới thứ hai từng làm Tổng thống Pháp đã đặc biệt ấn tượng về cách hành xử của J. Stalin trong thời gian tiến hành hội nghị ở Tehran năm 1943, khi lãnh đạo ba quốc gia Đồng minh lớn nhất là Liên Xô, Mỹ và Anh ngồi lại cùng nhau thống nhất kế hoạch kết thúc chiến tranh thế giới lần thứ hai: "Stalin trò chuyện ở Tehran như một người có quyền đòi hỏi người ta phải báo cáo mình. Không bộc lộ kế hoạch của mình cho hai thành viên khác tham gia cuộc họp là Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt và Thủ tướng Anh William Churchill, ông lại đạt được việc buộc họ phải trình bày với ông kế hoạch của họ để ông bổ sung những điều chỉnh.
Roosevelt đã nghiêng về phía ông để bác bỏ ý tưởng của Churchill về việc các lực lượng vũ trang phương Tây tấn công rộng rãi qua Italia, Nam Tư và Hy Lạp tới Vienne, Praha và Budapest. Mặt khác, người Mỹ cũng đồng tình với người Xôviết, bác bỏ, bất chấp những yêu cầu của người Anh, việc xem xét trong cuộc họp những vấn đề chính trị liên quan tới Trung Âu, và đặc biệt là vấn đề về Ba Lan, nơi mà Hồng quân chuẩn bị tấn công...".
Kết quả đạt được tại Tehran năm 1943 với cách hành xử khôn khéo của Stalin đã tạo cho Liên Xô có được những yếu tố thuận lợi hơn trong cuộc hành binh chống lại chủ nghĩa phát xít và xây dựng mô hình mới cho châu Âu sau này…
Chính Thủ tướng Anh Churchill, người thực ra rất có ác cảm với chế độ Xôviết cũng từng phải công nhận: "Một hạnh phúc lớn lao đối với nước Nga là trong những năm thử thách khổng lồ, đất nước này được thiên tài, tướng quân sắt đá Stalin lãnh đạo. Ông ấy là nhân vật kiệt xuất nhất, bao trùm lên cái thời nhiều biến động mà cuộc đời ông ấy đã trôi qua.
Stalin là con người nhiệt huyết phi thường và ý chí không gì bẻ gẫy nổi, cứng rắn, khốc liệt trong trò chuyện, người mà ngay cả tôi, kẻ được giáo dục tại nghị viện Anh, cũng không có gì cưỡng lại được. Stalin trước hết có một óc hài hước phong phú, khả năng thâu nhận những ý tưởng một cách chuẩn xác. Sức mạnh này trở nên vĩ đại ở Stalin đến nỗi ông ấy là người độc nhất vô nhị giữa những nhà lãnh đạo quốc gia mọi thời và mọi nơi.
Stalin đã gây cho chúng tôi một ấn tượng kỳ vĩ. Ông ấy có trí anh minh sâu sắc, tư duy hợp lý, không bao giờ biết hoảng loạn. Ông ấy là một nghệ nhân bất khả chiến bại trong những khoảnh khắc khó khăn kiếm tìm lối thoát từ những tình huống tuyệt vọng nhất. Ông ấy là một nhân vật rất phức tạp.
Ông ấy xây dựng và thuần hoá một đế chế mênh mông. Đó là người biết tiêu diệt kẻ thù của mình bằng chính kẻ thù của mình... Lịch sử, dân tộc không bao giờ quên lãng những người như thế".
Tất nhiên, một cuộc đời có nhiều góc cạnh như của Stalin không bao giờ chỉ để lại những nhận định một chiều. Cho tới ngày hôm nay vẫn còn vô số những "nghi án" về sự đúng sai cách hành xử của vị lãnh tụ này trong những thời điểm khác nhau của lịch sử quốc gia Xôviết. Tuy nhiên, có một điều không thể phủ nhận được là, Stalin quả thực là một lãnh tụ lớn, rất biết cách đối nhân xử thế.
Ở Nga vẫn còn truyền tụng rất nhiều giai thoại thú vị về cách hành xử mẫn tiệp và hóm hỉnh của lãnh tụ Stalin trong những tình huống cực kỳ đa dạng. Trong trường hợp của văn hào Xôviết Mikhail Sholokhov (1905/1984), có thể thấy rằng, Stalin là vị lãnh tụ rất biết trọng nhân tài.
Ngay từ khi "Sông Đông êm đềm" mới ra đời, những kẻ ác ý đã tung tin đồn rằng, đây là bộ tiểu thuyết của một nhà văn khác, chứ không phải của Sholokhov. Điều này khiến nhà văn cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, thậm chí còn gây nhiều khó khăn cho ông. Đến mức, như Sholokhov về sau kể lại, tòa soạn tạp chí "Tháng 10" đã dừng in tập tiếp theo của "Sông Đông êm đềm” vì ngại những tin đồn.
Cực chẳng đã, Sholokhov đành phải cầu cứu ở "ông anh cả" của văn học Xôviết lúc đó là Maxim Gorky. Rồi sau một thời gian có điện thoại hồi âm của Gorky: "Giờ này ngày kia tới. Sẽ có đồng chí Stalin. Đấy mới là người quyết định số phận của anh. Sẽ nói chuyện trong bữa ăn trưa".
Lúc đó, trong thâm tâm Sholokhov cũng ngại lãnh tụ không thích những nhân vật mà ông trong "Sông Đông êm đềm" cho là có lỗi trong việc chống culắc nhưng cũng không còn biết bấu víu vào đâu nên đúng hẹn, Sholokhov cũng liều tới nhà Gorky để gặp Stalin...
Nhà văn kể: "Tất cả cùng ngồi. Gorky im lặng là chính, hút thuốc mù mịt... Stalin ra câu hỏi cho tôi: "Tại sao lại viết về viên tướng Kornilov mềm như vậy?". Tôi trả lời, hình ảnh và hành động của viên tướng Kornilov được tôi miêu tả không nương tay, nhưng thực sự tôi đã dựng nên nhân vật này như một người đã được giáo dục bởi đạo đức danh dự và dũng cảm của một sĩ quan. Ông ta đã chạy khỏi trại tù binh. Ông ta đã yêu Tổ quốc...
Stalin kêu lên: "Sao, thế là danh dự? Ông ta chống lại nhân dân! Một rừng giá treo cổ và một biển máu!". Tôi phải nói rằng, lập luận này đã thuyết phục tôi. Về sau tôi đã điều chỉnh theo hướng đó".
M. Sholokhov kể tiếp: "Stalin ra câu hỏi mới: "Lấy ở đâu ra việc thái quá của Bộ Chính trị sông Đông của Đảng và Ủy ban Cách mạng?" (Đây chính là chủ đề chống culắc). Tôi đáp, mọi việc đã được viết ra rất trung thực theo tài liệu lưu trữ. Nhưng các nhà làm sử đã tránh đi những sự việc này và đã kể chuyện nội chiến không giống như sự thật cuộc đời...
Cuối cuộc gặp, Stalin chậm rãi nói: "Một số người cho rằng bộ tiểu thuyết này sẽ làm vui những kẻ thù của chúng ta, bọn Bạch vệ đang sống lưu vong ở nước ngoài...".
Rồi ông hỏi tôi và Gorky: "Hai đồng chí nói gì về chuyện này?". Gorky trả lời: "Bọn chúng thì ngay cả những cái tốt đẹp, hay ho nhất cũng có thể bóp méo đi mà chống lại chính quyền Xôviết". Tôi cũng đáp: "Đối với bọn Bạch vệ thì ít có điều tốt trong tiểu thuyết này. Chẳng gì thì tôi cũng đã miêu tả sự thất bại hoàn toàn của chúng ở vùng sông Đông và Kuban".
Khi ấy, Stalin mới nói: "Đúng, tôi đồng ý. Việc miêu tả các sự kiện trong tập ba của "Sông Đông êm đềm" hữu ích cho chúng ta, cho cách mạng". Rồi ông hứa là sách sẽ được in...
Quả thực sau đó "Sông Đông êm đềm" tiếp tục được in. Năm 1965, bộ tiểu thuyết này đã được trao giải thưởng Nobel về văn học.
Các giai thoại còn lại tới hôm nay cũng kể rằng, Stalin luôn trân trọng Sholokhov, đến mức gần như "nuông" nhà văn. Sholokhov ngay cả khi đang giữ cương vị chủ đạo ở Hội Nhà văn Liên Xô cũng rất hay cùng bạn đồng nghiệp Alexander Fadeyev "chén anh, chén chú". Thậm chí, có hôm được lãnh tụ mời tới nói chuyện, nhà văn vẫn còn "tây tây".
Những kẻ xấu bụng tưởng như thế thì Sholokhov sẽ bị nhà lãnh đạo tối cao, vốn rất chỉn chu trong thủ tục hành chính, quở mắng. Thế nhưng, Stalin đã có cách hành xử khác.
Một lần, gặp nhà văn lớn, Stalin cười cười hỏi:
- Thế nào, đồng chí nhà văn, một tuần đồng chí cùng đồng chí Fadeyev uống rượu mấy ngày?
Sholokhov đành cười trừ cho qua chuyện. Thấy vậy, Stalin bảo cô thư ký:
- Cô ghi lại đi! Quyết định của Bộ Chính trị. Mỗi tuần đồng chí Sholokhov và đồng chí Fadeyev chỉ uống rượu từ thứ hai tới thứ năm thôi, còn lại ngày thứ sáu phải làm việc! Đừng như bây giờ, bảy ngày rượu say cả bảy!
Nói đoạn, ông dứ dứ ngón tay về phía văn hào. Cả hai bật cười sảng khoái...
Một năm, vào đúng ngày sinh nhật của mình, Sholokhov mời bạn bè thân thiết nhất tới một nhà hàng ở Moskva uống rượu. Bất thình lình, người phục vụ tới nói nhỏ với ông:
- Thưa ông, ông có điện thoại từ Điện Kremli!
Sholokhov cầm lấy ống nghe. Từ đầu dây bên kia vang lên giọng nói đầy uy vũ:
- Thế nào, bạn mình có việc vui mà lại quên mình rồi hả?!
- Dạ, thưa... Tôi... - Sholokhov định biện bạch.
- Không có tôi gì cả, tôi đang chờ anh đây. Cho tôi uống mừng sinh nhật anh với. Xe đang chờ ở ngoài cửa đấy!
Sholokhov ra ngoài. Quả nhiên, một chiếc xe sang trọng đang chờ ngoài cửa. Hóa ra là, Stalin nghe ai đó nói tới sinh nhật của Sholokhov nên đã quyết định là kiểu gì thì ông cũng đích thân chúc mừng nhà văn lớn. Trọng kẻ sĩ không bao giờ là việc vô ích đối với các chính trị gia!
Đông Phương
Nhận xét
Đăng nhận xét