NHÂN TÍNH 16
-Loài người tưởng mình khôn "ngoan" nhất, nhưng thật ra là khôn "hư"nhất!-Loài
người thường cho rằng thú tính xấu xa hơn nhân tính, nhưng thật ra là
loài vô đạo đức nhất, vì độc ác nhất, thủ đoạn bẩn thỉu nhất, trả thù
hèn hạ nhất, sống đồi bại nhất...!
-Nhân tính như tấm huân chương với hai mặt của nó. Một mặt thể hiện ra xấu xa bao nhiêu thì mặt kia thể hiện ra tốt đẹp bấy nhiêu. Đó là hoạt động tinh thần tột đỉnh của giới sinh vật.
-Chỉ khi nhân tính hoàn toàn chuyển biến thành đẹp đẽ hơn thú tính, nghĩa là khi sự phân chia giàu - nghèo đã trở nên vô nghĩa, thì lúc đó mới có xã hội cộng sản đích thực, loài người mới sống đại đồng được! Thử hỏi: quá trình đó là tiến hóa hay thoái hóa!?
-Còn không, may ra chỉ có xã hội cộng sản tương đối thôi!
-Nhưng, mơ mộng thì...có quyền!...
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nhưng thật là:
Trời mưa nắng bất thường, người ta cũng phúc hoạ khôn lường. Lúc mới
25, 26 tuổi thì tai hoạ đã đổ ập xuống đầu Trang, anh ta tự nhiên thấy
toàn thân ngứa ngáy, khó chịu, mặt nổi đầy nốt mẩn lấm tấm, cũng không
phải như vết loét sẹo của bệnh hủi. Tuy chữa trị hết nước mà vẫn không
khỏi, trái lại nó lại lan đến tận 2 mắt và làm hỏng cả đôi mắt. Cuộc
sống đang tươi đẹp bỗng trở thành mờ ảo tối tăm.
Phùng Ân quan
Ngự sử bị trách phạt đày đi tới nơi chân trời góc bể sao lại được các
quan Hàn lâm viện và dân chúng trong thành ngưỡng mộ như vậy.
-Nhân tính như tấm huân chương với hai mặt của nó. Một mặt thể hiện ra xấu xa bao nhiêu thì mặt kia thể hiện ra tốt đẹp bấy nhiêu. Đó là hoạt động tinh thần tột đỉnh của giới sinh vật.
-Chỉ khi nhân tính hoàn toàn chuyển biến thành đẹp đẽ hơn thú tính, nghĩa là khi sự phân chia giàu - nghèo đã trở nên vô nghĩa, thì lúc đó mới có xã hội cộng sản đích thực, loài người mới sống đại đồng được! Thử hỏi: quá trình đó là tiến hóa hay thoái hóa!?
-Còn không, may ra chỉ có xã hội cộng sản tương đối thôi!
-Nhưng, mơ mộng thì...có quyền!...
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Chiêu Tín - Ác phụ được mệnh danh "Quái vật của lịch sử TQ"
Cập nhật lúc: 20:30 10/08/2015
(Khám phá) - Sử sách không ghi rõ ràng về xuất thân của Chiêu Tín và thời trẻ của bà, cũng không cho biết gì về việc nhập cung của bà.
Chiêu Tín (chữ Hán: 昭信, ? - 70
TCN), tên đầy đủ là Dương Thành Chiêu Tín (陽成昭信), là vương hậu nước
Quảng Xuyên dưới thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, bị nhiều sử gia
đánh giá là ác phụ.
Sử sách không ghi rõ ràng về xuất thân
của Chiêu Tín và thời trẻ của bà, cũng không cho biết gì về việc nhập
cung của bà. Căn cứ theo Hán thư, quyển 53 thì có lẽ Chiêu Tín nhập cung
trở thành Quảng Xuyên vương hậu sau năm 92 TCN.
Nước Quảng Xuyên vốn được Hán Cảnh Đế
phong cho con trai thứ 10 của mình là Quảng Xuyên Huệ vương Lưu Việt vào
năm 148 TCN. Trải qua ba đời thì đến người cháu nội của Lưu Việt là Lưu
Khứ (lên làm vương năm 92 TCN). Lưu Khứ là người giỏi võ và tàn bạo háo
sắc, trong cung có hàng trăm mĩ nữ, trong đó sủng ái nhất là hai nàng
Vương Chiêu Bình, Vương Địa Dư, từng hứa lập làm vương hậu. Lúc Lưu Khứ
bị bệnh, Chiêu Tín thường đến chăm sóc hầu hạ, từ đó Lưu Khứ chuyển sang
sủng ái Chiêu Tín.
Chiêu Tín - "Quái vật" của lịch sử Trung Quốc. |
Chiêu
Tín là cơ thiếp của Quảng Xuyên Vương Lưu Khứ, cháu nội vua Hán Cảnh
Đế. Chiêu Tín đẹp thế nào thì không thấy sử sách ghi, nhưng tính tình
tàn nhẫn hiểm ác thì vào loại hàng đầu trong lịch sử Trung Quốc.
Theo sử chép thì lúc đầu Lưu Khứ rất
sủng ái hai nàng Vương Chiêu Bình, Vương Địa Dư, hứa hẹn lập họ làm
hoàng hậu. Nhưng vốn là kẻ hoang dâm vô độ nên sau này ông ta lại quay
ra sủng ái Chiêu Tín. Chiêu Bình, Địa Dư rất căm tức nên bàn mưu định
hại Chiêu Tín.
Chuyện bị bại lộ, Lưu Khứ bắt Chiêu Bình
ra dùng khổ hình tra khảo. Đánh roi mây, Chiêu Bình nén chịu không
khai, chuyển sang dùng dùi sắt đâm, Chiêu Bình đau quá phải khai. Thế là
Lưu Khứ bèn triệu tập các phi tần đến, bắt họ dùng kiếm đâm chết Địa
Dư, còn Chiêu Bình thì để Chiêu Tín đâm chết. Ông ta còn cho treo cổ 3
thị tỳ, sau đó đem đốt xác hai người đẹp ông ta hằng yêu dấu thành tro rồi đổ đi.
Chưa hài lòng, Chiêu Tín còn vu cáo Vọng
Ngưỡng, một ái thiếp khác được Lưu Khứ sủng ái. Nghe Chiêu Tín siểm
tấu, Lưu Khứ cho gọi các phi tần cùng kéo đến nơi Vọng Ngưỡng ở, lột hết
quần áo nàng, bắt các phi tần dùng dùi nung đỏ gí vào người nàng. Vọng
Ngưỡng bỏ chạy, nhảy xuống giếng tự vẫn, Chiêu Tín lôi lên, dùng giáo
đâm vào chỗ kín, xẻo mũi cắt miệng, cắt lưỡi nàng… đem nấu chín, bắt các
phi tần khác xem.
Chưa hết, Chiêu Tín còn vu cáo hãm hại
một cung phi là Vinh Ái. Vinh Ái sợ quá nhảy xuống giếng nhưng không
chết. Chiêu Tín lôi lên, trói lại, gí dao nung làm mù hai mắt, cắt hai
tay, nung chì đổ vào miệng nàng. Vinh Ái chết, Chiêu Tín còn sai phân
thây bắt chôn mỗi thứ một nơi. Có tới 14 cung phi từng được Lưu Khứ sủng
ái bị Chiêu Tín hành hạ như vậy.
Những vụ án kinh thiên, động địa trong lịch sử Trung Quốc (P.1)
Cập nhật lúc: 19:30 27/07/2015
(Khám phá) - Nhưng Trang Đình Long cũng đã đọc thuộc chút ít sách kinh sử, anh ta nhớ đến một câu nói nổi tiếng của Thái sử công Tư Mã Thiên: "Tây Bá bị giữ ở Dũ Lý vẫn viết được "Chu Dịch"
Phần 1: Trang Đình Long và "Minh sử tập lược"
Nhà Thanh là vương triều do người Nữ
Chân cổ vốn sống mãi nơi rừng thiêng nước độc đã trải qua nhiều thế hệ
xây dựng nên. Sau khi vào làm chủ Trung Nguyên, để đề phòng sự chống đối
của người Hán đã thực hiện chính sách trấn áp, hạn chế tự do ngôn luận,
tạo dựng nên nhiều vụ án văn tự khiến cho mọi người phải khiếp sợ.
Trong đó vụ án Minh sử Trang Đình Long có số người liên luỵ và bị giết
quá nhiều thật chưa từng có.
Trang Đình Long (không rõ năm sinh năm
mất) tự là Tư Tương là người Hồ Châu, tỉnh Triết Giang. Trang xuất thân
trong một gia đình thương gia giàu có, từ nhỏ thông minh ham học, đặc
biệt rất thích đọc sách về lịch sử, sớm chịu ảnh hưởng lốl sống cuối
thời nhà Minh. lại xuất thân từ gia đình giàu có vạn bộ nên Trang không
chịu đi con đường 10 năm đèn sách, khoa cử đề danh bảng vàng, cũng không
chịu nhẫn nại khổ công học hành và bố của Trang Đình Long cũng không
muốn thấy Trang phải chịu khổ. Từ đó Trang sống cuộc sống dựa dẫm, nhàn
hạ của một cậu ấm con nhà phú hộ. Ngoài việc giúp bố mẹ trông hàng chốc
lát, còn chỉ chú ý đến việc làm dáng trong thư phòng rộng rãi của mình,
lật giở từng trang kinh sử.
Trung Quốc thời nhà Thanh. |
Nhưng Trang Đình Long cũng đã đọc thuộc
chút ít sách kinh sử, anh ta nhớ đến một câu nói nổi tiếng của Thái sử
công Tư Mã Thiên: "Tây Bá bị giữ ở Dũ Lý vẫn viết được "Chu Dịch". Khổng
Tử gặp tai ương ở đất Thái mà sáng tác "Xuân Thu". Khuất Nguyên bị đày
mà vẫn viết được "Ly Tao" nổi tiếng. Tả Khâu bị mù mà vẫn có "Quốc ngữ",
Tôn Tử bị phạt khoét xương bánh chè mà vẫn còn luận bàn binh pháp, Bất
Vi rời Thục để lưu truyền "họ Lã", Hàn Phi bị tù vẫn có "Thuyết nạn",
"Cô phận" và cả 300 bài thơ. Các bậc thánh hiền khi gặp không may vẫn
đều thành danh cả.
Thế là Trang cũng rập khuôn, quyết tâm
học theo các vị thánh hiền, viết ra một quyển sách nổi tiếng để mong
truyền cho hậu thế. Nhưng hai mắt bị mù loà anh ta biết làm sao đây?
Nếu một mình viết ra một bộ sử thi thì
không thể được, nhưng họ Trang có nhiều tiền bạc của cải nên có thể mời
một số nho sinh nghèo đến giúp sức, lại mời thêm ít vị có danh tiếng đến
biên soạn một bộ sử thi. Trang Đình Long phải mất một ngày tính toán
mới nghĩ ra cách làm như trên, anh ta nói với bố là Trang Doãn Thành. Để
an ủi đứa con bệnh tật, Trang Doãn Thành đồng ý ngay và nhanh chóng
xuất tiền cho con thực hiện kế hoạch đó Có một cơ hội ngẫu nhiên làm cho
Trang Đình Long nhanh chóng thực hiện được cách làm của mình. Vốn là có
một nho sinh họ Chu sống cạnh nhà họ Trang, anh ta vốn là cháu Nội các
Thư phú Chu Quốc Trinh thời Thiền Khởi nhà Minh. Trước đây, Chu Quốc
Trinh đã biên soạn bộ sách "Hoàng Minh sử khái" sau khi phát hành sách
được khen ngợi rộng rãi, ông còn có một bộ sách nổi tiếng khác là "Hoàng
Minh Liệt triều chư thần truyện", nhưng chỉ có bản thảo, chưa in ấn
phát hành ra ngoài. Theo căn cứ để lại "Liệt triều chư thần truyện" có
khoảng 10 quyển, sách ghi chép tỉ mỉ sự tích các quan văn võ nhà Minh từ
thời khai quốc đến thời Vạn Lịch. Đây là một bộ sử thi, ghi chép truyền
lại rất có giá trị. Sau khi nhà Minh bị diệt vong, gia đình họ Chu và
các môn đồ ly tán, kinh tế nghèo khó, đã phải bán đi một số tài sản của
cha ông. Nay lại nghĩ đến tập bản thảo này.
Lúc đó Trang Đình Long đang tìm người
tài để biên soạn Minh sử, tin này đến tai nhà Chu, thế là con cháu họ
Chu chủ động tìm đến và bán bộ bản thảo này cho Trang Đình Long để lấy
một nghìn lạng bạc rồi vui vẻ, sung sướng ra về.
Sau khi Trang Đình Long mua được bản
thảo bộ sách này, lại dùng nhiều tiền để mời hơn 10 vị nho sĩ là: Mao
Nguyễn Minh, Ngô Chi Minh, Ngô Chi Dung.., đưa bản thảo ra chỉnh lý, gia
công, bổ sung, sửa đổi đồng thời điền thêm tư liệu lịch sử hai triều
Thiên Khởi và Sùng Chinh tập hợp thành một bộ sử thi lấy tên là "Minh sử
tập lược", hay còn gọi là "Minh thư tập lược" rồi ghi tên họ mình vào
sách coi như là sách của Trang Đình Long.
Để nâng cao tiếng tăm của sách, Trang
Đình Long còn mời Lễ bộ thị lang Lý Lệnh Tích viết cho lời tựa, đồng
thời ngay những trang đầu tiên liệt kê một loạt các văn nhân nổi tiếng
đứng tên "biên soạn". Thực ra ngoài số học giả, eó danh tiếng nhận lời
đến biên soạn giúp, còn đa số họ đều chưa làm việc này bao giờ.
Sau khi hoàn thành bản thảo, còn chưa
kịp ấn hành thì bệnh tình của Trang Đình Long đột biến hiểm ác rồi chết.
Ông già Trang Doãn Thành thương con trong lòng vô cùng đau khổ. Để tỏ
lòng nhớ thương và an ủi linh hồn đứa con trên thiên đường, ông cố sức
cho in "Minh sử tập lược". Mùa Đông năm Thuận Trị thứ 17 (1660) in được
1000 quyển và đưa ra bán, ông già cảm thấy trong lòng thư thái hẳn lên
vì đã thay con hoàn thành được ý nguyện của nó. Ông lại nghĩ cùng với
việc lưu truyền rộng rãi "Minh sử tập lược" người đời sẽ nhớ mãi tên
tuổi con ông, Nghĩ vậy, ông già cảm thấy mãn nguyện. Nhưng ông lại không
thể ngờ tới tai hoạ, phiền toái cũng từ đó đang tới gần.
Hoàng đế khai quốc nhà Thanh là Hoàng
Thái Cực, cha Hoàng Thái Cực là Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã từng làm Tả vệ đô đốc
Thiêm sự Kiến Châu của triều nhà Minh (vùng đất thuộc huyện Tân, Liêu
Ninh ngày nay) lại được phong tước Tử chức Long hổ tướng quân. Về sau Nỗ
Nhĩ Cáp Xích lấy cớ "Thất đại hận" (Bảy nỗi hận lớn) mà thề dấy binh
chống lại nhà Minh lập nên nhà Hậu Kim. Đến đời Hoàng Thái Cực, thống
nhất thiên hạ, dựng lên nhà Thanh. Sau khi nhà Thanh thành lập, để củng
cố nền thống trị của dân tộc Mãn, họ cũng như các vương triều khác trong
lịch sử ra sức tuyên tuyền đạo đức phong kiến như trung, hiếu, tiết,
nghĩa, tam cương ngũ thường, vì vậy đối với lịch sử của tổ tiên họ rất
chú ý đến huý kỵ, không muốn để người khác biết đến. Ngoài ra trước khi
nhà Thanh vào làm chủ Trung Nguyên, ở phương Nam, trước sau đó có mấy
lần chính quyền (thuộc hạ) nhà Minh chiến đấu chống lại nhà Thanh. Thế
lực thống trị nhà Thanh rất không muốn nhắc lại. Thế mà Trang Đình Long
đã nổi tiếng vì biên soạn cuốn Minh sử tập lược, lại căn cứ vào bản thảo
của Chu Quốc Trinh sủa đổi mà thành. Do thời gian hạn hẹp không đầy đủ,
công việc khó khăn phức tạp nên một số sự thực lịch sử mà nhà Thanh
muốn né tránh và huý kị bị nhắc trong sách:
Thứ nhất, "Minh sử tập lược" nói đến
quan hệ giữa nhà Minh và nhà Thanh. Trong sách nói đến tên tự hàm quan
của Thái tổ nhà Thanh là Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Khi chép việc đại tướng nhà
Minh là Lý Thành Lương giết chết người ông của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, rồi sự
thực nuôi dưỡng Nỗ Nhĩ Cáp Xích thời còn nhỏ. Trách mắng sử quan nhà
Minh là Thượng Khả Hỉ, Cảnh Thân Minh đã đầu hàng nhà Thanh.
Thứ hai là: dùng từ ngữ khiếm nhã, miệt
thị với người Mãn Châu Thứ ba là: ghi chép lại sự thực lịch sử quân
phương Nam nhà Minh chống lại nhà Thanh và ghi rõ ngày tháng, thời gian
lên ngôi của 3 vị vương nhà Minh.
Sự thực lịch sử này vốn giai cấp thống
trị nhà Thanh không muốn nhắc tới. Lúc đó nếu ai viết ra như thế đều gặp
tai hoạ, tan cửa nát nhà, vì vậy sau khi sách được bán ra, thì gặp
phiền phức ngay.
Một số văn nhân phóng đãng, quan lại xấu
xa thấy trong sách có nhiều chỗ huý kị, như bắt được vàng nên đổ xô đến
nhà Trang Doãn Thành. Bọn chúng giả bộ chuẩn bị tố giác hòng vơ vét
tiền bạc. Trang Doãn Thành tuy nhà rất giàu, nhưng vừa đuổi được người
này đi thì người khác lại đến, bọn ăn vạ này rất đông, Trang Doãn Thành
không đủ tiền để thoả mãn nhu cầu của chúng được.
Cùng lúc đó, một số danh sĩ được thống
kê tên họ "biên soạn" xem xong "Minh sử tập lược" đều cảm thấy bất an.
Trong đó có 3 người là Cử nhân Tra Kế Tá, Cống sinh Phạm Tương, Lục Kỳ
vốn không tham dự "biên soạn", thậm chí cũng không hề quan hệ với Trang
Đình Long lại có tên trong danh sách liệt kê biên soạn, nên tháng 12 năm
Thuận Trị thứ 17 (1660) bèn viết tờ trình gửi Ty án sát nhờ minh xét.
Lúc đầu, Ty án sát không để ý liền giao cho Học chính Hồ Thượng Hoàng.
Hồ Thượng Hoàng lại nhường lại cho Phủ học Hồ Châu tra xét rồi báo cáo.
Giáo thụ phủ học Hồ Châu Triệu Quân Tống mua một bộ "Minh sử tập lược"
chọn ra nhừng câu chữ có huý kỵ đến nhà Thanh ra cáo thị trước cổng phủ
học, đồng thời bẩm lên cấp trên. Lúc này, nhà họ Trang vội vàng tụ tập
người giúp việc sửa đi toàn bộ số câu chữ huý kị trên, cho in gấp một số
bộ mới rồi gửi đến ty Thông chính, Bộ Lễ, Viện Đô sát… mỗi nơi một bộ
lấy mục đích bịt miệng mọi người.
Nhưng do sách "Minh sử tập lược" đã được
lưu hành rộng rãi khắp nơi, những chỗ kị huý cũng truyền lan nhiều
người biết. Một số tham quan lại thừa cơ lừa gạt doạ dẫm để ăn tiền. Mặc
dù Trang Doãn Thành đã sửa đổi "Minh sử tập lược" song rắc rối vẫn
không hề giảm đi.
Quan Lương đạo Triết Giang trước đây là
Lý Đình Khu có mua được một bộ "Minh sử tập lược" chưa qua sửa đổi thấy
có thể lừa gạt được tiền bèn bàn mưu cùng Tri phủ Hồ Châu Trần Vĩnh Minh
đến tống tiền Trang Doãn Thành rồi chia đôi. Trần Vĩnh Minh liền đưa ra
việc tra xét "sách nghịch".
Phú thương Trang Doãn Thành sợ Tri phủ
bắt giết cả nhà nên vội vàng dâng nộp hàng nghìn lạng bạc để dẹp yên
chuyện này. Nhưng Tri phủ Hồ Châu Trần Vĩnh Minh đã nuốt lời hứa một
mình nuốt hết số bạc hối lộ đó không chia cho Lý Đình Khu rồi lệnh cho
Trang Doãn Thành phá huỷ ấn bản, sách vở, chứng cứ. Lý Đình Khu không
làm gì được phải lấy lại bộ "Minh sử tập lược" đưa cho người thân là Ngô
Chi Vinh để cho Ngô Chi Vinh lừa gạt kiếm ít tiền.
Ngô Chi Vinh đã từng làm Tri huyện Quy
An, Hồ Châu, nhưng do lộng quyền, tham nhũng coi rẻ mạng người nên bị tố
cáo sau đó bị bãi chức quan tống giam vào ngục. Sau khi ra tù, không
được về sống ở quê Giang Tây mà sống gửi ở Hồ Châu và chuyên dựa vào lừa
đảo để kiếm tiền sinh sống.
Sau khi có được "Minh sử tập lược" hắn
ta cho rằng đã có cơ hội phát tài. Hắn về nhà ghi chép lại tất cả những
chỗ kị huý trong sách vào một quyển vở nhỏ. Ngô Chi Vinh nhét quyển vở
đó vào trong bụng rồi đi đến nhà Trang Doãn Thành.
Trang Doãn Thành thấy tên quan chuyên
lừa đảo kiếm tiền này tới biết là có chuyện chẳng lành, nhưng cũng không
dám lãnh đạm mà cung kính nói: "Lão gia quá bộ đến tệ xá, không biết có
việc gì chỉ bảo?" Ngô Chi Vinh thong thả rút quyển vở nhỏ và nói: "Lệnh
lang Trang Đình Long thật là người có tài "Minh sử tập lược" của cậu ấy
sáng tác có rất nhiều ý đẹp lời hay, ta đều đã ghi lại cả rồi", nói
xong liền đưa quyển vở lại.
Trang Doãn Thành đỡ quyển vở và xem qua,
bất giác mặt mày tối sầm đầu óc quay cuồng, người run bắn lên, ông cố
gắng trấn tĩnh lại và đành nói:
"Ông muốn gì? Cứ nói thẳng ra đi". Thế
là Ngô Chi Vinh cười hì hì và nhẹ nhàng giơ ngón tay trỏ và nói: Không
giấu gì lão tiên sinh, gần đây hạ quan thời vận không được tốt bị mất
chức mất của đến nỗi không về được quê hương, vì vậy hạ quan muốn lão
tiên sinh cho mượn một số bạc để giải quyết trong lúc cấp bách. Đợi đến
khi hạ quan được phục chức, nhất định sẽ hoàn trả đầy đủ".
Việc đã như vậy, Trang Doãn Thành biết
là đã gặp phải kẻ tống tiền rồi, không biết phải làm gì tự thấy mình vận
rủi, ông chỉ muốn tống khứ tên tham quan vô lại này đi nên tỏ ra lễ
phép nói:
- Một nghìn lạng phải không? Lão phu xin đưa đủ.
Nhưng đâu có ngờ Ngô Chi Vinh như con sư
tử há mồm, đắc ý nói: "Một nghìn lạng thì ít quá ta cần chí ít cũng
phải 1 vạn lạng, chừng đó đối với ông cũng là ít đó!".
Con số này làm cho Trang Doãn Thành giật
mình, tuy ông là một phú thương nhưng cũng không thể chịu nổi nhiều tên
vô lại đến tống tiền, xách nhiễu như thế này. Nếu như thoả mãn được
lòng tham của bọn chúng thì không đến vài tháng, họ Trang phải khuynh
gia bại sản. Nghĩ vậy Trang Doãn Thành nghiêm mặt lại nói "Những chữ
nghĩa trong sách này đều là cuồng vọng của nghịch tử khi còn sống sao
chép lại của người khác, lão phu phải chịu liên luỵ, nhưng tôi đã mời
người tới viết lại rồi, đồng thời đã trình cho Ty Thống chính, bộ Lễ,
Viện Đô sát và đã được họ chấp thuận, những sách này trước đây đã được
huỷ rồi, gần đây, tôi buôn bán không được, vốn liếng eo hẹp, dù có xoay
xở ở đâu cũng không có 1 vạn lạng được".
Ngô Chi Vinh tống tiền không thành,
trong lòng tức giận như bốc lửa, hắn đâu chịu bỏ qua? Ít lâu sau, hắn
chạy đến thành Hàng Châu. Tháng 7 năm Thuận Trị thứ 18 (1661) hắn phát
đơn tố cáo "sách nghịch" lên tướng quân trấn thủ Hàng Châu Kha Khuê. Kha
Khuê lệnh cho tuần phủ Triết Giang Chu Xương Tô điều tra, nhưng Chu
Xương Tô cũng không đê ý đến rồi nhường lại cho Đốc học Hồ Thượng Hoành
xem xét xử lý. Sự việc thế là dang dở từ đó. Mặt khác, khi Ngô Chi Vinh
đi Hàng Châu, Trang Doãn Thành cũng sai người dùng tiền vàng vào thành
mua chuộc, lót tay, điều đình với quan lại các cấp, đồng thời qua Đề đốc
Tùng Giang hối lộ Kha Khuê, Kha Khuê nhận bạc xong liền không chú ý gì
đến "án sách nghịch" nữa.
Ngô Chi Vinh tống tiền không được, tố
cáo cũng không xong, trong lòng càng bất bình. Hắn vốn đã làm gì là phải
làm bằng được, bèn mang theo "Minh sử tập lược" vào kinh tố cáo tiếp.
Mùa đông năm Khang Hy thứ nhất (1662)
Ngô Chi Vinh tới Bắc Kinh, hắn đến bộ Hình đệ đơn tố cáo Trang Doãn
Thành in, viết sách phản nghịch. Kẻ tố cáo đã đến gần Thiên tử nên các
quan bộ Hình không dám coi thường vội dâng biểu lên nhà Vua. Năm Khang
Hy thứ hai(1663) vua Khang Hy lệnh cho 2 vị quan bộ Hình người Mãn đến
Hồ Châu điều tra thu hồi sách và bắt giữ tội phạm. Sách đã sớm bị huỷ bỏ
còn phạm nhân Trang Doãn Thành lập tức bị bắt giải về kinh. Ít lâu sau,
Trang Doãn Thành dùng thuốc độc tự sát chết trong ngục. Tuy người và
tài sản không còn gì, nhưng sách vở in ấn trước đây vẫn còn thu được mấy
quyển, giấy trắng, mực đen thật tội chứng như núi. Vì vậy vụ án được
xét xử rất nhanh những người liên quan đến đều bị mang ra nghiêm trị.
Trang Doãn Thành, Trang Đình Long, hai
cha con đã chết từ trước nhưng vẫn phải đào lên chịu tội xé xác phanh
thây rồi chôn chung. Em Trang Đình Long là Trang Đình Thành bị xét xử
tội lăng trì.
Lễ bộ thị lang Lý Lệnh Tích do trước đây
đã viết lời tựa cho sách nghịch, xử tội chết lăng trì, ba người con bất
hạnh của ông cũng bị tội chém đầu, bị tịch thu hết gia sản, thân nhân
bị lưu đày.
18 vị danh nho được kê tên tham gia biên
dịch như Mao Nguyên Danh, Tưởng Lâm Chinh, Trương Văn Thông, Vi Nguyên
Giới, Phan Thánh Chương, Ngô Đạm, Ngô Chi Dung, Ngô Chi Danh… đều bị xử
lăng trì, người thân hoặc bị giết chết hoặc bị lưu đày, gia sản đều bị
tịch thu.
Phú hộ Chu Hựu Minh giúp đỡ tiền bạc cho
in sách cũng bị tội chết lăng trì, tịch thu gia sản, thân nhân cũng bị
hoặc giết chết hoặc lưu đày.
Trên đây là kể lại việc con cháu các vị biên soạn sách và cả Chu Hựu Minh bị tội chém đầu.
Còn thợ khắc chữ Dương Đạt Phổ, Lý Tường
Phổ, người bán sách Vương Vân Giao, Lục Đức Nho, những người mua và
giấu sách nghịch như Tô Châu Thuỷ Giã quan chủ sự Lý Kế Bạch., tham gia
và có thẩm án ở hai huyện Quy An và Điêu Trình là các giáo quan, đốc học
phủ Hồ Châu như giáo thụ Triệu Quân Tống. cũng đều bị chém đầu Quan Tri
phủ mới ở Hồ Châu Đàm Hy Mẫn, quan Viễn nhiệm Lý Hoan, quan mới nhậm
chức Huấn đạo huyện Quy An Vương Triệu Trinh., bị quy tội "Biết việc mà
che giấu", "xử lý công việc tuỳ tiện" và đều bị xử tội treo cổ chết,
trong đó Đàm Hy Mẫn mới làm quan được 3 tháng, Vương Triệu Trinh chỉ mới
được chưa đầy nửa tháng.
Ngoài ra, tướng quân Kha Khuê bị cách
chức, khách trong trướng là Trình Duy Phiên cũng liên đới bị giết. Tuần
phủ Trết Giang Chu Xương Tô, Học chính Hồ Thượng Hành, Đề đốc Tùng
Giang, Lương Hoá Phong, Thủ đạo Trương Võ Liệt… do dùng nhiều vàng bạc
hối lộ nên được tha miễn tội chết.
Vụ án kiện sách nghịch này đã giết chết
tổng cộng 72 người, số phụ nữ bị phát vãng nơi biên cương đến hơn 100
người. Đây là một vụ án văn tự kinh thiên động địa, người bị giết nhiều,
phạm vi liên luỵ quá rộng, thật chưa từng có.
Ngô Chi Vinh tố cáo giết được Trang Doãn
Thành đã hả được mối căm giận. Hắn còn được hưởng một nửa gia tài lớn
của nhà họ Trang và Chu, ngoài ra còn được phục hồi quan chức. Sau lại
được thăng Hữu thiên Đô Ngự sử, thật là vừa được thăng quan lại còn phát
tài. Nhưng vận may không được dài. Năm Khang Hy thứ 4 (1665) Ngô Chi
Vinh đột nhiên mắc phải một loại bệnh quái dị, toàn thân loét rữa ra mà
chết. Kết cục này mới được hơn một năm sau khi hắn tố cáo vụ án "sách
nghịch". Những người từng bị liên luỵ đều thở phào và nói với nhau rằng:
Ngô Chi Vinh đã bị quả báo, đúng như cổ nhân răn dạy: tính thiện phùng
thiện, tính ác phùng ác.
Những vụ án kinh thiên, động địa trong lịch sử Trung Hoa (P.2)
Cập nhật lúc: 19:30 28/07/2015
(Khám phá) - Phùng Ân cũng suy nghĩ không biết có nên làm như vậy không? Lúc này, ở ngoài cửa có tiếng chân bước lạo xạo, tiếng người nói râm ran vọng lại...
Phần 2: Phùng Ân vạch tội quyền thần!
Vào một ngày tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 14
(1535), quan Ngự sử Phùng Ân đã thu xếp xong hành lý chuẩn bị rời Bắc
Kinh đi Trích Tuất, Tô Châu Quảng Đông. Theo nếp cũ chốn quan trường.
khi quan lại ở Bắc Kinh bị phát vãng ra ngoài đều lấy vải hoa che mặt
rồi lặng lẽ rời khỏi chốn kinh thành, tránh để các quan đồng liêu nhìn
thấy.
Phùng Ân cũng suy nghĩ không biết có nên
làm như vậy không? Lúc này, ở ngoài cửa có tiếng chân bước lạo xạo,
tiếng người nói râm ran vọng lại. Mọi người đang đến để tiễn đưa Phùng
Ân. Tất nhiên, ngoài dân chúng kinh thành còn có không ít quan lại trong
triều. Các quan Hàn lâm viện Châu Thủ Ích, La Hồng Tiên, Trình Văn Đức…
đưa tặng bức quyển đề bốn chữ lớn "Tứ Đức Lưu Phương" để biểu thị lòng
kính trọng và ngưỡng mộ của mọi người đối với ông.
Từ năm 1368 - 1644 là triều đại của nhà Minh. |
Phùng Ân (không rõ năm sinh, năm mất) tụ
là Tứ Nhân, người Hoa Đình, Tùng Giang (nay là huyện Tùng Giang, thành
phố Thượng Hải). Nhà ông rất nghèo, cha mất sớm chỉ còn mẹ chịu thương
chịu khó nuôi ông thành người. Được mẹ dạy dỗ Phùng Ân không quản cuộc
sống khó khăn, khổ công học tập. Vào đêm trừ tịch của một năm, trời lạnh
lại đổ mưa to, vậy mà vẫn có từng loạt chớp sáng xé rách màn đêm, từng
tràng pháo nổ hất tung màn mưa truyền đi niềm hoan lạc của ngày Tết.
Nhưng nhà họ Phùng bần hàn, trong đêm giao thừa vẫn không có lấy hạt gạo
bỏ vào nồi, đến ngay bữa cơm đầu năm mới cũng chẳng có. Để quên đói rét
và an ủi mẹ già, Phùng Ân, Phùng Tư vẫn mặc chiếc ao vải thô đã cũ
rách, che lên người mảnh chăn giá lạnh và ngồi trên giường lớn tiếng
ngâm nga kinh sử với ý nghĩ đọc sách để cuốn hút toàn bộ tâm chí của
mình, đến ngay cả những tràng pháo nổ giữa đêm mưa dường như cũng không
lọt được vào tai. Đói rét cũng bị tiếng đọc sách mang đi hết. Hoàn cảnh
gian khó đã tôi luyện ý chí của ông làm cho sự nghiệp học hành đạt bước
tiến lớn. Năm Gia Tĩnh thứ 5 (1526). Phùng Ân thi đỗ Tiến sĩ được thụ
chức Hành nhân.
Thời nhà Minh, có không ít sĩ tử lấy
việc học hành làm dấu hiệu sắp bước vào quan trường. Sau khi đã làm quan
rồi liền bỏ sách không ngó ngàng đến nữa, Phùng Ân quyết không như vậy,
ông chớp mọi thời cơ nghiền ngẫm kinh sử, chuyên tâm cầu tiến. Năm Gia
Tĩnh thứ 7 (1528) Phùng Ân phụng mệnh đi Lưỡng Quảng Uý lạo tân kiến Bá
Vương Thụ Nhân, Vương Thụ Nhân tự Bá An, hiệu Minh Dương - ông là người
dụng công học tập, dẹp được loạn Ninh Vương, danh tiến vang thiên hạ.
Phùng Ân sau khi gặp Vương Thụ Nhân, nhân lúc rỗi rãi bèn cùng nhau đàm
đạo về con người Phùng Ân đã rất cảm phục trước học vấn và nhân phấm của
Vương Thụ Nhân, suy tôn ông là bậc thầy và xá lê nhận làm đệ tử, rồi
theo Vương Thụ Nhân, học thánh học. Vương Thụ Nhân cũng tán thưởng tri
thức, khí tiết của Phùng Ân, ông nói với mọi người: "Làm quan to mà đức
vẫn lớn thì chính là Phùng Ân đó". Câu nói đó thể hiện sự kỳ vọng sâu
sắc gửi cho Phùng Ân của Vương Thụ Nhân, vị quan đầy danh tiếng đương
thời.
Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 8 (1529) Phùng Ân được phong làm Giám sát Ngự sử Nam Kinh.
Là Ngự sử, Phùng Ân đã nhiều lần dâng sớ
vạch tội bọn tham quan, quyền quý, nhiều lần tấu biểu phục thiện trừ ác
làm được nhiều việc khiến tiếng lành đồn xa.
Nam Kinh là kinh đô phụ của nhà Minh, vị
thế sau với Bắc Kinh. Triều đình vốn vẫn thường cử trọng thần trấn giữ.
Trấn thủ Nam Kinh lúc đó là quan đại thần Nguỵ Công, đã dựa vào quyền
thế, và tư lợi cá nhân mà sai khiến nô dịch quân sĩ.
Quân sĩ bảo vệ các nơi gần thành Nam
Kinh đáp ứng không đủ cho nhu cầu tư túi của ông ta, ông ta bèn vượt
sông Trường Giang tiếp tục sai khiến binh sĩ bảo vệ phía bắc sông. Việc
làm này can thiệp và làm khó dễ đến công việc huấn luyện binh thường và
khai khẩn đất hoang của quân sĩ; dẫn đến sự bất mãn oán hận cực độ của
binh sĩ. Phùng Ân biết được tình hình này liền dâng sớ tố cáo vạch tội
Nguỵ Công tư lợi khiến ông ta bị triều đình quở trách, không bao giờ dám
vượt sông nô dịch binh sĩ nữa. Nhưng việc làm này của Phùng Ân bị một
số quan lại quyền thế thường hay chèn ép binh sĩ để tư lợi, vô cùng tức
giận. Bọn chúng cũng tìm cớ để khiến ông bị phạt mất một tháng lương
bổng.
Nhưng Phùng Ân vẫn là người trực tính,
dám nói thẳng không chịu cúi đầu trước bọn quyền quý, vẫn lên tiếng vì
chính nghĩa, không gì khuất phục nổi. Lúc đó quan chỉ huy quân sĩ bảo vệ
thành Nam Kinh là Sử Trương Thân vì tư thù, đã đánh chết người. Nhưng
hắn là người thân tín của Đô Ngự sử Uông Hồng vì vậy vẫn ung dung thoải
mái ngoài vòng pháp luật, không ai dám tố cáo. Khi biết vịệc này, Phùng
Ân bất chấp đối đầu với sự bao che của Thượng thư Vương Hồng và đã dũng
cảm dâng sớ vạch tội tố cáo. Cuối cùng đã đưa được Chỉ huy sứ Trương
Thân ra xử tội. Việc này đã làm phấn chấn lòng người, trái lại làm cho
Uông Hồng căm tức tận xương tuỷ.
Đô Ngự sử Uông Hồng là người cố chấp,
thực dụng, thâm hiểm và xảo trá, lại giỏi luồn lách thánh ý của Văn Thế
Tông, cứ ngon ngọt thì tốt lành, cứ bợ đỡ thì sũng ái v.v… Đối với loại
quan liêu như vậy, Phùng Ân bất chấp y là Đô Ngự sử vẫn dâng biểu tố cáo
những tội ác đã qua của y.
Nhưng lúc đó, Thế Tông đang sủng ái Uông Hồng nên không đếm xỉa gì đến tố cáo của Phùng Ân.
Tuy vậy tấu biểu tố cáo của Phùng Ân vẫn có tác dụng
lớn. Ngự Sử tố cáo Đô Ngự sử là việc hiếm có ở thời nhà Minh, nó làm
cho Uông Hồng mất mặt, tiêu tán uy phong. Vì vậy Uông Hồng càng không
thể dung tha Phùng Ân vì tất muốn loại trừ hậu hoạ càng nhanh.
Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 10 (1531) lại
sắp chuẩn bị sát hạch các quan lại địa phương, theo cách làm cũ, mỗi khi
đến kỳ sát hạch quan viên, trước khi sát hạch, Ngự sử Nam Kinh đã tham
khảo trước các chứng cứ trong tố cáo của viên chức trước đây đã được bỏ
lại, Đô sát viên xem xét. Còn Ngự sử Bắc Kinh thì sau khi sát hạch còn
tiếp tục bổ sung nhận xét tố giác của nhân viên để tránh sót lọt. Cách làm
như vậy là tương đối đảm bảo nghiêm mật. Để thao túng quyền sát hạch,
bịt miệng các quan lại, Uông Hồng dâng sớ xin loại bỏ cách làm xem xét
tố cáo trước khi sát hạch của Ngự sử Nam Kinh mà để đưa lên bổ xung tập
hợp sau khi sát hạch. Phùng Ân đã thấu hiểu rõ dã tâm thay đổi cách làm
cũ của Uông Hồng liền dâng sớ phản đối kiến nghị của Uông Hồng, đồng
thời ra sức biện minh lợi ích của việc cần thu thập tố cáo trước khi sát
hạch. Thế Tông xem xong thấu hiểu Phùng Ân liền bác bỏ luôn kiến nghị
của Uông Hồng, ra lệnh cứ làm như cũ.
Mùa đông năm Gia Tĩnh thứ 11 (1532) xuất
hiện sao chổi, theo quan mệm của người đương thời, đó là Thượng đế thị
chúng. Thế Tông vốn rất mê tín, hạ chiếu muốn nghe lời nói thẳng. Phùng
Ân nhân cơ hội này dâng sớ phân tích cái được, mất trong việc dùng người
của vua Thế Tông, đưa ra những cái hiền, ngu, chính, tà của các quan
Đại học sĩ, Lục bộ Thượng thư thị lang.. trong tấu biểu của ông chỉ rõ.
Đại học sĩ Lý Thời cẩn thận, chăm chỉ, nhưng giải quyết tranh chấp thì
đảo lộn phải trái. Định Loan nịnh bợ quyền thế chỉ giỏi bảo vệ người có
chức lộc, việc gì cũng mập mờ lấp lửng. Thượng thư bộ Hộ Hứa Tán mẫn cán
ôn hoà nhưng thiếu tài quyết đoán, song không dùng thì phí chưa thể bỏ
đi. Lễ bộ Thượng thư Hạ Ngôn bác học đa tài thì có thể làm Tể tướng.
Binh bộ Thượng thư Vương Khoan cương trực thẳng thắn, thông tuệ có tài
Đối với số đại thần này, theo đánh giá của mình, Phùng Ân đã chỉ rõ tài
trí, nhân phẩm, hiền, ngu, chính, tà, có ưu có khuyết của họ, còn với số
đại thần được Thế Tông trọng dụng như Đại học sĩ Trương Thông, Phương
Hiến Phu, Đông sử Uông Hồng, lại cực lực công kích tội ác của chúng.
Phùng Ân nói rõ: Trương Thông gian ác, hung bạo, gian giảo, phan trắc.
Phương Hiến Phu ngoài giả đôn hậu, trong thực gian trá, lấy oán báo ân,
chuyên làm việc xấu xa, bất chấp việc là việc Quốc gia đại sự, Uông Hồng
lại như quỷ như ma, thù hận người trung lương, luôn nghĩ tới báo thù,
những người bị hắn luận tội nếu không là kẻ thù của gia đình hắn thì
cũng là kẻ thù của gia đình Tể tướng, cuối cùng, Phùng mạnh dạn vạch rõ:
"Thần không thể tin dùng được (tức Trương Thông) bản chất như sao chổi
vậy; (Uông Hồng) dã tâm như sao chổỉ vậy, Hiến Phu, như sao chổi trong
Triều đình vậy. Không trừ ba sao chổi đó, bách quan bất hoà, chính sự
không yên, dù muốn chấm dứt tai hoạ cũng không thể được.
Công bằng mà nói, Phùng dâng sớ không có
ý gì hết, ông chỉ vì luận bàn hiền, ngu, chính, tà, để các đại thần lấy
đó mà soi mình, chủ yếu là phê phán công kích Trương Thông, Phương Hiến
Phu, Uông Hồng, chỉ trích bản chất dã tâm trước Triều đình, nếu không
trừ bọn chúng thì không thể tránh khỏi tai hoạ. Thế Tông xem xong đã
hiểu dụng ý của Phùng, lập tức hạ lệnh bắt giữ Phùng lột mũ áo tống giam
vào ngục. Trong ngục hàng ngày Phùng bị tra hỏi đánh đập nhiều lần chết
đi sống lại, nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng không hề vu oan cho người
nào xúi giục thể hiện khí phách mình làm mình chịu.
Biết quân Cấm vệ thẩm vấn không có kết
quả, Thế Tông bèn giao Phùng Ân cho Tam pháp tư hội thẩm, xử lý định
tội. Đây là dịp để cho Phùng Ân có cơ hội bào chữa, để cho Phùng được
một dịp trình bày tường tận mọi việc.
Mùa xuân Gia Tĩnh năm thứ 12 (1533),
Phùng Ân bị chuyển tới giam ở bộ Hình, Thế Tông chỉ rõ, Phùng nhân việc
luận về "Đại thần có phải quan hiền không"? để cố ý tố cáo ba người kể
cả Uông Hồng đại thần được vua sủng ái, rõ ràng oán hận nhà Vua, phạm
thượng, tội chết là may, yêu cầu Pháp tư thực hiện, lấy tội "Vu cáo đại
thần có công" rồi mang ông ra xử tội chết. Hình bộ Thượng thư Vương Thời
Trung căn cứ vào nội dung tấu biểu của Phùng Ân cho rằng Phùng không
bao giờ làm mất uy tín các quan cùng triều cũng như ca ngợi công đức của
các đại thần nên miên tội chết.
Rõ ràng việc định tội của Vương Thời
Trung là có lý (Thế Tông) lúc đó quyền thế trong tay. Lý thuộc về mình
nên Thế Tông càng tức giận hạ lệnh cách chức Vương Thời Trung. Pháp tư
không còn cách nào khác phải buộc tội "vu cáo đại thần có công" bỏ tù và
xử tội chết. Ít lâu sau, Uông Hồng nhậm chức Lại bộ Thượng thư. Vương
Đình Tướng thăng chức làm Đô Ngự sử. Vương Đình Tướng dâng sớ xin giảm
nhẹ hình phạt đối với Phùng Ân, nhưng Thế Tông vẫn kiên quyết giữ ý kiến
nêng, không thèm để ý đến kiến nghị của Vương Đình Tướng.
Mùa thu năm đó, khi triều đình nghị
thẩm, Thượng thư Lại bộ Uông Hồng phụ trách hội Thẩm, bỏ qua hết nghị
án. Phùng Ân lợi dụng cơ hội này để vạch mặt Uông Hồng đề cao đại nghĩa.
Lúc triều thẩm, các quan phụ trách xét
xử ngồi quay về hướng đông, "phạm nhân" phải quay mặt về phía các quan.
Phùng Ân nhìn thấy Uông Hồng ngồi trên ghế cáo tội bèn cứ quay mặt về
hướng bắc mà quỳ xuống. Uông Hồng nhìn thấy lập tức giận đỏ cả mặt quát
lính ra lệnh bắt ông quỳ sang hướng tây. Phùng Ân lại lập tức đứng bật
dậy và hắng giọng nói "Đầu gối của ta chỉ có thể quỳ trước triều đình,
đâu phải để quỳ trước mi?" Uông Hồng càng tức tối, đập án đứng dậy quát
lớn: "Ngươi đã nhiều lần dâng sớ muốn giết hại ta, vào ngục rồi còn muốn
thành quỷ dữ để hại ta nữa thì nay không phải là ngươi đã chịu chết
trong tay ta sao?"
Lời nói này tỏ rõ ràng là Uông Hồng chỉ
vì báo thù cá nhân, lòng dạ thật vô cùng ác độc. Nhân thể nghị thẩm
Phùng bèn tố cáo luôn: "Trên có nhà Vua, mi là đại thần mà lại lấy quyền
thế giết hại người ngay phải không? nhưng đây là công đường, mi còn dám
công khai trước mặt các quan để trả thù cá nhân, không coi Triều đình
ra gì, mi thật là ngông cuồng?" Uông Hồng tức giận phát điên lên quát
lớn "Ngươi dám lăng mạ đại thần" Phùng Ân bèn tiếp lời luôn: "Đại thần
mà coi Vua không ra gì thì ai ai cũng giết chết được chứ lăng mạ đã thấm
gì?". Uông Hồng đã đuối lý, hết lời bèn lấy một việc nhỏ đã qua hòng vu
cáo hãm hại Phùng Ân: "Ngươi mà lại rất trong sạch ư? Tại sao ở trong
ngục lại còn nhận cơm của người khác?" Phùng bình tĩnh mắng lại: "Cùng
nhau hoạn nạn là nghĩa từ cổ xưa. Ta ở trong ngục, người ta mang cơm đến
cho đó là cử chỉ đẹp. Còn như người đường đường có học, làm quan lại
thu nhận vàng bạc của người khác, khiến họ không còn lối nào khác, thật
là đáng xấu hổ?" Uông Hồng vừa xấu hổ vừa tức giận, hất tung án văn lao
xuống sắn tay áo lên định đấm thẳng vào Phùng Ân.
Lúc này, không phải là thẩm vấn nữa, mà
là tranh luận giữa Uông Hồng và Phùng Ân và đã biến thành màn đối thoại
để Phùng Ân mắng nhiếc tố cáo Uông Hồng. Uông Hồng hổ thẹn phát điên,
giữa hai người phát sinh đánh lộn không đếm xỉa gì đến thể diện của quan
trường nữa. Vì vậy, các quan cùng chủ trì xét xử thấy không thể tiếp
tục được nữa và tới can ngăn. Đô Ngự sử Vương Đình Tướng khuyên rằng:
"Phùng càng không phải nói nữa, đã hơn 100 năm nay, triều đình chưa giết
hại các quan dám nói thẳng, nay sao lại có thể giết được?" Lại quay
sang nói với Uông Hồng: "Việc xử lý quan Ngự sử theo luật hình là không
thể được, hơn nữa lại lấy tư thù mà xử thì lại càng không thể được". Lễ
bộ Thượng thư Hạ Ngôn lại không khách sáo nói thẳng: "Đây là công đường
nơi xét xử của triều đình, chứ không phải là tư đường của nhà ông, lẽ
nào ông lại lấy tư thù để xét xử quan Ngự sử?". Lúc này, Uông Hồng đã rõ
các quan đều khinh bỉ mình và đứng về phía Phùng Ân nên càng tức giận
hơn. Lợi dụng quyền hành trong tay, tự ý phê luôn vào án văn về Phùng Ân
hai chữ "Lưu đày" đưa cho các quan đại thần rồi quẳng bút đi ra.
Vậy là vụ án Phùng Ân coi như đã xong.
Phùng đeo gông đi ra cổng thành Trường
An, dân chúng đến xem vây quanh tạo thành một bức tường dài, đông đến
nỗi gió thổi cũng không lọt qua. Phùng Ân với tư thế hiên ngang, khảng
khái ngẩng cao đầu bước đi dân chúng vây quanh xôn xao nói: "Vị Ngự sử
này, không bao giờ chịu quỳ gối trước Uông Hồng, đầu gối của ông là
thép, lúc trách mắng Uông Hồng, miệng ông là thép, giờ đây ông ngẩng cao
đầu mà đi, ông không hề run sợ trước cái chết, gan của ông, xương của
ông đều là thép". Thế là dân chúng kinh thành đều gọi ông là "Tứ thiết
Ngự sử". Những lời tranh luận của ông với Uông Hồng được một số thương
nhân ghi chép lại mang bán; dân chúng tranh nhau mua, nghe đồn ngay các
sứ giả nước ngoài cũng dành mua sách này khiến cho kinh thành xuất hiện
việc như giấy quý ở Lạc Dương.
Lúc đang xử án, Thế Tông sai cấm quân
thăm dò tình hình xét xử, sau khi biết vụ tranh luận giữa Phùng Ân và
Uông Hồng, cũng động lòng, thở dài. Thế Tông không thể giữ mãi ý mình mà
giết hại Phùng Ân nên bắt ông tống giam vào ngục. Đã qua hai năm, lại
đưa vụ án ra xét xử. Đô Ngự sử Vương Đình Tướng Hình bộ Thượng thư Nhiếp
Khiền đều cho rằng án xử lần trước không đúng, vì thế dâng tấu nói rõ
sự thật cho Phùng Ân được chuộc lại chức cũ. Đối với việc này, Thế Tông
cho rằng mức phạt quá nhẹ cuối cùng lấy cớ nể tình phạt nhẹ: Lưu đày
Phùng đến Lôi châu, Quảng Đông. Hai tháng sau, Uông Hồng cũng bị bãi
quan.
Ngự sử tố cáo vạch trần gian tà, vốn là
việc của giới quan lại chốn quan trường, có chức có quyền, không đáng
được cổ vũ tán dương. Việc Phùng Ân tố cáo vạch tội Uông Hồng được ca
ngợi, tán dương rộng rãi vì nó có quan hệ mật thiết gắn bó với bối cảnh xã hội đương thời. Từ giũa thời nhà Minh đến nay, nhất là những năm Gia Tĩnh, Ngự sử rất khó thực hiện được chức trách của mình.
Sau nghi thức đại lễ, Trương Thông chấp
chính "Tác oai tác phúc, báo ân báo oán" đả kích người không theo mình,
khiến cho muốn nói cũng không được vì thế đã hình thành cách sống
"lấy im lặng làm lẽ sống, lấy phục tùng để yên ổn lấy công trạng đề
kiêu căng tự mãn, chuyên mua danh chuộc lợi đế từ tay không mà có, dù có
thân cận nếu thăng thắn cương trực cũng bị đầy đi biệt xứ".
Trong tình thế đó, Phùng Ân đã dám đứng
lên tố cáo vạch trần sự gian ác của Đô Ngự sử Uông Hồng, Đại học sĩ
Trương Thông, Phương Hiến Phu.
Trước toà xét xử lại tỏ rõ khí phách
hùng mạnh hơn sắt thép, uy cũng không thể khuất phục, vẫn tố cáo vạch
trần lộ mặt thật của Uông Hồng. Với tinh thần ấy. với sự quả cam ấy
khiến ông đã có được danh hiệu cao quý "Tú khiết Ngự sử", giành được sự
ngưỡng mộ, kính trọng của mọi người. Vĩ vậy khi biết ông đi lưu đày tận
Lôi Châu Quảng Đông, quan lại và dân chúng kinh thành đều không hẹn mà
cùng nhau kéo tới để tiễn đưa.
Phùng Ân đã sống tha phương được sáu năm
ở Lôi Châu. Về sau gặp dịp đại xá, cũng được trở về kinh thành sinh
sống. Sau khi Mạc Tông lên ngôi, xem xét lại việc các đại thần được
trước ngôn bị xử tội trước đây để trọng dụng lại thì Phùng Ân đã ngoài
70 tuổi. Nhưng ông vẫn được thụ phong tại nhà Đại lý tự nhưng ông không
nhận với lý do già yếu.
Thực ra việc phong ông chức Đại lý tự để
làm dịu nỗi bất bình oan khuất của ông đồng thời cổ vũ mua chuộc các
quan lại khác ngay thẳng cương trực mà thôi.
Nhận xét
Đăng nhận xét