Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

NHÂN TÍNH 16

 -Loài người tưởng mình khôn "ngoan" nhất, nhưng thật ra là khôn "hư"nhất!-Loài người thường cho rằng thú tính xấu xa hơn nhân tính, nhưng thật ra là loài vô đạo đức nhất, vì độc ác nhất, thủ đoạn bẩn thỉu nhất, trả thù hèn hạ nhất, sống đồi bại nhất...!
-Nhân tính như tấm huân chương với hai mặt của nó. Một mặt thể hiện ra xấu xa bao nhiêu thì mặt kia thể hiện ra tốt đẹp bấy nhiêu. Đó là hoạt động tinh thần tột đỉnh của giới sinh vật.
-Chỉ khi nhân tính hoàn toàn chuyển biến thành đẹp đẽ hơn thú tính, nghĩa là khi sự phân chia giàu - nghèo đã trở nên vô nghĩa, thì lúc đó mới có xã hội cộng sản đích thực, loài người mới sống đại đồng được! Thử hỏi: quá trình đó là tiến hóa hay thoái hóa!?
-Còn không, may ra chỉ có xã hội cộng sản tương đối thôi!
-Nhưng, mơ mộng thì...có quyền!...
--------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)


Chiêu Tín - Ác phụ được mệnh danh "Quái vật của lịch sử TQ"

Cập nhật lúc: 20:30 10/08/2015

(Khám phá) - Sử sách không ghi rõ ràng về xuất thân của Chiêu Tín và thời trẻ của bà, cũng không cho biết gì về việc nhập cung của bà.

Chiêu Tín (chữ Hán: 昭信, ? - 70 TCN), tên đầy đủ là Dương Thành Chiêu Tín (陽成昭信), là vương hậu nước Quảng Xuyên dưới thời nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc, bị nhiều sử gia đánh giá là ác phụ.
Sử sách không ghi rõ ràng về xuất thân của Chiêu Tín và thời trẻ của bà, cũng không cho biết gì về việc nhập cung của bà. Căn cứ theo Hán thư, quyển 53 thì có lẽ Chiêu Tín nhập cung trở thành Quảng Xuyên vương hậu sau năm 92 TCN.
Nước Quảng Xuyên vốn được Hán Cảnh Đế phong cho con trai thứ 10 của mình là Quảng Xuyên Huệ vương Lưu Việt vào năm 148 TCN. Trải qua ba đời thì đến người cháu nội của Lưu Việt là Lưu Khứ (lên làm vương năm 92 TCN). Lưu Khứ là người giỏi võ và tàn bạo háo sắc, trong cung có hàng trăm mĩ nữ, trong đó sủng ái nhất là hai nàng Vương Chiêu Bình, Vương Địa Dư, từng hứa lập làm vương hậu. Lúc Lưu Khứ bị bệnh, Chiêu Tín thường đến chăm sóc hầu hạ, từ đó Lưu Khứ chuyển sang sủng ái Chiêu Tín.
chieu-tin-phunutoday-vn
Chiêu Tín - "Quái vật" của lịch sử Trung Quốc.
Chiêu Tín là cơ thiếp của Quảng Xuyên Vương Lưu Khứ, cháu nội vua Hán Cảnh Đế. Chiêu Tín đẹp thế nào thì không thấy sử sách ghi, nhưng tính tình tàn nhẫn hiểm ác thì vào loại hàng đầu trong lịch sử Trung Quốc.
Theo sử chép thì lúc đầu Lưu Khứ rất sủng ái hai nàng Vương Chiêu Bình, Vương Địa Dư, hứa hẹn lập họ làm hoàng hậu. Nhưng vốn là kẻ hoang dâm vô độ nên sau này ông ta lại quay ra sủng ái Chiêu Tín. Chiêu Bình, Địa Dư rất căm tức nên bàn mưu định hại Chiêu Tín.
Chuyện bị bại lộ, Lưu Khứ bắt Chiêu Bình ra dùng khổ hình tra khảo. Đánh roi mây, Chiêu Bình nén chịu không khai, chuyển sang dùng dùi sắt đâm, Chiêu Bình đau quá phải khai. Thế là Lưu Khứ bèn triệu tập các phi tần đến, bắt họ dùng kiếm đâm chết Địa Dư, còn Chiêu Bình thì để Chiêu Tín đâm chết. Ông ta còn cho treo cổ 3 thị tỳ, sau đó đem đốt xác hai ông ta hằng yêu dấu thành tro rồi đổ đi.
Chưa hài lòng, Chiêu Tín còn vu cáo Vọng Ngưỡng, một ái thiếp khác được Lưu Khứ sủng ái. Nghe Chiêu Tín siểm tấu, Lưu Khứ cho gọi các phi tần cùng kéo đến nơi Vọng Ngưỡng ở, lột hết quần áo nàng, bắt các phi tần dùng dùi nung đỏ gí vào người nàng. Vọng Ngưỡng bỏ chạy, nhảy xuống giếng tự vẫn, Chiêu Tín lôi lên, dùng giáo đâm vào chỗ kín, xẻo mũi cắt miệng, cắt lưỡi nàng… đem nấu chín, bắt các phi tần khác xem.
Chưa hết, Chiêu Tín còn vu cáo hãm hại một cung phi là Vinh Ái. Vinh Ái sợ quá nhảy xuống giếng nhưng không chết. Chiêu Tín lôi lên, trói lại, gí dao nung làm mù hai mắt, cắt hai tay, nung chì đổ vào miệng nàng. Vinh Ái chết, Chiêu Tín còn sai phân thây bắt chôn mỗi thứ một nơi. Có tới 14 cung phi từng được Lưu Khứ sủng ái bị Chiêu Tín hành hạ như vậy.

Những vụ án kinh thiên, động địa trong lịch sử Trung Quốc (P.1)

Cập nhật lúc: 19:30 27/07/2015
Những vụ án kinh thiên, động địa trong lịch sử Trung Quốc (P.1)

(Khám phá) - Nhưng Trang Đình Long cũng đã đọc thuộc chút ít sách kinh sử, anh ta nhớ đến một câu nói nổi tiếng của Thái sử công Tư Mã Thiên: "Tây Bá bị giữ ở Dũ Lý vẫn viết được "Chu Dịch"

Phần 1: Trang Đình Long và "Minh sử tập lược"
Nhà Thanh là vương triều do người Nữ Chân cổ vốn sống mãi nơi rừng thiêng nước độc đã trải qua nhiều thế hệ xây dựng nên. Sau khi vào làm chủ Trung Nguyên, để đề phòng sự chống đối của người Hán đã thực hiện chính sách trấn áp, hạn chế tự do ngôn luận, tạo dựng nên nhiều vụ án văn tự khiến cho mọi người phải khiếp sợ. Trong đó vụ án Minh sử Trang Đình Long có số người liên luỵ và bị giết quá nhiều thật chưa từng có.
Trang Đình Long (không rõ năm sinh năm mất) tự là Tư Tương là người Hồ Châu, tỉnh Triết Giang. Trang xuất thân trong một gia đình thương gia giàu có, từ nhỏ thông minh ham học, đặc biệt rất thích đọc sách về lịch sử, sớm chịu ảnh hưởng lốl sống cuối thời nhà Minh. lại xuất thân từ gia đình giàu có vạn bộ nên Trang không chịu đi con đường 10 năm đèn sách, khoa cử đề danh bảng vàng, cũng không chịu nhẫn nại khổ công học hành và bố của Trang Đình Long cũng không muốn thấy Trang phải chịu khổ. Từ đó Trang sống cuộc sống dựa dẫm, nhàn hạ của một cậu ấm con nhà phú hộ. Ngoài việc giúp bố mẹ trông hàng chốc lát, còn chỉ chú ý đến việc làm dáng trong thư phòng rộng rãi của mình, lật giở từng trang kinh sử.
nha-thanh-phunutoday-vn
Trung Quốc thời nhà Thanh.
Nhưng thật là: Trời mưa nắng bất thường, người ta cũng phúc hoạ khôn lường. Lúc mới 25, 26 tuổi thì tai hoạ đã đổ ập xuống đầu Trang, anh ta tự nhiên thấy toàn thân ngứa ngáy, khó chịu, mặt nổi đầy nốt mẩn lấm tấm, cũng không phải như vết loét sẹo của bệnh hủi. Tuy chữa trị hết nước mà vẫn không khỏi, trái lại nó lại lan đến tận 2 mắt và làm hỏng cả đôi mắt. Cuộc sống đang tươi đẹp bỗng trở thành mờ ảo tối tăm.
Nhưng Trang Đình Long cũng đã đọc thuộc chút ít sách kinh sử, anh ta nhớ đến một câu nói nổi tiếng của Thái sử công Tư Mã Thiên: "Tây Bá bị giữ ở Dũ Lý vẫn viết được "Chu Dịch". Khổng Tử gặp tai ương ở đất Thái mà sáng tác "Xuân Thu". Khuất Nguyên bị đày mà vẫn viết được "Ly Tao" nổi tiếng. Tả Khâu bị mù mà vẫn có "Quốc ngữ", Tôn Tử bị phạt khoét xương bánh chè mà vẫn còn luận bàn binh pháp, Bất Vi rời Thục để lưu truyền "họ Lã", Hàn Phi bị tù vẫn có "Thuyết nạn", "Cô phận" và cả 300 bài thơ. Các bậc thánh hiền khi gặp không may vẫn đều thành danh cả.
Thế là Trang cũng rập khuôn, quyết tâm học theo các vị thánh hiền, viết ra một quyển sách nổi tiếng để mong truyền cho hậu thế. Nhưng hai mắt bị mù loà anh ta biết làm sao đây?
Nếu một mình viết ra một bộ sử thi thì không thể được, nhưng họ Trang có nhiều tiền bạc của cải nên có thể mời một số nho sinh nghèo đến giúp sức, lại mời thêm ít vị có danh tiếng đến biên soạn một bộ sử thi. Trang Đình Long phải mất một ngày tính toán mới nghĩ ra cách làm như trên, anh ta nói với bố là Trang Doãn Thành. Để an ủi đứa con bệnh tật, Trang Doãn Thành đồng ý ngay và nhanh chóng xuất tiền cho con thực hiện kế hoạch đó Có một cơ hội ngẫu nhiên làm cho Trang Đình Long nhanh chóng thực hiện được cách làm của mình. Vốn là có một nho sinh họ Chu sống cạnh nhà họ Trang, anh ta vốn là cháu Nội các Thư phú Chu Quốc Trinh thời Thiền Khởi nhà Minh. Trước đây, Chu Quốc Trinh đã biên soạn bộ sách "Hoàng Minh sử khái" sau khi phát hành sách được khen ngợi rộng rãi, ông còn có một bộ sách nổi tiếng khác là "Hoàng Minh Liệt triều chư thần truyện", nhưng chỉ có bản thảo, chưa in ấn phát hành ra ngoài. Theo căn cứ để lại "Liệt triều chư thần truyện" có khoảng 10 quyển, sách ghi chép tỉ mỉ sự tích các quan văn võ nhà Minh từ thời khai quốc đến thời Vạn Lịch. Đây là một bộ sử thi, ghi chép truyền lại rất có giá trị. Sau khi nhà Minh bị diệt vong, gia đình họ Chu và các môn đồ ly tán, kinh tế nghèo khó, đã phải bán đi một số tài sản của cha ông. Nay lại nghĩ đến tập bản thảo này.
Lúc đó Trang Đình Long đang tìm người tài để biên soạn Minh sử, tin này đến tai nhà Chu, thế là con cháu họ Chu chủ động tìm đến và bán bộ bản thảo này cho Trang Đình Long để lấy một nghìn lạng bạc rồi vui vẻ, sung sướng ra về.

Sau khi Trang Đình Long mua được bản thảo bộ sách này, lại dùng nhiều tiền để mời hơn 10 vị nho sĩ là: Mao Nguyễn Minh, Ngô Chi Minh, Ngô Chi Dung.., đưa bản thảo ra chỉnh lý, gia công, bổ sung, sửa đổi đồng thời điền thêm tư liệu lịch sử hai triều Thiên Khởi và Sùng Chinh tập hợp thành một bộ sử thi lấy tên là "Minh sử tập lược", hay còn gọi là "Minh thư tập lược" rồi ghi tên họ mình vào sách coi như là sách của Trang Đình Long.
Để nâng cao tiếng tăm của sách, Trang Đình Long còn mời Lễ bộ thị lang Lý Lệnh Tích viết cho lời tựa, đồng thời ngay những trang đầu tiên liệt kê một loạt các văn nhân nổi tiếng đứng tên "biên soạn". Thực ra ngoài số học giả, eó danh tiếng nhận lời đến biên soạn giúp, còn đa số họ đều chưa làm việc này bao giờ.
Sau khi hoàn thành bản thảo, còn chưa kịp ấn hành thì bệnh tình của Trang Đình Long đột biến hiểm ác rồi chết. Ông già Trang Doãn Thành thương con trong lòng vô cùng đau khổ. Để tỏ lòng nhớ thương và an ủi linh hồn đứa con trên thiên đường, ông cố sức cho in "Minh sử tập lược". Mùa Đông năm Thuận Trị thứ 17 (1660) in được 1000 quyển và đưa ra bán, ông già cảm thấy trong lòng thư thái hẳn lên vì đã thay con hoàn thành được ý nguyện của nó. Ông lại nghĩ cùng với việc lưu truyền rộng rãi "Minh sử tập lược" người đời sẽ nhớ mãi tên tuổi con ông, Nghĩ vậy, ông già cảm thấy mãn nguyện. Nhưng ông lại không thể ngờ tới tai hoạ, phiền toái cũng từ đó đang tới gần.
Hoàng đế khai quốc nhà Thanh là Hoàng Thái Cực, cha Hoàng Thái Cực là Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã từng làm Tả vệ đô đốc Thiêm sự Kiến Châu của triều nhà Minh (vùng đất thuộc huyện Tân, Liêu Ninh ngày nay) lại được phong tước Tử chức Long hổ tướng quân. Về sau Nỗ Nhĩ Cáp Xích lấy cớ "Thất đại hận" (Bảy nỗi hận lớn) mà thề dấy binh chống lại nhà Minh lập nên nhà Hậu Kim. Đến đời Hoàng Thái Cực, thống nhất thiên hạ, dựng lên nhà Thanh. Sau khi nhà Thanh thành lập, để củng cố nền thống trị của dân tộc Mãn, họ cũng như các vương triều khác trong lịch sử ra sức tuyên tuyền đạo đức phong kiến như trung, hiếu, tiết, nghĩa, tam cương ngũ thường, vì vậy đối với lịch sử của tổ tiên họ rất chú ý đến huý kỵ, không muốn để người khác biết đến. Ngoài ra trước khi nhà Thanh vào làm chủ Trung Nguyên, ở phương Nam, trước sau đó có mấy lần chính quyền (thuộc hạ) nhà Minh chiến đấu chống lại nhà Thanh. Thế lực thống trị nhà Thanh rất không muốn nhắc lại. Thế mà Trang Đình Long đã nổi tiếng vì biên soạn cuốn Minh sử tập lược, lại căn cứ vào bản thảo của Chu Quốc Trinh sủa đổi mà thành. Do thời gian hạn hẹp không đầy đủ, công việc khó khăn phức tạp nên một số sự thực lịch sử mà nhà Thanh muốn né tránh và huý kị bị nhắc trong sách:
Thứ nhất, "Minh sử tập lược" nói đến quan hệ giữa nhà Minh và nhà Thanh. Trong sách nói đến tên tự hàm quan của Thái tổ nhà Thanh là Nỗ Nhĩ Cáp Xích. Khi chép việc đại tướng nhà Minh là Lý Thành Lương giết chết người ông của Nỗ Nhĩ Cáp Xích, rồi sự thực nuôi dưỡng Nỗ Nhĩ Cáp Xích thời còn nhỏ. Trách mắng sử quan nhà Minh là Thượng Khả Hỉ, Cảnh Thân Minh đã đầu hàng nhà Thanh.
Thứ hai là: dùng từ ngữ khiếm nhã, miệt thị với người Mãn Châu Thứ ba là: ghi chép lại sự thực lịch sử quân phương Nam nhà Minh chống lại nhà Thanh và ghi rõ ngày tháng, thời gian lên ngôi của 3 vị vương nhà Minh.
Sự thực lịch sử này vốn giai cấp thống trị nhà Thanh không muốn nhắc tới. Lúc đó nếu ai viết ra như thế đều gặp tai hoạ, tan cửa nát nhà, vì vậy sau khi sách được bán ra, thì gặp phiền phức ngay.
Một số văn nhân phóng đãng, quan lại xấu xa thấy trong sách có nhiều chỗ huý kị, như bắt được vàng nên đổ xô đến nhà Trang Doãn Thành. Bọn chúng giả bộ chuẩn bị tố giác hòng vơ vét tiền bạc. Trang Doãn Thành tuy nhà rất giàu, nhưng vừa đuổi được người này đi thì người khác lại đến, bọn ăn vạ này rất đông, Trang Doãn Thành không đủ tiền để thoả mãn nhu cầu của chúng được.
Cùng lúc đó, một số danh sĩ được thống kê tên họ "biên soạn" xem xong "Minh sử tập lược" đều cảm thấy bất an. Trong đó có 3 người là Cử nhân Tra Kế Tá, Cống sinh Phạm Tương, Lục Kỳ vốn không tham dự "biên soạn", thậm chí cũng không hề quan hệ với Trang Đình Long lại có tên trong danh sách liệt kê biên soạn, nên tháng 12 năm Thuận Trị thứ 17 (1660) bèn viết tờ trình gửi Ty án sát nhờ minh xét. Lúc đầu, Ty án sát không để ý liền giao cho Học chính Hồ Thượng Hoàng. Hồ Thượng Hoàng lại nhường lại cho Phủ học Hồ Châu tra xét rồi . Giáo thụ phủ học Hồ Châu Triệu Quân Tống mua một bộ "Minh sử tập lược" chọn ra nhừng câu chữ có huý kỵ đến nhà Thanh ra cáo thị trước cổng phủ học, đồng thời bẩm lên cấp trên. Lúc này, nhà họ Trang vội vàng tụ tập người giúp việc sửa đi toàn bộ số câu chữ huý kị trên, cho in gấp một số bộ mới rồi gửi đến ty Thông chính, Bộ Lễ, Viện Đô sát… mỗi nơi một bộ lấy mục đích bịt miệng mọi người.
Nhưng do sách "Minh sử tập lược" đã được lưu hành rộng rãi khắp nơi, những chỗ kị huý cũng truyền lan nhiều người biết. Một số tham quan lại thừa cơ lừa gạt doạ dẫm để ăn tiền. Mặc dù Trang Doãn Thành đã sửa đổi "Minh sử tập lược" song rắc rối vẫn không hề giảm đi.
Quan Lương đạo Triết Giang trước đây là Lý Đình Khu có mua được một bộ "Minh sử tập lược" chưa qua sửa đổi thấy có thể lừa gạt được tiền bèn bàn mưu cùng Tri phủ Hồ Châu Trần Vĩnh Minh đến tống tiền Trang Doãn Thành rồi chia đôi. Trần Vĩnh Minh liền đưa ra việc tra xét "sách nghịch".
Phú thương Trang Doãn Thành sợ Tri phủ bắt giết cả nhà nên vội vàng dâng nộp hàng nghìn lạng bạc để dẹp yên chuyện này. Nhưng Tri phủ Hồ Châu Trần Vĩnh Minh đã nuốt lời hứa một mình nuốt hết số bạc hối lộ đó không chia cho Lý Đình Khu rồi lệnh cho Trang Doãn Thành phá huỷ ấn bản, sách vở, chứng cứ. Lý Đình Khu không làm gì được phải lấy lại bộ "Minh sử tập lược" đưa cho người thân là Ngô Chi Vinh để cho Ngô Chi Vinh lừa gạt kiếm ít tiền.
Ngô Chi Vinh đã từng làm Tri huyện Quy An, Hồ Châu, nhưng do lộng quyền, tham nhũng coi rẻ mạng người nên bị tố cáo sau đó bị bãi chức quan tống giam vào ngục. Sau khi ra tù, không được về sống ở quê Giang Tây mà sống gửi ở Hồ Châu và chuyên dựa vào lừa đảo để kiếm tiền sinh sống.
Sau khi có được "Minh sử tập lược" hắn ta cho rằng đã có cơ hội phát tài. Hắn về nhà ghi chép lại tất cả những chỗ kị huý trong sách vào một quyển vở nhỏ. Ngô Chi Vinh nhét quyển vở đó vào trong bụng rồi đi đến nhà Trang Doãn Thành.
Trang Doãn Thành thấy tên quan chuyên lừa đảo kiếm tiền này tới biết là có chuyện chẳng lành, nhưng cũng không dám lãnh đạm mà cung kính nói: "Lão gia quá bộ đến tệ xá, không biết có việc gì chỉ bảo?" Ngô Chi Vinh thong thả rút quyển vở nhỏ và nói: "Lệnh lang Trang Đình Long thật là người có tài "Minh sử tập lược" của cậu ấy sáng tác có rất nhiều ý đẹp lời hay, ta đều đã ghi lại cả rồi", nói xong liền đưa quyển vở lại.
Trang Doãn Thành đỡ quyển vở và xem qua, bất giác mặt mày tối sầm đầu óc quay cuồng, người run bắn lên, ông cố gắng trấn tĩnh lại và đành nói:
"Ông muốn gì? Cứ nói thẳng ra đi". Thế là Ngô Chi Vinh cười hì hì và nhẹ nhàng giơ ngón tay trỏ và nói: Không giấu gì lão tiên sinh, gần đây hạ quan thời vận không được tốt bị mất chức mất của đến nỗi không về được quê hương, vì vậy hạ quan muốn lão tiên sinh cho mượn một số bạc để giải quyết trong lúc cấp bách. Đợi đến khi hạ quan được phục chức, nhất định sẽ hoàn trả đầy đủ".
Việc đã như vậy, Trang Doãn Thành biết là đã gặp phải kẻ tống tiền rồi, không biết phải làm gì tự thấy mình vận rủi, ông chỉ muốn tống khứ tên tham quan vô lại này đi nên tỏ ra lễ phép nói:
- Một nghìn lạng phải không? Lão phu xin đưa đủ.
Nhưng đâu có ngờ Ngô Chi Vinh như con sư tử há mồm, đắc ý nói: "Một nghìn lạng thì ít quá ta cần chí ít cũng phải 1 vạn lạng, chừng đó đối với ông cũng là ít đó!".
Con số này làm cho Trang Doãn Thành giật mình, tuy ông là một phú thương nhưng cũng không thể chịu nổi nhiều tên vô lại đến tống tiền, xách nhiễu như thế này. Nếu như thoả mãn được lòng tham của bọn chúng thì không đến vài tháng, họ Trang phải khuynh gia bại sản. Nghĩ vậy Trang Doãn Thành nghiêm mặt lại nói "Những chữ nghĩa trong sách này đều là cuồng vọng của nghịch tử khi còn sống sao chép lại của người khác, lão phu phải chịu liên luỵ, nhưng tôi đã mời người tới viết lại rồi, đồng thời đã trình cho Ty Thống chính, bộ Lễ, Viện Đô sát và đã được họ chấp thuận, những sách này trước đây đã được huỷ rồi, gần đây, tôi buôn bán không được, vốn liếng eo hẹp, dù có xoay xở cũng không có 1 vạn lạng được".
Ngô Chi Vinh tống tiền không thành, trong lòng tức giận như bốc lửa, hắn đâu chịu bỏ qua? Ít lâu sau, hắn chạy đến thành Hàng Châu. Tháng 7 năm Thuận Trị thứ 18 (1661) hắn phát đơn tố cáo "sách nghịch" lên tướng quân trấn thủ Hàng Châu Kha Khuê. Kha Khuê lệnh cho tuần phủ Triết Giang Chu Xương Tô điều tra, nhưng Chu Xương Tô cũng không đê ý đến rồi nhường lại cho Đốc học Hồ Thượng Hoành xem xét xử lý. Sự việc thế là dang dở từ đó. Mặt khác, khi Ngô Chi Vinh đi Hàng Châu, Trang Doãn Thành cũng sai người dùng tiền vàng vào thành mua chuộc, lót tay, điều đình với quan lại các cấp, đồng thời qua Đề đốc Tùng Giang hối lộ Kha Khuê, Kha Khuê nhận bạc xong liền không chú ý gì đến "án sách nghịch" nữa.
Ngô Chi Vinh tống tiền không được, tố cáo cũng không xong, trong lòng càng bất bình. Hắn vốn đã làm gì là phải làm bằng được, bèn mang theo "Minh sử tập lược" vào kinh tố cáo tiếp.
Mùa đông năm Khang Hy thứ nhất (1662) Ngô Chi Vinh tới Bắc Kinh, hắn đến bộ Hình đệ đơn tố cáo Trang Doãn Thành in, viết sách phản nghịch. Kẻ tố cáo đã đến gần Thiên tử nên các quan bộ Hình không dám coi thường vội dâng biểu lên nhà Vua. Năm Khang Hy thứ hai(1663) vua Khang Hy lệnh cho 2 vị quan bộ Hình người Mãn đến Hồ Châu điều tra thu hồi sách và bắt giữ tội phạm. Sách đã sớm bị huỷ bỏ còn phạm nhân Trang Doãn Thành lập tức bị bắt giải về kinh. Ít lâu sau, Trang Doãn Thành dùng thuốc độc tự sát chết trong ngục. Tuy người và tài sản không còn gì, nhưng sách vở in ấn trước đây vẫn còn thu được mấy quyển, giấy trắng, mực đen thật tội chứng như núi. Vì vậy vụ án được xét xử rất nhanh những người liên quan đến đều bị mang ra nghiêm trị.
Trang Doãn Thành, Trang Đình Long, hai cha con đã chết từ trước nhưng vẫn phải đào lên chịu tội xé xác phanh thây rồi chôn chung. Em Trang Đình Long là Trang Đình Thành bị xét xử tội lăng trì.
Lễ bộ thị lang Lý Lệnh Tích do trước đây đã viết lời tựa cho sách nghịch, xử tội chết lăng trì, ba người con bất hạnh của ông cũng bị tội chém đầu, bị tịch thu hết gia sản, thân nhân bị lưu đày.
18 vị danh nho được kê tên tham gia biên dịch như Mao Nguyên Danh, Tưởng Lâm Chinh, Trương Văn Thông, Vi Nguyên Giới, Phan Thánh Chương, Ngô Đạm, Ngô Chi Dung, Ngô Chi Danh… đều bị xử lăng trì, người thân hoặc bị giết chết hoặc bị lưu đày, gia sản đều bị tịch thu.
Phú hộ Chu Hựu Minh giúp đỡ tiền bạc cho in sách cũng bị tội chết lăng trì, tịch thu gia sản, thân nhân cũng bị hoặc giết chết hoặc lưu đày.
Trên đây là kể lại việc con cháu các vị biên soạn sách và cả Chu Hựu Minh bị tội chém đầu.
Còn thợ khắc chữ Dương Đạt Phổ, Lý Tường Phổ, người bán sách Vương Vân Giao, Lục Đức Nho, những người mua và giấu sách nghịch như Tô Châu Thuỷ Giã quan chủ sự Lý Kế Bạch., tham gia và có thẩm án ở hai huyện Quy An và Điêu Trình là các giáo quan, đốc học phủ Hồ Châu như giáo thụ Triệu Quân Tống. cũng đều bị chém đầu Quan Tri phủ mới ở Hồ Châu Đàm Hy Mẫn, quan Viễn nhiệm Lý Hoan, quan mới nhậm chức Huấn đạo huyện Quy An Vương Triệu Trinh., bị quy tội "Biết việc mà che giấu", "xử lý công việc tuỳ tiện" và đều bị xử tội treo cổ chết, trong đó Đàm Hy Mẫn mới làm quan được 3 tháng, Vương Triệu Trinh chỉ mới được chưa đầy nửa tháng.
Ngoài ra, tướng quân Kha Khuê bị cách chức, khách trong trướng là Trình Duy Phiên cũng liên đới bị giết. Tuần phủ Trết Giang Chu Xương Tô, Học chính Hồ Thượng Hành, Đề đốc Tùng Giang, Lương Hoá Phong, Thủ đạo Trương Võ Liệt… do dùng nhiều vàng bạc hối lộ nên được tha miễn tội chết.
Vụ án kiện sách nghịch này đã giết chết tổng cộng 72 người, số phụ nữ bị phát vãng nơi biên cương đến hơn 100 người. Đây là một vụ án văn tự kinh thiên động địa, người bị giết nhiều, phạm vi liên luỵ quá rộng, thật chưa từng có.
Ngô Chi Vinh tố cáo giết được Trang Doãn Thành đã hả được mối căm giận. Hắn còn được hưởng một nửa gia tài lớn của nhà họ Trang và Chu, ngoài ra còn được phục hồi quan chức. Sau lại được thăng Hữu thiên Đô Ngự sử, thật là vừa được thăng quan lại còn phát tài. Nhưng vận may không được dài. Năm Khang Hy thứ 4 (1665) Ngô Chi Vinh đột nhiên mắc phải một loại bệnh quái dị, toàn thân loét rữa ra mà chết. Kết cục này mới được hơn một năm sau khi hắn tố cáo vụ án "sách nghịch". Những người từng bị liên luỵ đều thở phào và nói với nhau rằng: Ngô Chi Vinh đã bị quả báo, đúng như cổ nhân răn dạy: tính thiện phùng thiện, tính ác phùng ác.

Những vụ án kinh thiên, động địa trong lịch sử Trung Hoa (P.2)

Cập nhật lúc: 19:30 28/07/2015

(Khám phá) - Phùng Ân cũng suy nghĩ không biết có nên làm như vậy không? Lúc này, ở ngoài cửa có tiếng chân bước lạo xạo, tiếng người nói râm ran vọng lại...

Phần 2: Phùng Ân vạch tội quyền thần!
Vào một ngày tháng 6 năm Gia Tĩnh thứ 14 (1535), quan Ngự sử Phùng Ân đã thu xếp xong hành lý chuẩn bị rời Bắc Kinh đi Trích Tuất, Tô Châu Quảng Đông. Theo nếp cũ chốn quan trường. khi quan lại ở Bắc Kinh bị phát vãng ra ngoài đều lấy vải hoa che mặt rồi lặng lẽ rời khỏi chốn kinh thành, tránh để các quan đồng liêu nhìn thấy.
Phùng Ân cũng suy nghĩ không biết có nên làm như vậy không? Lúc này, ở ngoài cửa có tiếng chân bước lạo xạo, tiếng người nói râm ran vọng lại. Mọi người đang đến để tiễn đưa Phùng Ân. Tất nhiên, ngoài dân chúng kinh thành còn có không ít quan lại trong triều. Các quan Hàn lâm viện Châu Thủ Ích, La Hồng Tiên, Trình Văn Đức… đưa tặng bức quyển đề bốn chữ lớn "Tứ Đức Lưu Phương" để biểu thị lòng kính trọng và ngưỡng mộ của mọi người đối với ông.
nha-minh-phunutoday-vn
Từ năm 1368 - 1644 là triều đại của nhà Minh.
Phùng Ân quan Ngự sử bị trách phạt đày đi tới nơi chân trời góc bể sao lại được các quan Hàn lâm viện và dân chúng trong thành ngưỡng mộ như vậy.
Phùng Ân (không rõ năm sinh, năm mất) tụ là Tứ Nhân, người Hoa Đình, Tùng Giang (nay là huyện Tùng Giang, thành phố Thượng Hải). Nhà ông rất nghèo, cha mất sớm chỉ còn mẹ chịu thương chịu khó nuôi ông thành người. Được mẹ dạy dỗ Phùng Ân không quản cuộc sống khó khăn, khổ công học tập. Vào đêm trừ tịch của một năm, trời lạnh lại đổ mưa to, vậy mà vẫn có từng loạt chớp sáng xé rách màn đêm, từng tràng pháo nổ hất tung màn mưa truyền đi niềm hoan lạc của ngày Tết. Nhưng nhà họ Phùng bần hàn, trong đêm giao thừa vẫn không có lấy hạt gạo bỏ vào nồi, đến ngay bữa cơm đầu năm mới cũng chẳng có. Để quên đói rét và an ủi mẹ già, Phùng Ân, Phùng Tư vẫn mặc chiếc ao vải thô đã cũ rách, che lên người mảnh chăn giá lạnh và ngồi trên giường lớn tiếng ngâm nga kinh sử với ý nghĩ đọc sách để cuốn hút toàn bộ tâm chí của mình, đến ngay cả những tràng pháo nổ giữa đêm mưa dường như cũng không lọt được vào tai. Đói rét cũng bị tiếng đọc sách mang đi hết. Hoàn cảnh gian khó đã tôi luyện ý chí của ông làm cho sự nghiệp học hành đạt bước tiến lớn. Năm Gia Tĩnh thứ 5 (1526). Phùng Ân thi đỗ Tiến sĩ được thụ chức Hành nhân.
Thời nhà Minh, có không ít sĩ tử lấy việc học hành làm dấu hiệu sắp bước vào quan trường. Sau khi đã làm quan rồi liền bỏ sách không ngó ngàng đến nữa, Phùng Ân quyết không như vậy, ông chớp mọi thời cơ nghiền ngẫm kinh sử, chuyên tâm cầu tiến. Năm Gia Tĩnh thứ 7 (1528) Phùng Ân phụng mệnh đi Lưỡng Quảng Uý lạo tân kiến Bá Vương Thụ Nhân, Vương Thụ Nhân tự Bá An, hiệu Minh Dương - ông là người dụng công học tập, dẹp được loạn Ninh Vương, danh tiến vang thiên hạ. Phùng Ân sau khi gặp Vương Thụ Nhân, nhân lúc rỗi rãi bèn cùng nhau đàm đạo về con người Phùng Ân đã rất cảm phục trước học vấn và nhân phấm của Vương Thụ Nhân, suy tôn ông là bậc thầy và xá lê nhận làm đệ tử, rồi theo Vương Thụ Nhân, học thánh học. Vương Thụ Nhân cũng tán thưởng tri thức, khí tiết của Phùng Ân, ông nói với mọi người: "Làm quan to mà đức vẫn lớn thì chính là Phùng Ân đó". Câu nói đó thể hiện sự kỳ vọng sâu sắc gửi cho Phùng Ân của Vương Thụ Nhân, vị quan đầy danh tiếng đương thời.
Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 8 (1529) Phùng Ân được phong làm Giám sát Ngự sử Nam Kinh.
Là Ngự sử, Phùng Ân đã nhiều lần dâng sớ vạch tội bọn tham quan, quyền quý, nhiều lần tấu biểu phục thiện trừ ác làm được nhiều việc khiến tiếng lành đồn xa.
Nam Kinh là kinh đô phụ của nhà Minh, vị thế sau với Bắc Kinh. Triều đình vốn vẫn thường cử trọng thần trấn giữ. Trấn thủ Nam Kinh lúc đó là quan đại thần Nguỵ Công, đã dựa vào quyền thế, và tư lợi cá nhân mà sai khiến nô dịch quân sĩ.
Quân sĩ bảo vệ các nơi gần thành Nam Kinh đáp ứng không đủ cho nhu cầu tư túi của ông ta, ông ta bèn vượt sông Trường Giang tiếp tục sai khiến binh sĩ bảo vệ phía bắc sông. Việc làm này can thiệp và làm khó dễ đến công việc huấn luyện binh thường và khai khẩn đất hoang của quân sĩ; dẫn đến sự bất mãn oán hận cực độ của binh sĩ. Phùng Ân biết được tình hình này liền dâng sớ tố cáo vạch tội Nguỵ Công tư lợi khiến ông ta bị triều đình quở trách, không bao giờ dám vượt sông nô dịch binh sĩ nữa. Nhưng việc làm này của Phùng Ân bị một số quan lại quyền thế thường hay chèn ép binh sĩ để tư lợi, vô cùng tức giận. Bọn chúng cũng tìm cớ để khiến ông bị phạt mất một tháng lương bổng.
Nhưng Phùng Ân vẫn là người trực tính, dám nói thẳng không chịu cúi đầu trước bọn quyền quý, vẫn lên tiếng vì chính nghĩa, không gì khuất phục nổi. Lúc đó quan chỉ huy quân sĩ bảo vệ thành Nam Kinh là Sử Trương Thân vì tư thù, đã đánh chết người. Nhưng hắn là người thân tín của Đô Ngự sử Uông Hồng vì vậy vẫn ung dung thoải mái ngoài vòng pháp luật, không ai dám tố cáo. Khi biết vịệc này, Phùng Ân bất chấp đối đầu với sự bao che của Thượng thư Vương Hồng và đã dũng cảm dâng sớ vạch tội tố cáo. Cuối cùng đã đưa được Chỉ huy sứ Trương Thân ra xử tội. Việc này đã làm phấn chấn lòng người, trái lại làm cho Uông Hồng căm tức tận xương tuỷ.
Đô Ngự sử Uông Hồng là người cố chấp, thực dụng, thâm hiểm và xảo trá, lại giỏi luồn lách thánh ý của Văn Thế Tông, cứ ngon ngọt thì tốt lành, cứ bợ đỡ thì sũng ái v.v… Đối với loại quan liêu như vậy, Phùng Ân bất chấp y là Đô Ngự sử vẫn dâng biểu tố cáo những tội ác đã qua của y.
Nhưng lúc đó, Thế Tông đang sủng ái Uông Hồng nên không đếm xỉa gì đến tố cáo của Phùng Ân.
Tuy vậy tấu biểu tố cáo của Phùng Ân vẫn có lớn. Ngự Sử tố cáo Đô Ngự sử là việc hiếm có ở thời nhà Minh, nó làm cho Uông Hồng mất mặt, tiêu tán uy phong. Vì vậy Uông Hồng càng không thể dung tha Phùng Ân vì tất muốn loại trừ hậu hoạ càng nhanh.
Tháng 9 năm Gia Tĩnh thứ 10 (1531) lại sắp chuẩn bị sát hạch các quan lại địa phương, theo cách làm cũ, mỗi khi đến kỳ sát hạch quan viên, trước khi sát hạch, Ngự sử Nam Kinh đã tham khảo trước các chứng cứ trong tố cáo của viên chức trước đây đã được bỏ lại, Đô sát viên xem xét. Còn Ngự sử Bắc Kinh thì sau khi sát hạch còn tiếp tục bổ sung nhận xét tố giác của nhân viên để tránh sót lọt. như vậy là tương đối đảm bảo nghiêm mật. Để thao túng quyền sát hạch, bịt miệng các quan lại, Uông Hồng dâng sớ xin loại bỏ cách làm xem xét tố cáo trước khi sát hạch của Ngự sử Nam Kinh mà để đưa lên bổ xung tập hợp sau khi sát hạch. Phùng Ân đã thấu hiểu rõ dã tâm thay đổi cách làm cũ của Uông Hồng liền dâng sớ phản đối kiến nghị của Uông Hồng, đồng thời ra sức biện minh lợi ích của việc cần thu thập tố cáo trước khi sát hạch. Thế Tông xem xong thấu hiểu Phùng Ân liền bác bỏ luôn kiến nghị của Uông Hồng, ra lệnh cứ làm như cũ.
Mùa đông năm Gia Tĩnh thứ 11 (1532) xuất hiện sao chổi, theo quan mệm của người đương thời, đó là Thượng đế thị chúng. Thế Tông vốn rất mê tín, hạ chiếu muốn nghe lời nói thẳng. Phùng Ân nhân cơ hội này dâng sớ phân tích cái được, mất trong việc dùng người của vua Thế Tông, đưa ra những cái hiền, ngu, chính, tà của các quan Đại học sĩ, Lục bộ Thượng thư thị lang.. trong tấu biểu của ông chỉ rõ. Đại học sĩ Lý Thời cẩn thận, chăm chỉ, nhưng giải quyết tranh chấp thì đảo lộn phải trái. Định Loan nịnh bợ quyền thế chỉ giỏi bảo vệ người có chức lộc, việc gì cũng mập mờ lấp lửng. Thượng thư bộ Hộ Hứa Tán mẫn cán ôn hoà nhưng thiếu tài quyết đoán, song không dùng thì phí chưa thể bỏ đi. Lễ bộ Thượng thư Hạ Ngôn bác học đa tài thì có thể làm Tể tướng. Binh bộ Thượng thư Vương Khoan cương trực thẳng thắn, thông tuệ có tài Đối với số đại thần này, theo đánh giá của mình, Phùng Ân đã chỉ rõ tài trí, nhân phẩm, hiền, ngu, chính, tà, có ưu có khuyết của họ, còn với số đại thần được Thế Tông trọng dụng như Đại học sĩ Trương Thông, Phương Hiến Phu, Đông sử Uông Hồng, lại cực lực công kích tội ác của chúng. Phùng Ân nói rõ: Trương Thông gian ác, hung bạo, gian giảo, phan trắc. Phương Hiến Phu ngoài giả đôn hậu, trong thực gian trá, lấy oán báo ân, chuyên làm việc xấu xa, bất chấp việc là việc Quốc gia đại sự, Uông Hồng lại như quỷ như ma, thù hận người trung lương, luôn nghĩ tới báo thù, những người bị hắn luận tội nếu không là kẻ thù của gia đình hắn thì cũng là kẻ thù của gia đình Tể tướng, cuối cùng, Phùng mạnh dạn vạch rõ: "Thần không thể tin dùng được (tức Trương Thông) bản chất như sao chổi vậy; (Uông Hồng) dã tâm như sao chổỉ vậy, Hiến Phu, như sao chổi trong Triều đình vậy. Không trừ ba sao chổi đó, bách quan bất hoà, chính sự không yên, dù muốn chấm dứt tai hoạ cũng không thể được.
Công bằng mà nói, Phùng dâng sớ không có ý gì hết, ông chỉ vì luận bàn hiền, ngu, chính, tà, để các đại thần lấy đó mà soi mình, chủ yếu là phê phán công kích Trương Thông, Phương Hiến Phu, Uông Hồng, chỉ trích bản chất dã tâm trước Triều đình, nếu không trừ bọn chúng thì không thể tránh khỏi tai hoạ. Thế Tông xem xong đã hiểu dụng ý của Phùng, lập tức hạ lệnh bắt giữ Phùng lột mũ áo tống giam vào ngục. Trong ngục hàng ngày Phùng bị tra hỏi đánh đập nhiều lần chết đi sống lại, nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng không hề vu oan cho người nào xúi giục thể hiện khí phách mình làm mình chịu.
Biết quân Cấm vệ thẩm vấn không có kết quả, Thế Tông bèn giao Phùng Ân cho Tam pháp tư hội thẩm, xử lý định tội. Đây là dịp để cho Phùng Ân có cơ hội bào chữa, để cho Phùng được một dịp trình bày tường tận mọi việc.
Mùa xuân Gia Tĩnh năm thứ 12 (1533), Phùng Ân bị chuyển tới giam ở bộ Hình, Thế Tông chỉ rõ, Phùng nhân việc luận về "Đại thần có phải quan hiền không"? để cố ý tố cáo ba người kể cả Uông Hồng đại thần được vua sủng ái, rõ ràng oán hận nhà Vua, phạm thượng, tội chết là may, yêu cầu Pháp tư thực hiện, lấy tội "Vu cáo đại thần có công" rồi mang ông ra xử tội chết. Hình bộ Thượng thư Vương Thời Trung căn cứ vào nội dung tấu biểu của Phùng Ân cho rằng Phùng không bao giờ làm mất uy tín các quan cùng triều cũng như ca ngợi công đức của các đại thần nên miên tội chết.
Rõ ràng việc định tội của Vương Thời Trung là có lý (Thế Tông) lúc đó quyền thế trong tay. Lý thuộc về mình nên Thế Tông càng tức giận hạ lệnh cách chức Vương Thời Trung. Pháp tư không còn cách nào khác phải buộc tội "vu cáo đại thần có công" bỏ tù và xử tội chết. Ít lâu sau, Uông Hồng nhậm chức Lại bộ Thượng thư. Vương Đình Tướng thăng chức làm Đô Ngự sử. Vương Đình Tướng dâng sớ xin giảm nhẹ hình phạt đối với Phùng Ân, nhưng Thế Tông vẫn kiên quyết giữ ý kiến nêng, không thèm để ý đến kiến nghị của Vương Đình Tướng.
Mùa thu năm đó, khi triều đình nghị thẩm, Thượng thư Lại bộ Uông Hồng phụ trách hội Thẩm, bỏ qua hết nghị án. Phùng Ân lợi dụng cơ hội này để vạch mặt Uông Hồng đề cao đại nghĩa.
Lúc triều thẩm, các quan phụ trách xét xử ngồi quay về hướng đông, "phạm nhân" phải quay mặt về phía các quan. Phùng Ân nhìn thấy Uông Hồng ngồi trên ghế cáo tội bèn cứ quay mặt về hướng bắc mà quỳ xuống. Uông Hồng nhìn thấy lập tức giận đỏ cả mặt quát lính ra lệnh bắt ông quỳ sang hướng tây. Phùng Ân lại lập tức đứng bật dậy và hắng giọng nói "Đầu gối của ta chỉ có thể quỳ trước triều đình, đâu phải để quỳ trước mi?" Uông Hồng càng tức tối, đập án đứng dậy quát lớn: "Ngươi đã nhiều lần dâng sớ muốn giết hại ta, vào ngục rồi còn muốn thành quỷ dữ để hại ta nữa thì nay không phải là ngươi đã chịu chết trong tay ta sao?"
Lời nói này tỏ rõ ràng là Uông Hồng chỉ vì báo thù cá nhân, lòng dạ thật vô cùng ác độc. Nhân thể nghị thẩm Phùng bèn tố cáo luôn: "Trên có nhà Vua, mi là đại thần mà lại lấy quyền thế giết hại người ngay phải không? nhưng đây là công đường, mi còn dám công khai trước mặt các quan để trả thù cá nhân, không coi Triều đình ra gì, mi thật là ngông cuồng?" Uông Hồng tức giận phát điên lên quát lớn "Ngươi dám lăng mạ đại thần" Phùng Ân bèn tiếp lời luôn: "Đại thần mà coi Vua không ra gì thì ai ai cũng giết chết được chứ lăng mạ đã thấm gì?". Uông Hồng đã đuối lý, hết lời bèn lấy một việc nhỏ đã qua hòng vu cáo hãm hại Phùng Ân: "Ngươi mà lại rất trong sạch ư? Tại sao ở trong ngục lại còn nhận cơm của người khác?" Phùng bình tĩnh mắng lại: "Cùng nhau hoạn nạn là nghĩa từ cổ xưa. Ta ở trong ngục, người ta mang cơm đến cho đó là cử chỉ đẹp. Còn như người đường đường có học, làm quan lại thu nhận vàng bạc của người khác, khiến họ không còn lối nào khác, thật là đáng xấu hổ?" Uông Hồng vừa xấu hổ vừa tức giận, hất tung án văn lao xuống sắn tay áo lên định đấm thẳng vào Phùng Ân.
Lúc này, không phải là thẩm vấn nữa, mà là tranh luận giữa Uông Hồng và Phùng Ân và đã biến thành màn đối thoại để Phùng Ân mắng nhiếc tố cáo Uông Hồng. Uông Hồng hổ thẹn phát điên, giữa hai người phát sinh đánh lộn không đếm xỉa gì đến thể diện của quan trường nữa. Vì vậy, các quan cùng chủ trì xét xử thấy không thể tiếp tục được nữa và tới can ngăn. Đô Ngự sử Vương Đình Tướng khuyên rằng: "Phùng càng không phải nói nữa, đã hơn 100 năm nay, triều đình chưa giết hại các quan dám nói thẳng, nay sao lại có thể giết được?" Lại quay sang nói với Uông Hồng: "Việc xử lý quan Ngự sử theo luật hình là không thể được, hơn nữa lại lấy tư thù mà xử thì lại càng không thể được". Lễ bộ Thượng thư Hạ Ngôn lại không khách sáo nói thẳng: "Đây là công đường nơi xét xử của triều đình, chứ không phải là tư đường của nhà ông, lẽ nào ông lại lấy tư thù để xét xử quan Ngự sử?". Lúc này, Uông Hồng đã rõ các quan đều khinh bỉ mình và đứng về phía Phùng Ân nên càng tức giận hơn. Lợi dụng quyền hành trong tay, tự ý phê luôn vào án văn về Phùng Ân hai chữ "Lưu đày" đưa cho các quan đại thần rồi quẳng bút đi ra.
Vậy là vụ án Phùng Ân coi như đã xong.
Phùng đeo gông đi ra cổng thành Trường An, dân chúng đến xem vây quanh tạo thành một bức tường dài, đông đến nỗi gió thổi cũng không lọt qua. Phùng Ân với tư thế hiên ngang, khảng khái ngẩng cao đầu bước đi dân chúng vây quanh xôn xao nói: "Vị Ngự sử này, không bao giờ chịu quỳ gối trước Uông Hồng, đầu gối của ông là thép, lúc trách mắng Uông Hồng, miệng ông là thép, giờ đây ông ngẩng cao đầu mà đi, ông không hề run sợ trước cái chết, gan của ông, xương của ông đều là thép". Thế là dân chúng kinh thành đều gọi ông là "Tứ thiết Ngự sử". Những lời tranh luận của ông với Uông Hồng được một số thương nhân ghi chép lại mang bán; dân chúng tranh nhau mua, nghe đồn ngay các sứ giả nước ngoài cũng dành mua sách này khiến cho kinh thành xuất hiện việc như giấy quý ở Lạc Dương.
Lúc đang xử án, Thế Tông sai cấm quân thăm dò tình hình xét xử, sau khi biết vụ tranh luận giữa Phùng Ân và Uông Hồng, cũng động lòng, thở dài. Thế Tông không thể giữ mãi ý mình mà giết hại Phùng Ân nên bắt ông tống giam vào ngục. Đã qua hai năm, lại đưa vụ án ra xét xử. Đô Ngự sử Vương Đình Tướng Hình bộ Thượng thư Nhiếp Khiền đều cho rằng án xử lần trước không đúng, vì thế dâng tấu nói rõ sự thật cho Phùng Ân được chuộc lại chức cũ. Đối với việc này, Thế Tông cho rằng mức phạt quá nhẹ cuối cùng lấy cớ nể tình phạt nhẹ: Lưu đày Phùng đến Lôi châu, Quảng Đông. Hai tháng sau, Uông Hồng cũng bị bãi quan.
Ngự sử tố cáo vạch trần gian tà, vốn là việc của giới quan lại chốn quan trường, có chức có quyền, không đáng được cổ vũ tán dương. Việc Phùng Ân tố cáo vạch tội Uông Hồng được ca ngợi, tán dương rộng rãi vì nó có quan hệ mật thiết gắn bó với bối cảnh đương thời. Từ giũa thời nhà Minh đến nay, nhất là những năm Gia Tĩnh, Ngự sử rất khó thực hiện được chức trách của mình.
Sau nghi thức đại lễ, Trương Thông chấp chính "Tác oai tác phúc, báo ân báo oán" đả kích người không theo mình, khiến cho muốn nói cũng không được vì thế đã hình thành "lấy im lặng làm lẽ sống, lấy phục tùng để yên ổn lấy công trạng đề kiêu căng tự mãn, chuyên mua danh chuộc lợi đế từ tay không mà có, dù có thân cận nếu thăng thắn cương trực cũng bị đầy đi biệt xứ".
Trong tình thế đó, Phùng Ân đã dám đứng lên tố cáo vạch trần sự gian ác của Đô Ngự sử Uông Hồng, Đại học sĩ Trương Thông, Phương Hiến Phu.
Trước toà xét xử lại tỏ rõ khí phách hùng mạnh hơn sắt thép, uy cũng không thể khuất phục, vẫn tố cáo vạch trần lộ mặt thật của Uông Hồng. Với tinh thần ấy. với sự quả cam ấy khiến ông đã có được danh hiệu cao quý "Tú khiết Ngự sử", giành được sự ngưỡng mộ, kính trọng của mọi người. Vĩ vậy khi biết ông đi lưu đày tận Lôi Châu Quảng Đông, quan lại và dân chúng kinh thành đều không hẹn mà cùng nhau kéo tới để tiễn đưa.
Phùng Ân đã sống tha phương được sáu năm ở Lôi Châu. Về sau gặp dịp đại xá, cũng được trở về kinh thành sinh sống. Sau khi Mạc Tông lên ngôi, xem xét lại việc các đại thần được trước ngôn bị xử tội trước đây để trọng dụng lại thì Phùng Ân đã ngoài 70 tuổi. Nhưng ông vẫn được thụ phong tại nhà Đại lý tự nhưng ông không nhận với lý do già yếu.
Thực ra việc phong ông chức Đại lý tự để làm dịu nỗi bất bình oan khuất của ông đồng thời cổ vũ mua chuộc các quan lại khác ngay thẳng cương trực mà thôi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét