Thứ Hai, 15 tháng 6, 2020

NỖI NIỀM OAN KHUẤT 51/k

Lần dở lại những cuộc đời oan khuất
Thương xót biết bao những ước vọng linh hồn
Căm giận biết bao lũ gà mờ giai cấp
Nỡ đày đọa nhau bất chấp lẽ sống còn(!)
----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Phục Hồi Nhân Văn Giai Phẩm

Những Bài Trích Trong Cuốn «bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Toàn Án Dư Luận»

23 Tháng Mười Một 200812:00 SA(Xem: 83380)
Tên quân sư quạt mo : Nguyễn Hữu Đang 
Hắn là con một tên chánh tổng ở Thái Bình. Chính gia đình địa chủ cường hào này đã rèn luyện cho hắn từ lâu cái đầu óc thích «ăn trên ngồi trốc», thích địa vị với nhiều thủ đoạn nham hiểm và tàn nhẫn. Lớn lên, học được ít nhiều, hắn chạy chọt thi vào làm thư ký phủ Toàn quyền. Được ít lâu, hắn xin thôi việc và sống một cuộc đời lang bạt. Lúc này, chính là lúc phong trào Mặt trận bình dân đang phát triển mạnh; là một thanh niên nhanh nhẹn hoạt bát, hắn được phong trào tìm đến. Cũng có khi làm phát hành sách báo, cũng có lúc hắn được phân công viết dăm ba bài. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc lồng lộn khủng bố, toàn bộ Đảng ta rút vào bí mật. Không những các cán bộ, đảng viên, mà cả những đoàn viên thanh niên dân chủ cũng bị lùng bắt. Nguyễn hữu Đang vẫn hoạt động công khai trong phong trào truyền bá quốc ngữ. Lúc bấy giờ cụ Nguyễn Văn Tố làm hội trưởng hội đó và được Đảng ta hết sức ủng hộ. Nhưng Nguyễn Hữu Đang lại vận động anh em đánh đổ cụ Tố xuống để Đang làm hội trưởng... Đến khi bọn mật thám chú ý phong trào truyền bá quốc ngữ, Đang bỏ nhiệm vụ và tìm cách lẩn trốn.
... Mãi đến năm 1942 khi phong trào Việt minh lên cao, Nguyễn Hữu Đang mới được liên lạc lại và tham gia Văn hóa Cứu quốc. Chính trong thời kỳ này, khi phân công Nguyễn Hữu Đang đi vận động nhóm Hàn Thuyên, thì hắn trở về mang theo cái chủ trương «cần dựa vào Nhật» của bè lũ tờ-rốt-kít. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Hữu Đang được đề cử nhận một trách nhiệm trong chính phủ. Nhưng vì đầu óc địa vị quá nặng, Đang đã tỏ ra bất mãn vì thấy chức vị mình chưa được cử dứt khoát. Sau đó, Nguyễn Hữu Đang lại được điều động sang công tác trong Văn hóa Cứu quốc. Vì Đang chưa có uy tín gì trong địa hạt văn nghệ nên không thể để Đang làm Tổng thư ký được. Đang lại kèn cựa với các đồng chí Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Huy Tưởng. Ngay từ 1945 Nguyễn Hữu Đang đã cấu kết với tên Trần Thiếu Bảo là chủ nhà xuất bản Minh Đức. Đang vận động anh em để Trần Thiếu Bảo về phụ trách nhà xuất bản của Văn hóa Cứu quốc. Nhưng, một nhà xuất bản của một đoàn thể cách mạng không thể để lọt vào tay một tên tư bản cơ hội như tên Trần Thiếu Bảo, các anh em kiên quyết không tán thành đề nghị của Nguyễn Hữu Đang.
Bất mãn với đoàn thể Văn hóa Cứu quốc và nhân cơ hội Đảng chủ trương mở Đại hội văn hóa toàn quốc, Nguyễn Hữu Đang xin ra lập ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc. Hồi đầu cách mạng, công việc của Đảng và Chính phủ rất bận. Tình hình lúc đó lại gặp nhiều khó khăn đối với bọn Quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch sang tước vũ khí quân đội Nhật Bản, và bọn Quốc dân đảng Nguyễn Tường Tam, bọn cách mạng đồng minh hội Nguyễn Hải Thần và bè lũ của chúng âm mưu phá hoại chế độ ta. Lợi dụng lúc khó khăn đó, không ai kiểm tra đôn đốc, Nguyễn Hữu Đang tự động làm mọi việc không thảo luận gì với các anh em, không xin chỉ thị của Đảng. Nguyễn Hữu Đang liên hệ với người này người khác, không cần biết người đó thái độ chính trị ra sao? Công việc đương tiến hành thì kháng chiến bùng nổ. Nguyễn Hữu Đang không nhìn thấy hoàn cảnh khó khăn của kháng chiến mà chỉ nghĩ đến thích thú cá nhân của mình; làm cái gì cũng muốn làm to, khoa trương, hình thức. Đang tổ chức thanh niên xung phong rất quy mô và tiêu tốn rất nhiều tiền. Đầu óc lãnh tụ nổi lên, Đang muốn làm thủ lĩnh thanh niên và ý định đào tạo một lớp thanh niên với danh nghĩa : thanh niên Nguyễn Hữu Đang (!).
Chủ trương của Nguyễn Hữu Đang không sát với hoàn cảnh thực tế rất khó khăn của kháng chiến, và cách tung tiền của Nguyễn Hữu Đang theo kiểu « sắn tay áo xô đốt nhà táng giấy» không quỹ nào cung cấp cho đủ. Tổ chức thanh niên xung phong của Đang phải giải tán. Nguyễn Hữu Đang lại được Đảng điều động về làm thanh tra Bình dân học vụ. Về đây chẳng bao lâu, đầu óc địa vị lại trỗi dậy, Nguyễn Hữu Đang lại kèn cựa, công kích đồng chí Vương Kiêm Toàn là giám đốc nha Bình dân học vụ, một người rất cần cù, bền bỉ, một người đã có công rất nhiều từ phong trào Truyền bá Quốc ngữ. Nguyễn Hữu Đang lại vận động anh em hòng lật đổ đồng chí Vương Kiêm Toàn. Nhưng anh em rất sáng suốt : Nguyễn Hữu Đang một lần nữa lại thất bại. Con đường cách mạng không phải như một cái thang để cho những kẻ đầu cơ như Nguyễn Hữu Đang trèo lên làm vương làm tướng, cũng không phải như một canh bạc đỏ đen. Đang tham gia phong trào đã lâu nhưng vì đầu óc vô chính phủ và tư tưởng cơ hội nặng nề như vậy nên mãi đến năm 1947 mới được kết nạp vào Đảng. Nhưng rồi công không thành, danh không toại, Đang sinh ra chán nản. Cơ quan Bình dân học vụ dọn lên Việt Bắc, Đang ở lại Thanh Hóa làm «quân sư» cho nhà xuất bản Minh Đức. Trong những năm cuối cùng của cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc, mọi người đều cố gắng đem khả năng của mình ra để cống hiến cho sự nghiệp quang vinh của tổ quốc thì Nguyễn Hữu Đang, vì bất mãn cá nhân, đã nằm bẹp, không hoạt động gì cho cách mạng, bám vào nhà xuất bản Minh Đức để chia lãi với một cái tên cũng khá kêu là « giám đốc chính trị». Từ ngày đó, Nguyễn Hữu Đang đã tự ý bỏ cơ quan và cũng từ ngày đó Đang đã xa rời hàng ngũ của Đảng. Khoảng năm 1951 thì Đảng cắt đứt sinh hoạt của Đang. Từ đó, khi Cầu Bố, khi Hậu Hiền, Đang luôn luôn chửi Đảng, chửi cách mạng. Phẩm chất cách mạng của Nguyễn Hữu Đang đã mất. Đang đã trốn trách nhiệm với cơ quan, Đang đã bỏ quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc để đi làm cái việc chia lãi với tên Trần Thiếu Bảo, một tên tư bản cơ hội, bẩn thỉu.
Hồng Vân
Tạp chí Văn nghệ
số 12, tháng 5 năm 1958
(Bọn Nhân văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận, nxb Sự Thật, Hà Nội 1959, trang 45-48)
... Hoà bình lập lại trở về Hà Nội, Nguyễn Hữu Đang lại ăn ở cùng nhà với Trần Thiếu Bảo, lúc này luôn luôn sẵn sàng tiếp những nhà văn bằng đủ các thứ rượu mùi ngoại hóa và nếu cần bằng cả những tiệc trà, những bữa cơm linh đình, những cuốn phim của đế quốc còn để lại rồi cho vay thêm tiền tiêu gọi là khoản «tạm ứng trước» về nhuận bút. Những nhà văn ấy đã từng cho in văn, thơ của họ trong những tập Giai phẩm xuân, hạ, thu đông gì đó !
Nguyễn Hữu Đang đã có lúc tự xưng là «liêm khiết». Cái con người gọi là «liêm khiết» ấy đã cò kè bớt một thêm hai, rồi sau hết đã thò tay ký giấy hợp đồng với tên Minh Đức để tháng tháng lấy 20% về số lời bán sách với điều kiện đọc và lựa chọn những tác phẩm thuộc các loại như đã đăng trong «Giai phẩm» !
Chúng ta, ai cũng còn nhớ rằng cuối năm 1956, tình hình thế giới có những việc không tốt xẩy ra : trong nước, Đảng lãnh đạo gặp nhiều khó khăn. Nhiều nhà tư sản và một số phần tử trí thức lạc hậu muốn nhân cơ hội, tấn công vào sự lãnh đạo của Đảng Lao động.
Đối với Nguyễn Hữu Đang thì tình hình này là một cơ hội tốt. Cũng như thời kỳ sau cách mạng, trong lúc còn hoạt động cho Văn hóa cứu quốc, hắn lại tìm cách dựa vào một số tư sản và trí thức lạc hậu có tư tưởng chống đối, để phất cờ. Cũng hòng gây sự nghiệp ăn to làm lớn!
Tóm lại, người ta chưa thấy lúc nào hắn đi vào với công nhân, nông dân; mà hắn chỉ có những quan hệ, bạn bè với những phần tử lạc hậu đầu cơ gian lận, mà hắn muốn lấy làm chỗ dựa để hòng thực hiện cái «trí lớn» của hắn.
... Nguyễn Hữu Đang tập hợp được những người trong nhóm «Giai phẩm» trước, và cho tờ báo «Nhân văn» ra đời.
Cái con người nặng trĩu đầu óc địa vị, lúc nào cũng huênh hoang, muốn được nhiều người chiêm ngưỡng đó đã tính toán khôn khéo không kém một gian thương đầu cơ hàng lậu thuế. Hắn lẩn mình và... rút lui vào bí mật Suốt bốn số báo đầu, người ta không thấy một bài nào ký tên Nguyễn Hữu Đang và cũng cái con người suốt đời chạy theo danh lợi riêng, suốt đời chỉ mơ ước địa vị đó, đã sẵn sàng nêu danh Phan Khôi làm chủ nhiệm và Trần Duy là thư ký tòa soạn, chỉ vì cái khôn khéo giảo quyệt của nó.
Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân Văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Hắn tìm tiền, kiếm giấy, thu xếp việc ấn loát và viết bài nhưng lại ký tên người khác. Hắn che lấp những nguồn tài chính, những kẻ cung cấp phương tiện bằng hình thức dối trá là nêu danh những người góp tiền in báo có một nhân lên thành mười! Hắn họp hành bí mật với một số nhà văn chống Đảng, với những người tư sản và trí thức cũng đang muốn lợi dụng thời cơ để phất lá cờ chính trị. Hắn luôn luôn bàn mưu, lập kế với bọn Trương Tửu v.v... Hắn có những tay chân trong một hai đoàn kịch tư nhân, ở một vài cơ quan văn hóa của Nhà nước. Thông qua tờ báo «Nhân Văn», hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị...

Mạnh Phú Tư
Báo Độc Lập
Số 356, ngày 24-4-1958
(Bọn Nhân văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận, trang 48-50)



Tưởng rằng thời cơ đã đến...

...
Vào giữa lúc Hung-ga-ri và ở Pô-dơ-nan có một bọn phiến loạn định phá hoại thành quả của cách mạng; ở ta, Đảng tích cực sửa chữa những sai lầm đã mắc phải trong cải cách ruộng đất, Phan Khôi một tên đã năm lần phản cách mạng, vùng dậy hô to «bỉ nhất thời dã, thử nhất thời dã» (xưa một thời, nay lại một thời). Nguyễn Hữu Đang đang nằm ở nhà Minh Đức làm quân sư quạt mo cho tên lái chữ Trần Thiếu Bảo cũng vội chạy ra đường đưa dúi sách phản động vào tay nhóm «Giai phẩm mùa xuân», cùng với Phan Khôi, Trần Duy, kéo Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm đến họp bàn ra báo «Nhân Văn», khoác áo chủ nghĩa xét lại để chống phá lãnh đạo. Như vắt ngửi thấy máu, Thụy An như rắn bò tới câu lạc bộ Hội nhà văn phun nọc độc mạt sát «chế độ ta bần cùng hóa nhân dân». Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, những phường quỷ quái tinh ma, chung quy kẻ cắp bợm già gặp nhau. Chúng ngoặc ngay với nhau. Trương Tửu bảo Trần Đức Thảo: «Trường đại học sẽ là pháo đài của chúng ta»; Tửu cũng tưởng «đây là một thời», vỗ ngực bảo với mấy tên thân tín: «Tơ-rốt-ky là đây chứ đâu» và tung tin vào đám sinh viên: «Tơ-rốt-ky được phục hồi». Trương Tửu chia tay nắm «Nhân Văn Giai Phẩm» và «Đất Mới». Tửu khoe với thân tín: «Dạo này thức đêm chữa bài cho Nhân Văn bận quá». Bọn chúng núp dưới chiêu bài «trăm hoa đua nở». Nhưng quần chúng không nhầm - quần chúng thừa biết rằng: dưới hoa lại núp những phường ác nhân là bọn Phan Khôi, Nguyễn Hữu Đang, Trương Tửu, Trần Duy, Lê Đạt và bao nhiêu tên phá hoại khác...

Bàng Sĩ Nguyên
Báo Tiền Phong, số 282, ngày 23-4-1958
(Bọn Nhân văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận,
trang 120-121)

Ra sức tác động tinh thần quần chúng,
phá hoại chính trị
...
Báo Nhân Văn đã có một tác dụng phá hoại tinh thần, đầu độc tư tưởng người đọc không kém gì một cơ quan «tác động tinh thần» của địch ở ngay giữa miền Bắc chúng ta. Nó đả kích suốt lượt các cơ quan chính quyền hay đoàn thể của ta: từ Ban chấp hành Hội văn nghệ, đến quân đội, công an, hộ khẩu, từ Sở báo chí đến Mậu dịch, Bưu điện, từ Quốc hội đến Chính phủ, Trung ương Đảng... mà trong khi đả kích như thế, nó đã hoàn toàn đứng trên quan điểm của bọn phản động trong giới tư sản, của bọn tơ-rốt-kít và cả của bọn Mỹ-Diệm ở miền Nam nữa mà chống chế độ ta. Nguyễn Hữu Đang đã trực tiếp chỉ đạo từ đầu đến cuối công cuộc phá hoại bằng báo chí ấy.
Nguyễn Hữu Đang có cái rất xảo quyệt là tuy có bọn gián điệp Thụy An cũng ở trong nhóm, nhưng Đang không để cho Thụy An và những tên khác lộ mặt được viết bài lên báo. Đang muốn giấu tung tích của báo Nhân Văn. Nhưng thật ra báo Nhân Văn không phải chỉ phá hoại theo kỹ thuật báo chí phản động thông thường, mà theo một thứ kỹ thuật phá hoại đã được nâng lên mức tinh vi, thâm độc, mà trước đây «Việt tấn xã» và các «báo» của «phòng nhì», của «phòng chiến tranh tâm lý», của «đội tác động tinh thần» trong vùng tạm bị chiếm và bây giờ những cơ quan ngôn luận «chống cộng» ở miền Nam vẫn quen dùng, nên ta không thể không thấy có dấu vết bọn Thụy An trong đó.
Từ số 4, báo Nhân Văn chuyển mạnh sang vấn đề chính trị. Trước đó, sự công phẫn càng ngày càng mãnh liệt của nhân dân đối với hành động phá hoại của báo Nhân Văn đã làm cho một số kẻ tham gia nhóm đó đâm nao núng, ngần ngại... Đang nắm được tình hình tư tưởng ấy của đồng đảng, nên trong một cuộc họp, Đang giả vờ bận, lánh mặt để cho Trần Đức Thảo đến «đả thông tư tưởng». Đang cầu viện đến Trần Đức Thảo để củng cố tinh thần trong hàng ngũ, vì Đang và cái đầu não chính trị nhóm «Nhân Văn - Giai Phẩm»... đã sắp đưa hoạt động của nhóm ấy vào một bước quyết liệt. Báo Nhân Văn ngay từ số đầu đã rõ rệt là có tính chất chính trị phá hoại rồi. Bây giờ báo nói chuyển sang chính trị, chính là nói chuyển sang chuẩn bị hành động chính trị...
Lúc ấy, nhóm phản động đã phát triển được lực lượng và ảnh hưởng thêm rộng rãi hơn nữa. Trương Tửu và Trần Đức Thảo ở Đại học đã lôi kéo được một số sinh viên, tập dượt cho họ làm chính trị phản động bằng cách bắt đầu chống đối lại lãnh đạo ở nhà trường, đả kích vào tổ chức của Đảng ở nhà trường, ra tập Đất Mới, phá hoại kỷ luật sinh hoạt và học tập.
Lúc ấy, cũng là lúc vụ bạo động phản cách mạng vừa nổ ra ở Hung-ga-ri, làm căm phẫn những người thiết tha với cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhưng lại gây thêm cuồng vọng gian ác cho những kẻ thù địch với chế độ ta, trước nhất là bọn cầm đầu nhóm «Nhân Văn - Giai Phẩm».
Chúng lại cho là Trung ương Đảng và Chính phủ ta không thể nào giải quyết nổi bao nhiêu khó khăn dồn dập hồi cuối năm 1956: ở nông thôn, sai lầm trong cải cách ruộng đất chưa sửa xong còn làm cho lòng người chưa đoàn kết lại như trước; ở thành phố, nạn đầu cơ tích trữ làm giá hàng lên đùng đùng, làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của mọi tầng lớp nhân dân lao động; ở vài vùng công giáo, bọn phản động đội lốt thầy tu đã gây rối loạn.
Bởi vậy, chúng càng quyết liệt đẩy mạnh hoạt động của «Nhân Văn- Giai Phẩm».
Ngay từ số 3, báo Nhân Văn đã có bài «Nỗ lực phát triển tự do dân chủ» của Trần Đức Thảo, nó vừa đưa ra một cơ sở lý luận, vừa có tính chất một cương lĩnh đấu tranh. Đến số 4 và số 5 luôn hai kỳ xã luận, Nguyễn Hữu Đang phát triển rõ hơn nữa ý kiến của Thảo và đề ra những khẩu hiệu đấu tranh cụ thể đòi thi hành các tự do dân chủ như tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do hội họp và tổ chức, tự do cư trú, đi lại trong nước và ngoài nước, v.v... Các quyền tự do dân chủ của nhân dân ta đã được đảm bảo rõ ràng trên hiến pháp và thi hành trong thực tế từ khi thành lập chế độ dân chủ nhân dân. Tại sao bọn Đang lại còn nêu lên phải đấu tranh đòi hỏi thi hành nữa? Rõ ràng là bọn chúng muốn xui giục người ta đòi một thứ tự do khác, một chế độ khác,... Nên thêm rằng cũng trong số 5 ấy có một bài của Lê Đạt «Bài học Ba-lan và Hung-ga-ri» vừa bào chữa cho bọn phản cách mạng Hung-ga-ri, vừa ngầm có ý đe trước rằng nếu không «mở rộng tự do dân chủ» (theo yêu cầu tự do hoạt động của bọn phản cách mạng) thì ở đây cũng có thể xẩy ra chuyện như Hung-ga-ri...
Những bài trên mới chỉ là sự chuẩn bị tuyên truyền công khai trên mặt báo. Còn trong nội bộ nhóm «Nhân Văn - Giai Phẩm», trong những đối tượng vận động của chúng, bọn Đang còn chuẩn bị nbững gì nữa?
Hoàng Cầm, Phan Vũ cũng nhận là trong khoảng thời gian đó đã nghe Nguyễn Hữu Đang nói đến việc thành lập «một đảng quần chúng». Cũng chính Hoàng Cầm, Phan Vũ và một số người tham gia Nhân Văn nữa đã thú rằng, bị kích thích mãi bởi những luận điệu của Đang và của Thảo, đến hồi ấy cũng thầm mong có biểu tình để thay đổi Chính phủ, hoặc ít ra nữa buộc Chính phủ thay đổi đường lối cán bộ.
Đến số 6, báo Nhân Văn (không được ra), Đang viết một bài xã luận nữa. bài này đã nâng lên cái mức quyết liệt trắng trợn xui giục quần chúng biểu tình. Lê Đạt vốn đã là một kẻ liều lĩnh, hung hăng, vậy mà cũng phải phát sợ, đem chữa lại để giấu bớt ý định của đồng lõa đi. Chính phủ và nhân dân ta, lúc ấy, đã kịp thời ngăn chặn được hoạt động của bọn phá hoại «Nhân Văn - Giai Phẩm», nên chúng không thể đi quá thêm một bước nữa trên đường phạm tội với Tổ quốc, với nhân dân. Đó là một cái phúc lớn cho chúng.
Nhưng bọn đầu sỏ, nhất là Đang, thì không thể nguôi được «nỗi tiếc đã bỏ mất một «thời cơ» tốt»; mãi về sau, mới gần đây thôi, Đang còn nói với một người bạn: «Khi tao chết, tao chỉ còn ân hận là lúc đó không làm được mạnh hơn nữa!» Đang hậm hực vì đã không thực hiện được mưu đồ «lật đổ» Đảng, «thay đổi chế độ».

Như Phong
Nhân Dân, 12-5-1958
(Bọn Nhân văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận,
trang 121-124)


Lợi dụng tự do báo chí và văn nghệ,
bọn chúng bí mật và công khai phá hoại cách mạng
...
Để có bề thế hoạt động, Nguyễn Hữu Đang lại xin vào công tác ở báo Văn Nghệ, nhưng một mặt hắn vẫn làm quân sư cho tên lái buôn văn nghệ Minh Đức. Cuốn «Giai phẩm mùa đông» gồm toàn những bài tự do vô chính phủ, tư tưởng phản động của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Văn Cao, v.v...
Nhân lớp học 18 ngày do Hội văn nghệ tổ chức, Nguyễn Hữu Đang nhảy ra đọc một bản tham luận «nẩy lửa», nhằm đả kích vào đường lối văn nghệ của Đảng, do đó Nguyễn Hữu Đang lôi kéo được một số văn nghệ sĩ bất mãn viết cho nhà Minh Đức, tiếp tục ra cái «Giai phẩm mùa thu» tập 1, tập 2, v.v...
Nhân có cuộc phiến loạn ở Hung-ga-ri, và sẵn trong nước có cuộc phát hiện sai lầm trong cải cách ruộng đất, Nguyễn Hữu Đang đứng ra vận động tổ chức báo Nhân Văn với một số văn nghệ sĩ mà Đang đã nắm được, đứng đầu là Phan Khôi làm «chủ nhiệm», Trần Duy làm «chủ bút».
Đang đưa Phan Khôi và Trần Duy ra mặt «chủ nhiệm» và «chủ bút» Nhân Văn cho dễ bề hành dộng ở bên trong...
Một mặt, hắn liên kết với một nhóm tư sản phản động để «viện trợ» tiền cho báo Nhân Văn mà hắn trưng lên báo danh sách góp tiền của một số văn nghệ sĩ (Nhân Văn số 1): người 1 vạn, người 5 vạn (và Hoàng Cầm những 10 vạn đồng mà thực tế thì Hoàng Cầm đã thú rằng: không có đồng nào cả).
Trong khi đó, nhà Minh Đức vẫn liên tục ra đều Giai Phẩm và sách (do Trương Tửu chủ trương về mặt biên tập). Tiền ở đâu ra? Ai chủ trương đẩy nhà Minh Đức xuất bản những sách cũ Tự Lực Văn Đoàn và móc vào Hội văn nghệ làm lễ kỷ niệm Vũ Trọng Phụng tại Nhà hát lớn để gây uy tín?
Đang chuẩn bị một số văn nghệ sĩ tích cực của Giai Phẩm thành một khối «trung kiên» trong Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2, để phản kháng, phá phách; nhưng mới có một vài phần tử lên tiếng phá nhẵng thì tức khắc Đại hội phê phán ngay, phải im lặng.
Nguyễn Hữu Đang đã sử dụng thủ đoạn phá phách của hắn rất rõ trên báo Nhân Văn: hắn áp dụng cách làm báo, thủ đoạn lập lờ để đánh ta. Đang dùng lời Hồ chủ tịch đăng lên báo làm lá chắn để đánh vào cán bộ Đảng (Nhân Văn số 1). Hắn trích dẫn Cổ học tinh hoa không có lời phê phán mà dụng ý khêu gợi sự nghi ngờ của người đọc về bản chất chế độ. Hắn hướng dẫn các nhà văn viết Nhân Văn toàn dùng cách viết «biểu tượng lập lờ» (symbole équivoque) để một mặt tuyên bố đả quan liêu mà kỳ thực là đả kích vào Đảng. Nêu khẩu hiệu: đả phong kiến, nhưng thực chất là đả chế độ ta. Rõ nhất là những bài «Thi sĩ máy», «Con ngựa già của chúa Trịnh» có thể làm cho người nông cạn mất tinh thần, hết tin tưởng vào tính chất ưu việt của chế độ ta về «nhân tài».

Thiều Quang
Hà Nội hàng ngày, 19-4-1958
(Bọn Nhân văn Giai Phẩm trước tòa án dư luận, trang 126-128)

NHÂN VĂN – GIAI PHẨM: NHỮNG NHẦM LẪN CỦA GIỚI NGHIÊN CỨU VỀ MỘT PHONG TRÀO SÁNG TẠO CỦA NHỮNG VĂN NGHỆ SĨ TRƯỚC NĂM 1975 Ở MIỀN BẮC.

  1. NGỘ NHẬN CỦA GIỚI TRẺ VÀ NGƯỜI NGOÀI CUỘC
Cũng như những bạn trẻ khác, đã là người học văn và tìm hiểu nhiều về nền văn học nước nhà, ai cũng sẽ bị cuốn hút bởi cái cụm từ: Nhân Văn – Giai Phẩm. Thực tế cho thấy những văn nghệ sĩ cộng sản khi nhắc tới cụm từ này phần lớn đều e dè, một vài người mạnh bạo thì thể hiện sự nối tiếc, xót xa. Nối tiếc vì các văn nghệ sĩ nhóm Nhân Văn – Giai Phẩm đều là những người đã có những thành tựu nhất định, hơn thế, có những người đang nắm giữ các trọng trách, vị trí, chức vụ quan trọng ở các cơ quan văn hóa, nghệ thuật của cộng sản. Vậy vì cớ gì mà tất cả họ bị đánh án, có người bị đưa ra xét xử, những người nhẹ hơn thì bị cô lập, gây khó khăn trong cuộc sống, buộc thất nghiệp, lưu đày… Tất cả những điều đó tạo cho Nhân Văn – Giai Phẩm một lực hút đối với những người nghiên cứu văn học nghệ thuật, đặc biệt là những người dám đi vào tìm hiểu những vụ việc được xem là án phản động, có tư tưởng chống đối, phản động chống chính quyền cộng sản, không được cộng sản và chính quyền của nó thừa nhận, ngược lại bị lên án, trù dập và cách ly với xã hội, với giới văn nghệ sĩ.
images (13)
Những vùng tối cùng với phiên tòa xét xử nhóm nhân văn đã dập tắt gần như hoàn toàn mọi ý định khám phá vụ việc này. Có lần, ở một quán nét gần khu vực trường Đại học KHXH&NV Hà Nội, tôi có hỏi một cô sinh viên ngành xã hội & nhân văn về Nhân Văn – Giai Phẩm, cô ấy cho biết: theo thầy cô và những người lớn thì Nhân Văn – Giai Phẩm là những người phản động và bị kết án phản động, và vì vậy họ không quan tâm. Bạn nữ sinh viên còn nói thêm: tôi có thể tìm kiếm thông tin trên mạng và vào trang Wikipedia để tìm hiểu về Nhân Văn – Giai Phẩm, thông tin khá đầy đủ.
Tôi hỏi thêm: cá nhân bạn nghĩ thế nào về Nhân Văn – Giai Phẩm. Bạn sinh viên trả lời: trong xã hội này thì đã là án chính trị và xét xử rồi thì không còn phải bàn cãi gì nữa, và không đáng để quan tâm. Bạn ấy thắc mắc vì tôi tìm hiểu vụ việc này, bạn bảo thầy cô và những người trong lĩnh vực này mà bạn quen biết khuyến cáo bạn nên tránh xa. “Nhưng dù thế nào thì những người trọng vụ việc Nhân Văn – Giai Phẩm cũng là đáng quý, vì họ dám thể hiện mình, dám chống lại những sự bó buộc, rào cản của chế độ”.
Tôi vờ hồn nhiên hỏi: bạn không thấy thầy cô và những người khác khuyên nên tránh xa Nhân Văn – Giai Phẩm, và không nên đi vào vết xe đổ của họ à. Một loạt những tiếng lao xao, nhiều bạn nữ khác lên tiếng ủng hộ cô bạn ngồi bên tôi, đang bị tôi tranh thủ phỏng vấn! Tất cả các bạn trẻ cho biết họ đều muốn như Nhân Văn – Giai Phẩm, được như Nhân Văn – Giai Phẩm, và mong có những người như vậy ở hiện tại. Sự việc và cuộc trao đổi, test xã hội với các bạn sinh viên trong quán Nét diễn ra vào khoảng năm 2006, 2007. Một không khí có vẻ như cởi mở hơn cả bây giờ, chúng tôi trao đổi khá thoải mái, và các bạn sinh viên cũng mạnh dạn bày tỏ quan điểm của mình rất chân thực, thẳng thắn và cũng rất thoáng. Thể hiện một khát khao đổi mới, phá rào, đột phá, thèm một sự tự do thực sự cho sáng tạo nghệ thuật.
images (17)
Cũng chính nhờ những cuộc trao đổi như vậy mà tôi biết đến Wikipedia, đến những trang mạng có đăng tải nội dung về Nhân Văn – Giai Phẩm và nhiều những vụ việc khác.
Bỏ qua những tìm hiểu xã hội, tạm thời rời mạng ảo và các lời khuyến cáo của các giảng viên, các lão thành trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, tôi lặng lẽ kiếm tìm những nguồn tư liệu khác: những chứng nhân lịch sử của vụ việc, những người tham gia, đi cùng và nắm chắc các diễn biến của vụ việc. Công việc thầm lặng, những nhiều niềm vui, vui nhất là khi các bạn nữ sinh viên ngỏ ý muốn tôi – một người xa lạ, quen tình cờ trong quán nét, nhưng đã tìm hiểu Nhân Văn – Giai Phẩm thì chắc không phải là người ngoài giới văn học nghệ thuật, do đó – các bạn mong tôi cũng như những người đã học hành xong cái bậc đại học, hãy dấn thân và đấu tranh cho họ. Vâng niềm vui nhỏ khi nghĩ, có lúc nào đó mình được chia sẻ những tìm hiểu, những suy nghĩ và nhất là cung cấp những sự thật về vụ việc vốn bị dấu kín, không được công bố và ít ai biết tới.
May mắn là khi tôi tiếp cận vấn đề, tìm hiểu nó và đề nghị những người tôi có quen cũng cấp thông tin, sự kiện và diễn biến vụ việc Nhân Văn – Giai Phẩm cũng là khi mà bầu không khí xã hội ở Việt Nam đã cởi mở và thông thoáng hơn nhiều. Tất nhiên, hàng loạt vấn đề tồn nghi vẫn cần được lý giải, khai phá và đưa ra công luận. Đó là một thuận lợi lớn, và thuận lợi hơn là những người tôi tìm đến đều không ngại ngần khi đề cập tới nó.
Trở lại  với cái đề mục: ngộ nhận của giới trẻ và những người ngoài cuộc – vâng, đã có một vụ án, một phiên tòa xét xử, rất bất công, và đó là một vụ án theo kiểu cách mạng văn hóa mới, kiểu hậu cách mạng văn hóa. Và do đó, Nhân Văn – Giai Phẩm nhận được nhiều sự thương cảm, nhất là giới trí thức, các văn nghệ sĩ trong và ngoài nước, nhưng không mấy ai biết tới cái thực chất, bản chất của vụ việc Nhân Văn – Giai Phẩm, không mấy tư liệu, công trình, chương trình báo chí hay cả những cuốn sách chuyên về Nhân Văn – Giai Phẩm cũng chưa cung cấp những thông tin cơ bản, quan trọng nhất về vụ việc. Do đó, tôi dùng chư Ngộ Nhận. Vì tất thảy chỉ thấy yêu, thương, đồng cảm, lên án phiên tòa, đấu tranh với bất công và áp bức, đày đọa mà các văn nghệ sĩ, trí thức phải chịu khi tham gia và thực hiện Nhân Văn – Giai Phẩm. Không ai biết rằng, về bản chất, vụ Nhân Văn – Giai Phẩm không góp phần nhiều cho những tiến bộ của trí thức, của sáng tạo văn học nghệ thuật, của tự do dân chủ và nhân văn, của công bằng và bác ái.
Người ta thấy Nhân Văn – Giai Phẩm dám đi ngược hay chống đảng cộng sản như bản án mà đảng cộng sản đã tuyên trong phiên xét xử nên thầm ngợi ca họ, mà không biết được rằng, về bản chất, đó là một sự chống đối, hay tranh chấp quyền lực nội bộ chính quyền cộng sản, nó không thực sự góp phần thúc đẩy cho tiến bộ của dân tộc. Đó là những điều dẫn tới việc tôi đặt cái đề mục như trên. Giải thích nó cũng chính là đã phần nào làm sáng rõ đôi nét về bản chất của vụ việc. Tôi sẽ lần lượt cung cấp các dẫn chứng và tư liệu để khẳng định những kết luận nói trên về Nhân Văn – Giai Phẩm trong phần sau của bài viết này.
Khi tôi viết những điều như trên, có ai đọc đến và tự hỏi: liệu tôi có đang tạo dựng lịch sử của vụ việc không? Hình như vụ việc đang được diễn giải không như người ta nói, vẫn tưởng về nó. Vâng, tôi muốn đặt một dấu chấm hết cho vụ việc, làm sáng tỏ nó ở những vấn đề bản chất nhất. Có như vậy, những hoài nghi, nhưng vùng tối và đặc biệt, sự kỳ vọng mà các bạn trẻ đặt vào tôi mới được đáp ứng. Tôi cũng hy vọng, khi sự thật được phơi bày, nó giản dị, ngắn gọn, nhưng là sự thật và mong rằng nó được chấp nhận, sẽ không có những cá nhân, tổ chức cố tình xuyên tạc sự thật sau khi tôi công bố bài viết này một cách đầy đủ. Trước đã có sự việc như vậy nên nay tôi nhân tiện nói luôn và để mọi người, những ai quan tâm hiểu là nó cũng không đơn giản, có những cá nhân, tổ chức sẵn sàng dùng trang web, báo chí khi cần để làm cho vụ việc trở nên mờ mịt, phủ nhận những sự thật. Và cái trọng tâm, cái thực chất là muốn Chiêu tuyết, muốn làm cho Nhân Văn – Giai Phẩm trở nên đẹp đẽ và đáng yêu, đáng kính.
Vài nét sơ lược nhưng cũng đủ để hiểu vì sao giới bất đồng chính kiến, nhiều nhà văn, nhà báo hải ngoại đã viết về Nhân Văn – Giai Phẩm, họ thấy có sự tương đồng, nhưng bản chất khác nhau nhiều, có một số giống, khi đó là những cán bộ cộng sản trốn ra nước ngoài. Còn về cơ bản, khi biết thực chất vụ việc, thì người ta hiểu, Nhân Văn – Giai Phẩm không liên quan gì tới giới trí thức, văn nghệ sĩ nước ngoài ở cái khía cạnh là đổi mới sáng tạo, là đấu tranh cho tự do, dân chủ và tiến bộ. Ở đây tạm nhìn cái khía cạnh tốt đẹp của giới văn nghệ sĩ hải ngoại khi họ thành lập các trang web và thực hiện các bài viết về những vụ việc nổi cộm trong nước.
Và, khi đã nhắc tới bộ phận hải ngoại, tôi không thể không nói ngay là cũng có những nhầm lẫn, ngộ nhận của bộ phận văn nghệ sĩ hải ngoại về Nhân Văn – Giai Phẩm như giới trẻ và người ngoài cuộc trong nước mà tôi đã trình bày ở trên. Tôi nhớ, đã trao đổi với một vài phóng viên của BBC, có nói họ nên làm lại Nhân Văn – Giai Phẩm, viết theo cái hướng tôi đã nói ở trên, tư liệu thì phải tự tìm vì lúc đó tôi đang ở trong nước, khó khăn trong việc hỗ trợ họ, tôi lúc đó chưa ra khỏi đảng. Và thực tế, chương trình của BBC về Nhân Văn – Giai Phẩm đã chân thực hơn, gần hơn với những gì tôi sẽ chia sẻ ở đây.
tải xuống (4)
Bài viết này không phải là làm lại những gì người ta đã làm, có nhắc tới những điều đã biết cho hệ thống, nhưng sẽ cung cấp đầy đủ và chân thực về vụ việc với những thông tin mới nhất, đầy đủ nhất.

Nguyễn Hữu Đang: một bi kịch lớn

Nhà báo Lê Thọ Bình
09:30' SA - Thứ sáu, 15/08/2014
"...Tại sao trường hợp ông Nguyễn Hữu Đang lại được quan tâm nhiều như vậy? Bởi vì ông có một số phận đặc biệt. Còn rất trẻ, ông đã là Thứ trưởng trong chính quyền, ông là nhà truyền giáo cách mạng hùng hồn bậc nhất mặc dù không để lại nhiều trước tác. Sau nữa, ông là người được Hồ Chí Minh giao trách nhiệm dựng lễ đài đọc Tuyên ngôn độc lập 2.9.1945. Nhưng cái làm cho nhiều người “mê” ông chính vì ông là một nhà cách mạng nhiệt thành và hơi… cuồng tín.

Cho đến chết ông vẫn coi cách mạng là một thứ gì đó vô cùng đẹp đẽ, kỳ vĩ. Dao sắc không gọt được chuôi, vị đại diện thông minh, tài giỏi, hào hùng và trung thành của cách mạng đã không tự cứu được mình khi dám cả gan đòi cho giới văn nghệ một không gian sống và không gian nghệ thuật dễ thở hơn, tự do hơn. Kết quả là đứa con cưng của cách mạng đã bị cách mạng xóa sổ: kết án 15 năm tù. Ra tù phải ăn cả cóc nhái rắn rết để tồn tại và cùng quẫn đến mức phải lo tìm một chỗ bờ bụi nằm chết một mình cho yên thân...."
Đang nắm giữ những chức vụ và đảm nhiệm những công việc rất quan trọng của chính quyền: Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, được giao nhiệm vụ tổ chức ngày Lễ Độc lập (2-9), ông như con đại bàng đang bay cao. Nhưng rồi cái tư tưởng phóng khoáng, tự do của một chú đại bàng “hoang dã” muốn đưa đồng loại của mình tới khoảng trời bay nhảy tự do đã khiến ông rơi từ “trời cao” xuống vực thẳm, để lại cho nhân gian những câu chuyện thật đau lòng bằng một vụ án văn chương mà người ta gọi là “Nhân văn Giai phẩm”.
Vâng, ông là Nguyễn Hữu Đang, người được coi là “Lãnh tụ tinh thần” của “Nhân văn Giai phẩm”.
Hành trình bài bút ký
Lần đầu tiên tôi gặp Nguyễn Hữu Đang là mùa hè năm 1993, khi ông vừa lên Hà Nội cư trú sau gần 20 năm bị quản thúc tại Thái Bình, quê ông.
Hôm ấy tôi đang làm việc ở Văn phòng cơ quan thì một cụ già vận chiếc quần bộ đội bạc phếch, áo sơ mi cộc tay trắng đã ố vàng bỏ ngoài quần, đi dép cao su 3 quai, đầu đội chiếc mũ lá tuềnh toàng. Tôi đã nghĩ “Lại cụ nông dân đi kiện về đất đai” và chào ông. Ông cởi chiếc mũ lá. Đầu trọc lốc. Ông không chào, cũng chẳng đáp lời tôi, hỏi cộc lốc: “Các ông có biết tôi là ai không?”. Tôi lắc đầu. Ông nhăn mặt: “Tôi là Nguyễn Hữu Đang vừa ở tù 15 năm và quản thúc 20 năm đây!”. Tôi hết sức ngạc nhiên. Không, phải nói là sửng sốt thì đúng hơn. Nguyễn Hữu Đang, Lãnh tụ tinh thần của “Nhân văn Giai phẩm” đây sao!
Thú thực, ban đầu tôi không thực sự ấn tượng vì cách nói chuyện theo kiểu không đầu không cuối của ông. Đầu hơi cúi gằm. Thỉnh thoảng lại lấm lét ngước mắt lên nhìn người nghe. Tuy nhiên, ông lại có chất giọng hào sảng, âm thanh rất vang. Cuối buổi trò chuyện ông rút trong chiếc bị cói ra tập bản thảo bút ký 15 trang giấy viết tay kể về “Tổ chức Ngày Lễ Độc lập năm 1945”. Nét chữ của ông nắn nót, tròn, đều tăm tắp. Tôi cảm ơn ông và hứa sẽ tìm cách đăng cho ông.
Tôi đã kỳ công biên tập ngắn gọn lại thành một bài viết 1.500 chữ và gửi cho báo Tuổi trẻ Chủ nhật (nay là Tuổi trẻ cuối tuần) để đăng nhân dịp Quốc khánh, 2-9. Tuổi trẻ trả lời không đăng được. Tôi đã gửi đi tới cả chục báo, tạp chí như Đại đoàn kết, Lao động, Phụ nữ TP.HCM, tạp chí Thế giới mới, Kiến thức ngày nay… nhưng tiếc rằng không báo nào “dám đăng”.
Đó là điều mà tôi đã tiên liệu trước: Ai dám đăng bài viết mà tác giả của nó là “Lãnh tụ tinh thần” của Nhóm “Nhân văn Giai phẩm”. Tuy nghĩ là vậy, nhưng tôi vẫn hy vọng vào lòng quả cảm của một Tổng biên tập nào đó, vì thực ra ngay từ năm 1989 ông đã được "phục hồi", năm 1990 đã được trả lương hưu và năm 1993 đã được về sống tại Thủ đô.
Tôi như người “mắc nợ” với ông, mặc dù khi đưa tập bản thảo cho tôi ông đã bảo: “May ra có Tuổi trẻ dám đăng”. Sau đấy năm nào cũng vậy, cứ đến dịp Quốc khánh tôi lại gửi đến một vài báo khác nhau. Và vẫn câu trả lời: “Không đăng được”. Tôi luôn nặng trĩu trong lòng và vì “món nợ” ấy mà đã nhiều năm liền không dám tìm gặp ông.
6 năm sau, năm 1999, tôi về làm việc tại Báo Nông thôn ngày nay. Vì là người được chị Mai Nhung, Tổng biên tập giao nhiệm vụ Tòa soạn, biên tập, duyệt đăng bài, nên tôi đã bê nguyên xi bản thảo ông Đang viết đăng 4 kỳ ở chân trang. Sau khi báo phát hành nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Thậm chí ông Vũ Duy Thông, lúc ấy là Vụ trưởng báo chí Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương) biểu dương. Thì ra lâu nay toàn sợ bóng sợ gió cả.
Phần vì bận nhiều công việc, phần không tìm được ra nhà ông Nguyễn Hữu Đang, nên tôi đã không chuyển nhuận bút bài báo cho ông được. Mãi tới năm 2004 tôi mới tìm ra được căn hộ ông ở tít mãi tận Nghĩa Đô (quận Cầu Giấy, Hà Nội) lúc ấy còn rất hoang vắng. Như vậy là sau 6 năm, kể từ khi ông đưa cho tôi, bài Bút ký mới được đăng và sau 5 năm nữa món nhuận bút mới được chuyển đến tay ông.

Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) là một nhà báo, một trong những người sáng lập nên Hội truyền Bá Quốc ngữ, một trong 15 ủy viên Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam của Việt Minh năm 1945, là thứ trưởng Bộ Thanh Niên và là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập tại Quảng trường Ba Đình, nơi Hồ Chí Minh và Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra mắt quốc dân. Nguyễn Hữu Đang và Nguyễn Đình Thi trong những người làm "văn hóa cứu quốc" có những quan điểm khác biệt với Đề cương văn hóa của Trường Chinh, coi văn hóa và sáng tạo văn nghệ là để phục vụ công nông binh, phục vụ tuyên truyền là mệnh lệnh tuyệt đối với văn nghệ sĩ. Ông cũng bị kết án 15 năm tù trong vụ án Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Sau khi ra tù năm 1973, ông bị quản thúc tại quê nhà Thái Bình. Năm 1986, sau Đại hội Đảng VI, ông bắt đầu được minh oan và phục hồi danh dự và được coi là "lão thành cách mạng". Từ năm 1990, ông được hưởng lương hưu trí. Ông qua đời ngày 8 tháng 2 năm 2007 tại Hà Nội.
(theo Wikipedia)

Ở căn hộ khu tập thể Nghĩa Đô
Sau nhiều lần tìm kiếm rồi cuối cùng chúng tôi cũng tìm ra nơi ông ở. Tôi và nhà báo Lương Thị Bích Ngọc chui qua cầu thang ẩm ướt, tối mò, lên tầng 2 dãy nhà Tập thể Bột mì (Nghĩa Đô) gõ cửa nhà ông. Chừng 5 phút sau ông Đang ra mở cửa. Căn phòng nhỏ, bộn bề, đặc mùi ẩm mốc. Ông đã bước sang tuổi 90, cơm nước phải nhờ đến một người cháu tới giúp, song những hoạt động trí tuệ thì ai có thể thay thế được cho con người vốn có tinh thần độc lập từ xưa – kể từ khi ông bị thực dân Pháp bắt tra tấn và suýt đưa ra tòa lúc còn là vị thành niên?
Ngồi ở chiếc bàn nhỏ vừa để ăn vừa để đọc sách của ông, nhìn quanh trên tường và trên bàn có nhiều tấm ảnh chân dung chắc chắn là rất thân thiết với ông; và đập ngay vào mắt chúng tôi là tấm ảnh lịch sử: Lễ đài Ba Đình 2-9-1945 được cho vào khung ảnh cẩn thận kê ngay ngắn trên một chiếc vỏ hộp bánh quy. Chiếc bàn kê sát giá sách để chiếc điện thoại bàn lấm bụi, chiếc kính lúp, cái đèn pin, mấy cục pin con thỏ để lăn lóc.
Cuộc đời có thể tước đoạt của ông nhiều thứ song không thể tước đi quyền tự hào là người đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho trọng trách tổ chức ngày lễ Độc lập ở Ba Đình, và tới năm 1947, ông vẫn còn được coi là nhân vật quan trọng nhất nhì bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mái đầu húi cua bạc cháy tựa nương cằn miền núi sau trận cháy rừng giờ không còn ngẩng cao kiêu hãnh mà hơi cúi gằm bởi năm tháng, nhưng cái vóc dáng cồng kềnh và chắc chắn của ông vẫn cho thấy một nghị lực sống được nén lại, và đôi lúc ánh mắt ông vô tình vẫn lóe lên những luồng ánh sáng trí tuệ.
Nhìn ông, ai có thể tin rằng: Sau mười lăm năm tù đày, ở tuổi 63, ông đã từng phải sống nhờ vào côn trùng và cóc - nhái - chuột - rắn trong suốt hơn mười lăm năm vất vưởng bên lề xã hội ở một làng quê Thái Bình… Trải qua quá nhiều nỗi đớn đau thử thách, và ở giai đoạn cuối cuộc đời vẫn phải lo tránh cạm bẫy, ông phải tự giữ gìn và giữ cho cả người đang đối thoại với mình mà bằng trực giác ông biết là lòng lành, song dường như ông vẫn không bị mất đi sự sắc sảo pha chút hóm hỉnh.
Thấy mấy cuốn sách, vài ba tờ báo vứt lỏng chỏng trên bàn, trên giường, tôi hỏi ông: “Lâu nay bác vẫn nhận được sách báo đều chứ ạ?”. Ông không nói gì, chậm chạp, run rẩy đứng dậy khỏi giường, chậm rãi bước tới cái giá sách nhỏ ở góc nhà lục tìm cái gì đó. Nhìn dáng ông đi liêu xiêu, mảng lưng hở qua chiếc áo bở tã đến thê thảm. Ông lúi húi bên giá sách cạnh tấm ảnh đen trắng Dostoievski chợt nhòe đi. Bên dưới tấm ảnh văn hào Nga được nhiều thế hệ độc giả Việt yêu quý là chiếc tủ lạnh cũ. Bất giác tôi đứng lên, bước tới chiếc tủ lạnh, tự động mở ra: cả hai ngăn trên và dưới đều trống rỗng! Ông Đang không hề để ý tới việc khách mở tủ lạnh và quan sát đồ dùng sinh hoạt trong phòng ông. Ông rời giá sách trên tay cầm theo cuốn sách dày cộp. Ông giở bìa cuốn từ điển Bách khoa Petit Larousse in năm 2.000 ra, chỉ tay vào trang đầu tiên có chữ nắn nót của ông: “Mất từ tr. 865 đến tr. 968″. Rồi ông vội vã mở cuốn sách ra để chứng minh điều mình đã thông báo. Tôi hỏi ông: “100 trang sách đã bị xé. Ai đã xé những trang này hở bác?”. Ông thở dài: “Còn ai vào đây nữa!”. Ông nói nhỏ dường như chỉ để cho mình ông nghe: “Những người có trách nhiệm kiểm soát trước khi chuyển nó đến cho tôi. Còn những mục gì ư? Chỉ là những thứ mà theo người ta, sẽ đầu độc một lão già vô hại là tôi!”.
Câu cuối ông nói ra vừa có gì giễu cợt lại vừa đượm nước mắt. Một công trình văn hóa hoàn hảo, một trong những biểu tượng của trí tuệ nhân loại bị phá hoại bởi những người quen thói bao cấp tư tưởng, quen hăng hái săn sóc tâm hồn và tri thức cho người khác – kể cả với những người đương nhiên là bậc thầy về văn hóa của họ! Thực là một tấn bi hài kịch không đáng có, vậy mà đã nó diễn ra thường xuyên như thứ một tập quán ghê sợ!
Nguyễn Hữu Đang: ông là ai?
Nguyễn Hữu Đang sinh ngày 15/8/1913 tại làng Trà Vy, huyện Vũ Tiên, tỉnh Thái Bình. Theo bản "Tóm tắt quá trình hoạt động xã hội của Nguyễn Hữu Đang" do chính tay ông viết thì năm mười sáu tuổi, ông tham gia Học sinh hội (tổ chức thuộc Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi Đông dương Cộng sản đảng), làm tổ trưởng Hội này. Ngay từ năm 1929 Nguyễn Hữu Đang đã là đối tượng được kết nạp vào đảng. Cuối năm 1930, ông bị bắt, bị tra tấn và bị giam 2 tháng rưỡi tại nhà lao thị xã Thái Bình. Mùa hè năm 1931, bị đưa ra toà, nhưng vì tuổi vị thành niên (trên giấy tờ, ông rút tuổi, khai sinh năm 1916), cho nên chỉ bị quản thúc tại quê nhà. Từ 1932 đến 1936, Nguyễn Hữu Đang theo học Trường Sư phạm Hà Nội.
Năm 1937-1939 ông tham gia Mặt trận dân chủ Đông Dương. Biên tập các báo của Mặt trận như Thời báo (cùng Trần Huy Liệu, Nguyễn Đức Kính), Ngày mới (cùng Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Đức Kính) và các báo của Đảng Cộng sản như Tin tức (cùng Trần Huy Liệu, Phan Bôi), Đời nay (cùng Đặng Xuân Khu tức Trường Chinh, Trần Huy Liệu).
Từ 1938 đến 1945, Nguyễn Hữu Đang hoạt động trong Hội Truyền bá Quốc ngữ, ở các vị trí: Uỷ viên Ban trị sự Trung ương, Huấn luyện viên Trung ương, Trưởng ban Dạy học, Trưởng Ban Cổ động, Phó trưởng Ban Liên lạc các chi nhánh tỉnh.
Năm 1943 Nguyễn Hữu Đang gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, bắt đầu liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và Thành ủy Hà Nội, nhưng vẫn chưa được chính thức kết nạp vào Đảng.
Năm 1943-46 ông tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hoá Cứu quốc, tiếp tục hoạt động chống nạn mù chữ. Mùa thu năm 1944 bị Pháp bắt ở Hà Nội và bị giam một tháng tại Nam Định. Được ra, lại tiếp tục hoạt động cách mạng.
Tháng 8-1945 ông tham dự Đại hội Tân Trào, được bầu vào Ủy ban Giải phóng dân tộc. Tham gia Chính phủ lâm thời mở rộng, được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Truyên truyền. Đồng thời cũng trong năm đó ông được Hồ Chí Minh cử làm Trưởng ban Tổ chức Ngày lễ tuyên bố độc lập 2-9-1945.
Từ tháng 10-1945 đến tháng 12-1946 ông giữ các chức vụ Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Mặt trận văn hoá. Tổ chức Hội nghị Văn hoá toàn quốc lần thứ nhất tại Hà Nội.
Từ tháng 12-1946 đến tháng 3-1948 ông làm Trưởng Ban Tuyên truyền xung phong trung ương.
Năm 1947, ông chính thức được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Từ tháng 4-1948, đến tháng 4-49, ông phụ trách báo Toàn dân kháng chiến, cơ quan trung ương của Mặt Trận Liên Việt.
Từ tháng 7-1949 đến tháng 10-1954 Nguyễn Hữu Đang làm Trưởng ban Thanh tra Nha Bình dân học vụ. Từ tháng 11-1954 đến tháng 4-1958 ông tổ chức và biên tập báo Văn Nghệ. Cuối năm 1956 đầu năm 1957 Nguyễn Hữu Đang tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân văn, giúp đỡ tập san Giai phẩm.
Phong trào “Nhân văn Giai phẩm”
Nguyễn Hữu Đang chính thức tham gia hoạt động phong trào Nhân văn Giai phẩm từ tháng 9-1956, với sự ra đời của báo Nhân văn số 1 (20-9-1956). Báo Nhân văn ra được 5 số và đến số thứ 6 chưa kịp phát hành đã bị đình bản (tháng 12-1956).
Trong thời gian tổ chức và tham gia phong trào “Nhân văn Giai phẩm”, Nguyễn Hữu Đang tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày (từ ngày 8-8 đến 26-8-1956) và trong ngày cuối cùng, ông đã đọc một bài tham luận "nảy lửa" chỉ trích những sai lầm trong công tác lãnh đạo văn nghệ. Trương Tửu đánh giá bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang là "sự việc thực là cụ thể, lời lẽ thực là tha thiết". Hoàng Cầm cho rằng tinh thần nêu những thắc mắc, có từ kháng chiến, tích tụ lại và bùng nổ lên trong lớp học này.
Nhà văn Lê Đạt sau này kể lại: "Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi (Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn nghệ – VN) rằng: "Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai phẩm Mùa xuân nó làm".
Còn Nguyễn Huy Tưởng ghi lại không khí lớp học 18 ngày, trong nhật ký của mình như sau: "Nguyễn Hữu Đang nổi lên. Tiếc rằng kéo anh ta về văn nghệ để làm rầy rà mình. Chính người chửi mình nhất là Nguyễn Hữu Đang". Những bực mình và dằn vặt của Nguyễn Huy Tưởng, càng làm rõ tấm lòng và nhân cách của ông: Mặc dù không đồng ý với Nguyễn Hữu Đang, bị Đang chỉ trích nặng nề, nhưng sau này, ông là người duy nhất trong Ban lãnh đạo văn nghệ đã đứng ra bênh vực Nhân văn, như Lê Đạt từng thuật lại và ông cũng ghi trong nhật ký: “đã phản ảnh lên Trường Chinh về vụ Nhân văn, nhưng vô hiệu”.
Về phía buộc tội, Nguyễn Hữu Đang được coi là lãnh tụ, "đầu sỏ". Mạnh Phú Tư viết: “Người ta không thấy tên tuổi Nguyễn Hữu Đang trên những số đầu báo Nhân văn, nhưng chính hắn là linh hồn của tờ báo. Thông qua tờ báo Nhân văn, hắn đã trở thành một thứ lãnh tụ của một bọn người cơ hội, có âm mưu chính trị... ".
Thực vậy, là người làm chính trị, Nguyễn Hữu Đang, với tài tổ chức và hùng biện trong lớp học 18 ngày, ông đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến. Ông nắm lấy cơ hội, đứng ra tổ chức “Nhân văn Giai phẩm” với những người bạn cùng chí hướng từ trong kháng chiến như Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo, Lê Đạt, Hoàng Cầm… chủ trương tạp chí “Giai phẩm mùa xuân”.
Tuy không có nhiều bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của Nguyễn Hữu Đang trên báo Nhân văn là hết sức đậm nét bằng hàng loạt bài phỏng vấn các tên tuổi lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ.
Sau này Nguyễn Hữu Đang nói: “Thực chất phong trào “Nhân văn Giai phẩm”, nếu đứng về mặt chính trị, thì đó là một cuộc đấu tranh của một số người trí thức, văn nghệ sĩ và một số đảng viên về chính trị nữa, là chống, không phải chống đảng cộng sản, mà là chống chủ nghĩa Staline và chủ nghĩa Mao. Sự thâm nhập của chủ nghĩa Statline và chủ nghĩa Mao đưa đến nhiều hiện tượng cực quyền toàn trị. Nó gay gắt ghê lắm! Chúng ta đã phạm sai lầm trong Cải cách ruộng đất, rồi thì Chỉnh huấn, Chấn chỉnh tổ chức, Ðăng ký hộ khẩu, v.v. Tất cả những chính sách quá tả đó là đều từ phương Bắc xâm nhập vào Việt Nam”.
Tháng 4-1958 Nguyễn Hữu Đang bị bắt. Ngày 19-1-1960, ông bị đưa ra toà cùng với Thụy An, Trần Thiếu Bảo, Phan Tại, và Lê Nguyên Chí.
Sau này Nguyễn Hữu Đang nhớ lại: “Ở trước tòa án thì tôi nhận mấy điểm như thế này: (1). Tôi có phạm kỷ luật của Ðảng và của nhà nước về phương diện tuyên truyền. (2). Trong việc làm của tôi, cũng có những vụ sai sót. Anh em cũng như tôi thôi, thế nhưng tôi gánh trách nhiệm nặng hơn. (3). Ðộng cơ thì nhất định là tốt: Chúng tôi chỉ vì dân, vì nước mà tin rằng việc mình làm có ích nước lợi dân cho nên làm thôi”.
Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội đã tuyên: Nguyễn Hữu Đang và Thụy An: 15 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân sau khi ra tù; Minh Đức: 10 năm phạt giam và 5 năm mất quyền công dân; Phan Tại: 6 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân; Lê Nguyên Chí: 5 năm phạt giam và 3 năm mất quyền công dân.
Sau này có lần Nguyễn Hữu Đang nói: “Ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm tù tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”.
Có thật là Nguyễn Hữu Đang tìm cách trốn vào Nam?
Thông tin thời bấy giờ và cả sau này nữa đều cho rằng Nguyễn Hữu Đang bị bắt khi ông đang trên đường trốn vào Nam. Tuy nhiên sự thật có phải như vậy không? Chúng ta hãy nghe chính Nguyễn Hữu Đang sau này kể lại: “Tôi muốn ra nước ngoài, chứ không phải vào Nam, nhưng tôi đã đặt điều kiện: Nếu các anh giúp tôi đi ra một nước khác, tôi chấp nhận, nhưng vào Nam thì tôi từ chối, vì như thế hàm chứa cái ý phản bội, chạy sang phe địch, phe thù. Đó là một sự nhục nhã. Vào Nam? – Để làm gì chứ? Vào Nam làm gì với Ngô Đình Diệm? Nhưng tôi thực sự muốn ra nước ngoài – tôi đã nói thẳng với Trường Chinh trong một cuộc gặp giữa ông ấy và tôi. Câu hỏi thứ nhất mà Trường Chinh vừa cười vừa đặt ra cho tôi là: “Hả, sao kia, anh đã tuyên bố với các đồng chí rằng anh muốn ra nước ngoài, vì không khí trong nước nghẹt thở quá. Vậy là anh muốn ra nước ngoài, nhưng đến một nước trong phe xã hội chủ nghĩa hay phe đế quốc, anh nói tôi nghe”. Ông ta cười. Lúc đó tôi vừa cười vừa trả lời: “Tôi rất muốn ra nước ngoài, một nước trong phe xã hội chủ nghĩa nếu điều kiện cho phép. Nhưng nếu vì những khó khăn buộc tôi phải đến một nước theo chế độ tư bản, tôi có thể chấp nhận. Bằng chứng là Hồ Chí Minh đã cư trú ở Pháp, và ông đã giữ được lòng yêu nước và tinh thần cách mạng, và tôi có thể làm như ông ấy. Tôi nghĩ rằng tôi có thể làm như Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc là một nhà cách mạng, tôi cũng là nhà cách mạng. Nguyễn Ái Quốc là một người cộng sản, tôi cũng là cộng sản. Nguyễn Ái Quốc có lòng dũng cảm, tôi cũng có lòng dũng cảm. Tôi không sợ cư trú dài hay ngắn hơn trong một nước tư bản”. Thế là người ta đã sửa soạn… Người bạn đã khuyên tôi nên ra nước ngoài đã nhận lời giúp tôi đến được một nước khác. Anh ấy đã hứa, nhưng chuyến đi đã không được thực hiện. Vậy là tôi lỡ một dịp đi đến một nước khác. Nhưng để tô vẽ bản cáo trạng, người ta đã đưa vào câu tôi muốn vào Nam. Khi đó tôi trả lời toà án: “Không, tôi không muốn vào Nam; tôi muốn đi ra nước ngoài”. Và người ta hỏi tôi: “Nhưng ở nước ngoài anh sẽ làm gì?” – “Đấu tranh cho thống nhất, thống nhất hai miền; ở nước ngoài tôi sẽ tiếp tục đấu tranh thực hiện thống nhất đất nước, thống nhất hai miền Bắc Nam”. Nghe lời tuyên bố ấy, cử toạ… – phiên tòa bao gồm những người ủng hộ Chính phủ, quần chúng của Đảng, đảng viên, những cán bộ của nhiều tổ chức và hoạt động khác nhau đều phản nhân văn – họ phá lên cười nhạo cái ý định đấu tranh cho thống nhất đất nước của tôi. Trong chuyến đi rời đất nước ra nước ngoài, tôi muốn thăm Ấn Độ và Nam Tư của Tito, tôi tin ở Nehru và Tito. Tôi rất muốn gặp họ và xin họ lời khuyên để đấu tranh cho nước Việt Nam bị chia cắt, để Việt Nam được thống nhất và độc lập. Tôi muốn gặp Tito và Nehru…”.
Sau này, khi ra tù, Nguyễn Hữu Đang cho biết: “ Khi Hiệp nghị Paris trả lại tự do cho tôi, tôi đã viết thư cho gia đình – người ta cho phép tôi viết thư cho gia đình để báo tin tôi được trả tự do. Lúc ấy cả gia đình tôi kinh ngạc, cả gia đình tôi hoàn toàn sửng sốt: “Ôi, kìa, anh Đang còn sống, thế mà chúng ta cứ tưởng anh đã chết lâu rồi”.
Mối tình bi thương
Sẽ là không vẹn toàn nếu nói về cuộc đời đầy bi kịch của Nguyễn Hữu Đang mà không nhắc tới mối tình đầy lãng mạn, nhưng cũng không kém phần bi thương của ông.
Ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Hữu Đang 32 tuổi. Ở cái tuổi “tam thập nhi lập”, lẽ thường đã phải yên bề gia thất, nhưng ông vẫn độc thân sau những năm tháng mải mê với những công việc xã hội.
Trong đống bản thảo mà Nguyễn Hữu Đang để lại có một bản mà giấy đã ngả màu vàng, gần như đã bắt đầu mục nát, không hiểu ông viết vào thời gian nào, ông đã kể lại mối tình đầu với một thiếu nữ Hà Nội tên là Huyền Nhiên: “Năm ấy mới 19 tuổi là con một gia đình thương nghiệp trung lưu sống theo nền nếp cổ truyền, chưa học hết bậc thành chung, phong cách thùy mị... không thích đua đòi”.
Ông viết: “Đối với tôi lúc ấy, sắc đẹp là tất cả, biết bấy nhiêu về Nhiên đã là thừa. Không cần biết gì về Nhiên mới đúng. Có ai lại ngớ ngẩn chỉ chú ý đến tài năng, đạo đức, học vấn, gia sản, lý lịch Hằng Nga, Tiên nữ bao giờ?... Theo lòng mình, tôi kính trọng Huyền Nhiên tới mức yêu nhau nửa năm trời tôi chưa từng dám chạm vào thân thể Huyền Nhiên, dù chỉ cầm tay cũng đã coi là xúc phạm, còn nói chi đến ôm hôn”... Hồi ức còn viết rất nhiều, bằng những lời lẽ mà chỉ đọc vẫn nhận ra tình cảm rất nồng nàn của người viết sau nửa thế kỷ đầy những truân chuyên.
Cuối cùng, vị Thứ trưởng Bộ Thanh niên cũng quyết định phải thổ lộ với người mình yêu bằng việc tặng cho Huyền Nhiên tiên nữ một chiếc vòng tay bằng bạc như một giao ước kết hôn. Nàng đã đặt chiếc vòng cầu hôn vào hộp, nói những lời cam kết là sẽ yêu chàng suốt đời, sẽ đến lúc thành hôn, sẽ chung sống với nhau trọn đời... Người đẹp chỉ có một yêu cầu: “Em chỉ ước ao được đến gặp cụ Hồ, được đứng gần cụ. Mà anh thì đến chỗ cụ luôn, anh cho em đến chỗ cụ Hồ một lần, chỉ một lần thôi”.

Tuy công việc khiến vị Thứ trưởng Thanh niên có cơ hội gặp Cụ Hồ, nhưng ông cũng e ngại vì không muốn lẫn lộn việc công tư. Nhưng tình yêu đã giúp ông thực hiện được một cách mỹ mãn ý nguyện của người mình yêu.
Có một nhà tư sản yêu nước ở tỉnh Bắc Giang tên là Ngô Tiến Cảnh mà ông từng quen biết trong thời kỳ tham gia chống thất học, lúc bấy giờ đang làm Chủ tịch cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ”. Cuộc vận động này từng được cụ Hồ phát động nhằm cung cấp trang phục cho lực lượng vũ trang cách mạng mới thành lập còn nhiều thiếu thốn. Cuộc vận động đã làm được một vạn chiếc áo trấn thủ. Ông Cảnh muốn được gặp cụ Hồ để báo cáo tình hình và trao tặng tượng trưng tấm áo cho Người.
Nhà tư sản nhờ ông Nguyễn Hữu Đang đề đạt và cụ Hồ tỏ lòng sẵn sàng tiếp một đoàn đại biểu “Mùa đông binh sĩ”. Ông Đang bàn với ông Cảnh những nghi thức của buổi tiếp, để thêm phần trang trọng khi tặng áo cho Hồ Chủ tịch sẽ có một thiếu nữ bưng một cái khay trên đó đặt tấm áo được trao. Ông Đang hứa sẽ tìm người giúp ông Cảnh làm công việc này và đương nhiên người đó chính là cô thiếu nữ Hà thành đang mong ước được gặp cụ Hồ. Nhất cử lưỡng tiện.
Cuộc gặp được Nguyễn Hữu Đang kể lại trong bản thảo hồi ký của mình như sau: “Tới ngày giờ hẹn, tôi dùng xe hơi đưa Nhiên đến trụ sở “Mùa đông binh sĩ” rồi đến Bắc Bộ phủ. Cụ Hồ ra phòng khách lớn tiếp đoàn đại biểu trong đó có cả Huyền Nhiên đứng cạnh ông Cảnh, tay bưng sẵn chiếc khay trên đó có một chiếc áo trấn thủ. Ông Cảnh nói đến câu “Xin kính biếu Chủ tịch tấm áo trấn thủ đầu tiên may được” thì Nhiên bước nhanh đến sát cụ Hồ, khay nâng ngang mặt cung kính. Cụ cầm áo xem xét kỹ, khen “Tốt lắm!”, rồi đưa cho Vũ Đình Huỳnh giữ. Cụ nói chuyện với đoàn đại biểu có vẻ tự nhiên, cởi mở. Rồi như thường lệ, cụ không quên cử chỉ quan tâm đến người con gái vừa dâng áo, hãy còn cầm khay đứng đó. Cụ đặt bàn tay lên đầu Nhiên vỗ vỗ nhẹ mái tóc, nói dịu dàng: “Cháu mang đến cho Bác áo chống rét, quà quý của Ủy ban Mùa đông binh sĩ, Bác cảm ơn cháu. Cháu sẽ rủ các bạn của cháu cùng với cháu giúp các chiến sĩ bộ đội nhiều hơn giúp Bác, đem lại cho họ những món quà tỏ tình thương yêu của đồng bào. Cháu làm được không?”. Tất cả mọi người có mặt đều đổ dồn sự chú ý vào Nhiên và chờ cô đáp lại. Phần vì cảm động quá, phần vì chẳng biết trả lời thế nào, Nhiên e lệ cúi mặt nói yếu ớt tiếng run run như sắp khóc “Vâng”. Cụ cười độ lượng, khuyên nhủ ngọt ngào: “Phụ nữ thời cách mạng phải mạnh bạo. Có mạnh bạo mới đấu tranh được”...
Ít lâu sau, chiến tranh bùng nổ. Người thiếu nữ đã đính hôn của Nguyễn Hữu Đang phải theo gia đình tản cư khỏi Hà Nội. Năm 1948, quân Pháp đánh rộng ra các tỉnh xung quanh, càn quét liên miên hai bên các trục đường giao thông lớn. Gia đình Nhiên không chịu nổi gian khổ phải trở về Hà Nội. Không thể một mình ở lại vùng tự do, Nhiên đành theo gia đình. Từ đấy tôi không còn dịp nào gặp lại Nhiên”...
Chiến tranh, rồi cuộc kháng chiến 9 năm, khiến cuộc hôn nhân không thành và hai người sống cách xa nhau, nhưng lời hẹn ước thì không ai đơn sai. Ngày kháng chiến thành công trở về với thủ đô giải phóng, cuộc sống bề bộn cùng những bi kịch của đời ông, nên tiếc rằng mối tình duy nhất của ông đã trở thành dang dở.
Sau này Nguyễn Hữu Đang không kể thêm về cuộc đời tiếp theo của người bạn gái nhưng cho đến cuối đời, mối tình ấy vẫn là một ký ức đẹp nhất của cuộc đời ông.
Năm 2007 ông qua đời ở tuổi 93, mang xuống tuyền đài tất cả những vinh quang, cay đắng, hạnh phúc và khổ đau.
Trường Sa
Tháng 4 năm 2014



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét