Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2020

TT&HĐ I - 9/e

                                                                         Lão Tử Hóa Hồ

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI

-"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại."
Bleiste

-"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước"
Napoleon.

-"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo:
nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch"
Mark Twain

-“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...”
Vidhusekharsastri

-"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
Albert Einstein

-"Lòng yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi và thói xấu của nó và sám hối cho chúng".
Aleksandr Solzhenitsyn

-"Đất nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước".
Alexander Hamilton

-"Anh có thể rứt bỏ con người khỏi xứ sở họ, nhưng anh không bao giờ có thể rứt bỏ được xứ sở nơi lòng người"
John Don Passos



 

(Tiếp theo)


                                                *** 

Dù có những dị biệt nhất định thì nói chung, quan niệm hiện nay về lịch sử yoga và thiền là như thế. Rõ ràng, quan niệm như thế là thiếu hợp lý, vì nếu xét về mặt yếu lĩnh tu tập thì thiền vẫn thuộc về yoga, là bộ phận hợp thành không thể tách rời được của yoga, nên chỉ có thể là một "cải biên" mang tính hình thức của Raja yoga, và do đó không thể coi Đức Phật Thích Ca là người sáng lập ra phương thức thiền mà chỉ là người ứng dụng Raja yoga một cách sáng tạo (về hình thức), nếu có, trong thực hành "tu tâm, ngộ đạo" của mình.

Nhưng thiền chính xác là gì?
Trong khi nền văn minh nhân loại ngày nay đã có những bước tiến khổng lồ, con người đã đạt đến trình độ hiểu biết sâu sắc về Vũ Trụ từ vi mô đến vĩ mô, thì thế giới loài người vẫn đang lặn hụp trong u mê, đang lạc trong những tiềm ẩn tự hủy diệt tiềm tàng như tàng trữ vũ khí hạt nhân, thúc dục chạy đua vũ trang nhằm hủy diệt lẫn nhau, kích hoạt hận thù, kích hoạt lối sống thỏa mãn vô lối vật chất, buông thả hưởng thụ thấp hèn, phá vỡ những giá trị tinh thần, giúp con người sống hòa hợp bên nhau, hòa đồng cùng toàn thể Vũ Trụ.
Ngạn ngữ phương Tây có câu: "Khoa học không lương tâm chỉ là sự hủy hoại linh hồn".
Trong những thế kỷ qua loài người đã chứng kiến nhiều sự khổ đau kinh hoàng, nhiều mất mát khủng khiếp về người và của của bản thân do chiến tranh và cách ứng xử thiếu tỉnh táo của chính mình mang lại. Số phận con người trở nên mong manh trước sức mạnh của nền văn minh. Hình như càng văn minh con người càng đứng gần sự đe dọa tự hủy diệt! Vì thế con người càng ngày càng dõi nhìn về phương Đông, nơi ngày nay được nhiều người thừa nhận là cội nguồn văn minh thế giới, để tìm lại phương thuốc an thần, dưỡng tâm đầy hiệu quả, đã có từ thời xa xưa, đó là thiền.
Thiền, theo Phật Giáo, không thể định nghĩa chính xác được. Thiền không phải được hiểu bằng những định nghĩa thông thường, bằng kiến thức và tri thức để lý giải, bằng ý thức để phân tích. Thiền phải được thể nhập khi hành giả tự mình đi sâu vào tận cùng bản thể của vạn pháp, khi tự thân chứng nghiệm vào mảnh đất tâm của chính mình. Bởi vì thiền là sống - sống đúng và sống thật sự theo ý nghĩa sâu xa của sự sống. Do đó, thiền là bất khả tư nghị! Nếu gột rửa sạch những dị nghị, thiền hiện lên với tất cả sự tôn quí vốn có của nó, là cốt tủy của Đạo Phật, là bản hoài của chư Phật Bồ - tát và là cứu cánh của một đời tu.
Trong tác phẩm "Thiền", Jiddu Krishnamurti viết: "Tâm thiền thì im lặng. Không phải sự im lặng mà ý nghĩ có thể nhận biết bằng khái niệm, cũng không phải sự im lặng của một buổi chiều tịch mịch, mà là sự im lặng khi ý nghĩ, với tất cả hình ảnh, ngôn từ và nhận thức của  nó hoàn toàn chấm dứt. Tâm thiền là tâm đạo, một thứ đạo giáo chưa hề bị thánh đường, chùa chiền và tụng niệm đụng đến". "Thiền là một trong những nghệ thuật khó học nhất của cuộc sống - có lẽ là vĩ đại nhất, và một người không thể học thiền từ bất cứ ai khác. Đó cũng chính là nét đẹp của thiền. thiền không có pháp môn nên không có uy quyền". "Luôn luôn tìm cầu những chứng nghiệm bao la hơn, thâm sâu hơn mang tính siêu phàm thoát tục chỉ là một hình thức trốn tránh cái thực tại "đang là", có nghĩa là chính mình. Một cái tâm tỉnh thức sáng suốt và tự do tại sao lại cần sự chứng nghiệm, tại sao phải có sự chứng nghiệm? Ánh sáng là ánh sáng. Ánh sáng không cần thêm ánh sáng".
Đó là ý kiến Phật Giáo. Do đề cao thiền lên quá mức, nên họ nói có phần thiên vị thiền, làm cho thiền trở nên quá phi thường, huyễn hoặc. Công năng của thiền có lẽ cũng thường thôi. Luyện khí công mới quan trọng. Chúng ta không đồng thuận hoàn toàn với những ý kiến Phật Giáo về thiền. Tuy nhiên, việc hiểu khái niệm thiền tương tự như khái niệm đạo của Lão Tử là một ý hay.

Jiddu Krishnamurti 01.jpg
J. Krishnamurti cir. the 1920s
SinhNgày 11 tháng 5 năm 1895
Madanapalle (Nay là bang Andhra Pradesh), Ấn Độ
MấtNgày 17 tháng 2 năm 1986 (90 tuổi)
Ojai, California, Hoa Kỳ
Quốc tịchẤn Độ
Nghề nghiệpnhà diễn thuyết, viết sách, nhà triết học
Cha mẹJiddu Narayaniah và Sanjeevamma

Nếu đúng thực Đức Phật Thích Ca là người chính thức sáng lập ra thiền thì phải cho rằng thiền không có nguồn gốc (trực tiếp) từ yoga mà từ một "thứ" khác "rất gần" với yoga, và chính yoga mới là "kẻ" đã tiếp thu thiền để hoàn thiện mình. Cần thấy rằng, lịch sử văn hóa thời tiền-sơ sử trước khi có chữ viết là lịch sử truyền khẩu. Chỉ khi xuất hiện chữ viết và cùng "đồng cam cộng khổ" với quá trình chuyển hóa, phát triển dài lâu đến phong phú, hoàn thiện của chữ viết, lịch sử truyền khẩu ấy mới được san định để có nội dung như ngày nay. Việc san định đó cũng là một quá trình "sưu tầm và biên soạn" dài lâu, có tính lặp đi lặp lại, từ sơ sài đến phong phú, từ giản đơn đến phức tạp, phải qua tay nhiều người, nhiều thế hệ, với nhiều "tầm" nhận thức cũng như nhiều hướng định kiến thị phi khác nhau, cho nên chắc chắn đã bị "lũng đoạn", làm cho "tam sao thất bổn" bởi tính chủ quan, duy ý chí, thậm chí là cả sự cố ý thiên vị. 
Ngay thời điểm ra đời của Đức Phật Thích Ca mà Phật Giáo ngày nay khẳng định thực ra cũng có vấn đề. Không ít người cho rằng thời gian đó đã bị nâng khống. Nếu dựa theo bộ Tam Tạng Kinh được sưu tập vào khoảng hai, ba trăm năm sau khi Đức Phật nhập tịch, thì Đức Phật sinh vào ngày rằm tháng tư năm 573 TCN (có sách cho là năm 563 TCN). Nhưng theo kết quả nghiên cứu của giáo sư K.T.S. Sarao, trưởng khoa Phật học-Đại học Delli (trong "The Origin and Nature of Ancient Indian Buddhism", K.T.S.Sarao, Easten Book Linkers, Indological Publishers & Booksellers, Delhi, India, 1998), thì Đức Phật chỉ có thể chào đời trong khoảng những năm 477-397 TCN. Trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên (bộ sách ghi chép lịch sử được các học giả đời sau đánh giá là đáng tin cậy nhất về các sự kiện và nhân vật thời Tiên-Tần), tiểu sử của Khổng Tử được viết tỉ mỉ và rõ ràng hơn rất nhiều lần so với tiểu sử của các bậc hiền triết khác. Theo đó, Khổng Tử sinh vào năm 551 TCN. Vì tiểu sử Khổng Tử có gắn liền với nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử của một giai đoạn vận động xã hội tương đối xác thực được, đóng vai trò đối chứng, nên nếu năm sinh đó không đúng thì sai lệch cũng không đáng kể so với sự thực. Cũng theo tiểu sử Khổng Tử và một số ghi chép sử khác thì có thể suy ra được Lão Tử phải lớn hơn Khổng Tử hàng chục tuổi. Nếu kết luận nêu trên của Sarao đúng (dù sao một kết luận có cơ sở khoa học vẫn đáng tin hơn một nhận định không có bằng chứng!) thì phải cho rằng Đức Phật sinh sau Lão Tử không thể ít hơn 100 năm, và thậm chí, nếu xem xét đến cả "nét đặc trưng" trong nhận thức luận về xã hội-nhân sinh, thì còn có thể "bình tĩnh" đưa ra giả định: Đạo Gia là nguồn gốc phát sinh ra Đạo Phật (tương tự như "Đạo Abraham" là nguồn gốc phát sinh ra Đạo Do Thái vậy)...
Đó là một giả định cực kỳ "ngang ngược" mà bàn dân thiên hạ khó lòng chấp nhận được. Cứ nghĩ đến cảnh rồi đây bị cả thế giới Phật Giáo lên án, ruồng bỏ, chúng ta buồn thật buồn, và ngay lúc này đây, cái cảm giác lẻ loi, cô độc đã nổi lên ngập lụt tâm can. Nhưng biết làm sao được khi mục đích duy nhất và xuyên suốt của cuộc hành trình mà chúng ta đang thực hiện này cũng chính là ước mong của Đức Phật: góp phần tìm cửa mở nhằm giũ bỏ mê lầm, giải thoát khỏi vô minh!? Nghĩ lại, chúng ta lại yên lòng! Nếu chúng ta đúng, thì Đạo Phật có được cơ hội, với cái tâm vô chấp, vui vẻ sửa lại mình cho minh bạch hơn. Còn nếu chúng ta sai lầm, thì cũng như một phản biện tốt giúp cho lịch sử của Đạo Phật thêm chắc chắn và sáng ngời hơn nữa. Đằng nào cũng...có ích cả! Vậy thì chúng ta hãy tiếp tục câu chuyện của mình, một câu chuyện chưa biết thực hư ra sao, có thể chỉ là hoang đường trong hiện thực, nghĩa là hiện thực trong hoang đường, hoặc cũng có thể là hiện thực trong hiện thực, nghĩa là hoang đường trong hoang đường!!!
Một cách tuyệt đối, mọi quá trình xảy ra trong tự nhiên (trong hiện thực nói riêng và thực tại nói chung!) đều hợp lý (còn hợp đức hay không là do con người định đoạt theo quan niệm và qui ước của mình!), vì đều không vi phạm qui luật tự nhiên, nghĩa là đều thỏa mãn qui luật, phục tùng qui luật và do đó, bản thân chúng cũng mang tính qui luật. Quá trình phát triển văn minh của loài người cũng vậy thôi. Theo nguyên lý nhân-quả, quá trình đó phải có một cội nguồn xuất phát. Chắc rằng trong hiện thực lịch sử, không thể nào xác định được một cách dứt khoát "cột mốc" cụ thể đánh dấu sự ra đời của văn minh, nhưng có thể dứt khoát rằng căn nguyên tối hậu của nó chính là sự đấu tranh sinh tồn trong thế giới sinh vật. Có thể nói đấu tranh sinh tồn là qui luật cơ bản nhất của giới hữu sinh, và không có đấu tranh sinh tồn thì không có quá trình tiến hóa thích nghi. Chính trong quá trình tiến hóa thích nghi ấy, xuất hiện giống loài (người) biết tư duy trừu tượng, để rồi thông qua sự vận động của tư duy trừu tượng mà hình thành nên quá trình phát triển văn minh. Chức năng, nhiệm vụ và đồng thời cũng là mục đích nguyên thủy, cơ bản, chủ yếu của tư duy trừu tượng là trên cơ sở quan sát và nhận biết trực giác hiện thực mà tìm hiểu và tăng cường tìm hiểu ngày càng sâu rộng về tự nhiên để học hỏi, bắt chước tự nhiên rồi tiếp theo là thực hành sáng tạo nhằm tăng cường thích nghi, tăng cường khả năng mưu sinh, đồng thời qua đó mà cũng nâng trình độ sinh tồn, mức sống của loài người nói chung lên ngày một cao. Một cách sâu xa, nhờ cái đặc tính ấy của tư duy trừu tượng mà loài người tiếp cận được phương thức sinh tồn ổn định nhất, đảm bảo nhất cho cuộc sống con người và vào buổi đầu đã đóng vai trò một "cú hích" quyết định làm đột khởi tốc độ phát triển văn minh, đó là lối sống định cư lâu dài gắn liền với việc lấy trồng trọt-chăn nuôi làm sinh kế chủ đạo. 
Định cư là lối sống tối ưu và luôn được ưu tiên (tự phát!) lựa chọn ở mọi giống loài sinh vật khi điều kiện thiên nhiên cho phép. Ở loài người cũng luôn tồn tại xu thế tự nhiên đó. Nhờ có tư duy trừu tượng mà con người có khả năng chủ động một cách tích cực triển khai lối sống định cư lâu dài trong hiện thực. Tuy nhiên, việc phát hiện ra cách kiếm ăn bằng trồng trọt-chăn nuôi đơn thuần vẫn chỉ là một điều kiện cần chứ chưa đủ giúp cho con người có thể sống định cư lâu dài. Nhân tố cực kỳ quan trọng, có tính thiết yếu, mang ý nghĩa tạo ra cuộc cách mạng về "tập quán" sinh sống ở loài người nói chung, chính là việc phát hiện ra một thứ cây (được gọi là cây lương thực, cụ thể là cây lúa, cây ngô...) dễ trồng, có thể trồng đại trà, thời gian thu hoạch ngắn mà lại có khả năng cung ứng được lượng thức ăn dồi dào, không những đáp ứng được nhu cầu về miếng ăn trong hiện tại cho bản thân con người, mà còn được dùng để chăn nuôi, và hơn nữa là có thể tích lũy, dự trữ nhằm phục vụ cho sinh kế lâu dài. Nhờ phát hiện ra cây lúa (hoặc cây ngô) mà loài người nói chung chuyển biến mạnh mẽ và nhanh chóng từ lối sống du cư, lấy săn bắt- hái lượm đầy tính thụ động, lệ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên làm phương kế mưu sinh chủ yếu sang lối sống định cư lâu dài, lấy trồng trọt (cây lương thực)-chăn nuôi (gia súc) có tính chủ động cao, bớt hẳn sự lệ thuộc vào thiên nhiên, làm phương kế mưu sinh chủ yếu. Sự chuyển biến về lối sống có tính bước ngoặt đó đã là tiền đề cơ bản làm xuất hiện những khu vực sống tập trung dân cư ổn định với số lượng cá thể đông đảo và mật độ cao hơn hẳn thời đại trước đó, tạo điều kiện ra đời (một cách tất yếu!) sự tồn sinh theo hình thái cộng đồng xã hội ở loài người cùng với những bước tiến "ngày càng thoăn thoắt và chắc nịch" trong cuộc hành trình phát triển văn minh của mình.
 Tuy nhiên, cần thấy rằng, không phải việc phát hiện ra cây lương thực tự dưng xảy ra đồng thời tại mọi khu vực có con người sinh sống. Phụ thuộc vào nhiều yếu tố về địa hình, khí hậu thiên nhiên và gồm cả yếu tố ngẫu nhiên mà sự phát hiện ra cây lương thực, hơn nữa là "thấy được" khả năng tiềm tàng lớn lao của nó trong vai trò cung ứng miếng ăn, chỉ có thể xảy ra tại một khu vực nhất định, sau đó mới lần lượt được biết đến ở các khu vực khác trên thế giới. Cũng chính lực lượng dân cư tại khu vực đầu tiên phát hiện ra cây lương thực đó đã (có thể là tự phát) thực hiện cuộc cách mạng xây dựng nên một lối, một cách thức sống hoàn toàn mới, chưa từng có trên Trái Đất trước đó, đó là trên một địa bàn tương đối xác định, tự tạo và duy trì nguồn thức ăn một cách chủ động cho mình, hay tạm gọi là "sống tự cung tự cấp bằng trồng trọt-chăn nuôi mang tính nông nghiệp", và sau một quá trình phát triển-củng cố nữa, sẽ tạo dựng nên một "hiện thực" dẫn tới khái niệm mà ngày nay chúng ta gọi là "nền nông nghiệp nguyên thủy".
 Nhờ có lối sống định cư trồng trọt-chăn nuôi nông nghiệp mà ở khu vực đó, lượng thức ăn trở nên dồi dào trong khi phần lớn thời gian và sức lực của con người dùng cho cuộc kiếm miếng ăn so với thời sống bằng săn bắt-hái lượm, được giải phóng, tạo điều kiện tăng cường những hoạt động tinh thần trên mọi lĩnh vực mang tính sáng tạo như nhận thức tự nhiên, nghiên cứu chế tác công cụ, phát triển văn hóa-nghệ thuật,..., qua đó mà văn minh được thúc đẩy nhanh chóng lên một cao trình mới, vượt trội hơn hẳn trình độ văn minh đương thời ở các khu vực khác. Trên một bình diện quan sát và qui ước hợp lý nhất định, có thể cho rằng thời điểm xuất hiện lần đầu tiên trong hiện thực, tại một khu vực nào đó trên Trái Đất, một quần thể người sống định cư lâu dài chủ yếu bằng trồng trọt (cây lương thực) và chăn nuôi (súc vật) ở trình độ đã sơ khởi mang tính "bán" canh tác nông nghiệp, chính là cột mốc thời gian đánh dấu sự thoát ly (tương đối) "chính thức" của loài người ra khỏi thế giới động vật, đồng thời cũng đánh dấu sự khai sinh ra lịch sử xã hội loài người (chứ không phải lịch sử loài người!), và cái gọi là "nền bán nông nghiệp nguyên thủy" đó cũng chính là nền văn minh đầu tiên của nhân loại với tên (tạm) gọi là "Nền văn minh trồng trọt-chăn nuôi (bán) nông nghiệp nguyên thủy". Đây là nền văn minh cội nguồn, căn cốt, không trực tiếp thì cũng gián tiếp làm phát sinh ra các nền văn minh cổ đại, bởi vì lịch sử loài người đã chỉ ra rằng, sự lan tỏa văn minh trong một thời đại, như một mặc định hàm chứa nguyên lý (nào đó?) của tự nhiên, luôn có hướng "ưu tiên lựa chọn" mang tính nổi trội, lấn át, bao giờ cũng là từ khu vực có trình độ văn minh cao hơn đến khu vực có trình độ văn minh thấp hơn...
                                          
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét