TT&HĐ I - 9/h


                                            
Ấn Độ giáo

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI

-"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." 
Bleiste

-"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước"
Napoleon.

-"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo:
nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch"
Mark Twain

-“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...”
Vidhusekharsastri

-"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
Albert Einstein

-"Lòng yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi và thói xấu của nó và sám hối cho chúng".
Aleksandr Solzhenitsyn

-"Đất nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước".
Alexander Hamilton

-"Anh có thể rứt bỏ con người khỏi xứ sở họ, nhưng anh không bao giờ có thể rứt bỏ được xứ sở nơi lòng người"
 
John Don Passos

 


(Tiếp theo)


                                    ***
Thực ra, Đạo Hindu là Đạo Bàlamôn sau khi đã được "cải cách", và có thể nói Đạo Bàlamôn là tiền thân của Đạo Hindu. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo Bàlamôn đã định hình ngay từ thời các thánh ca Vêda ở địa vị độc tôn về tư tưởng trong xã hội Ấn Độ cổ đại, và chính thức xuất hiện như một tôn giáo thực thụ vào đầu thiên niên kỷ I TCN.
Đạo Bàlamôn bắt nguồn từ giáo lý Vệ-Đà ở Ấn Độ, phát triển đến thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên thì chuyển biến thành Ấn Độ giáo (đạo Hindu). Những công trình kiến trúc nổi tiếng của Ấn Độ và các nước Đông Nam Á  như: Konarac, Kharujaho, Mahabalipuram, Angkor Watt, Loro Jong Grang, Tháp Chàm ở Việt Nam và nhiều tác phẩm triết học lớn của Ấn Độ như Ramayana, Mahabharata, đều ra đời trên nền tảng của Đạo Bàlamôn.
Người ta cho rằng Vệ - Đà giáo là một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ và cũng là cổ nhất của loài người. Gọi là Vệ - Đà giáo vì tôn giáo này xây dựng giáo thuyết trên Kinh Vệ - Đà. (Véda nghĩa là Thông hiểu).
Vệ-Đà giáo thờ cúng thiên nhiên, gồm nhiều tín ngưỡng, có nghi lễ, có bùa chú, do các truyền thuyết của thổ dân da đen Dravidian ở bán đảo Ấn Độ, phối hợp với các tín ngưỡng của dân tộc da trắng từ phương Tây Bắc đến xâm lăng, nhất là dân da trắng Aryan tràn vào phía bắc Ấn Độ, khoảng 1550 năm trước Công nguyên.
Đạo Bàlamôn đưa ra những kinh sách giải thích và bình luận Kinh Véda như: Kinh Brahmana, Kinh Upanishad, Giải thích về Maya (tức là Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn.
Đạo Bà-La-Môn thờ Đấng Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh hồn của vũ trụ.
Tu luyện là để đạt được sự giải thoát của linh hồn khỏi các khổ não ràng buộc nơi cõi trần  để đem Atman trở về hợp nhất với Brahman.
Nhận thức được Chân lý này, không phải do trí tuệ, mà do sự giác ngộ của toàn bộ bản thể. Nếu không giải thoát được thì không dứt khỏi Nghiệp (Karma), tức là không dứt khỏi Luân hồi, phải đầu thai trở lại cõi trần, hết kiếp nọ tới kiếp kia.
Các Tăng lữ  Bà-La-Môn  phải giữ 10 Điều Giới luật:
1. Nhẫn nhục.
2. Làm phải (lấy điều lành mà tránh điều ác).
3. Điều độ.
4. Ngay thật.
5. Giữ mình trong sạch.
6. Làm chủ giác quan.
7. Biết rành Kinh Luật Véda.
8. Biết rõ Đấng Phạm Thiên.
9. Nói lời chân thật.
10.  Giữ mình đừng giận.
Kinh Upanishad đã nêu ra vấn đề Nghiệp báo và Luân hồi một cách có hệ thống.
Nghiệp (Karma) được tạo ra bởi những hành vi thiện ác của con người, sẽ quyết định việc luân hồi chuyển kiếp của linh hồn người ấy sau khi chết. Nếu người nào làm điều thiện, linh hồn sẽ được chuyển kiếp thành người ở giai cấp cao hơn, và có thể thành một vị Thần, nhập vào Thiên Đạo. Nếu người ấy làm nhiều điều ác thì linh hồn sẽ chuyển kiếp đầu thai vào những giai cấp thấp kém khổ sở, và có thể bị trừng phạt đọa đày.
Con đường giải thoát là Thiền định, nhưng con đường tu này quá khổ hạnh, ít người theo được, nên đa số tín đồ theo việc thờ cúng Thần linh, tự kềm chế dục vọng của mình và làm việc từ thiện.
Nhưng khi Phật giáo của Đức Phật Thích Ca được truyền bá thì ảnh hưởng của Đạo Bàlamôn  thu hẹp dần. Qua nhiều lần cải cách để phù hợp phần nào trào lưu tiến hóa của dân chúng, đến thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, Đạo Bà-La-Môn dần chuyển biến thành Ấn Độ giáo (nói tắt là Ấn giáo) và còn được gọi là đạo Hindu. Ngày nay Đạo Bàlamôn là quốc giáo của nước Ấn Độ.
Ấn Độ giáo vẫn giữ những nét chính của Đạo Bàlanôn, thờ Đấng Brahma, về sau thờ thêm 2 Đấng nữa là Civa (Siva) và Vishnu hay Christna.
- Đấng Brahma là Thần Sáng tạo,
- Đấng Civa  là Thần Tranh đấu,
- Đấng Vishnu   là Thần Bảo tồn.
Ba Đấng ấy hợp lại gọi là Tam vị Nhất thể.
Đến thế kỷ 19 và 20, một số nhà hoạt động nổi tiếng của Ấn Độ giáo như: Ram Mohan Roy, Rama Krishna, Viveka Nanda, đã làm cuộc canh tân lớn đối với Ấn Độ giáo, phục hồi những giá trị cơ bản và loại trừ các yếu tố lạc hậu và thái quá ra khỏi tư tưởng của Đạo này. Chính nhờ khả năng thay đổi thích ứng mà Ấn Độ giáo vẫn luôn luôn là tôn giáo chính của người Ấn và có ảnh hưởng sâu xa đến mọi tầng lớp dân chúng từ xưa tới nay.

 Chúng ta cho rằng nhận định như thế có vài điều chưa thỏa đáng. Nhiều khi chỉ vì cái mục đích bênh vực, giành ưu thế trong việc truyền bá tư tưởng tôn giáo trong xã hội, người của mỗi giáo phái dễ cố tình ngụy tạo chứng cứ nhằm "nâng khống" thời điểm ra đời của giáo phái mình. Trong nghiên cứu sử, nhiều trường hợp nâng khống như thế đã bị phát hiện bởi sự phi lý của chúng. 
 Có lẽ, Đạo Bàlamôn lần đầu tiên xuất hiện dưới dạng manh nha của một tôn giáo (nghĩa là có tính cơ cấu tổ chức, có biểu tượng tín giáo rõ ràng, có "lập trường" giáo lý nhất quán, chủ yếu "hướng về" những vấn đề nhân sinh nên coi như cũng đã "thoát ly khỏi" vai trò nhận thức triết học về thực tại khách quan) vào thời điểm muộn hơn nhiều, mà nếu cố lắm cũng chỉ đoán định được là không sớm hơn thế kỷ VIII TCN. 
Nhưng trên cơ sở nào mà chúng ta dám đưa ra nhận định như thế? Trên cơ sở...hoang tưởng! Ha, ha...ha!...Thực ra, vì hình như chưa có ai qui ước sự khác nhau giữa niềm tin vào nhận thức duy linh (có tính hồn nhiên, lý trí chất phác) và tín ngưỡng vào phủ dụ giáo lý (nặng tính khiên cưỡng, ý chí chủ quan) nên cũng thật khó cho sự nhận định. Tuy nhiên, có thể nói chung rằng sự ra đời và tồn tại quan niệm duy tâm là thể hiện sự bất lực của quan niệm duy vật trong việc giải thích thế giới, và như thế, một cách đơn thuần, nhận thức duy tâm cũng như niềm tin về thế giới thần linh (tín ngưỡng thần linh sơ khai?) không hề có tính tôn giáo, nhưng vào "thuở ban đầu", chính nó đã là cơ sở lý luận, là yếu tố tiền đề cơ bản hình thành nên tôn giáo (có thể nói "bỗ bã" thế này: tín ngưỡng là niềm tin đượm màu cực đoan nên có tính tôn giáo nhưng chưa phải là tôn giáo, còn tôn giáo thì tiên quyết phải có tín ngưỡng và "cố tình cổ súy" cho tín ngưỡng ấy một cách bảo thủ). Nhưng đó là yếu tố cần chứ chưa đủ. Nếu mục đích thuần túy của triết học duy tâm nhằm giải thích thế giới thì mục đích của tôn giáo chỉ có thể là lợi dụng sự giải thích ấy để "phủ dụ" nhân sinh nhằm "trục lợi" (khái niệm "trục lợi" ở đây cần được hiểu một cách mở rộng nhất và không "chú ý tới" thị phi!). Với quan niệm như vậy thì yếu tố thứ hai góp phần tạo điều kiện cho tôn giáo ra đời là yếu tố mang tính xã hội. Có thể nói tôn giáo được kích thích hình thành cùng với quá trình xã hội phân liệt và phân liệt ngày càng "gay gắt", số đông dân cư xã hội (tầng lớp bị trị) lâm vào tình trạng bị bần cùng hóa, thể hiện ngày càng rõ ràng, sâu sắc và trở nên "căng thẳng" sự tương phản xét cho cùng là về quyền lợi sống còn, như thống trị - bị trị, giàu sang - nghèo hèn, sướng -  khổ...
Vậy, nên chăng, khi xét đến thời điểm khai sinh ra Đạo Bàlamôn, cần phải chú ý tới luận điểm vừa nêu? Chúng ta thấy rằng, trong lịch sử loài người, ở những thời đoạn xã hội suy vi, khi các mâu thuẫn xã hội (phần lớn nếu không muốn nói là toàn bộ mâu thuẫn có liên quan đến sống còn) đã đạt đến tình trạng tương phản đối kháng, thường xuất hiện các tư tưởng cách mạng, trong đó xuất hiện mầm mống các giáo lý tôn giáo, tín ngưỡng. Nhưng trước hết chúng ta tự hỏi, luận điểm đó có hợp lý không đã? Xin nhường lời cho các nhà nghiên cứu chuyên môn cao sâu!
 Và trong khi chờ đợi, chúng ta "ru ngủ" mình bằng câu hỏi này: Tại sao Đạo Bàlamôn được khai sinh ra mà không hề có sự sáng lập của một hay vài con người cụ thể nào như ở những tôn giáo khác, mặt khác, tại sao giáo lý Đạo Bàlamôn khi giải thích những hiện tượng tương phản về nhân sinh, về thân phận con người trong xã hội lại "ngấm ngầm" phủ dụ về cái gọi là "sự an bài của định mệnh" đối với đại chúng cần lao, và bênh vực sự tồn tại ưu tiên với đầy những đặc quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị (tầng lớp tăng lữ, hiệp sĩ,quí tộc và vua chúa), và hơn nữa còn có ý biện minh cho bạo lực, khuyến khích chiến tranh phe phái, nghĩa là mặc nhiên dung túng cái ác?

Có thể chắc rằng hệ thống giáo lý Bàlamôn khởi phát không phải ngay từ thời điểm ra đời bài kinh đầu tiên của bộ kinh Upanishad mà vào thời điểm muộn hơn. Về mặt nhận thức triết học, người ta phân lịch sử cổ đại Ấn Độ ra làm hai, là thời kỳ Vêđa và thời kỳ Upanishad, trên cơ sở hai bộ kinh (hai nhận thức luận) Vêda và Upanishad, với Vêda đóng vai trò tiền thân, khai mở, còn Upanishad đóng vai trò kế thừa, phát triển sâu rộng thêm (nên còn được gọi là Vêđanta, nghĩa là phần cuối, phần tổng kết hay kết luận của Vêđa). Theo chúng ta, xét về mặt nhận thức thực tại khách quan, nếu bộ kinh Vêđa chủ yếu và nói chung " hướng ra" thế giới một cách hồn nhiên, chất phác và trong sáng, thì bộ kinh Upanishad (do tác động của quá trình gắn kết - phân liệt ngày một "dữ dội" của xã hội) chủ yếu và nói chung "hướng vào" cuộc sống nhân gian, vào thân phận con người một cách "thiên vị", và càng về sau càng có phần khiên cưỡng, "duy ý chí" (vì sau khi làm "bà đỡ" cho giáo lý Bàlamôn "thoát thai" ra, thì bị luôn chính giáo lý Bàlamôn (đã mang tư tưởng thống trị) "quay lại" lũng đoạn, trở thành "tấm khiên", thành "hiến pháp" bảo vệ tầng lớp giáo sĩ, quí tộc thượng tầng). Đó cũng là nét khác nhau cơ bản của hai bộ kinh nếu muốn phân biệt chúng...

Vậy thì nói chung, cội nguồn sâu xa nhất của Đạo Bàlamôn, hơn nữa, giềng mối và cũng là nguyên nhân (mang tính động lực) khởi thủy ra mọi nguyên nhân làm nảy sinh mọi triết phái, giáo phái sau này (kể cả Đạo Phật) trong lịch sử Ấn Độ cổ đại, chính là hệ thống lý học Vêđa.

Theo nhận định chung ngày nay, quá trình các kinh Vêđa được san định thành sách, sớm nhất cũng chỉ bắt đầu vào khoảng những năm 1200 TCN. Như đã trình bày, chúng ta cho rằng đó là một quá trình lâu dài và tốn nhiều công sức. Sự nghèo nàn, "què quặt" của chữ viết trong giai đoạn đang hình thành, và hơn nữa là tình trạng lưu truyền có tính tản mạn, "tam sao thất bổn", "phi văn bản" qua trí nhớ và truyền khẩu cũng như tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của những người đời sau trực tiếp san định, mà đã không cho phép chuyển tải dễ dàng và trung thực trọn vẹn một nội dung nhận thức ở dạng khẩu ngữ sang dạng chữ viết, theo kiểu "một (đôi) lần là xong", mà phải là một tiến trình công việc lặp đi lặp lại, qua vài ba, thậm chí nhiều đời với nội dung san định sau phong phú hơn mà cũng có phần "hại điện" hơn nội dung san định trước, và dần hoàn thiện theo hướng phù hợp với trình độ nhận thức của thời kỳ mới, cũng như theo cùng sự hoàn thiện của chữ viết. Do đó, có thể suy đoán, tiến trình san định thành sách các kinh Vêđa với nội dung tương đối ổn định như ngày nay kết thúc đồng thời với sự xuất hiện của những bản kinh Upanishad đầu tiên, tức là không sớm hơn thế kỷ VIII TCN.

(Còn tiếp)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH