TT&HĐ I - 9/b
Khí công trong Chu Dịch - sách Bí Ẩn Bát Quái
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
-"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước"
Napoleon.
-"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo:
nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch"
Mark Twain
-“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...”
Vidhusekharsastri
-"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những
điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
Albert Einstein
-"Lòng yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không
phải là sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu
sách không chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi và thói
xấu của nó và sám hối cho chúng".
Aleksandr Solzhenitsyn
-"Đất
nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo
dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của
những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước".
Alexander Hamilton-"Anh có thể rứt bỏ con người khỏi xứ sở họ, nhưng anh không bao giờ có thể rứt bỏ được xứ sở nơi lòng người"
John Don Passos
(Tiếp theo)
Chắc rằng Lão Tử là người đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, trên cơ sở
tiếp thu những ý niệm có tính hợp lý nhưng còn rời rạc, tản mạn về thực
tại khách quan của trước và đương thời, đã "bừng ngộ", xuất thần cảm
thức được một cách cực kỳ sâu sắc tính hiển hiện muôn màu muôn vẻ và
biến hóa phi thường, vừa mặc định chí lý, vừa hư ảo bất tường của Tự
Nhiên Tồn Tại, từ đó mà xây dựng nên một triết thuyết hoàn chỉnh (dù
còn sơ khai, mới được trình bày dưới dạng giống như một "luận cương"),
về đại thể là đúng đắn, trở thành bất hủ, gọi là "Đạo Đức Kinh".
Chính
Lão Tử chỉ ra đại ý rằng Đạo lý của ông rất dễ hiểu, rất dễ thực hiện
theo, thế mà trong thiên hạ rất hiếm người hiểu được, làm theo được. Vì
sao lại có sự trái khoáy đó? Vì đơn giản là hiếm người biết (!) được như
Lão Tử biết cái mà chính ông cũng "không biết nó là cái gì" (!), không
thể đặt tên một cách đích xác, đành "tạm gọi là Đạo vậy", cái mà Đạo lý
của ông là kết quả suy ra từ sự thể hiện phi thường của nó, vừa thực thể
vừa ảo tượng, vô tình mà cũng hữu lý, không làm gì mà lại làm tất cả,
là cả hai mà cũng không phải cả hai, nói chung là không thể suy lý, bàn
luận một cách dứt khoát, tường minh về nó được và chỉ có thể tiếp cận
được nó bằng cách trực tiếp trên con đường chiêm nghiệm cảm thức tâm
linh.
Dù chưa rõ ràng, minh định thì trong "Đạo Đức Kinh" cũng bàng bạc ý
tứ ám chỉ đến định hướng nhận thức đó. Nhưng muốn đi trên con đường như
thế để đến với Đạo, thấm nhuần Đạo lý mà biết sống hòa đồng với Đạo,
vui với Đạo, thì hành động đầu tiên và duy trì xuyên suốt quá trình là
tu thân-luyện tâm. Cái bản năng đòi hỏi thỏa mãn đói khát, dục tính có
tính thụ động, tạm thời, chừng mực ở loài vật bị tư duy trừu tượng kích
hoạt thành cái ý chí đòi hỏi thỏa mãn thèm thuồng dục vọng có tính chủ
động, thường trực tâm can, vô độ ở con người. Chính cái ý chí có cội rễ
bản năng và tồn tại gắn liền với sự thôi thúc bản năng ấy, nghĩa là
chính cái trí khôn bị giam hãm trong trình độ nhận thức còn thiển cận,
bị khống chế bởi "cái tôi" luôn hướng về lạc thú, chứ không phải cái gì
khác đã đóng vai trò quyết định làm cho con người ta "lưu lạc" trong cõi
mê lầm (vô minh), tương tự như kẻ mộng du nhưng vẫn tưởng mình đang
tỉnh thức, gây ra đủ mọi tác nhân cản trở, ngăn chặn con người ta đến
với Đạo, tự nguyện vui sống theo Đạo lý, đồng nghĩa là sống hòa hợp theo
tự nhiên (và như thế, cũng tự nhiên đạt đến chí đức!).
Và để tiêu trừ,
khắc phục những khống chế ấy thì không còn cách nào khác, tiên quyết là
phải tu thân-luyện tâm nhằm tăng cường trí lực, đạt đến thông tuệ mà
giải thoát khỏi vô minh. Đây là lời Lão Tử: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả
bất tri. Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ
quang, đồng kỳ trần. Thị vị huyền đồng", (Người biết (Đạo) thì không nói
(về Đạo), người nói là người không biết (Đạo). Ngăn hết các lối (tai,
mắt, mũi, miệng, có thể hiểu là cô lập, tránh tác động của ngoại cảnh, hướng nội), đóng hết các cửa (nghĩa là bỏ tư
tâm, dứt dục vọng), không để lộ sự tinh nhuệ ra (tĩnh tâm, không vọng
động,), gỡ những rối loạn (loại bỏ tạp niệm, định thần), thu lại ánh
sáng (giữ gìn, bảo toàn chân khí?), hòa hợp với trần tục (bình thản, như
nhiên). Được như vậy là "huyền đồng" (là đã siêu thoát, giác ngộ Đạo,
thấu tỏ Đức Huyền Diệu)). Nhấn mạnh, lời nói này lập tức làm chúng ta
liên tưởng đến cái yếu lĩnh bao trùm và cơ bản nhất của thực hành Khí
Công ngày nay: "Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn
hư, luyện hư hợp Đạo"!!!
Qua đó, chúng ta đưa ra phán đoán rằng, cũng chính Lão Tử là người đầu
tiên nêu lên ý tưởng tu thân-luyện tâm nhằm đạt đến trạng thái tinh thần
giác ngộ được Đạo và thấu tỏ Đạo lý. Ý tưởng đó phát triển dần đạt mức
hoàn chỉnh như một luận thuyết tương đối độc lập, thành cẩm nang gồm bảy
bước rèn luyện nội tâm, tồn tại dưới dạng Bản kinh Âm Phù lưu trong
thiên cổ kỳ thư "Quỉ Cốc Tử" mà chúng ta đã giới thiệu khái lược.
Trên
tinh thần của Bản kinh Âm Phù (cũng có thể là ngay từ trong giai đoạn
hình thành sơ khai của nó) các hiền triết phái Đạo Gia thời Xuân
Thu-Chiến Quốc đã sáng tạo thêm một phương thức tu thân-luyện tâm mới có
tính đặc thù, "giành riêng" cho tu tập tinh thần (nội tâm) với chủ đích
thực hành đạt đến trí huệ siêu linh nhằm trực tiếp (không qua suy lý!)
nhận biết Đạo, mà về sau này được gọi là "Thiền (định)" (?)! Về cái biết
trực giác không qua suy luận, ngay Liệt Tử đã đề cập đến, ông nói: "Cơ
thể hòa hợp với tâm, tâm hòa hợp với khí, khí hòa hợp với thần, thần hòa
hợp với cái "vô" mà hễ có một hình thể rất nhỏ nào xuất hiện, một thanh
âm rất nhỏ nào thoảng qua, dù ở xa hay gần, tôi cũng biết liền. Nhưng
tôi không hiểu là do cảm giác của ngũ quan hay của các bộ phận khác
trong người, chỉ biết rằng cái biết đó tự nhiên phát ra vậy thôi". Sau
này, Trang Tử cũng nói: "Đừng suy luận gì hết sẽ thấy được Đạo", "Cái
cảnh giới tối cao của Đạo (...), ngôn ngữ và suy tư đều không thể "chở"
nó được. Không nói gì cả, cũng không trầm tư (nghĩ suy có chủ đích), đó
là cái mức độ tối cao của nghị luận", vì nói chung "Những cái gì nối
tiếp nhau đều có thứ tự, những cái gì biến chuyển đều theo một luật, hễ
tới cùng thì quay trở lại (cùng tắc phản), hết rồi thì lại bắt đầu. Đó
là hiện tượng chung của vạn vật. Nhưng lời nói, trí tuệ chỉ diễn đạt
được bề ngoài của vạn vật thôi. Người đạt Đạo không tìm chung cục, không
trở lui về nguyên thủy của vạn vật, vì cái đó vượt ra ngoài sự nghị
luận".
Trong câu nói trên của Trang Tử, dù còn mờ nhạt, đã ám chỉ đến một biểu
hiện thuộc hàng cơ bản nhất về vận động của Tự Nhiên, đó là hiện tượng
nhân-quả. Nguyên lý nhân-quả là nguyên lý mang tính phổ quát toàn Vũ Trụ
cho nên tiến trình vận động của xã hội loài người, cả về vật chất lẫn
tinh thần, cũng phải tuân thủ tuyệt đối nguyên lý này. Nói cách khác và
nói riêng, mọi kết quả xuất hiện trong xã hội đều phải có một lịch sử
hình thành. Như vậy, Bản kinh Âm Phù, với Thiền là bộ phận tương đối độc
lập của nó, hơn nữa là cả cái ý tưởng ban đầu xây dựng nên chúng, không
thể "đùng một cái" hiện ra từ Hư Vô được, mà chỉ có thể là thành quả
của (một hay nhiều) quá trình tạo tác mang tính kế thừa và sáng tạo xảy
ra trong không gian và thời gian. Vậy thì Bản kinh Âm Phù hình thành
trên nền tảng nào?
Ngày nay, bất cứ ai, chỉ cần tìm hiểu ở mức khái lược thôi cũng biết,
khí công, dù tồn tại một cách rất đa dạng dưới lớp áo mang màu sắc của
nhiều môn phái khác nhau, thể hiện ra với vô vàn cách thức, chiêu pháp
cụ thể, thì chung qui lại, đều phải tuân thủ duy nhất cái yếu lĩnh mà
chúng ta đã nêu ra ở trên.
Nếu cái yếu lĩnh ấy, đúng như chúng ta đã
"ngấm ngầm" dẫn dụ, được Đạo Gia phái thời Xuân Thu-Chiến Quốc nêu ra
lần đầu tiên trên bàn tròn học thuật, thì có thể quyết đoán rằng Bản
kinh Âm Phù chính là trước tác lý luận đầu tiên về khí công và thực hành
khí công, hay nói cách khác, là khí công thủy tổ của mọi môn phái, mọi
phương pháp khí công sau này, mà trong đó tất nhiên có cả thiền. (Đại
khái, trong thiền học của Phật Giáo, thiền chỉ (tạm) được hiểu là trạng
thái siêu việt của tinh thần. Tinh thần hoạt động nhận thức trong trạng
thái ấy sẽ nhận chân được thực tại khách quan như nó vốn dĩ, và gọi là
"thiền ngộ". Theo chúng ta, thiền còn có nghĩa thứ hai nữa là "hành
thiền" và tạm hiểu thiền là một phương pháp khí công đặc thù, chuyên chú
tu tâm nhằm đạt đến trạng thái tâm linh siêu việt mà "thiền ngộ" thực
tại. Ở đây, chúng ta "dùng" thiền chủ yếu theo nghĩa thứ hai).
Lục lọi trên mạng, chúng ta tìm được bài này:
"Lịch sử Khí công và môn Khí công phổ biến nhất thế giới
Lịch sử khí công và môn khí công phổ biến nhất trong lịch sử khí công
Trung Quốc – Phim Tài liệu được sản xuất bởi kênh truyền thông NTDTV
Canada.
Trên thế giới, tại sâu bên trong sinh mệnh người Trung Quốc có một liên
hệ rất tự nhiên với tu luyện. Loại liên hệ này không hoàn toàn giống với
sự sùng Đạo và kính sợ của hình thức Tôn giáo, nó khởi nguồn từ tự
nhiên và do văn hóa truyền thống 5000 năm Trung Hoa làm tải thể.
Khí công có nguồn gốc cực kỳ xa xưa, trước đây được gọi là “tu
luyện”, được biết đến tại Trung Quốc và phổ biến thành phong trào vào
thập niên 80. Với hơn 2400 môn công pháp, hàng triệu người Trung Quốc đủ
mọi ngành nghề đã tham gia tập luyện tại các nơi công cộng và công
viên. Không thuộc Đạo gia thì thường sẽ thuộc Phật gia. Khí công có thể
trị bệnh, khí công có các động tác chậm rãi hoặc bất động, luyện khí
công có thể xuất hiện công năng,… đó là những điều mà người Trung Quốc
quen thuộc đến nỗi thuộc lòng. Ngoài khí công Đạo gia, Phật gia, còn có
khí công của Kỳ Môn công pháp. Các môn khí công chịu sự quản lý của Hiệp
hội nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc, hiệp hội dùng khoa học
phương Tây để nghiên cứu khí công, nhiều giáo sư có thâm niên kết luận
rằng khí công là “khoa học duy tượng” – Là khoa học nghiên cứu về thân
thể người, “duy tượng” tức là có hiện tượng xảy ra nhưng không lý giải
được.
Pháp Luân Đại Pháp đang ở cõi người.Gần hay xa đều là Duyên Phận!".
Và bài này nữa:
"Giới thiệu
Nguyên ngữ
“Thiền” vốn phát xuất từ âm dịch tiếng Trung Quốc Thiền Na của tiếng
Sanskrit dhyāna. Từ này có nghĩa là minh tưởng(trầm tư, tư khảo, tĩnh
lự) từ xưa trong Phật giáo đã không có sự phân biệt giữa yoga (du già),
nguyên lai nó có nghĩa là tinh thần thống nhất trong Bà-la-môn giáo,
nhưng sau này được đưa vào Phật giáo cũng như samādhi, và hầu như được
dùng với nghĩa như nhau. Từ ý dịch là “định”, từ “thiền định” thường
được dùng đến.
Như vậy “Thiền” hay “định” vốn có nguốn
gốc từ Ấn Độ và chúng tôi nói lên sự thể nghiệm tâm linh cao độ. Sự thể
nghiệm ấy đã mang lại một ý nghĩa vô cùng quan trọng ngay từ khi Phật
giáo xuất hiện. Tỷ dụ như đức Cù Đàm Tất Đạt Đa được xem là người đã
từng khai ngộ nhờ Thiền định .
Tuy nhiên vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là
cho dù Thiền Định vốn phát xuất từ Ấn Độ, vẫn được tổ chức hoàn toàn mới
mẻ nhờ tính sáng tạo táo bạo độc đáo có xuất xứ từ tính dân tộc của
Trung Quốc khi nó được truyền vào đất nước này; từ đó, nó tạo ảnh hưởng
thật to lớn với toàn bộ khu vực Đông Á. Cho nên, Thiền còn có ý nghĩa
là một cuộc vận động tư tưởng hùng vĩ.
Như vậy “Thiền” hay “định” vốn có nguốn
gốc từ Ấn Độ và chúng tôi nói lên sự thể nghiệm tâm linh cao độ. Sự thể
nghiệm ấy đã mang lại một ý nghĩa vô cùng quan trọng ngay từ khi Phật
giáo xuất hiện. Tỷ dụ như đức Cù Đàm Tất Đạt Sa được xem là người đã
từng khai ngộ nhờ Thiền định .
Tuy nhiên vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là
cho dù Thiền Định vốn phát xuất từ Ấn Độ, vẫn được tổ chức hoàn toàn mới
mẻ nhờ tính sáng tạo táo bạo độc đáo có xuất xứ từ tính dân tộc của
Trung Quốc khi nó được truyền vào đất nước này; từ đó, nó tạo ảnh hưởng
thật to lớn với toàn bộ khu vực Đông Á. Cho nên, Thiền còn có ý nghĩa
là một cuộc vận động tư tưởng hùng vĩ.
Ngay từ đầu qua tập sách này, trong giới
hạn khách quan có thể. Tôi muốn thuật lại tổng thể về “ Thiền” vốn có
nội dung vô vàn phong phú và độc đáo như vậy. Hẳn nhiên, đó không phải
là chuyện dễ dàng tí nào. Chính vì lẽ đó, không phải chỉ lý giải sâu xa
về “Thiền”, mà cần phải có tri thức trên phạm vi rộng lớn về tư tưởng,
lịch sử cũng như văn hóa Đông Á, phải nhận thức được tình trạng xã hội
lúc bấy giờ và có cái nhìn mang tính triết học để rút tỉa ra những vấn
đề chính yếu.
Với nhan đề “ Lịch Sử Thiền Học”,
nội dung của tập sách này là lịch sử tư tưởng . Trong khi chấp bút
thường xuyên sự quan tâm của tôi là vấn đề mỗi một vị Thiền tông cũng
như giáo đoàn Thiền tông đã hình thành nên tư tưởng như thế nào trong
bối cảnh xã hội. Chính vì lẽ đó, khởi đầu của tập sách, trước khi đề cập
đến “Thiền”, tôi phải lấy hình thức giải thích rõ tình hình xã hội
đương thời. Về điểm này, việc các Thiền tông, cũng như nhà tông học biết
về lịch sử Thiền để xác chứng tác phẩm “Lịch Sử Thiền Tông”
do các nhà lịch sử học viết với trung tâm lịch sử giáo đoàn, cũng hoàn
toàn khác về tính cách với tập sách này. Tại Nhật Bản, sách viết hoàn
toàn về tư tưởng Thiền không nhiều, sách tường thuật bao quát lịch sử
Thiền học của Trung Quốc , Nhật Bản và hiện tại thì e rằng chỉ có tác
phẩm này được xem là đầu tiên mà thôi.
Như vậy tập sách này có nội dung đặc sắc
so với các tác phẩm khác và tôi đã bỏ ra nhiều công sức ngỏ hầu độc giả
có thể hiểu được. Tôi thiết lập từng tiêu đề để giải thích rõ những
điểm quan trọng có đề cập đến trong tập sách này, thiệu các hệ phổ
Thiền cũng như bản đồ liên quan đến Thiền để hệ thống hóa toàn bộ những
nhân vật xuất hiện và xác nhận địa danh. Bên cạnh đó, tôi cũng cố gắng
với khả năng của mình liệt kê toàn bộ các sách tham khảo. Với công phu
như vậy, kiến thức cơ sở liên quan đến lịch sử Thiền tông được trình bày
một cách có hệ thống qua tác phẩm này và tôi mong rằng nó sẽ giúp ích
quý độc giả hiểu sâu hơn vấn đề.
Tập sách này thành công được là nhờ sự
giúp đỡ tận lực của hai vị Lang Xuyên Kỷ và Trung Đảo Quảng. Tôi xin đặc
biệt bày tỏ sự cảm tạ sâu sắc nơi đây. Hơn nữa trong khi chấp bút viết
tác phẩm này, tôi đã được phép tham chiếu rất nhiều sách vở cũng như
luận văn để làm tài liệu tham khảo. Tuy nhiên, đối tượng đề cập đến
trong đây vẫn là đối tượng vượt quá năng lực tác giả. Chính vì vậy, chắc
chắn sẽ không tránh khỏi sai lầm, rất mong chư vị độc giả lượng thứ
cho. Xin chân thành thỉnh giáo cùng quý liệt vị.
Ngày 1 tháng 9 năm thứ 13 ( 2001 ) niêm hiệu Bình Thành
Y Xuy Đôn ( Ibuki Atsushi )".
Nhận xét
Đăng nhận xét