Thứ Sáu, 26 tháng 6, 2020

TT&HĐ I - 9/k

                                         
                                Ấn Độ Chủ Nhân Của Sông Ngòi                                     

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI

-"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại." 
Bleiste

-"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước"
Napoleon.

-"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo:
nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch"
 
Mark Twain

-“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...”
 
Vidhusekharsastri

-"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
Albert Einstein

-"Lòng yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi và thói xấu của nó và sám hối cho chúng".
Aleksandr Solzhenitsyn

-"Đất nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước".
Alexander Hamilton

-"Anh có thể rứt bỏ con người khỏi xứ sở họ, nhưng anh không bao giờ có thể rứt bỏ được xứ sở nơi lòng người"
 
John Don Passos 

 

(Tiếp theo)


                                  ***
Qua những di vật khảo cổ đã khai quật được, nếu không sớm hơn thì chí ít cũng vào giai đoạn hậu kỳ Hòa Bình, ngoài cái ý niệm dẫn đến tín ngưỡng phồn thực, có lẽ người Hòa Bình cũng đã bắt đầu có ý niệm về một thế giới đồng nhất thể nhưng vận động theo hình thức lưỡng phân lưỡng hợp, nghĩa là thống nhất trong phân định, phân định tương phản để tác hợp nhau đi đến tái thống nhất. Những ý niệm tuyệt vời này còn "lưu dấu đậm đà" trong bộ kinh Vêđa (và hơn nữa, chắc chắn đã là cội rễ làm nảy sinh ra quan niệm âm-dương đầy huyền diệu của Trung Hoa cổ đại!). 
Có thể lấy thánh kinh có tên Black Yajurvêđa (ít nhiều đã "arian hóa") làm thí dụ. Theo thánh kinh này thì nguồn sống và thực chất của muôn loài là "Thực Phẩm" (Annam). Khái niệm "Thực Phẩm" này có nội hàm rất rộng, rộng đến cùng cực chứ không chỉ thị riêng một cách hạn hẹp về miếng ăn thông thường như gạo, thịt, cá..., những thứ thể hiện "vụn vặt", tầm thường và hoàn toàn "không đáng kể" của nó. Về vai trò trong thế giới tự nhiên thì dù Lửa (Agni) được Vêđa rất tôn sùng, thần thánh hóa nó vì cho nó là động lực chuyển hóa làm "bừng dậy" sự thức tỉnh Vũ Trụ, làm xuất hiện muôn hình vạn trạng vật chất-hiện tượng, cũng không sánh được với Thực Phẩm. 
Vai trò của Thực Phẩm là tối linh, thậm chí quyết định đến cả sự tồn tại của Vũ Trụ đồng nhất thể, đến Brahman-Đấng tinh thần thiêng liêng nhất. Sau đây là vài trích đoạn:
"Ta sinh trước thực thể thần linh
Trước khi các chư thần xuất hiện đã có Ta
Ta là trung tâm của trường sinh bất tử
Bất kỳ ai đem Ta cho kẻ khác, như thế là nó đã giữ Ta cho nó
Ta là Thực Phẩm. Ta ăn thực phẩm và người ăn nó"

"Thực Phẩm này được bảo quản ở nơi cao nhất trong các thế giới trên cao
Mọi vị thần và tổ tiên đã qua đời đều là những người canh giữ Thực Phẩm này
Bất cứ cái gì được ăn, bị chia hoặc được vung vãi như cúng vật
Nói chung chỉ là một phần trăm của toàn bộ thân xác Ta
Hai cái vại lớn, Trời và Đất, đều được đổ đầy
Bởi một nguồn sữa duy nhất là con bò sặc sỡ
Những người thành tín, khi uống nó, không thể làm giảm nó
Nó không nhiều thêm cũng không ít bớt đi"

"Thực Phẩm là hơi khí tiết phát ra. Thực Phẩm là hơi khí hô hấp của sự sống
Thực phẩm có nghĩa là chết. Thực phẩm cũng có nghĩa là sống
Thực Phẩm được gọi là đang già đi, cũng được gọi là sinh sôi nảy nở"

"Người xuẩn ngốc giành được thực phẩm vô dụng
Ta nói thật: đó sẽ là cái chết cho y
Vì y không nuôi dưỡng bạn bè, đồng loại
Chỉ giữ thực phẩm cho riêng mình, y có tội khi ăn nó
Ta-Thực Phẩm-là mây, làm sấm và làm mưa
Chúng sinh ăn Ta. Ta ăn mọi thứ
Ta là thực thể chân thật của Vũ Trụ, bất tử
Bằng sức mạnh của ta, mọi mặt trời trên thiên giới đều sáng rực".

Hãy xem tiến sĩ triết học Heinrich Zimmer bình giải trong tác phẩm "Triết học Ấn Độ, một cách tiếp cận mới" của ông:
"Chất liệu thiêng liêng mà nhờ nó Vũ Trụ sống và các tạo vật của nó được hình thành, được tỏ lộ ở đây như thực phẩm, là vật chất và sức mạnh kết hợp lại. Nhựa sống xây dựng và thiết lập mọi hình thức của đời sống. Dù thay đổi hình thức, nó vẫn bất hoại. Các tạo vật phát triển bằng cách ăn lẫn nhau, nhưng bản chất thiêng liêng vẫn tiếp tục sống, không gián đoạn, qua những kiếp sống không ngừng bị gián đoạn của mọi sinh vật.
(...)
Chất sống tràn đầy thân thể Vũ Trụ, tuần hoàn qua các tạo vật trong dòng chảy nhanh, liên tục, như chúng làm mồi cho nhau, vừa là thứ ăn nhau vừa là thứ nuôi nhau. Phần chia được làm cho hữu hình theo cách này chỉ là một phần trăm toàn bộ thực chất, chỉ là sự biểu hiện không đáng kể về toàn bộ, ít hơn rất nhiều so với phần lớn hơn không thấy được. Vì nó được bảo quản trong lĩnh vực cao nhất của Vũ Trụ, nơi nó được canh giữ vừa bởi các vị thần, vừa bởi các tổ tiên đã qua đời cùng ở trên trời. Chính bản chất của kho thần thánh đó là sự phong phú, phần chia biểu thị như thế giới chỉ là sản lượng sữa duy nhất của nguồn siêu phàm, con bò cái sặc sỡ vĩ đại. Qua sự biến đổi liên tục thành năng lượng và vật chất của thế giới, kho vô tận không phải chịu một tí giảm sút nào.
(...)
Thực Phẩm thống trị mọi qui trình sống. Nó cung cấp năng lượng cho qui trình thở suốt đời. Nó sinh ra tình trạng suy sụp và tuổi già, kết thúc trong chết và phân hủy, nhưng nó cũng đi tới chỗ sinh con đẻ cái, và nó kiến tạo thân xác trẻ đang lớn.
(...)
(...).Cá nhân được kết nạp vào sự huyền bí này không thể tham lam bất kỳ phần chia nào trong số thực phẩm dư dật có thể đến với mình. (...). Và vì lẽ ấy, bất kỳ ai giữ thực phẩm sẽ tự mình rút khỏi con đường có sức sống đã hỗ trợ phần còn lại của Vũ Trụ - mọi tạo vật trên Trái Đất, mọi đám mây đang lơ lửng, và Mặt Trời. Kẻ tích trữ keo kiệt như thế tự tách khỏi sự chuyển hóa thần thánh của thế giới sống. Thực phẩm của y chẳng giúp ích gì cho y: khi y ăn, y ăn cái chết của chính mình".
Theo thiển ý của chúng ta, hình tượng con bò sữa sặc sỡ ở đây có thể là biểu hiện sự đồng hóa văn hóa Arian vào văn hóa bản địa Dravian vì xét về nguồn gốc xuất phát của cuộc lan cư người Arian vào Ấn Độ thì nó gợi đến tín ngưỡng thờ bò của dân Sumerians thuộc thời đại đế quốc Babylon (hình thành vào khoảng những năm thuộc nửa đầu thiên niên kỷ III TCN) ở khu vực Lưỡng Hà cổ đại, và người Arian đã tiếp thu tập tục này(?). Dễ cảm nhận được sự "lắp ghép" khiên cưỡng giữa quan niệm Thực Phẩm cực kỳ uyên áo huyền linh với con bò sữa sặc sỡ rất đỗi "trực giác" bình thường. Nhưng thôi, đó là vấn đề không đáng quan tâm nhiều. Vấn đề đáng lưu ý hơn là qua nội dung kinh đã trích ở trên, hình như vào khoảng thời gian xuất hiện Black Yajurvêđa, sự phân hóa giàu-nghèo trong xã hội Ấn Độ cổ đại nếu đã có thì cũng chưa thành hiện tượng phổ biến, nói cách khác, những biểu hiện như tham lam, chiếm hữu của cải thái quá, mâu thuẫn quyền lợi giữa thống trị-bị trị..., dù có thể đã nảy sinh thì vẫn còn mờ nhạt, cũng có nghĩa là Black Yajurvêđa chưa bị lũng đoạn bởi những biện minh nhằm bảo vệ địa vị đặc quyền đặc lợi của tầng lớp "có học" đã hóa thành pháp sư, đạo sĩ. Tuy nhiên, điều đáng nói nhất là có thể suy ra, quan niệm siêu việt về sự bảo toàn của Thực Phẩm và tư tưởng sùng bái Thực Phẩm đến mức tối linh như thế cũng chính là một dạng thể hiện của tín ngưỡng phồn thực (có vẻ còn ẩn chứa cả yếu tố nguyên nhân làm xuất hiện tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt cổ!) chỉ có thể được xây dựng nên từ sự quan sát và nhận thức thực tiễn quá trình lao động-sản xuất mang tính khép kín và xoay vần trong trồng trọt-chăn nuôi nông nghiệp. Và cuối cùng, đây là điều mà chúng ta cho là thú vị nhất: Nếu loại bỏ sự rườm rà đầy màu sắc huyền bí của "cái áo" ngôn ngữ thời sơ kỳ nhận thức triết học và cũng chưa hề được khoa học tự nhiên soi sáng, mặt khác, nếu thay thuật ngữ Thực Phẩm bằng thuật ngữ Năng Lượng, thì cái quan niệm về Thực Phẩm ấy của các nhà hiền triết Ấn Độ cổ đại thời Vêđa, cũng chính là một cách trình bày, phát biểu định tính nguyên lý chuyển hóa và bảo toàn năng lượng. Như vậy, có thể cho rằng, nguyên lý cơ bản nhất, phổ quát nhất về Tồn Tại mà vật lý học phải đến giữa thế kỷ XVII mới khám phá được bởi nhà vật lý Helmholtz, thì triết học Ấn Độ cổ đại đã chỉ ra từ cách nay hơn 3000 năm. Bái phục!...

Hermann von Helmholtz


Hermann Ludwig Ferdinand von Helmholtz
Sinh 31 tháng 8 năm 1821
Potsdam, Đức
Mất 8 tháng 9 năm 1894
Charlottenburg, Berlin, Đức
Nơi cư trú Flag of Germany.svg Đức
Ngành Nhà vật lý và nhà sinh lý học
Alma mater Viện Hoàng gia Friedrich-Wilhelm
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ Johannes Peter Müller
Các sinh viên nổi tiếng Albert Abraham Michelson Nobel prize medal.svg
Wilhelm Wien Nobel prize medal.svg
William James
Heinrich Hertz
Michael Pupin
Friedrich Schottky
Arthur Gordon Webster
Nổi tiếng vì Định luật bảo toàn năng lượng

Như đã hình dung, phương thức trồng trọt - chăn nuôi cùng với việc chuyên canh cây lương thực theo mùa màng đã làm thay đổi căn bản cách thức mưu sinh và lối sống của loài người nguyên thủy theo hướng thuận lợi, mở ra một thời kỳ nói chung là dài lâu với cảnh no đủ, sung túc. Nhưng ít người biết rằng, cũng chính lối sống dựa chủ yếu vào canh tác nông nghiệp, thuở đầu thuần túy mang tính "tự cung tự cấp" hồn nhiên ấy cũng đồng thời là nguyên nhân tiền đề dẫn đến một xã hội "có đủ đồ chơi, đủ thứ hỉ nộ ái ố" mà ngày nay chúng ta đang "hưởng thụ" (!), như: tiền tệ thành thần, hàng hóa làm thánh, yêu thương hô hoán, ích kỷ nhan nhản, mưu mô dồn nén, quỉ quyệt tràn lan, bạo lực vô vàn...!!! Tuy nhiên, xét riêng Ấn Độ cổ đại thì khoảng trước 2000 năm TCN, những "hưởng thụ" ấy có lẽ không đáng kể. 
Có thể cho rằng bản thân quá trình lan tỏa người Arian vào Ấn Độ (ít ra cũng trong giai đoạn đầu) là không có tính xâm lược, nghĩa là (hầu như) không gây ra những mâu thuẫn xung khắc về quyền lợi giữa "kẻ cũ, người mới" khiến phải sử dụng đến bạo lực, nhưng quá trình hòa nhập đó đã đóng vai trò "xúc tác" đáng kể trong việc tác động mạnh mẽ, làm "nhanh chóng" xuất hiện đầy đủ về cơ bản những "hưởng thụ" nói trên trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Chúng ta cho rằng, cuộc vận động nội tại trong tình trạng tương đối hòa bình của xã hội Ấn Độ cổ đại làm xuất hiện những mối quan hệ gắn kết kèm theo sự phân liệt quyền lợi nhân sinh mang nét đặc thù và điển hình ở xã hội loài người, hoàn thành vào khoảng năm 1000 TCN. Nguyên nhân cụ thể và chủ yếu tạo ra cuộc vận động hướng xã hội về phía "nhan nhản" bất công "đầy rẫy" bạo lực ấy, không thể khác, chính là sự tăng trưởng lạm phát (tăng-giảm lạm phát về số lượng cá thể loài theo điều kiện môi trường sinh thái là một qui luật tự nhiên trong thế giới sinh vật!) một cách tự phát về số lượng dân cư so với trình độ sản xuất thời đó dẫn đến tình trạng gọi là "nạn nhân mãn" làm mất cân đối trong mối quan hệ cung-cầu "miếng ăn, cái mặc" theo hướng "đói kém" có tính định kỳ và ngày một nghiêm trọng. Có thể bắt đầu từ khoảng năm 1000 TCN, do đó và cũng do tình cảm con người trở nên ngày càng sâu sắc (con người, khi sống cuộc sống xã hội vẫn nằm trong quá trình tiến hóa sinh vật, các mặt tham, sân, si, hỉ nộ, ái, ố..., nói chung, những cảm xúc thần kinh đều phát triển đến nhạy bén, sắc nét!?) mà tranh giành quyền lợi bằng bạo lực giữa các bộ phận và tầng lớp dân cư Ấn Độ cổ đại đã thành hiện tượng phổ biến đồng thời với sự xuất hiện chính thức trong xã hội hình thức chiếm hữu nô lệ và tiếp sau đó là chế độ phong kiến (phân quyền rồi tập quyền). Đến thế kỷ VIII TCN, sự phân hóa về quyền lợi dân cư, sự phân tầng thống trị và bị trị đã trở thành hiển nhiên như một mặc định, và từ đó mà những biểu hiện tương phản như giàu-nghèo, sướng-khổ, sang-hèn...cũng rõ rệt, chỉ thị về sự tồn tại tiềm tàng và thường trực một mâu thuẫn (trạng thái tương phản đạt đến cao độ) mang tính căng thẳng, đối kháng, khó dung hòa trong xã hội Ấn Độ cổ đại. 
Cụ thể, trong xã hội Ấn Độ thời đó, tầng lớp thống trị, được hưởng đặc quyền đặc lợi (một cách bất chính!) gồm hai bộ phận hợp thành là giới tu sĩ (thầy cúng, đạo sĩ, những người thông thuộc đồng thời cũng thao túng các thánh kinh Vêđa, được gọi chung là người Bàlamôn-có địa vị cao nhất trong xã hội) và giới hiệp sĩ quí tộc (lúc đầu ở địa vị thứ hai, sau nhờ đấu tranh đòi hỏi mà có địa vị ngang bằng), còn tầng lớp bị trị gồm cũng hai thành phần là giới bình dân (vaisya: nông dân, thương nhân) và giới nô bộc (sudra).

Bản thân hiện tượng phân định thống trị-bị trị là tự phát nhằm điều phối xã hội, nghĩa là có yếu tố tự nhiên và tất yếu, do đó mà một cách "thuần khiết", nó không gây ra bất cứ mâu thuẫn về quyền lợi nào. Nhưng vì sự phân tầng thống trị-bị trị cũng là kết quả tạo thành một cách tự giác của con người nhằm trị an xã hội vào thời đoạn xã hội loài người đã phát triển đến độ làm xuất hiện "như một định mệnh" những hiện tượng thuộc tham-sân-si (có gốc rễ bản năng của con vật được đơm hoa kết trái bởi ý chí mê quáng của con người!) trong lòng nó, cho nên trong thực tế, nó cũng gây ra mâu thuẫn quyền lợi ở những mức độ khác nhau tùy thuộc vào...ha,ha (!)...ha (!)...trạng thái tinh thần xã hội. (Chúng ta quá buồn cười vì nhớ đến quan niệm "ghê hồn bạt vía" về nguồn gốc nhà nước của "soái ca"... Mác-Ăng-Lê!). Nói rõ hơn, mâu thuẫn quyền lợi đến mức đối kháng trong xã hội chủ yếu là do sự sử sự sai lầm, thiếu đạo đức của tầng lớp thống trị nắm giữ quyền lực dẫn đến bất công gây ra. Và tùy thuộc vào thời gian tồn tại cũng như mức độ "tệ hại" của sự bất công đó mà trong xã hội xuất hiện những đòi hỏi giải quyết, những phản kháng chống đối với mức độ khác nhau từ phía tầng lớp bị trị. Đó cũng là giềng mối nói chung làm nảy sinh những hành động bạo lực có tính "tập thể" và ở trạng thái tột độ chính là đấu tranh vũ trang (nội chiến). (Ở đây không bàn đến chiến tranh xâm lược và đấu tranh kiểu "huynh đệ tương tàn").

Quá trình chuyển biến xã hội thời tiền sử - cổ đại từ trạng thái có tính thường xuyên sung túc, no đủ nhờ lao động nông nghiệp sang trạng thái có tính thường xuyên thiếu thốn, đói kém bởi nạn nhân mãn cũng đồng thời vừa là quá trình chuyển biến cấu trúc xã hội vừa là quá trình chuyển biến tinh thần xã hội, làm cho con người xã hội từ lối suy nghĩ vô tư, hồn nhiên, chân phác, lành mạnh ban đầu dần dần giảm đi tính thuần khiết, trong sáng vốn có và thay vào đó là sự lũng đoạn của mê quáng thèm muốn (lòng tham) do bị "đè nén" bởi nỗi lo âu, hoảng sợ, khiếp đảm trước thảm cảnh đói khổ luôn ám ảnh thường trực, truyền kiếp và trở thành tiềm thức trong tâm hồn của mỗi con người. Xã hội tiền sử - cổ đại Ấn Độ cũng phải tiến triển theo quá trình chuyển biến đó, và hơn nữa, chính quá trình chuyển biến đó đã làm bật ra những câu hỏi lớn về thân phận con người trong tâm trí suy tư nhận thức của các hiền triết Ấn Độ cổ đại, như con người được sinh ra từ đâu, tại sao có cảnh kẻ sướng người khổ, được gì mất gì khi chết đi, và chết là hết hay còn (?)... Khi các hiền triết Ấn Độ cổ đại chú ý tới việc tìm câu trả lời cho những vấn đề nảy sinh ra từ sự vận động của xã hội-nhân sinh cũng như về thân phận con người thì cũng là lúc đánh dấu sự thay đổi định hướng suy tư nhận thức của họ từ "hướng ngoại", nỗ lực giải thích thiên nhiên, tìm hiểu Vũ Trụ, sang "hướng nội", gắng sức lý giải hiện thực xã hội và qua đó mà cũng đồng thời đề ra cách giải quyết những khúc mắc trong đời sống nhân sinh theo quan niệm của họ. Chúng ta cho rằng trong thực tế, thể hiện mang tính thực thể của việc chuyển định hướng suy tư nhận thức ấy chính là sự ra đời của thánh kinh Upanishad.

Upanishad là kết quả tinh thần, được sáng tạo ra trên cơ sở kế thừa bộ kinh Vêđa, lấy những suy tư uyên áo về thực tại khách quan của Vêđa làm nền tảng lý luận mà phát triển nhận thức. Cũng giống như bộ kinh Vêđa, bộ kinh Upanishad không phải là thành quả của riêng hiền triết nào mà là công trình mang tính tập thể, được tập hợp lại từ nhiều ghi chép suốt mấy trăm năm. Nhiều học giả cho rằng thời đại tồn tại với vai trò tư tưởng chính thống trong xã hội Ấn Độ của Upanishad là khoảng từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ V TCN.

Sự phân định đẳng cấp một cách tương đối đặc thù trong xã hội Ấn Độ cổ đại làm cho việc tiếp cận và thông thuộc nội dung Vêda có tính độc quyền, chỉ những người thuộc đẳng cấp khá giả, giàu có mới đủ khả năng. Tình hình đó cho thấy bộ kinh Upanishad nếu không phải hoàn toàn thì cũng hầu như là do những học giả Bàlamôn thuộc tầng lớp thống trị trước tác. Vì lý do đó và hơn nữa, có lẽ do mâu thuẫn quyền lợi trong xã hội ngày càng căng thẳng làm nảy sinh yêu cầu biện hộ tính chính đáng về sự tồn tại những đặc quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị, trong đó có giới Bàlamôn mà đã có sự "can thiệp" một cách thiên vị, phi "yêu mến sự thông thái" (phi triết học) vào Upanishad. Hiện nay người ta còn giữ được 108 bản kinh Upanishad, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng chỉ có 10 bản được coi là chính truyền từ thời cổ đại, trong đó có hai bản mang tên Brihadâranyaka và Chândogya là có tầm quan trọng đặc biệt vì nội dung phong phú và sự trình bày sáng sủa của chúng, hơn nữa còn vì chúng hàm chứa tập trung nhất những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức triết học Upanishad.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét