TT&HĐ I - 8/c
Triết học Liệt Tử
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
CHƯƠNG VIII: HOÀNG LÃO
Không biết mà nói là ngu, biết mà không nói là hiểm.
CHU-HI
Ở đời cái gì thung dung thì còn, cấp bách quá thì mất. Việc mà thung dung thì có ý vị. Người mà thung dung thì sống lâu.
Làm việc nghĩa chớ kể thiệt hại. Luận anh hùng chớ kể hơn thua.
Tâm niệm trầm tĩnh thì lẽ gì nghĩ chẳng tới. Chí khí cao rộng thì việc gì làm chẳng xong.
Tầm thuật quý nhất là sáng suốt. Tướng mạo quý nhất là chính đại. Ngôn ngữ quý nhất là giản dị, Chân thật.
Khí kiêng nhất là hung hăng. Tâm kiêng nhất là hẹp hòi. Tài kiêng nhất là bộc lộ.
Tâm phải rộng để dung nạp người trong thiên hạ. Tâm phải công bằng để làm việc trong thiên hạ.Tâm phải trầm tĩnh để xét lý trong thiên hạ. Tâm phải vững vàng để chống lại những biến cố trong thiên hạ.
Việc sắp xảy ra mà ngăn được, việc đang xảy ra mà cứu được, đó là quyền biến. Chưa có việc mà biết việc sắp đến, mới có việc mà biết được việc sau, có tài năng. Định việc mà biết việc xảy ra thế này, thế nọ, như vậy là biết lo xa. Người như thế là người có kiến thức rộng rãi.
Làm việc nghĩa chớ kể thiệt hại. Luận anh hùng chớ kể hơn thua.
Tâm niệm trầm tĩnh thì lẽ gì nghĩ chẳng tới. Chí khí cao rộng thì việc gì làm chẳng xong.
Tầm thuật quý nhất là sáng suốt. Tướng mạo quý nhất là chính đại. Ngôn ngữ quý nhất là giản dị, Chân thật.
Khí kiêng nhất là hung hăng. Tâm kiêng nhất là hẹp hòi. Tài kiêng nhất là bộc lộ.
Tâm phải rộng để dung nạp người trong thiên hạ. Tâm phải công bằng để làm việc trong thiên hạ.Tâm phải trầm tĩnh để xét lý trong thiên hạ. Tâm phải vững vàng để chống lại những biến cố trong thiên hạ.
Việc sắp xảy ra mà ngăn được, việc đang xảy ra mà cứu được, đó là quyền biến. Chưa có việc mà biết việc sắp đến, mới có việc mà biết được việc sau, có tài năng. Định việc mà biết việc xảy ra thế này, thế nọ, như vậy là biết lo xa. Người như thế là người có kiến thức rộng rãi.
LÃ-TƯ-PHÚC
Khiến người ta nể lời, Không bằng khiến người ta tin lời.
Khiến người ta tin lời, Không bằng khiến người ta vui vẻ nhận lời.
Đem họa phước mà răn dọa là khiến người ta sợ.
Đem lý lẽ mà răn dụ là khiến người ta tin
Dùng tâm lý mà giác ngộ là khiến người ta vui lòng mà nghe theo.
Biết đủ trong cái đủ của mình thì luôn luôn đủ.
Biết người là trí, biết mình là sáng
Không có lỗi nào to bằng ham muốn; Không có tai hoạ nào to bằng không biết đủ.
Lo thắng người thì loạn; Lo thắng mình thì bình.
Lời thành thật thì không đẹp; Lời đẹp thì không thành thật.
LỄ KÝBiết người là trí, biết mình là sáng
Không có lỗi nào to bằng ham muốn; Không có tai hoạ nào to bằng không biết đủ.
Lo thắng người thì loạn; Lo thắng mình thì bình.
Lời thành thật thì không đẹp; Lời đẹp thì không thành thật.
“Lời của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, mà thiên hạ không ai hiểu được, làm được. Lời của ta có tôn chỉ, việc của ta có căn bản. Vì thiên hạ không hiểu ngôn luận của ta nên không biết ta. Người hiểu ta rất ít, người theo ta được là rất hiếm. Cho nên thánh nhân mặc áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.”
Lão Tử
(Tiếp theo)
Trong sách Liệt
Tử có những đoạn giảng giải về cái Đạo Huyền Diệu, cái Nền tảng, cái Tối cao, cái
có thể cảm thấy được mà không nhận diện được:
“Có một vật
sinh ra các vật khác mà không được vật nào sinh ra cả; biến hóa các vật khác mà
tự nó không biến hóa. Vậy cái không được sinh ra có thể sinh (làm chủ tể) các vật
được sinh ra, cái không biến hóa có thể biến hóa các vật biến hóa. Mà cái được
sinh ra không thể không sinh ra cái khác; do đó mà sinh sinh, hóa hóa hoài, không
thời nào không sinh, không thời nào không hóa. Do đó có âm dương, bốn mùa. Cái
không được sinh ra, là đồng nhất, vô thủy vô chung; cái không biến hóa là trong
khoảng vô cùng; cái đạo của cái duy nhất không thể dò được”.
Trong “Đạo Đức Kinh”, chúng ta thấy có một câu là lạ, mang tính thần thoại: “Thần hang bất tử,
gọi là Huyền Tẫn. Cửa của Huyền Tẫn là gốc của trời đất, dằng dặc như bất tuyệt,
tạo thành mọi vật mà không mệt”. Trong “Liệt Tử” cũng dẫn câu này và cho là của
Hoàng Đế(?). Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là một thánh quân, tên là Hiên Viên, làm
vua một trăm năm (2698 - 2598 TCN), viết một cuốn sách gồm bốn thiên, gọi là Hoàng
Đế Thư, đã thất truyền. Có thể câu đó là truyền ngôn của những đời trước, Lão Tử
chép lại; có vẻ như mô tả cảnh quan của bầu trời đêm của Vũ Trụ. Huyền Tẫn (Mẹ
nhiệm màu) là cái tên có nghĩa như tên gọi ngày nay là Vũ Trụ chăng? Trong bầu
trời đêm, chúng ta như đang đứng trước cửa của một cái hang vĩ đại, “dằng dặc
như bất tuyệt”!
Sau câu trích đó,
sách Liệt Tử viết tiếp:
“Vì vậy mà vật
nào sinh ra các vật khác thì không được sinh ra; vật nào biến hóa các vật khác
thì không biến hóa. Nó tự sinh, tự hóa, tự thành hình, tự thành sắc, sáng suốt,
tự có sức mạnh, tự tăng giảm. Nó tự nhiên như vậy, chứ không phải cố ý mà sinh
hóa, thành hình, thành sắc, sáng suốt, có sức mạnh, tăng giảm”.
Đoạn khác:
“Sự vận chuyển
không bao giờ ngừng. Trời đất biến chuyển bí mật, ai mà biết được? Cho nên, vật
giảm ở phía này thì tăng ở phía khác, đầy ở kia thì vơi ở đây. Tăng, giảm, vơi,
đầy, sinh ra lẫn nhau rồi chết; qua lại nối tiếp nhau mật thiết, ai mà thấy được
sự biến chuyển?”
Liệt Tử giảng về
vô vi:
“Cái từ sống mà
sinh ra là cái chết, nhưng cái sinh ra cái sống thì bất tuyệt; cái từ cái hình
gây nên là cái thực (chất), nhưng cái khiến cho thành hình thì không hề có (nghĩa
là cái vô?); cái từ thanh âm gây nên là thính giác, nhưng cái khiến cho thành
thanh âm thì không hề phát nên tiếng; cái từ màu sắc gây nên là thị giác, nhưng
cái khiến cho thành màu sắc thì không hề hiện ra; cái từ mùi vị gây nên là vị
giác, nhưng cái khiến cho thành mùi vị thì không hề lộ ra.
Tất cả những cái
đó đều là vô vi mà ra cả. Vô vi có thể âm, có thể dương, có thể nhu, có thể cương,
có thể dài, có thể ngắn, có thể tròn, có thể vuông, có thể sinh, có thể tử, có
thể nóng, có thể lạnh, có thể nổi, có thể chìm, có thể là âm trầm, có thể là âm
bổng, có thể hiển hiện ra, có thể biến mất, có thể tím đen, có thể vàng, có thể
ngọt, có thể đắng, có thể tanh hôi, có thể thơm tho.
Vô vi tuy vô vi,
vô năng mà không gì là không biết, không gì là không làm được”.
Nền
tảng triết
học Trang Tử cũng là của triết học Lão Tử. Quan niệm về Đạo của Trang Tử
hoàn toàn đồng
thuận với quan niệm về Đạo của Lão Tử. Tuy nhiên trong tư tưởng triết
học của
Trang Tử, đã xuất hiện những bộ phận mới có tính chất như bổ sung, điều
chỉnh,
mở rộng thêm về lý luận trong việc nhận thức tự nhiên - xã hội. Trang Tử
đã nêu
ra được mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại; tính nước đôi, tương đối
của khái
niệm… Tất cả những quan niệm mới ấy có thể là do Trang Tử đã chịu ảnh
hưởng của
một trường phái triết học mà ở thời đại nhà Hán gọi là Danh Gia (ở thời
Chiến Quốc được gọi là Hình Gia hay Biện Gia): Có thể nói đại biểu của
Danh Gia là Huệ
Thi và Công Tôn Long. Công lao của họ đối với triết học có lẽ là từ
những biện
bác có vẻ như phi lý của mình, họ đã vạch ra được tính hữu hạn, tính bất
ổn, nước
đôi, tính tương đối của khái niệm mà suy cho cùng là tính chủ quan tất
yếu của
nhận thức trước một thực tại khách quan. Tư Mã Đàm, trong “Sử ký” của
mình (chương
20) đã đánh giá khá xác đáng về Danh Gia:
“Danh Gia xét tỉ
mỉ các điểm trong những nhận định phức tạp công phu làm cho kẻ khác không thể
phủ nhận ý tưởng của mình được. Họ chuyên định nghĩa các danh từ nhưng bỏ quên
mất cảm tính của nhân loại. Bởi vậy, tôi nói rằng: họ đưa người ta vào sự tô điểm
danh từ làm cho người ta dễ quên mất chân lý. Tuy nhiên bắt danh từ phải diễn tả
được sự thực và như thế nghiên cứu trật tự hợp lý để không còn lầm lẫn nữa, ấy
là nhiệm vụ cần phải tìm tòi khảo cứu”.
Trước đây đã có
lần chúng ta nói về sự bất ổn của khái niệm rồi. Ở đây chúng ta không đề cập sâu
tới vấn đề đó nữa.
Huệ Thi không để
lại sách gì ngoài mười câu phi lý nổi tiếng cho hậu thế. Trang Tử đánh giá Huệ
Thi là:
“Đem bàn tung
ra cả vạn vật mà không chán. Rút lại được tiếng là tay biện bác giỏi. Tiếc thay
tài của Huệ Thi, lồng lộng mà không có đức!”
Sách của Công Tôn
Long còn lưu đến ngày nay là cuốn “Công Tôn Long tử”, gồm sáu thiên. Ở chương một
sách đó có đoạn nói:
“Công Tôn Long
là biện sĩ ở thời đại Chiến Quốc. Ông ghét sự tán loạn của danh với thực, và dùng
cái tài sở trường của mình để thảo luận về điểm giữ cái trắng. Ông mượn vật làm
tỷ dụ để luận bàn về vấn đề giữ trắng… Ông muốn suy rộng cách biện thuyết như
thế để chỉnh đốn lại danh với thực và làm thay đổi cả thế giới”.
Chính Công Tôn
Long đã nói về mình:
“Cái học thuyết
của Long là cho rằng ngựa trắng không phải là ngựa. Bắt Long bỏ thuyết ấy đi thì
Long này không còn lấy gì mà dạy nữa.”
Chúng ta trở về
với Thái Thượng Lão Ông!
Hãy nghe về Đạo
qua cách nói của Trang Tử:
“Đạo có thực và
tồn tại, nhưng vô vi mà không có hình trạng, có thể truyền nó được nhưng không
thể tiếp nhận nó được, hiểu nó được mà không thấy nó được. Nó tự là gốc của nó,
trước khi có trời đất đã có nó rồi. Nó tạo ra quỉ thần, thượng đế, nó sinh ra
trời đất. Nó ở trên thái cực mà không cao, ở dưới lục cực mà không sâu, có trước
trời đất mà không phải là trường cửu, có trước thời thượng cổ mà không phải là
già.”
Đó là Đạo theo
nghĩa thực thể Tối Cao; còn Đạo theo nghĩa là Nguyên lý Tối Thượng thì:
“Biết được Thiên
Đạo và nhân sự, đó là đạt được mức cao nhất của tri thức. Biết được Thiên Đạo là
biết rằng vạn vật do Tự Nhiên sinh ra, vậy thì phải theo Tự Nhiên (…) Như vậy là
tri thức cao minh nhất. nhưng tri thức đó cũng có cái lụy của nó, vì tri thức nào
cũng phải có đối tượng (có cái mốc, cái chuẩn mực rồi mới biết được đúng sai),
mà đối tượng lại không xác định được (bất định, tùy thuộc). Chẳng hạn làm sao
biết được cái mà tôi gọi là trời đó không phải là người, và cái tôi gọi là người
đó không phải là trời? Với lại chỉ bậc chân nhân mới có được chân tri.”
Và:
“Vạn vật đều
ngang nhau, có vật nào dài, vật nào ngắn đâu? Đạo không có đầu và cuối. Vật
sinh rồi chết, đừng trông cậy khi nó thành tựu vì vật có lúc đầy lúc vơi, không
có hình thể bất biến. Tuổi không thể lùi lại được, thời gian không thể ngừng lại
được. Có tăng thì có giảm, có đầy thì có vơi, có chung thì có thủy. Có thể coi đó
là xu hướng của Đại Đạo, tình lý của vạn vật.”
Qua đó, rõ ràng
rằng vũ trụ quan của Trang Tử chỉ là sự tiếp thu trọn vẹn vũ trụ quan của Lão Tử,
không có gì mới. Có mới chăng là cái nhận thức nặng chủ nghĩa hoài nghi do ảnh
hưởng của Danh gia. Điều này thể hiện rất rõ trong chương “Tề vật luận” (mọi vật
ngang nhau) của “Nam Hoa Kinh”.
Lão Tử ngay từ đầu,
khi cho rằng Đạo không thể gọi đúng tên được thì có nghĩa rằng ông đã biết tính
hữu hạn của khái niệm; khi nói rằng “không” và “có” cùng từ Đạo mà ra và chỉ khác
tên gọi thôi thì có nghĩa rằng ông đã biết về tính tương phản của thế giới, cái tương đối của khái niệm. Do đó mà
ông đã rào trước đón sau, là chỉ tạm dùng cái có ý nghĩa hữu hạn, tương đối để
nói về cái có vẻ vô cùng, tuyệt đối.
Khi ta nói vật
này là âm, vật kia là dương thì cũng có thể nói vật này là dương và vật kia là âm,
vì âm, dương chỉ là tên gọi, do ta qui định và chỉ đúng cho riêng ta thôi. Đó
chính là tính tương đối khách quan của khái niệm. Nhưng dù có đặt tên thế nào đi
nữa thì tính tương phản của hai vật đó cũng không thay đổi, đó là sự thực khách
quan. Cần biết rằng sự tương phản của thế giới do tính đầy đủ của Tự Nhiên Tồn Tại mà có.
Hiện thực là thực
tại khách quan đã qua nhận thức. Nó luôn phiến diện và nặng tính qui ước của chủ
quan nhận thức. Cùng một thực tại khách quan, tùy vào trình độ tư duy, góc độ (đối với
thực tại xã hội thì là lập trường) của quan sát và độ bảo thủ của nhận thức mà có nhiều hiện
thực khác nhau. Tính chủ quan của hiện thực thể hiện ra như là thành kiến của
nhận thức. Đó là nguồn gốc làm hình thành nên cái gọi là tính tương đối chủ
quan của khái niệm.
Trang Tử đã chưa
phân biệt được hai tính chất tương đối ấy của khái niệm nên sa dần vào chủ nghĩa
hoài nghi đối với khả năng nhận thức, và đó là bước thụt lùi về tư tưởng của ông.
Trong khi Lão Tử
dứt khoát:
“Ai
cũng cho cái
đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra cái xấu; ai cũng cho điều thiện là
thiện, do đó
mà phát sinh ra điều (khái niệm) ác”, thì Trang Tử luận cụ thể hơn, qua
đó mà nêu bật được tầm quan trọng thiết yếu của "thực chứng", dù là
trong "tâm trạng hoang mang":
“Mình là người
khác; người khác cũng là mình. Người kia có quan niệm của họ về thị, phi (đúng,
sai). Mình cũng có quan niệm của mình về thị, phi. Có một sự khu biệt thực nào
giữa mình và người kia không? Mình và người đừng chống đối nhau nữa, cái cốt yếu
của Đạo ở đó. Cái cốt yếu ở trung tâm cho nên ứng với các biến hóa vô cùng. Cái
thị biến hóa vô cùng, mà cái phi cũng biến hóa vô cùng. Cho nên mới bảo: không
gì bằng dùng trực giác.”
“Giả sử tôi
tranh biện với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không?
Nếu tôi thắng anh thì có nhất định tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta có
một người phải một người trái? Hay là cả hai chúng ta đều phải cả hoặc đều trái
cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng
hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây? Hỏi một người cùng một
ý kiến với anh, thì người đó do lẽ cùng ý kiến với anh, làm sao có thể phê phán
được? Nếu là một người cùng ý kiến với tôi, thì người này do lẽ cùng ý kiến với
tôi, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người ý kiến khác cả tôi lẫn anh,
hoặc giống cả tôi lẫn anh thì cũng làm sao phán đoán được? Vậy anh, tôi và người
thứ ba đó đều không quyết được ai phải, ai trái. Có nên đợi một người thứ tư nữa
không?”
“Đạo bị cái gì
che lấp tới nỗi phải phân biệt chân với ngụy? Lời bị cái gì che lấp tới nỗi phân
biệt phải với trái? Khi nào thì đạo không còn, khi nào thì lời không chấp nhận được?
Đạo bị thành kiến nhỏ nhen che lấp; lời nói bị sự hoa mỹ phù phiếm che lấp. Do đó
mà phái Nho và phái Mặc tranh luận với nhau. Cái gì phái này cho là phải thì phái
kia cho là trái; cái gì phái này cho là trái thì phái kia cho là phải. Muốn thấy
điểm phải trong chỗ họ cho là trái, thấy điểm trái trong chỗ họ cho là phải, thì
không gì bằng dùng trực giác.”
“Để cho thành
kiến của mình làm thay mình, sai khiến mình, như vậy ai cũng có thầy hết, còn cần
gì nhận người khác làm thầy nữa? Vì tinh thần của mình làm thầy mình, cho nên
người ngu cũng có thầy rồi. Kẻ nào muốn vượt thành kiến của mình để phân biệt
thị phi thì cũng không khác gì bảo rằng hôm nay đi qua nước Việt mà đã tới đó từ
hôm qua rồi, nghĩa là coi cái không có là có. Về điểm đó, thần minh như ông Vũ
(người khởi nghiệp nhà Hạ) cũng không thể biết được. Tôi làm sao mà biết được?”
Và Trang Tử đi đến
kết luận:
“Cái Đạo mà
minh thị ra rồi thì không phải là Đạo; biện mà phải dùng lời nói thì không đạt được
chân lý”.
Với câu nói này
thôi, Trang Tử đã hiểu sai ý của Lão Tử về sự không đặt một cái tên mang một ý
nghĩa giới hạn nào cho cái tạm gọi là Đạo. Từ đó mà ông kêu gọi:
“Đừng suy luận
gì hết thì thấy được Đạo!”
Đó
cũng chính là
luận điểm xuyên suốt, có tính sống còn của Thiền học sau này.
Thiền cho
rằng không
thể đạt được chân lý bằng tư duy lý luận; không thể tiếp cận được thực
tại đích thực bằng
tri giác; muốn nhận chân được Tồn Tại, muốn “ngộ” được chân lý tuyệt đối
hay Thực Tại Tối Cao thì không có con đường nào khác ngoài con đường
trực giác, vượt lên
trên mọi khái niệm, vứt bỏ mọi khái niệm để tu tập, thực hành chiêm
nghiệm tâm
linh trực tiếp (chứ không phải bằng tư duy trừu tượng!!!). Phải chăng Lão Tử là người gợi mở nhưng chính Trang Tử mới là người đầu tiên đề xướng ra cách thức "Thiền" với hy vọng đạt được đến nhận thức tuyệt đích về thực tại khách quan? Và cũng từ đây, để vượt qua trạng thái bế tắc về lý luận của Đạo Gia, nó đã tất yếu phân ly thành hai ngả: ngả hình thành Đạo Giáo tu tập thành tiên và ngả hình thành Đạo Phật tu tập thành chính quả!? Có thể lắm!
莊子
莊子
Trang Tử
|
|
Sinh | Trang Chu Hà Nam, Trung Quốc |
Công việc | triết gia |
Nhưng nếu không
có một chút suy nghĩ nào, không tiếp thu được một trình độ nhận thức nào gọi là
đủ thì biết thế nào là loại bỏ tạp niệm, (chứ chưa cần nói đến loại bỏ hết khái niệm),
vượt lên trên mọi khái niệm để mà chiêm nghiệm bằng con đường tâm linh, trực tiếp
nhận chân được Tồn Tại??? Một pho tượng đá thì dù có ngồi thiền tu đến một triệu
năm, cũng chẳng ngộ thêm được điều gì ngoài cái mà hồn đá đã “ngộ” được từ trước!
Thực
ra, Trang
Tử (và không riêng gì Trang Tử!) đã không thấy được điều giản dị này:
khách
quan và chủ quan là hai yếu tố có tính tương phản trong nhận thức, giữa
chúng
có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau, là tiền đề
của
nhau, chuyển hóa lẫn nhau, y hệt như mối quan hệ của cặp Có - Không, hay
cặp Âm
- Dương vậy. Làm gì có nhận thức tuyệt đối khi bản thân nhận thức đã bị
lệ thuộc Trái Đất này rồi? Làm gì có "đốn ngộ" tuyệt đối khi Cõi Niết Bàn chỉ là sự phủ dụ đầy yếm thế và mông lung để mưu cầu giảm bớt khổ đau trên thế
gian này thôi? Làm gì có "tịnh độ" khi trong cõi "Nhà Phật" còn bộn bề
sự khát vọng không thể giải chấp được bằng sự khuyên răn chí tình nhưng quá viển vông của
chính Đạo nhà Phật!?
Đứng
ở vị trí
trung dung, chúng ta nói: nếu chỉ bằng tư duy lý luận đơn thuần, con
người sẽ
không nhận thức được tuyệt đối Tồn Tại bởi vì năm giác quan của con
người không
cho phép nó nhìn thấy hết, bao quát được thực tại vốn dĩ, nhất là ở tầng
nền tảng siêu vi mô cũng như ở tầng siêu vĩ mô!
Ít ai để ý rằng ngay từ buổi đầu xuất hiện, một quá trình nhận thức đã
bao gồm bốn yếu
tố cơ bản là Thấy-Suy-Chứng-Biết. Bốn yếu tố ấy có mối tương quan mật
thiết với nhau: Không
Thấy, thì sao Suy, Suy mà không Chứng thì sao Biết chắc? Mặt khác, Biết
sẽ làm cho Thấy thêm sâu rộng và qua đó "chắp thêm cánh" cho Suy, kích
thích tăng cường Chứng để Biết chắc hơn nữa cũng như tỏ tường hơn nữa… Ở
một tầm cao tri thức nào đấy, cái Thấy ấy cũng chính là Thực Chứng
(Khoa học tự
nhiên), cái Biết ấy chính là Tri Thức Lý Luận (Triết học) và cái Suy ấy
chính là Chiêm Nghiệm Tâm Linh (giác quan thứ sáu hay tổng giác, là sự
thăng hoa của tri giác
ở trạng thái tột độ). Đến một trình độ nào đó, bốn yếu tố ấy sẽ làm nên
một nhận
thức tối hậu, đủ nhìn thấy được bản chất tuyệt đối của Tồn Tại, ở góc độ
quan sát
của con người (chỉ thế thôi chăng?!)
Rốt cuộc, cái Đạo Huyền Diệu của Lão Tử, qua Trang Tử diễn giải, vừa sáng tỏ hơn vừa huyễn hoặc hơn,
đầy đủ thị phi mà cũng vượt trên thị phi, ăm ắp hơi thở của Thiền:
“Đông Quách Tử
hỏi Trang Tử:
- Cái ông gọi là
Đạo ấy, nó ở đâu?
Trang Tử đáp:
- Ở khắp nơi.
- Phải chỉ ra
chỗ nào mới được chứ.
- Trong con kiến.
- Sao mà thấp vậy?
- Trong cọng cỏ.
- Còn thấp hơn
nữa ư?
- Trong mảnh sành.
- Sao càng thấp
quá vậy?
- Trong cục phân.
Đông Quách Tử
không hỏi nữa. Trang Tử bảo:
- Những câu hỏi
của ông không đi đôi thực chất vấn đề. Như viên xét thuế hỏi người coi chợ về cách
dẫm lên con heo để biết nó mập hay không: chân càng lún xuống thì heo càng mập.
Ông đừng nên chỉ hẳn một vật nào mà hỏi, như vậy ông sẽ không bỏ sót. Cái Đạo tối
cao như vậy, mà lời nói cao cả cũng vậy: bao hàm, phổ biến, và đủ cả. Ba danh từ
đó tuy khác mà ý nghĩa như nhau (tính toàn diện của Đạo - NV).
Người
nào đã tiêu dao ở cõi hư vô, bao gồm mà nghị luận thì biết được Đạo là
vô cùng. Người nào đã
vô vi thì điềm đạm mà an tĩnh, tịch mịch mà thanh hư, điều hòa mà nhàn
dật. Bỏ
tham vọng của ta đi, đi mà không biết để tới đâu, về mà không biết sẽ
ngừng ở đâu,
đi và về đều không có mục đích. Bàng hoàng ở trong cảnh giới mênh mông
hư vô mà
bậc đại trí cũng không biết giới hạn của nó, Chủ tể của vật (tức Đạo)
với vật đều
không có giới hạn (vì Đạo ở trong vật, vật ở trong Đạo), nhưng vật với
vật thì
có giới hạn, đó là giới hạn của vật. Cái không có giới hạn (tức Đạo) nắm
trong
cái giới hạn (tức vật), Đạo tuy nằm trong vật có giới hạn mà chính nó
không có
giới hạn. Như cái người ta gọi là đầy rỗng, suy diệt. Đạo tuy ở trong
cái đầy rỗng mà không phải là đầy rỗng; ở trong cái suy diệt mà không
phải suy diệt; ở
trong gốc và ngọn mà không phải là gốc, ngọn; ở trong cái tích tụ và
tiêu tán mà
không phải là tích tụ, tiêu tán.”
Đọc “Quỉ Cốc Tử”
chúng ta thấy tác giả đã nói đến vấn đề quan sát (trì khu), nghĩa là tác giả đã
phân định ra cái thế giới nội tại bên trong của quan sát (thuyết âm phù) và cái
bên ngoài, đối tượng của quan sát, nhưng chưa thấy được mối quan hệ hết sức sâu
xa giữa hai thế giới ấy, mối quan hệ có tính tương phản, tiền đề "sống còn" của
nhau. Điều đặc sắc nhất theo chúng ta nghĩ, trong tác phẩm Nam Hoa Kinh của mình,
Trang Tử đã là người đầu tiên của triết học cổ đại Trung Quốc chính thức đưa ra
ý niệm rõ ràng về sự phân định khách quan giữa “cái tôi” và Vũ Trụ, giữa chủ thể nhận
thức và khách thể nhận thức. Ông nói:
“Không có cái
không phải là ta thì không có ta. Nhưng không có ta thì không thể hiện được sự
biến hóa của tự nhiên. Như vậy, ta với tự nhiên thật mật thiết với nhau. Nhưng
không ai biết được chủ tể (nguyên nhân) của Vũ Trụ (toàn bộ sự việc đó) là gì.”
Ta, cũng như trời
đất, cũng như vạn vật, đều từ Đạo mà ra, đều cùng gốc, xét ở góc độ này thì ta
cũng như trời đất, vạn vật chẳng khác gì nhau cả. Ta chưa sinh ra thì đối với
ta, cả ta, vạn vật, trời đất đều chưa có; chỉ khi có ta (vì ta thấy), trời đất,
vạn vật mới có (xuất hiện). Có lẽ vì thế mà Trang Tử mới nói: “Trời đất với ta
cùng sinh ra, vạn vật với ta là một.”
Phụ họa theo,
chúng ta ngâm:
Có trời đất mới
có tôi
Có tôi, trời đất
lần hồi hiện ra.
Trời cao đất thấp
bao la
Cho tôi ở giữa để
mà buồn vui
Đất gần, trời tít
xa vời
Nên đời tôi ngắn,
đến rồi lại đi…
Phải chăng hội ngộ, chia ly
Đều về với Đạo,
qui y đất trời? (Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét