CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 327
(ĐC sưu tầm trên NET)
Dân trí Giới quan sát nhận định
liên minh tình báo “Ngũ nhãn” gồm 5 nước Australia, Anh, Canada, New
Zealand và Mỹ đang thể hiện quan điểm cứng rắn với Trung Quốc trên nhiều
“mặt trận”.
SCMP dẫn ý kiến các chuyên gia cho rằng liên minh “Ngũ nhãn” và Trung Quốc đang đối đầu trên nhiều lĩnh vực, từ cách ứng phó dịch Covid 19, vấn đề Hong Kong và mạng lưới 5G. Giới quan sát nhận định, các nước trong liên minh dường như hiểu được rằng nếu họ đối đầu riêng rẽ với Trung Quốc thì nỗ lực đối phó Bắc Kinh sẽ khó thành hiện thực.
Các dấu hiệu cho thấy sự hợp tác giữa liên minh tình báo bắt đầu từ 2 năm trước khi Canada bắt giám đốc tài chính Huawei Mạnh Vãn Chu theo đề nghị của Mỹ.
Vụ việc đã khiến Trung Quốc nổi giận và cho rằng đây là động thái nhằm kiểm chế sự phát triển kỹ thuật của quốc gia Đông Á. Trong vài tuần sau, Bắc Kinh đã bắt 2 công dân Canada với cáo buộc phạm tội liên quan tới an ninh quốc gia Trung Quốc.
Mỹ, trong khi đó, áp hàng loạt lệnh hạn chế về giao lưu khoa học và kỹ thuật với Trung Quốc, ban hành quy tắc hạn chế cấp thị thực cho các nhà nghiên cứu Trung Quốc.
Căng thẳng tiếp tục leo thang khi dịch Covid-19 khởi phát từ Trung Quốc lây lan ra khắp toàn cầu khiến hàng triệu người nhiễm và hàng trăm nghìn người tử vong.
Mỹ cáo buộc Trung Quốc đã “giấu dịch” và khiến mầm bệnh lây lan gây thiệt hại nghiêm trọng cho thế giới. Trong khi đó, Australia đã kêu gọi mở cuộc điều tra quốc tế độc lập về nguồn gốc Covid-19.
Tháng trước, Mỹ và Anh chỉ trích quyết định của Trung Quốc khi tính áp luật an ninh quốc gia lên Hong Kong. Anh tuyên bố sẵn sàng để ngỏ hàng triệu thị thực cho người Hong Kong và mở ra con đường trở thành công dân Anh.
Georgina Downer, nhà tư vấn địa chính trị và chiến lược của công ty Tenjin (Australia), cho biết có những dấu hiệu rõ ràng rằng 5 nước “Ngũ nhãn” đang gia tăng đối phó với Trung Quốc.
“Sự thay đổi nhanh chóng về mặt chính sách liên quan tới mạng lưới 5G ở Anh và sự đồng thuận giữa các nước “Ngũ nhãn” về việc lập nhóm D10 gồm các quốc gia dân chủ có chung chí hướng hợp tác trong lĩnh vực 5G là ví dụ”, Downer nhận định.
Chuyên gia trên cho rằng chính sách ngoại giao cứng rắn của Trung Quốc được xem là yếu tố đã khiến các nước “Ngũ nhãn” phối hợp hơn trong việc đưa ra những cân nhắc chiến lược về các khoản đầu tư của Trung Quốc trong hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng của các nước.
Bà Downer cho rằng hiện có “một nỗ lực đồng lòng và công khai hơn giữa các nước “Ngũ nhãn” trong việc tập trung vào hợp tác kinh tế giữa các nước chia sẻ các giá trị và tư duy chiến lược”.
Chuyên gia Li Lianjun từ Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh (Trung Quốc) cho rằng các thành viên của liên minh “Ngũ nhãn” đang hợp tác chặt chẽ hơn. Ông Li cho biết ông không ngạc nhiên nếu nhóm G7 mở rộng cũng hoạt động cùng nhau theo hướng đối đầu với Trung Quốc.
Ông John Blaxland, giáo sư tại Đại học Quốc gia Australia, cho rằng sự đồng thuận của các thành viên trong liên minh “Ngũ nhãn” là dấu hiệu cho thấy lối “ngoại giao chiến lang” của Trung Quốc (ám chỉ những nhà ngoại giao có quan điển cứng rắn) đã gây tác dụng ngược.
Ông Blaxland cũng cho rằng sự hợp tác trong tương lai sẽ không chỉ dừng ở 5 nước. Trung Quốc tháng trước đã đánh thuế 80,5% lúa mạch Australia, nhưng Ấn Độ đã đồng ý tăng nhập mặt hàng này từ Canberra. Ngoài ra, Pháp, Đức, Nhật Bản cũng có quan hệ thân thiện với liên minh “Ngũ nhãn” và họ có thể hợp tác để ứng phó với Tủng Quốc.
Hai tuần trước, Ấn Độ và Australia đã nhất trí cho phép 2 bên tiếp cận căn cứ quân sự của nhau.Đức HoàngTheo SCMP
Một trong những nỗi sợ hãi lớn
nhất của quân Đồng minh trong Thế chiến thứ hai là Adolf Hitler và Đức
Quốc xã sẽ sử dụng cái gọi là Wunderwaffen, hay “vũ khí kỳ diệu”. Một số
vũ khí được đồn đại của phát-xít Đức khá kỳ quặc, như máy phát động đất
và tia tử thần. Nhưng những thứ khác, như vũ khí vi trùng, tên lửa và
khí độc mới, thì hoàn toàn khả thi. Và điều đáng ngại nhất là khả năng
người Đức sẽ chế tạo và kích nổ một quả bom nguyên tử.
Vào đầu Thế chiến II, Đức đã vượt xa các nước khác trong nghiên cứu hạt nhân. Năm 1938, các nhà khoa học Đức phát hiện ra sự phân hạch hạt nhân. Người Đức thậm chí đã thành lập một đơn vị khoa học đặc biệt, đứng đầu là nhà vật lý lượng tử Werner Karl Heisenberg, có nhiệm vụ phát triển vũ khí hạt nhân và tích trữ kho urani cho nỗ lực này.
Để tìm hiểu sự thật, năm 1943 người Mỹ đã tổ chức một đơn vị đặc nhiệm bí mật có nhiệm vụ khám phát bí mật hạt nhân của Đức quốc xã và bắt cóc các nhà khoa học hàng đầu của họ. Đơn vị có tên Phái bộ Alsos này, được đặt mật danh là “Tia chớp A”, bao gồm các nhà khoa học và sĩ quan phản gián, đứng đầu là Đại tá Boris T. Pash. Là một sĩ quan phản gián từng phụ trách an ninh cho chương trình sở hữu vũ khí hạt nhân của Mỹ- Dự án Manhattan, ông Pash từng phát hiện ra một đường dây gián điệp tìm cách đánh cắp vũ khí hạt nhân.
Đại tá Pash và nhóm của ông ban đầu theo quân Đồng minh lên mặt trận Italy và Pháp, thẩm vấn các nhà khoa học Đức bị bắt và thu giữ tài liệu nghiên cứu. Ban đầu họ đi đến kết luận người Đức không có khả năng phát triển một vũ khí hạt nhân nhưng lại không có bằng chứng rõ ràng. Và trong khi thế giới bắt đầu manh nha một cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và Mỹ, người Mỹ ngày càng lo lắng việc các nhà khoa học Đức Quốc xã và các nghiên cứu hạt nhân của Đức có thể bị Liên Xô thu giữ khi chiến tranh kết thúc.
Để ngăn chặn
điều đó xảy ra, Pash đã lãnh đạo đơn vị “Tia chớp A” tiến hành một sứ
mạng táo bạo và nguy hiểm nhất của họ: băng qua chiến tuyến và xâm nhập
vào lãnh thổ Đức.
"Chiến dịch Lớn": Lùng ra phòng thí nghiệm hạt nhân của Đức Quốc xã
Khi đơn vị nhỏ của Pash xâm nhập vào lãnh thổ kẻ thù vào ngày 22/4/1945, trong một sứ mạng có tên “Chiến dịch Lớn”, họ chỉ được bảo vệ bởi hai chiếc xe bọc thép, bốn xe jeep gắn súng máy và một số vũ khí Đức thu giữ được. Mặc dù khi đó chế độ Đức Quốc xã đang trên đà sụp đổ, đơn vị này vẫn đối mặt với mối đe dọa từ những đơn vị kháng cự của Đức, được gọi là Wehrwulf, gồm những thanh niên Đức Quốc xã cực đoan.
Đi trước cả lực lượng Đồng minh, nhóm “Tia chớp A” lùng sục khắp các vùng nông thôn quanh Heidelberg, hướng tới thị trấn Haigerloch về phía Nam. May mắn cho Pash, người Đức trong thị trấn tin rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc nên đã chủ động đầu hàng, treo hàng loạt tờ giấy trắng từ các cửa sổ và cột điện.
Trong một cái hang cách không xa Haigerloch, Đại tá Pash đã tìm thấy "phần thưởng cho sứ mệnh để đời" của mình: một phòng thí nghiệm hạt nhân của Đức quốc xã, với một lò phản ứng đang thử nghiệm. Người Mỹ bắt đầu tháo dỡ nó ngay ngày hôm sau, rồi phá hủy địa điểm. Sau đó Pash chia nhỏ đội của mình, tiếp tục săn lùng các nhà khoa học Đức đã lẩn trốn.
Vào
ngày 24/4, nhóm của Pash đã có một phát hiện lớn khác: một nhà máy dệt
và các tòa nhà xung quanh đã được chuyển đổi thành phòng thí nghiệm phục
vụ các nỗ lực nghiên cứu hạt nhân của Đức. Ở đó họ đã bắt giữ được 25
nhà khoa học. Qua các cuộc thẩm vấn, Pash biết rằng các tài liệu nghiên
cứu của Đức đã không bị phá hủy như các nhà khoa học tuyên bố trước đó,
mà được niêm phong trong một chiếc trống, rồi đánh chìm xuống một bến
tàu. Nhóm của Pash sau đó đã thu hồi được chiếc trống này.
Cuối cùng đội của ông còn phát hiện một kho urani và nước nặng (một dạng nước chứa lượng hydro lớn hơn bình thường), được chôn trong một cánh đồng gần Haigerloch. Họ thậm chí xác định được văn phòng của Heisenberg, dù nhà khoa học hạt nhân này đã biến mất. Một tuần trước đó, Heisenberg đã chạy trốn bằng tàu hỏa và xe đạp trở về nhà của mình ở vùng núi Bavaria, cách đó hơn 300 km.
Cuộc săn lùng Heisenberg
“Chiến dịch Lớn” kết thúc nhưng Pash vẫn muốn bắt được Heisenberg. Lần theo những đầu mối, ông tìm đến vùng núi Alps ở Bavaria, Đức. Sau khi lực lượng thanh niên Quốc xã Wehrulf phá hủy một cây cầu quan trọng bắc qua hẻm núi, “Tia chớp A” phải từ bỏ các phương tiện xe cộ, Pash dẫn 19 người trong đội leo bộ lên núi.
Khi đến thị trấn Urfeld gần hồ Walchen trên núi cao, họ thấy người Đức đầu hàng hàng loạt. Khoảng 700 tên lính SS nhường đường cho đội quân của Pash. Nhưng viên Đại tá chỉ quan tâm tới việc tìm ra Heisenberg. Sau khi thẩm vấn người dân địa phương, Pash đã lần ra nhà khoa học và gia đình ông ta trong một căn nhà trên núi vào ngày 2/5/1945. Chỉ hai ngày trước đó, Hitler đã tự sát trong boongke ngầm ở Berlin.
Các nhà khoa học Đức cuối cùng được đưa đến một ngôi nhà an toàn có tên Farm Hall ở Anh. Họ công khai tuyên bố đã chống lại Đức quốc xã và từng tìm cách phá hoại các nghiên cứu để Hitler không thể phát triển được bom hạt nhân.
Tình báo Anh đã bí mật cài máy nghe trộm tại Farm Hall và biết được rằng, nhóm khoa học gia Đức đã rất bất ngờ khi biết người Mỹ kích nổ thành công một quả quả bom nguyên tử ở Hiroshima. Otto Hahn, nhà khoa học đã phát hiện ra sự phân hạch hạt nhân, là người chống Đức quốc xã và không tham gia vào nỗ lực nghiên cứu hạt nhân của Hitle, cảm thấy cá nhân ông cũng phải chịu trách nhiệm khi những khám phá ban đầu của ông đã dẫn đến nhiều cái chết khủng khiếp.
Theo baotintuc.vn
Con đường tới thế giới tình báo
Cha
của Amy Thorpe là một sĩ quan Hải quân Mỹ, thường xuyên xa nhà. Khi 11
tuổi, cô đã dùng bưu thiếp và sách hướng dẫn du lịch để dựng bối cảnh về
thành phố Naples (Italy) cho cuốn tiểu thuyết lãng mạn mình viết có tên
Fioretta. Một bản cuốn tiểu thuyết tình cờ tới tay Alberto Lais, tùy
viên hải quân đứng tuổi nhưng tâm hồn trẻ trung tại Đại sứ quán Italy ở
Washington, DC.
Khi cha Amy Thorpe rời khỏi Hải quân để học luật, ông đã đưa con gái tới thủ đô nước Mỹ, tại đây cô đã gặp Lais. Họ đã có một mối quan hệ thuần khiết. Lais gọi Amy Thorpe là “cô gái vàng”. Khi tới Washington, cô gái Amy Thorpe 18 tuổi khi đó rất xinh đẹp, duyên dáng, nền tảng giáo dục tốt. Với đôi mắt xanh và mái tóc màu hổ phách, cô là thỏi nam châm hút đàn ông.
Năm 1930, Amy Thorpe đột nhiên mang thai khi 19 tuổi mà không biết ai là bố đứa bé. Cô thoát vụ bê bối bằng cách lấy Arthur Pack, một nhà ngoại giao Anh gấp đôi tuổi cô. Arthur là Bí thư thứ hai tại Đại sứ quán Anh. Cuộc hôn nhân của họ ngay từ đầu đã trục trặc, đặc biệt là sau khi Arthur thuyết phục cô trao con trai Tony cho cha mẹ nuôi sau khi bé chào đời ở London 5 tháng sau đám cưới. Sau khi sinh thêm con gái, mối quan hệ của họ cũng không khá hơn mấy.
Sau khi kết hôn với Arthur, Betty có thêm quốc tịch Anh và là vợ một nhà ngoại giao. Đột nhiên, cô thấy mình có điều kiện mới để thỏa mãn khao khát phiêu lưu cả về tình dục và chính trị. Trong số người tình của cô có một nhà báo Anh. Người này đã giới thiệu cô với ông trùm báo chí Lord Beaverbrook và cả bạn bè mình trong tình báo Anh. Họ đều nhận thấy Betty có sự kết hợp hoàn hảo của sắc đẹp, trí tuệ và chút lả lơi để trở thành điệp viên rất hữu ích.
Arthur Pack được điều chuyển sang Madrid ngay trước Nội chiến Tây Ban Nha. Tại đây, Betty đã dấn thân vào các hoạt động bí mật. Cô giúp chuyển những người theo chủ nghĩa Dân tộc nổi dậy tới nơi an toàn, chuyển đồ cung ứng của Hội chữ thập Đỏ cho lực lượng của Francisco Franco, điều phối cuộc sơ tán bằng tàu khu trục cho nhân viên Đại sứ quán Anh từ Bắc Tây Ban Nha và tham gia vào các vấn đề ngoại giao. Các hoạt động này ngừng khi cô bị bạn bè phe Dân tộc tố là điệp viên của phe Cộng hòa.
Mùa Thu năm 1937, đi cùng con gái nhỏ và vú em, Betty Pack lên tàu Warsaw Express đi Paris mà theo lời cô là để “trở thành một thành viên của Cơ quan Tình báo Bí mật của Nữ hoàng Anh”. Cô nhanh chóng được một nhóm đàn ông trẻ làm việc cho Bộ Ngoại giao Ba Lan tiếp nhận nhờ sự giúp đỡ của chồng. Arthur Pack, giờ là một quan chức tại Đại sứ quán ở Ba Lan, đã thông báo với vợ là mình yêu người khác. Không lâu sau đó, Arthur có huyết khối trong não và phải vào viện dưỡng lão ở Anh.
Betty Pack được tình báo Anh tuyển dụng và cấp cho khoản chi phí giải trí 20 bảng để khai thác các nguồn tin Ba Lan giá trị cao. Trong lần khai thác đầu tiên với một quan chức nam, cô kể lại sau này: “Cuộc gặp của chúng tôi rất hiệu quả. Tôi để cho anh ta ân ái bao nhiêu tùy thích vì điều này đảm bảo tôi có luồng thông tin chính trị suôn sẻ mà tôi cần”.
Betty gặp mục tiêu tiếp theo tại tiệc tối của Đại sứ Mỹ. Người Ba Lan đẹp trai ngồi cạnh cô là một phụ tá riêng của Ngoại trưởng Josef Beck. Mặc dù đã kết hôn nhưng phụ tá này rõ ràng bị ấn tượng trước bạn cùng bàn ăn và sáng hôm sau đã gửi hoa hồng cho cô.
Từ anh này, Pack biết rằng các chuyên gia Ba Lan đang làm việc để vượt qua mối đe dọa mà cỗ máy giải mã Enigma của Đức gây ra. Mức độ đóng góp của Betty trong cung cấp các thông tin “cực mật” đã giúp phe Đồng minh có lợi thế trước Đức Quốc xã. Anh đã giải mã được nhiều thông tin vô tuyến của Đức trong Thế chiến II là nhờ nỗ lực của người Ba Lan – những người đã hợp tác với Pháp để giải mã hệ thống Enigma.
Ở Prague, Betty có bằng chứng độc quyền về các kế hoạch của Adolf Hitler đối với Tiệp Khắc. Vì lý do nào đó chưa rõ, mùa Thu năm 1938, Đại sứ đã lệnh cho Betty rời Ba Lan. Tháng 4 sau đó, khi tạm hòa hoãn mối căng thẳng gia đình, Arthur Pack lúc này đã khỏi bệnh và cùng vợ tới Nam Mỹ. Tại đây, anh đảm nhiệm bộ phận thương mại của Đại sứ quán ở Santiago, Chile.
Khi Thế chiến II bắt đầu, Betty Pack đã đề nghị phục vụ tình báo Anh. Cô viết bài báo chính trị cho các tờ báo tiếng Anh và Tây Ban Nha ở Chile. Mùa Xuân năm 1940, Anh đã tăng tốc nỗ lực tuyên truyền và tình báo ở khu vực này, đặt khu vực dưới sự quản lý của Điều phối An ninh Anh (BSC) do một người Canada tên là William Stephenson phụ trách.
Betty Pack để chồng ở lại và tới New York, nơi cô có mật danh Cynthia và có nhiệm vụ ở Washington, D.C. Cô hoạt động dưới vỏ bọc là nhà báo. Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của cô là thu thập hệ thống mật mã Hải quân Italy. Với nhiệm vụ này, việc Cynthia liên lạc lại với bạn cũ Alberto Lais là chuyện dễ hiểu. Lais giờ là đô đốc và tùy viên hải quân tại Đại sứ quán Italy ở Mỹ.
Các
thông tin công khai sau này cho biết Cynthia đã lén xem sách mật mã của
viên đô đốc Hải quân Italy 60 tuổi này cũng như xem các kế hoạch vô
hiệu hóa tàu Italy ở cảng Mỹ để tránh bị tịch thu. Các thông tin đều
nhất trí rằng thành công của Cynthia đã góp phần vào chiến thắng của Anh
ở Địa Trung Hải. Cynthia mô tả mối quan hệ của mình với Lais là “tình
cảm hơn tình dục” và cho biết cô đã nhận thông tin về kế hoạch phá hoại
các con tàu trực tiếp từ Lais và có thể tiếp cận các thông tin nhạy cảm
từ trợ lý của Lais nhờ sự hỗ trợ của ông này.
Sau này, năm 1967, những người thừa kế của ông Lais đã kiện một tác giả Anh ra tòa án Italy vì phỉ báng ông (người qua đời năm 1951). Họ khẳng định ông không tiết lộ bí mật quân sự và đã thắng kiện. Năm 1988, hai con trai của Lais đã phản đối việc xuất bản một phần thông tin trong cuốn sách bán chạy “Washington Goes to War” của tác giả David Brinkley và thuyết phục Bộ Quốc phòng Italy đăng thông cáo bác bỏ thông tin trên ba tờ báo hàng đầu ở Bờ Đông của Mỹ.
Nhiệm vụ khó khăn
Nhiệm
vụ tiếp theo của Cynthia là một trong những nhiệm vụ giúp cô có chỗ
đứng nổi tiếng trong làng tình báo. Khi đó, Chính phủ Vichy (Chính phủ
Pháp ủng hộ phe Trục, được thành lập sau khi Pháp sụp đổ năm 1940) chống
đối người Anh kịch liệt. Với vỏ bọc là một nhà báo Mỹ, Cynthia đã gọi
điện cho Đại sứ quán Pháp vào tháng 5/1941 và giới thiệu mình với tùy
viên báo chí Charles Brousse. Ngay lập tức, Brousse lúc đó 49 tuổi, đã
kết hôn vài lần và có tư tưởng chống Đức Quốc xã, đã mê đắm Cynthia.
Mối quan hệ này bắt đầu bằng những mẩu tin tình báo vào tài liệu. Nhưng tới tháng 7, Cynthia đã cảm thấy đủ tự tin để nói dối với Brousse là mình làm việc cho người Mỹ. Vị quan chức Pháp sớm trao cho người tình các thư từ, điện tín, tài liệu và thông tin về hoạt động, nhân sự của đại sứ quán. Để tránh bị Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) giám sát, Cynthia đã chuyển vào khách sạn nơi Brousse và vợ ông này ở.
Tháng 3/1942, Cynthia được chỉ thị rằng London muốn có mật mã của Hải quân Vichy. Khi nghe thông tin về yêu cầu mới nhất của Cynthia, Brousse đã vung hai tay lên một cách thất vọng. Chỉ có quan chức phụ trách mật mã và trợ lý của ông ta mới có thể tiếp cận phòng mật mã. Tài liệu mật mã được chia thành nhiều quyển, được khóa trong két an toàn. Đêm nào cũng có bảo vệ và chó canh gác khu vực đó.
Sau hàng loạt nỗ lực, Cynthia cuối cùng đã thử cách trực tiếp là ăn trộm. Ông Stephenson thuộc BSC đã nhờ vả một tên du côn có biệt danh là “Georgia bẻ khóa”. Về phần mình, Brousse nói với bảo vệ ca đêm của đại sứ quán là ông cần nơi bí mật để làm một số công việc và trả tiền cho bảo vệ để bỏ qua.
Brousse và Cynthia sau đó tới đại sứ quán vài đêm liền để bảo vệ quen với sự có mặt của họ. Vào đêm họ định trộm tài liệu, họ lên kế hoạch đưa cho bảo vệ một ly rượu có thuốc mê. Sau đó, họ sẽ cho tên bẻ khóa két sắt vào phòng mật mã ở tầng hầm, mở két sắt và chuyển sách mật mã cho một người ở BSC đang chờ trên bãi cỏ dưới gốc cây. Sau đó, họ chờ sao chép sách rồi trả lại vị trí cũ.
Mọi việc dường như diễn ra theo đúng kế hoạch. Thuốc an thần đã hạ gục người bảo vệ và cả con chó của ông ta (thức ăn của nó cũng bị đánh thuốc). “George bẻ khóa” mở được két an toàn nhưng không có đủ thời gian để di chuyển và sao chép các cuốn sách. Họ buộc phải rút lui vội vã. Trong lần thứ hai, không có “George bẻ khóa” giúp đỡ, kế hoạch thất bại vì Cynthia không thể mở nổi két.
Khi vào phòng mật mã mang theo chìa khóa của Brousse để thử lần cuối, họ hồi hộp ngồi trên chiếc ghế sô pha quen thuộc trong đại sứ quán. Khi đó, linh tính của Cynthia mách bảo cô có điều gì không ổn. Ngay lập tức, cô bật dậy và cởi quần áo. Brousse vừa nhìn người tình vừa nói: “Em điên à?”. Lúc này, Cynthia chỉ còn đeo vòng cổ và đi giày cao gót. Cô thuyết phục ông cởi đồ. Cánh cửa đột nhiên bật mở, ánh đèn pin xuyên thủng màn đêm. Khi đèn rọi vào Cynthia, cô nhanh chóng lấy áo lót che người.
Người
bảo vệ vội nói: “Tôi xin lỗi nghìn lần”. Ông ta quay đèn đi chỗ khác,
không còn nghi ngờ nữa và trở về phòng trong tầng hầm. Cynthia cho gã bẻ
khóa vào. Toàn bộ kế hoạch suôn sẻ.
Mật mã của chính phủ Vichy được sử dụng rất hiệu quả khi quân Đồng minh đổ bộ vào Bắc Phi bị Pháp chiếm đóng tháng 11/1942. Khi Mỹ giờ cũng tham gia cuộc chiến, Cynthia đã làm việc cho cả OSS Mỹ và tình báo Anh. Cô coi mình là một người yêu nước. Cô từng nói: “Xấu hổ à? Không một chút. Cấp trên nói rằng nhờ công việc của tôi mà hàng nghìn mạng người Mỹ và Anh được cứu sống.Công việc khiến tôi ở trong những tình huống mà những phụ nữ đứng đắn sẽ quay đầu, nhưng tôi toàn tâm toàn ý với công việc. Dùng phương pháp đứng đắn thì không thể thắng trong chiến tranh”.
Sau này, Arthur Pack tự tử năm 1945. Brousse ly dị vợ và kết hôn với Cynthia. Họ sống trong một lâu đài trung cổ ở miền núi nước Pháp. Tuy nhiên, kết cục lại bi thảm. Vào ngày 1/12/1963, Betty chết vì ung thư miệng. 10 năm sau, chồng cô bị điện giật khi đang nằm trên tấm chăn điện. Một phần của lâu đài đẹp như cổ tích của họ cũng bị cháy rụi.
Theo baotintuc.vn
Cơ Quan Tình Báo Mật của Trung Quốc | Trung Quốc Không Kiểm Duyệt
Liên minh tình báo Five Eyes hợp tác đối phó với Trung Quốc?
Chuyên gia nhận định, liên minh tình báo Five Eyes, gồm Mỹ, Australia, Anh, Canada và New Zealand đang đoàn kết gia tăng áp lực với Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực.
Giới phân tích
cho rằng trong bối cảnh các thành viên của liên minh Five Eyes đụng độ
với Trung Quốc trên một loạt các lĩnh vực - bao gồm ngăn chặn dịch
COVID-19, công nghệ 5G và vấn đề Hong Kong. Các nước này cũng đã nhận
thức được rằng không thể đơn lẻ đối phó với Bắc Kinh.
Tuy nhiên, nỗ lực phối hợp của 5 nước
thành viên chưa được truyền thông chú ý. Dấu hiệu cho thấy nhóm Five
Eyes cùng hợp tác chống Trung Quốc được hé lộ từ 2 năm trước, khi Canada
bắt giữ bà Mạnh Vãn Châu, Giám đốc tài chính (CFO) của Tập đoàn công
nghệ khổng lồ Trung Quốc Huawei, theo yêu cầu của Mỹ.
Vụ bắt giữ khiến Bắc Kinh phản ứng dữ
dội, cho rằng động thái này là nỗ lực kiềm chế sự trỗi dậy của Trung
Quốc trong lĩnh vực công nghệ. Vài tuần sau đó, Trung Quốc đáp trả bằng
việc bắt giữ hai người Canada với cáo buộc lấy cắp bí mật nhà nước.
Đầu năm nay, căng thẳng tiếp diễn khi
đại dịch COVID-19 bùng phát từ thành phố Vũ Hán của Trung Quốc. Mỹ đổ
lỗi cho Trung Quốc để mầm bệnh lây lan ra ngoài biên giới, trong khi đó
Thủ tướng Australia Scott Morrison là người đầu tiên kêu gọi điều tra về
nguồn gốc của COVID-19.
Đáp trả, Bắc Kinh áp thuế quan với lúa
mạch nhập khẩu từ Australia, đồng thời cảnh báo công dân, sinh viên
Trung Quốc không nên đến nước này.
Li Lianjun, Giám đốc Trung tâm Nghiên
cứu Australia tại Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh đồng ý rằng, các thành viên
của liên minh Five Eyes đang nỗ lực hợp tác với nhau chống Trung Quốc.
"Không có gì bất ngờ nếu nhóm Five
Eyes hợp tác với nhau 'chiến đấu với Trung Quốc', và thậm chí nhóm G7+
cũng có thể hợp tác theo cách này. Thủ tướng Morrison đang kiên quyết
chống Trung Quốc, và điều này làm tổn hại lớn mối quan hệ song thương.
Dường như ông Morrison sẵn sàng hy sinh quan hệ thương mại với Trung
Quốc để đòi lại 'giá trị' của mình", chuyên gia Li nói với South China Morning Post.
John Blaxland, giáo sư nghiên cứu tình
báo và an ninh quốc tế tại Đại học Quốc gia Australia, cho rằng việc 5
nước Five Eyes cùng hợp tác chống Trung Quốc là minh chứng chiến lược
"ngoại giao chiến lang" của Bắc Kinh đã phản tác dụng.
"Nếu ngoại giao chiến lang nhằm đe
dọa các hành vi bất hợp pháp, nó thực sự đã bị phản tác dụng vì hiện đã
có sự liên kết giữa các nước Five Eyes, giữa các bộ trưởng và chính phủ
ngoài lĩnh vực tình báo, và họ khá vui mừng thừa nhận điều này", ông Blaxland nói.
Liên minh tình báo "Ngũ nhãn" gia tăng đối đầu Trung Quốc
Dân trí Giới quan sát nhận định
liên minh tình báo “Ngũ nhãn” gồm 5 nước Australia, Anh, Canada, New
Zealand và Mỹ đang thể hiện quan điểm cứng rắn với Trung Quốc trên nhiều
“mặt trận”.
>>Liên minh “Ngũ nhãn” lộ báo cáo nghi Trung Quốc “giấu” dịch Covid-19
>>Sức mạnh liên minh tình báo ‘Ngũ Nhãn’ đối với lệnh cấm Huawei
>>Trung Quốc hạn chế quan chức nghỉ hưu sang các nước "ngũ nhãn"
SCMP dẫn ý kiến các chuyên gia cho rằng liên minh “Ngũ nhãn” và Trung Quốc đang đối đầu trên nhiều lĩnh vực, từ cách ứng phó dịch Covid 19, vấn đề Hong Kong và mạng lưới 5G. Giới quan sát nhận định, các nước trong liên minh dường như hiểu được rằng nếu họ đối đầu riêng rẽ với Trung Quốc thì nỗ lực đối phó Bắc Kinh sẽ khó thành hiện thực.
Các dấu hiệu cho thấy sự hợp tác giữa liên minh tình báo bắt đầu từ 2 năm trước khi Canada bắt giám đốc tài chính Huawei Mạnh Vãn Chu theo đề nghị của Mỹ.
Vụ việc đã khiến Trung Quốc nổi giận và cho rằng đây là động thái nhằm kiểm chế sự phát triển kỹ thuật của quốc gia Đông Á. Trong vài tuần sau, Bắc Kinh đã bắt 2 công dân Canada với cáo buộc phạm tội liên quan tới an ninh quốc gia Trung Quốc.
Mỹ, trong khi đó, áp hàng loạt lệnh hạn chế về giao lưu khoa học và kỹ thuật với Trung Quốc, ban hành quy tắc hạn chế cấp thị thực cho các nhà nghiên cứu Trung Quốc.
Căng thẳng tiếp tục leo thang khi dịch Covid-19 khởi phát từ Trung Quốc lây lan ra khắp toàn cầu khiến hàng triệu người nhiễm và hàng trăm nghìn người tử vong.
Mỹ cáo buộc Trung Quốc đã “giấu dịch” và khiến mầm bệnh lây lan gây thiệt hại nghiêm trọng cho thế giới. Trong khi đó, Australia đã kêu gọi mở cuộc điều tra quốc tế độc lập về nguồn gốc Covid-19.
Tháng trước, Mỹ và Anh chỉ trích quyết định của Trung Quốc khi tính áp luật an ninh quốc gia lên Hong Kong. Anh tuyên bố sẵn sàng để ngỏ hàng triệu thị thực cho người Hong Kong và mở ra con đường trở thành công dân Anh.
Georgina Downer, nhà tư vấn địa chính trị và chiến lược của công ty Tenjin (Australia), cho biết có những dấu hiệu rõ ràng rằng 5 nước “Ngũ nhãn” đang gia tăng đối phó với Trung Quốc.
“Sự thay đổi nhanh chóng về mặt chính sách liên quan tới mạng lưới 5G ở Anh và sự đồng thuận giữa các nước “Ngũ nhãn” về việc lập nhóm D10 gồm các quốc gia dân chủ có chung chí hướng hợp tác trong lĩnh vực 5G là ví dụ”, Downer nhận định.
Chuyên gia trên cho rằng chính sách ngoại giao cứng rắn của Trung Quốc được xem là yếu tố đã khiến các nước “Ngũ nhãn” phối hợp hơn trong việc đưa ra những cân nhắc chiến lược về các khoản đầu tư của Trung Quốc trong hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng của các nước.
Bà Downer cho rằng hiện có “một nỗ lực đồng lòng và công khai hơn giữa các nước “Ngũ nhãn” trong việc tập trung vào hợp tác kinh tế giữa các nước chia sẻ các giá trị và tư duy chiến lược”.
Chuyên gia Li Lianjun từ Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh (Trung Quốc) cho rằng các thành viên của liên minh “Ngũ nhãn” đang hợp tác chặt chẽ hơn. Ông Li cho biết ông không ngạc nhiên nếu nhóm G7 mở rộng cũng hoạt động cùng nhau theo hướng đối đầu với Trung Quốc.
Ông John Blaxland, giáo sư tại Đại học Quốc gia Australia, cho rằng sự đồng thuận của các thành viên trong liên minh “Ngũ nhãn” là dấu hiệu cho thấy lối “ngoại giao chiến lang” của Trung Quốc (ám chỉ những nhà ngoại giao có quan điển cứng rắn) đã gây tác dụng ngược.
Ông Blaxland cũng cho rằng sự hợp tác trong tương lai sẽ không chỉ dừng ở 5 nước. Trung Quốc tháng trước đã đánh thuế 80,5% lúa mạch Australia, nhưng Ấn Độ đã đồng ý tăng nhập mặt hàng này từ Canberra. Ngoài ra, Pháp, Đức, Nhật Bản cũng có quan hệ thân thiện với liên minh “Ngũ nhãn” và họ có thể hợp tác để ứng phó với Tủng Quốc.
Hai tuần trước, Ấn Độ và Australia đã nhất trí cho phép 2 bên tiếp cận căn cứ quân sự của nhau.Đức HoàngTheo SCMP
Sứ mạng bí mật bắt cóc chuyên gia bom hạt nhân của Hitler
15/06/2020
05:27
GMT+7
Vào đầu Thế chiến II, Đức đã vượt xa các nước trong nghiên cứu hạt nhân. Năm 1943 người Mỹ đã tổ chức đơn vị đặc nhiệm khám phá bí mật hạt nhân của Đức quốc xã và bắt cóc các nhà khoa học hàng đầu.
Werner
Karl Heisenberg, nhà khoa học Đức từng đoạt giải Nobel, trở thành nhân
vật chủ chốt trong dự án bom nguyên tử của Hitler. Ảnh: Wikimedia
Commons
|
Vào đầu Thế chiến II, Đức đã vượt xa các nước khác trong nghiên cứu hạt nhân. Năm 1938, các nhà khoa học Đức phát hiện ra sự phân hạch hạt nhân. Người Đức thậm chí đã thành lập một đơn vị khoa học đặc biệt, đứng đầu là nhà vật lý lượng tử Werner Karl Heisenberg, có nhiệm vụ phát triển vũ khí hạt nhân và tích trữ kho urani cho nỗ lực này.
Để tìm hiểu sự thật, năm 1943 người Mỹ đã tổ chức một đơn vị đặc nhiệm bí mật có nhiệm vụ khám phát bí mật hạt nhân của Đức quốc xã và bắt cóc các nhà khoa học hàng đầu của họ. Đơn vị có tên Phái bộ Alsos này, được đặt mật danh là “Tia chớp A”, bao gồm các nhà khoa học và sĩ quan phản gián, đứng đầu là Đại tá Boris T. Pash. Là một sĩ quan phản gián từng phụ trách an ninh cho chương trình sở hữu vũ khí hạt nhân của Mỹ- Dự án Manhattan, ông Pash từng phát hiện ra một đường dây gián điệp tìm cách đánh cắp vũ khí hạt nhân.
Đại tá Pash và nhóm của ông ban đầu theo quân Đồng minh lên mặt trận Italy và Pháp, thẩm vấn các nhà khoa học Đức bị bắt và thu giữ tài liệu nghiên cứu. Ban đầu họ đi đến kết luận người Đức không có khả năng phát triển một vũ khí hạt nhân nhưng lại không có bằng chứng rõ ràng. Và trong khi thế giới bắt đầu manh nha một cuộc Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và Mỹ, người Mỹ ngày càng lo lắng việc các nhà khoa học Đức Quốc xã và các nghiên cứu hạt nhân của Đức có thể bị Liên Xô thu giữ khi chiến tranh kết thúc.
Phòng
thí nghiệm của Werner Heisenberg (trái) được đặt bên dưới một nhà thờ
thời Trung cổ ở Haigerloch, Đức, nay được biến thành Bảo tàng
Atomkeller. Ảnh: Wikipedia
|
"Chiến dịch Lớn": Lùng ra phòng thí nghiệm hạt nhân của Đức Quốc xã
Khi đơn vị nhỏ của Pash xâm nhập vào lãnh thổ kẻ thù vào ngày 22/4/1945, trong một sứ mạng có tên “Chiến dịch Lớn”, họ chỉ được bảo vệ bởi hai chiếc xe bọc thép, bốn xe jeep gắn súng máy và một số vũ khí Đức thu giữ được. Mặc dù khi đó chế độ Đức Quốc xã đang trên đà sụp đổ, đơn vị này vẫn đối mặt với mối đe dọa từ những đơn vị kháng cự của Đức, được gọi là Wehrwulf, gồm những thanh niên Đức Quốc xã cực đoan.
Đi trước cả lực lượng Đồng minh, nhóm “Tia chớp A” lùng sục khắp các vùng nông thôn quanh Heidelberg, hướng tới thị trấn Haigerloch về phía Nam. May mắn cho Pash, người Đức trong thị trấn tin rằng chiến tranh sẽ sớm kết thúc nên đã chủ động đầu hàng, treo hàng loạt tờ giấy trắng từ các cửa sổ và cột điện.
Trong một cái hang cách không xa Haigerloch, Đại tá Pash đã tìm thấy "phần thưởng cho sứ mệnh để đời" của mình: một phòng thí nghiệm hạt nhân của Đức quốc xã, với một lò phản ứng đang thử nghiệm. Người Mỹ bắt đầu tháo dỡ nó ngay ngày hôm sau, rồi phá hủy địa điểm. Sau đó Pash chia nhỏ đội của mình, tiếp tục săn lùng các nhà khoa học Đức đã lẩn trốn.
Một
bản sao lò phản ứng hạt nhân của Đức Quốc xã được quân Đồng minh phát
hiện, trưng bày trong Bảo tàng Atomkeller ở Haigerloch, Đức. Ảnh: AP
|
Cuối cùng đội của ông còn phát hiện một kho urani và nước nặng (một dạng nước chứa lượng hydro lớn hơn bình thường), được chôn trong một cánh đồng gần Haigerloch. Họ thậm chí xác định được văn phòng của Heisenberg, dù nhà khoa học hạt nhân này đã biến mất. Một tuần trước đó, Heisenberg đã chạy trốn bằng tàu hỏa và xe đạp trở về nhà của mình ở vùng núi Bavaria, cách đó hơn 300 km.
Nhóm "Tia chớp A" tháo dỡ lò phản ứng thử nghiệm của Đức quốc xã.
|
“Chiến dịch Lớn” kết thúc nhưng Pash vẫn muốn bắt được Heisenberg. Lần theo những đầu mối, ông tìm đến vùng núi Alps ở Bavaria, Đức. Sau khi lực lượng thanh niên Quốc xã Wehrulf phá hủy một cây cầu quan trọng bắc qua hẻm núi, “Tia chớp A” phải từ bỏ các phương tiện xe cộ, Pash dẫn 19 người trong đội leo bộ lên núi.
Khi đến thị trấn Urfeld gần hồ Walchen trên núi cao, họ thấy người Đức đầu hàng hàng loạt. Khoảng 700 tên lính SS nhường đường cho đội quân của Pash. Nhưng viên Đại tá chỉ quan tâm tới việc tìm ra Heisenberg. Sau khi thẩm vấn người dân địa phương, Pash đã lần ra nhà khoa học và gia đình ông ta trong một căn nhà trên núi vào ngày 2/5/1945. Chỉ hai ngày trước đó, Hitler đã tự sát trong boongke ngầm ở Berlin.
Các nhà khoa học Đức cuối cùng được đưa đến một ngôi nhà an toàn có tên Farm Hall ở Anh. Họ công khai tuyên bố đã chống lại Đức quốc xã và từng tìm cách phá hoại các nghiên cứu để Hitler không thể phát triển được bom hạt nhân.
Tình báo Anh đã bí mật cài máy nghe trộm tại Farm Hall và biết được rằng, nhóm khoa học gia Đức đã rất bất ngờ khi biết người Mỹ kích nổ thành công một quả quả bom nguyên tử ở Hiroshima. Otto Hahn, nhà khoa học đã phát hiện ra sự phân hạch hạt nhân, là người chống Đức quốc xã và không tham gia vào nỗ lực nghiên cứu hạt nhân của Hitle, cảm thấy cá nhân ông cũng phải chịu trách nhiệm khi những khám phá ban đầu của ông đã dẫn đến nhiều cái chết khủng khiếp.
Theo baotintuc.vn
Chân dung điệp viên mỹ nhân kế nổi tiếng trong lịch sử
25/05/2020
06:02
GMT+7
Sinh ra với cái tên Amy Elizabeth Thorpe ngày 22/11/1910 ở Minneapolis (Mỹ), gia đình và bạn bè thường gọi cô là Betty. Với mật danh Cynthia, cô nổi tiếng là một trong những điệp viên thành công nhất lịch sử.
Betty Pack, nữ điệp viên quyến rũ của tình báo Anh.
|
Khi cha Amy Thorpe rời khỏi Hải quân để học luật, ông đã đưa con gái tới thủ đô nước Mỹ, tại đây cô đã gặp Lais. Họ đã có một mối quan hệ thuần khiết. Lais gọi Amy Thorpe là “cô gái vàng”. Khi tới Washington, cô gái Amy Thorpe 18 tuổi khi đó rất xinh đẹp, duyên dáng, nền tảng giáo dục tốt. Với đôi mắt xanh và mái tóc màu hổ phách, cô là thỏi nam châm hút đàn ông.
Năm 1930, Amy Thorpe đột nhiên mang thai khi 19 tuổi mà không biết ai là bố đứa bé. Cô thoát vụ bê bối bằng cách lấy Arthur Pack, một nhà ngoại giao Anh gấp đôi tuổi cô. Arthur là Bí thư thứ hai tại Đại sứ quán Anh. Cuộc hôn nhân của họ ngay từ đầu đã trục trặc, đặc biệt là sau khi Arthur thuyết phục cô trao con trai Tony cho cha mẹ nuôi sau khi bé chào đời ở London 5 tháng sau đám cưới. Sau khi sinh thêm con gái, mối quan hệ của họ cũng không khá hơn mấy.
Sau khi kết hôn với Arthur, Betty có thêm quốc tịch Anh và là vợ một nhà ngoại giao. Đột nhiên, cô thấy mình có điều kiện mới để thỏa mãn khao khát phiêu lưu cả về tình dục và chính trị. Trong số người tình của cô có một nhà báo Anh. Người này đã giới thiệu cô với ông trùm báo chí Lord Beaverbrook và cả bạn bè mình trong tình báo Anh. Họ đều nhận thấy Betty có sự kết hợp hoàn hảo của sắc đẹp, trí tuệ và chút lả lơi để trở thành điệp viên rất hữu ích.
Arthur Pack được điều chuyển sang Madrid ngay trước Nội chiến Tây Ban Nha. Tại đây, Betty đã dấn thân vào các hoạt động bí mật. Cô giúp chuyển những người theo chủ nghĩa Dân tộc nổi dậy tới nơi an toàn, chuyển đồ cung ứng của Hội chữ thập Đỏ cho lực lượng của Francisco Franco, điều phối cuộc sơ tán bằng tàu khu trục cho nhân viên Đại sứ quán Anh từ Bắc Tây Ban Nha và tham gia vào các vấn đề ngoại giao. Các hoạt động này ngừng khi cô bị bạn bè phe Dân tộc tố là điệp viên của phe Cộng hòa.
Mùa Thu năm 1937, đi cùng con gái nhỏ và vú em, Betty Pack lên tàu Warsaw Express đi Paris mà theo lời cô là để “trở thành một thành viên của Cơ quan Tình báo Bí mật của Nữ hoàng Anh”. Cô nhanh chóng được một nhóm đàn ông trẻ làm việc cho Bộ Ngoại giao Ba Lan tiếp nhận nhờ sự giúp đỡ của chồng. Arthur Pack, giờ là một quan chức tại Đại sứ quán ở Ba Lan, đã thông báo với vợ là mình yêu người khác. Không lâu sau đó, Arthur có huyết khối trong não và phải vào viện dưỡng lão ở Anh.
Betty Pack được tình báo Anh tuyển dụng và cấp cho khoản chi phí giải trí 20 bảng để khai thác các nguồn tin Ba Lan giá trị cao. Trong lần khai thác đầu tiên với một quan chức nam, cô kể lại sau này: “Cuộc gặp của chúng tôi rất hiệu quả. Tôi để cho anh ta ân ái bao nhiêu tùy thích vì điều này đảm bảo tôi có luồng thông tin chính trị suôn sẻ mà tôi cần”.
Betty gặp mục tiêu tiếp theo tại tiệc tối của Đại sứ Mỹ. Người Ba Lan đẹp trai ngồi cạnh cô là một phụ tá riêng của Ngoại trưởng Josef Beck. Mặc dù đã kết hôn nhưng phụ tá này rõ ràng bị ấn tượng trước bạn cùng bàn ăn và sáng hôm sau đã gửi hoa hồng cho cô.
Từ anh này, Pack biết rằng các chuyên gia Ba Lan đang làm việc để vượt qua mối đe dọa mà cỗ máy giải mã Enigma của Đức gây ra. Mức độ đóng góp của Betty trong cung cấp các thông tin “cực mật” đã giúp phe Đồng minh có lợi thế trước Đức Quốc xã. Anh đã giải mã được nhiều thông tin vô tuyến của Đức trong Thế chiến II là nhờ nỗ lực của người Ba Lan – những người đã hợp tác với Pháp để giải mã hệ thống Enigma.
Ở Prague, Betty có bằng chứng độc quyền về các kế hoạch của Adolf Hitler đối với Tiệp Khắc. Vì lý do nào đó chưa rõ, mùa Thu năm 1938, Đại sứ đã lệnh cho Betty rời Ba Lan. Tháng 4 sau đó, khi tạm hòa hoãn mối căng thẳng gia đình, Arthur Pack lúc này đã khỏi bệnh và cùng vợ tới Nam Mỹ. Tại đây, anh đảm nhiệm bộ phận thương mại của Đại sứ quán ở Santiago, Chile.
Khi Thế chiến II bắt đầu, Betty Pack đã đề nghị phục vụ tình báo Anh. Cô viết bài báo chính trị cho các tờ báo tiếng Anh và Tây Ban Nha ở Chile. Mùa Xuân năm 1940, Anh đã tăng tốc nỗ lực tuyên truyền và tình báo ở khu vực này, đặt khu vực dưới sự quản lý của Điều phối An ninh Anh (BSC) do một người Canada tên là William Stephenson phụ trách.
Betty Pack để chồng ở lại và tới New York, nơi cô có mật danh Cynthia và có nhiệm vụ ở Washington, D.C. Cô hoạt động dưới vỏ bọc là nhà báo. Nhiệm vụ quan trọng đầu tiên của cô là thu thập hệ thống mật mã Hải quân Italy. Với nhiệm vụ này, việc Cynthia liên lạc lại với bạn cũ Alberto Lais là chuyện dễ hiểu. Lais giờ là đô đốc và tùy viên hải quân tại Đại sứ quán Italy ở Mỹ.
Alberto Lais, tùy viên Hải quân Italy.
|
Sau này, năm 1967, những người thừa kế của ông Lais đã kiện một tác giả Anh ra tòa án Italy vì phỉ báng ông (người qua đời năm 1951). Họ khẳng định ông không tiết lộ bí mật quân sự và đã thắng kiện. Năm 1988, hai con trai của Lais đã phản đối việc xuất bản một phần thông tin trong cuốn sách bán chạy “Washington Goes to War” của tác giả David Brinkley và thuyết phục Bộ Quốc phòng Italy đăng thông cáo bác bỏ thông tin trên ba tờ báo hàng đầu ở Bờ Đông của Mỹ.
Nhiệm vụ khó khăn
Betty Pack đã dùng sự quyến rũ để lấy nhiều thông tin quan trọng.
|
Mối quan hệ này bắt đầu bằng những mẩu tin tình báo vào tài liệu. Nhưng tới tháng 7, Cynthia đã cảm thấy đủ tự tin để nói dối với Brousse là mình làm việc cho người Mỹ. Vị quan chức Pháp sớm trao cho người tình các thư từ, điện tín, tài liệu và thông tin về hoạt động, nhân sự của đại sứ quán. Để tránh bị Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) giám sát, Cynthia đã chuyển vào khách sạn nơi Brousse và vợ ông này ở.
Tháng 3/1942, Cynthia được chỉ thị rằng London muốn có mật mã của Hải quân Vichy. Khi nghe thông tin về yêu cầu mới nhất của Cynthia, Brousse đã vung hai tay lên một cách thất vọng. Chỉ có quan chức phụ trách mật mã và trợ lý của ông ta mới có thể tiếp cận phòng mật mã. Tài liệu mật mã được chia thành nhiều quyển, được khóa trong két an toàn. Đêm nào cũng có bảo vệ và chó canh gác khu vực đó.
Sau hàng loạt nỗ lực, Cynthia cuối cùng đã thử cách trực tiếp là ăn trộm. Ông Stephenson thuộc BSC đã nhờ vả một tên du côn có biệt danh là “Georgia bẻ khóa”. Về phần mình, Brousse nói với bảo vệ ca đêm của đại sứ quán là ông cần nơi bí mật để làm một số công việc và trả tiền cho bảo vệ để bỏ qua.
Brousse và Cynthia sau đó tới đại sứ quán vài đêm liền để bảo vệ quen với sự có mặt của họ. Vào đêm họ định trộm tài liệu, họ lên kế hoạch đưa cho bảo vệ một ly rượu có thuốc mê. Sau đó, họ sẽ cho tên bẻ khóa két sắt vào phòng mật mã ở tầng hầm, mở két sắt và chuyển sách mật mã cho một người ở BSC đang chờ trên bãi cỏ dưới gốc cây. Sau đó, họ chờ sao chép sách rồi trả lại vị trí cũ.
Mọi việc dường như diễn ra theo đúng kế hoạch. Thuốc an thần đã hạ gục người bảo vệ và cả con chó của ông ta (thức ăn của nó cũng bị đánh thuốc). “George bẻ khóa” mở được két an toàn nhưng không có đủ thời gian để di chuyển và sao chép các cuốn sách. Họ buộc phải rút lui vội vã. Trong lần thứ hai, không có “George bẻ khóa” giúp đỡ, kế hoạch thất bại vì Cynthia không thể mở nổi két.
Khi vào phòng mật mã mang theo chìa khóa của Brousse để thử lần cuối, họ hồi hộp ngồi trên chiếc ghế sô pha quen thuộc trong đại sứ quán. Khi đó, linh tính của Cynthia mách bảo cô có điều gì không ổn. Ngay lập tức, cô bật dậy và cởi quần áo. Brousse vừa nhìn người tình vừa nói: “Em điên à?”. Lúc này, Cynthia chỉ còn đeo vòng cổ và đi giày cao gót. Cô thuyết phục ông cởi đồ. Cánh cửa đột nhiên bật mở, ánh đèn pin xuyên thủng màn đêm. Khi đèn rọi vào Cynthia, cô nhanh chóng lấy áo lót che người.
Nữ điệp viên mật danh Cynthia.
|
Mật mã của chính phủ Vichy được sử dụng rất hiệu quả khi quân Đồng minh đổ bộ vào Bắc Phi bị Pháp chiếm đóng tháng 11/1942. Khi Mỹ giờ cũng tham gia cuộc chiến, Cynthia đã làm việc cho cả OSS Mỹ và tình báo Anh. Cô coi mình là một người yêu nước. Cô từng nói: “Xấu hổ à? Không một chút. Cấp trên nói rằng nhờ công việc của tôi mà hàng nghìn mạng người Mỹ và Anh được cứu sống.Công việc khiến tôi ở trong những tình huống mà những phụ nữ đứng đắn sẽ quay đầu, nhưng tôi toàn tâm toàn ý với công việc. Dùng phương pháp đứng đắn thì không thể thắng trong chiến tranh”.
Sau này, Arthur Pack tự tử năm 1945. Brousse ly dị vợ và kết hôn với Cynthia. Họ sống trong một lâu đài trung cổ ở miền núi nước Pháp. Tuy nhiên, kết cục lại bi thảm. Vào ngày 1/12/1963, Betty chết vì ung thư miệng. 10 năm sau, chồng cô bị điện giật khi đang nằm trên tấm chăn điện. Một phần của lâu đài đẹp như cổ tích của họ cũng bị cháy rụi.
Theo baotintuc.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét