TT&HĐ V - 50/

 
4 đồ hình thần bí của Á Đông lưu truyền ngàn năm đến nay nhân loại vẫn chưa hiểu thấu
Người Á Đông từ thời thượng cổ đã lưu truyền 4 bức đồ hình thần bí, chứa đựng bí ẩn của vũ trụ. Hàng ngàn năm nay, nhân loại nghiên cứu chúng chuyên chú không mệt mỏi, nhưng đến nay vẫn chưa thể hiểu thấu. Đó là: Thái cực, bát quái, hà đồ và lạc thư. Hãy cùng Huyền Bí TV tìm hiểu và suy ngẫm bạn nhé!

PHẦN V:     THỐNG NHẤT 
"Khoa học là một sức mạnh trí tuệ lớn nhất, nó dốc hết sức vào việc phá vỡ xiềng xích thần bí đang cầm cố chúng ta."
Gorky 

"Mỗi một thành tựu lớn của nhà khoa học chính là xuất phát từ những ảo tưởng táo bạo". 
JohnDewey

"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
 Leonardo da Vinci 

"Cái khó hiểu nhất chính là hiểu được thế giới"
Albert Einstein
 
"Có hai cách để sống trên đời: một là xem như không có phép lạ nào cả, hai là xem tất cả đều là phép lạ".
Albert Einstein
      

“Chính qua cuộc đấu tranh nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành con mồi của ảo vọng”.

Albert Einstein


“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.


Upanishad       


 CHƯƠNG IX: CÁCH NHÌN MỚI VỀ BỨC TRANH

"Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy."
"Cái gì có lý là sự thật, và cái gì là sự thật sẽ có lý."
"Lòng dũng cảm với sự thật là điều kiện đầu tiên cho nghiên cứu triết học."
"Không phải tính tò mò, không phải sự kiêu căng, không phải việc cân nhắc lợi ích, không phải trách nhiệm hay vì làm theo lương tâm mà chính là cơn khát không chịu chấp nhận thỏa hiệp, đầy khốn khổ và không thể dập tắt, dẫn chúng ta đến sự thật.
"Sự thật trong triết học có nghĩa là khái niệm và hiện thực bên ngoài phù hợp với nhau."
                                                                       Hegel 

"Nếu những người đi trước thiếu tinh thần mạo hiểm, ngày nay sẽ không có đèn điện, ra đa, máy bay, vệ tinh nhân tạo, cũng không có chất penicillin và xe hơi."
                                                                          F. Kedwell (Mỹ)
 
"Chân lý chỉ có một, nó không nằm trong tôn giáo, mà nằm trong khoa học."
                                                                            Da Vinci (Ý)

"Người nghiên cứu mẫu mực không phải là người thấy và thông báo lại cái mà những người quan sát bình thường đã thấy và thông báo lại, mà là người thấy trong các sự vật quen thuộc cái mà chưa ai thấy"
                                                                                            Norwood Russell Hanson
  
"Triết học là lời phủ dụ của con người về tự nhiên, là ngọn đèn tỏa ánh sáng gợi mở cho nhận thức tiến lên mỗi khi khoa học mù lòa và khoa học là sự cố gắng phá tan màn đêm bế tắc đó bằng ngọn đèn triết học, nhờ thi ca toán học."
                                                                                                                                      NTT
"Không thể hình dung nổi con người ngày nay lại sống thiếu toán học Không có toán học, con người trở thành mù tịt. Nhưng có toán học, thì tư duy trừu tượng của con người bị lũng đoạn thái quá bởi tính trừu tượng chủ quan làm cho nhận thức toán học về Vũ Trụ trở nên ảo tưởng, xa rời thực tại và chân lý"
                                                                                   Thầy Cãi


"Loài người có thể hiểu được sự thực của Vũ Trụ như nó vốn dĩ, trước khi họ bị diệt vong!?"
                                                                        NTT 



Sau khi khép lại tập ghi chép cuộc hành trình có tựa đề: "Đi tìm cái gì đó" mà sau này chúng ta đặt lại là "Thực Tại và Hoang Đường" của anh Hoang Tưởng, chúng ta sắp xếp lại bàn làm việc cho gọn ghẽ rồi bỏ đi lang thang, tìm gặp bạn bè ăn nhậu, nói chuyện tào lao, xả hơi cho đỡ mệt. Lúc đầu, chúng ta muốn quên đi tất cả những điều đã viết vì nghĩ rằng, nhờ cuộc phiêu lưu của anh Hoang Tưởng, chúng ta đã hoàn thành ước nguyện lớn lao trước đây của đời mình: tìm hiểu căn nguyên Vũ Trụ. Nhưng vì biết tỏng Hoang Tưởng là một gã có bản tính chúa đặt điều, nên một sự nghi ngờ ngày càng lớn đè nặng tâm can chúng ta: biết đâu chừng đống tài liệu nhật ký hành trình "Thực Tại và Hoang Đường" chẳng phải là "Đại ngộ kinh thư" như chúng ta từng rêu rao mà đơn giản chỉ là một công trình thêu dệt đại tào lao của tâm hồn hoang tưởng quá trớn của chính chúng ta chứ chẳng phải của anh Hoang Tưởng hay của một ai khác.
Thế là chúng ta lôi xấp "Thực Tại và Hoang Đường" đọc lại từ đầu chí cuối.
Quá trinh đọc lại đó làm chúng ta dần nhớ lại tất cả. Nhớ rằng ngày xưa, vì tò mò thái quá, chúng ta muốn tìm hiểu căn nguyên Vũ Trụ. Vì ít học, và trước khối kiến thức khoa học cao nghễu nghện của loài người, chúng ta thấy mình không có mảy may chút khả năng nào thực hiện được điều đó. Nhưng rồi niềm đam mê muốn khám phá căn nguyên Vũ Trụ cứ đeo đẳng chúng ta suốt năm này qua năm khác cuối cùng đã đưa chúng ta đến suy nghĩ điên rồ (và nếu đúng, đây cũng là một nhận thức "sáng suốt" về tự nhiên!): loài người tưởng rằng chỉ có duy nhất con đường của kiến thức khoa học cao siêu mới có khả năng tìm hiểu được căn nguyên Vũ Trụ. Nhưng nếu Vũ Trụ không phải do Chúa (đại diện cho lý trí, sự cố ý) sinh ra mà do Tạo Hóa (đại diện của tự nhiên, vô tình) sinh ra, thì vì không dựa trên cơ sở khoa học nào (tự nhiên làm gì có tư duy trừu tượng!?), nên căn nguyên Vũ Trụ, sự vận hành Vũ Trụ còn rất có thể được xây dựng nên theo cách, theo những nguyên lý giản dị, đơn sơ bậc nhất. Bám vào suy nghĩ đó, chúng ta quyết định phải tìm cho ra căn nguyên Vũ Trụ theo cách của mình. Nhưng cách nào?
                                     ***
Lúc đó không biết nhưng sau này mới biết, Vì chìm đắm thái quá trong si mê tìm hiểu Vũ Trụ mà chúng ta tưởng mình cùng bạn bè đã thực hiện cuộc leo lên chiếm lĩnh đỉnh Tu-Di huyền thoại, hay còn gọi một cách "thất phu" hơn là "cuộc hành trình vô tiền khoáng hậu đi tìm cái gì đó". Nhưng đó chỉ là sự lầm tưởng, ngộ nhận. Cũng do chìm đắm trong si mê đến mức mù quáng mà lúc đó chúng ta đâu biết rằng không phải chúng ta thực hiện cuộc phiêu lưu trong hiện thực mà do tâm trạng chúng ta đã thăng hoa làm cho thể tạng phân định thành hai thể, một là "linh hồn Hoang Tưởng", mà hồi đó chúng ta gọi là anh Hoang Tưởng, vi vu khắp góc bể chân trời, cưỡi ngựa xem hoa trong cõi Hoang Đường, hai là "thân xác Hiện Thực", mà hồi đó chúng ta gọi là anh Hiện Thực, ngồi "đồng" ở xó nhà, tay lăm lăm bút để ghi chép. Linh hồn Hoang Tưởng thu thập thông tin từ những gì quan sát được, rồi thông qua tuyến thần giao cách cảm, báo về cho thân xác Hiện Thực biết. Thân xác Hiện Thực tiếp nhận các thông tin đó, ngoáy bút lia lịa, tập hợp lại thành một pho nhật ký hành trình đồ sộ mà chúng ta đặt tên là "Thực Tại và Hoang Đường"...
Đang ghi chép như điên thì đột nhiên anh Hoang Tưởng lạc đi đâu mất dạng, không gửi thông tin về nữa. Chờ mãi không được, chúng ta đành kết thúc "cuốn" nhật ký hành trình. Dù sao thì nhật ký hành trình "Thực Tại và Hoang Đường" của anh Hoang Tưởng mà chấp bút là anh Hiện Thực, cũng gần như thỏa mãn ước nguyện ban đầu của chúng ta.
Thật là kỳ lạ và không ngờ, quá trình ghi chép đó đã đưa chúng ta đến một sự hình dung hoàn toàn mới mẻ về căn nguyên tạo thành, về phương thức vận hành của Vũ Trụ. Nó vẫn tiếp thu, kế thừa kiến thức cũ, vẫn thừa nhận hầu hết những thành tựu khoa học của nhân loại trong quá khứ, nhưng lại hoàn toàn trái ngược với quan niệm hiện nay về Vũ Trụ.
Lúc đầu, khi đi những bước đầu tiên, chúng ta chỉ có tham vọng tầm thường là bằng cách gần với triết học nhất, cũng tức là bằng cách đơn giản nhất, làm sao vẫn tiếp cận được cách nhìn cao vợi đến mức phi phàm của khoa học ngày nay về Vũ Trụ. Chẳng hạn, có thể tìm ra cách giải thích về sự tồn tại của trường hấp dẫn bằng kiến thức phổ thông hoặc chứng minh tính đúng đắn của lý thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh bằng kiến thức thông thường. Nhưng các quan sát thu lượm được trên "con đường của những gã nhà quê" mà chúng ta từng ngộ nhận hay trên suốt chặng hành trình "đi tìm cái gì đó" của anh Hoang Tưởng mà sau này chúng ta xác nhận, đã buộc chúng ta phải quan niệm lại Vũ Trụ, phải hình dung ra những điều trái ngược, chống lại tất cả.
Điều đó làm chúng ta hoang mang ghê gớm. Không lẽ một kẻ thất phu, với vốn liếng kiến thức cao không quá ngọn cỏ, lại có thể hình dung ra Vũ Trụ đúng hơn các nhà khoa học nói chung hay các bậc thiên tài khoa học nói riêng. Từ đó dẫn chúng ta đến nghi ngờ rằng nhật ký hành trình mà chúng ta ghi chép cho anh Hoang Tưởng có thể chỉ là một khối bịa đặt bố láo hay ít ra chỉ là một đống những thu lượm tào lao của anh Hoang Tưởng. Trên đời, chúng ta rất ghét những kẻ háo danh. Bịa đặt trắng trợn để mưu cầu nổi tiếng là những kẻ háo danh mạt hạng nhất!
Nhưng có thật thế không? Có lẽ nghi kỵ của chúng ta đối với anh Hoang Tưởng là không phải. Sống hòa quyện nhau trong cùng một cơ thể đã lâu, chúng ta biết bản chất anh Hoang Tưởng không háo danh quá đáng như thế. Anh Hoang Tưởng có thể là dốt nát nhưng có một tâm hồn rất yêu khoa học, nhất là yêu vật lý, và dù là một con người ở thể ảo, luôn có một tính cách thậm chân thành, có lối sống tròn trịa trách nhiệm.
Vậy đừng bộp chộp ngờ vực anh Hoang Tưởng, tội nghiệp! Nghĩ oan sai về người khác là một lỗi lầm đáng trách. Ở xã hội loài người, hiện tượng người bị hiểu oan sai là phổ biến. Đó là một thực trạng gây nhiều buồn phiền. Cho nên việc vu oan cho người khác, dù vô tình hay hữu ý, cũng là một sự vô cùng tác tệ. Mà vu oan cho chính mình thì còn tác tệ tới cỡ nào? Hoang Tưởng là ai nếu không phải là bộ phận hợp thành trọng yếu của thể tạng chúng ta!?
So đo mãi, chúng ta quyết định lôi ra, đọc lại từ đầu chí cuối toàn bộ bộ nhật ký hành trình của anh Hoang Tưởng mà chúng ta từ lâu đã cất kỹ trong hộc tủ, tưởng không bao giờ thấy lại nó nữa.
Quả thật, sau khi đọc lại xấp nhật ký một cách kỹ càng chúng ta mới cảm thấy được những ý tưởng táo bạo, không phải là không có lý, đóng vai trò như những cơn gió thoảng mang hơi hướng cách mạng mà khi ghi chép, vì vội vã do hối thúc, chúng ta đã bỏ qua, không chú ý tới. Những ý tưởng đó manh nha hợp thành một hệ thống quan niệm hoàn toàn mới về sự sinh thành Vũ Trụ. Nhưng những ý tưởng đó vẫn nằm rải rác trong xấp nhật ký dày cộm, chưa được thâu tóm lại vì anh Hoang Tưởng, như đã nói, vào giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình, bỏ đi đâu đó lưu lạc mất dạng. Bởi vậy, cuốn nhật ký như công trình dang dở, như một cơ thể sinh vật có đầu không đuôi, thật đáng tiếc!...
Sau khi đọc xong lần cuối xấp nhật ký hành trình ghi có phần lộn xộn ý kiến của linh hồn Hoang Tưởng và của cả thân xác Hiện Thực nữa, suy đi tính lại, chúng ta thấy cần viết thêm một chút (chương 50 của toàn bộ tập sách hay chương IX của phần V tập sách) để tạm thời hoàn thiện xấp nhật ký hành trình. Nội dung của phần viết này nhằm cố gắng thu gom lại những ý tưởng trọng yếu xây dựng nên quan niệm mới toanh về sự tồn tại và vận động của Vũ Trụ, về một trường phái triết học mới có khả năng bao trùm cả triết học duy tâm lẫn triết học duy vật. Tên gọi trường phái triết học này, theo tâm huyết của anh Hoang Tưởng, là "Triết học duy tồn tại" hay tóm tắt là "Triết học duy tồn" (THDT).
Dù có thành công hay thất bại khi viết phần này thì chúng ta cũng cứ gắng sức thực hiện bằng được để cho thành quả của anh Hoang Tưởng được trọn vẹn và quan trọng hơn, cho thỏa nguyện khát vọng tìm hiểu căn nguyên Vũ Trụ xưa kia của chính chúng ta.
Để bắt đầu chúng ta nhớ lại câu ngạn ngữ Anh: " Có thể ăn nửa bữa, ngủ nửa đêm, nhưng không thể đi nửa đường chân lý, yêu bằng nửa trái tim". 

                                                  ***
Triết học duy tồn (THDT) cũng chia làm hai phần: triết học tự nhiên và triết học xã hội. Vì nguồn gốc XH bắt đầu từ TN nên vận động XH thực ra cũng là vận động TN và những qui luật vận động XH cũng là hoặc cũng có thể rút ra từ những qui luật TN. Cho nên khi xem xét những quá trình vận động XH, để tránh sai lầm hầu tiếp cận chân lý, phải gắn chúng với điều kiện hoàn cảnh TN mà xem xét. Nhưng để đơn giản hóa, đỡ phức tạp, chúng ta phân ra thành hai bộ phận, triết học TN và triết học XH, để dễ bề nghiên cứu. Tiếp theo đây là phần về triết học TN.
Theo Wikipedia thì: "Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận. Trong tiếng Anh, từ "philosophy" (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại φιλοσοφία (philosophia), có nghĩa là "tình yêu đối với sự thông thái". Sự ra đời của các thuật ngữ "triết học" và "triết gia" được gắn với nhà tư tưởng Hy Lạp Pythagoras. Một "nhà triết học" được hiểu theo nghĩa tương phản với một "kẻ ngụy biện" (σοφιστής). Những "kẻ ngụy biện" hay "những người nghĩ mình thông thái" có một vị trí quan trọng trong Hy Lạp cổ điển, được coi như những nhà giáo, thường đi khắp nơi thuyết giảng về triết lý, nghệ thuật hùng biện và các bộ môn khác cho những người có tiền, trong khi các "triết gia" là "những người yêu thích sự thông thái" và do đó không sử dụng sự thông thái của mình với mục đích chính là kiếm tiền". Còn theo "Giáo trình triết học Mác-Lênin" của Bộ Giáo dục và đào tạo (NXB chính trị quốc gia, 2004) thì: "Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ tkế kỷ VIII đến thế kỷ VI - TCN) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, Ấn Độ, Hi Lạp. Theo người Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ "triết". Với chữ hình tượng này, người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất đối tượng, triết học chính là "trí", là sự hiểu biết sâu sắc của con người.
Theo người Ấn Độ, triết học được đoc là "darshana". Darshana có nghĩa là "chiêm ngưỡng" nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là "con đường suy ngẫm" để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.
Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hi Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hi Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là "philosophia", ngĩa là "yêu mên sự thông thái". Với ngưới Hi Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng tìm kiếm chân lý của mọi người
Như vậy, cho dù phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội....Khái quát lại, có thể hiểu: "Triết học là hệ thống lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy".
Triết học ra đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống..."
Theo triết học duy vật, thứ tồn tại trước tiên và duy nhất là vật chất. không thể có Thượng Đế, thần thánh hay ma quỉ trên thế giới này. Đối với triết học duy tâm thì ngược lại, thế giới này không thể tự nhiên sinh ra mà phải do một sức mạnh tinh thần, phi vật chất, một đấng tối cao gọi là Thượng Đế sáng tạo ra.
Khi nêu ra những quan niệm của mình, mỗi trường phái triết học nói trên đều trưng ra những lập luận bảo vệ có lý, không phải là không có sức thuyết phục. Đó là cuộc đấu tranh quyết liệt giữa vật chất và tinh thần, cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái nào. Đến nay, cuộc đấu tranh đó vẫn chưa ngã ngũ. Những hiện tượng tâm linh vẫn xảy ra nhan nhản trong xã hội nói lên nhận thức của con người vẫn còn mù quáng, bế tắc, không còn biết đặt niềm tin vào đâu, vào duy vật hay duy tâm, vào vô thần hay hữu thần.
Còn triết học duy tồn (THDT) thì sao? THDT cho rằng, trên thế giới này, có trước tất cả mọi thứ, quyết định mọi thứ, cả vật chất lẫn tinh thần, là Tồn Tại. Nhưng Tồn Tại là gì? Là thế giới bên ngoài, là cái Có tự nhiên, khách quan, vốn dĩ, độc lập với ý thức và tư duy của con người. Khi nói: "Thế giới này không có gì ngoài Tồn Tại" là ta muốn so sánh một thứ gì đó với Tồn Tại, có bản chất ngược với Tồn Tại, tương phản tuyệt đối với Tồn Tại. Nếu Tồn Tại là cái Có, Có ở đây là có tuyệt đối, thì ngược với Tồn Tại là cái không có gì, cái Không, Không ở đây là không tuyệt đối. Giống như cái "có" chúng ta gọi là "tồn tại", thì cái không đó chúng ta gọi là "hư vô". Khái niệm hư vô có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa tương đối và nghĩa tuyệt đối. Khi chúng ta nhìn vào bầu trời, trời trong, chúng ta không thấy gì dù ở đó "đầy ngập không khí", thì đó chính là hư vô tương đối. Nhìn vào căn phòng không có ai chúng ta nói không thấy gì cả, nhưng không khí vẫn "có đầy" phòng, chỉ tại mắt chúng ta "kém quá", thì khoảng trống rỗng của căn phòng rõ ràng là không có gì, nhưng chỉ là không có gì tương đối, nghĩa là hư vô tương đối thôi. Câu nói phía trên "Thế giới này không có gì nếu không có Tồn Tại" cũng chỉ ám chỉ về hư vô tương đối, chỉ khi nói "Thế giới này không có gì nếu không có Tồn Tại và cả thế giới này" thì nó mới ám chỉ đến hư vô tuyệt đối. Để phân biệt giữa khái niệm tuyệt đối và khái niệm tương đối thì khi viết thường "hư vô" hay "hư vô tương đối" thì chúng ta hiểu đó là nói về hư vô tương đối, khi viết hoa "Hư Vô" hay "hư vô tuyệt đối" thì chúng ta hiểu đó là nói về hư vô tuyệt đối. Đối với khái niệm tồn tại cũng tương tự. Có thể lấy ví dụ: quả táo, hòn đá, vật chất...là tồn tại, còn không gian, Vũ Trụ, thế giới khách quan không lệ thuộc vào tư duy con người...là Tồn Tại. Nói cách khác, tồn tại là tồn tại "trong thời gian" (tức là không vĩnh viễn), Tồn Tại là tồn tại "ngoài thời gian" (tức là vĩnh viễn). Còn hư vô là tồn tại mà không hiện hữu, và Hư Vô là không hiện hữu cũng không tồn tại hay Tồn Tại.
Thế giới này vốn dĩ lấp đầy Tồn Tại. Nói như thế có nghĩa THDT quan niệm rằng, ở đâu cũng Tồn Tại, lúc nào cũng Tồn Tại. Vì không thừa nhận có Thượng Đế nên còn cho rằng, Tồn Tại là vốn dĩ có, là có sẵn như thế, là tự nhiên như thế. Chính vì vậy mà anh Hoang Tưởng đã đặt tên cho thế giới này là Tự Nhiên Tồn Tại.
Người xưa từng đặt tên cho thế giới này là Vũ Trụ. Như vậy, theo THDT, Vũ Trụ chính là Tự Nhiên Tồn Tại. Nếu Vũ Trụ là Tồn Tại thì không thể Hư Vô. Thật vậy, quan sát khoa học hiện nay dù đã vươn tới một tầm rộng lớn khoảng 14 tỷ năm ánh sáng, đều thấy ở đâu cũng Tồn Tại, nghĩa là có, nếu không có gì, thì tối thiểu vẫn còn một khoảng không gian rống rỗng, tức một thể tích, chứ tuyệt nhiên không phải là không có gì, không phải là thấy một Hư Vô.
Thật kỳ lạ, chúng ta đưa ra khái niệm "Hư Vô" để chỉ một thứ có bản chất trái ngược với Tồn Tại để làm rõ thêm khái niệm "Tồn Tại", thế thôi, chứ chưa bao giờ thấy Hư Vô ở bất kỳ đâu cả. Vì làm sao mà thấy được cái tuyệt đối không có gì!? Chúng ta có thể suy nghĩ về Hư Vô dựa vào Tồn Tại chứ không thể thấy nó trong thực tại. Ngay cả hình dung hay mường tượng về nó cũng không nốt. Nếu trong Vũ Trụ này, ai đó nói rằng đã thấy một Hư Vô, thì vì cái Hư Vô ấy là một hiện hữu, một cái có, nên vẫn là Tồn Tại.
Lập luận về Tồn Tại như thế, có thể sẽ có người cãi khi quan sát một vùng nào đó của khoảng không Vũ Trụ, nếu không thấy một vật chất nào (một hành tinh, một thiên thể, một thực thể vật chất nào), thì vì khoảng trống rỗng đó là một thực tại nên đó là Hư Vô chứ không phải Tồn Tại. Cách gọi Tồn Tại chỉ là qui ước. Suy nghĩ như thế là sai lầm! Đành rằng mọi khái niệm ổn định được là do qui ước. Nhưng việc cho rằng khoảng không đó là một Tồn Tại theo  định nghĩa là một điều hiển nhiên. Vì đó là cái có tự nhiên. Không thể phủ định được khoảng không đó có kích thước, có bề dài, bề rộng và bề sâu. Hơn nữa, chúng ta chưa quan sát được ở tầng vi mô của không gian.
                            
                                               ***
Nhớ lại, khi lần đầu tiên tiếp xúc với thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh do sự tò mò muốn hiểu biết của mình trước một đối tượng mà cả thế giới thời bấy giờ hết lời ca ngợi và ngưỡng mộ, Cúng ta chẳng hiểu gì cả. Chúng ta đã không tin nổi không gian và thời gian, theo quan niệm của nhà bác học lừng danh thế giới lại sống động như thế. Nhưng nếu không nắm bắt được bản chất vận động không-thời gian của Anhxtanh thì làm sao có thể hiểu được thuyết tương đối? Đã không hiểu được thuyết tương đối thì cũng làm sao có cơ may khám phá ra căn nguyên Vũ Trụ, nỗi khát vọng lớn nhất của chúng ta.
Thế là từ đó điều đầu tiên chúng ta làm là tập trung suy nghĩ về hành tung và xử sự của không gian và thời gian.
Phải nói loài người, vào thời tiền sử, đã biết đến sự tồn tại của không gian và thời gian. Từ đó đến nay đã có biết bao nhiêu quan niệm về chúng ra đời nhưng cho đến nay có lẽ chỉ có quan niệm khoa học của Anhxtanh là được thừa nhận rộng rãi. Nhưng thừa nhận rộng rãi không có nghĩa đã là chân lý!
Vào thời cổ đại, con người quan niệm về không gian và thời gian còn đơn sơ và mộc mạc. Theo các Triết gia Phương Đông, đặc biệt các Triết gia Ấn Độ có những nhận thức như sau:
Theo họ không gian, thời gian có giới hạn ở một số chiều và vô biên ở một số chiều, rồi có lúc lại cho rằng: không có điểm khởi đầu và không có điểm kết thúc. Bởi lẽ, nó không vĩnh hằng và cũng không phải không vĩnh hằng bởi vì bản thân nó là không thực có.
Còn các Triết gia Phương Tây mà nổi bậc nhất là các Triết gia Hy Lạp, vào thế kỳ thứ V trước công nguyên. Triết gia cổ đại Democrite quan niệm về không gian đã cho rằng: Các nguyên tử không phân chia ra được mà chuyển động trong không gian trống rỗng của thế giới. Như vậy đã xem thế giới là chân không, là cái giới hạn các vật thể và ngược lại các vật thể giới hạn chân không. Còn Aristote lại không thừa nhận chân không mà lấp đầy một chất gọi là ête. Trong thiên nhiên không có cái trống rỗng. Ông giải thích rằng: Vì thiên nhiên sợ cái trống rỗng cho nên khi một vật di động khỏi vị trí cũ thì lập tức không khí chung quanh ập đến lấp đầy cái trống rỗng vừa được tạo ra đó. Aristote cũng phân chia không gian làm hai phần: Thế giới từ Mặt Trăng trở lên là thế giới của Trời, thế giới đó là cao nhất và do Chúa chi phối. Còn thế giới từ Mặt Trăng trở xuống là thế giới của đất, là thế giới trần tục.
Về mặt thời gian, lúc bấy giờ người ta cho rằng thời gian như một tấm lụa trải dài vô cùng bằng phẳng nơi nào cũng như nơi nào. Bên cạnh những quan niệm không gian, thời gian nêu trên, còn một quan niệm khác mang tính duy tâm cho rằng: Không gian và thời gian là sản phẩm của sự tưởng tượng của con người đặt ra, xuất phát từ ý thức của con người. Tóm lại, trong giai đoạn này những quan niệm về không gian thời gian không được xây dựng trên một cơ sở khoa học nào.
Quan niệm về không gian và thời gian của Cơ học cổ điển mà điển hình là cơ học của Newton, có sự kế thừa các quan niệm của giai đoạn trước thuộc trường phái Nguyên tử luận. Tuy nhiên, đến giai đoạn này, những quan niệm về không gian, thời gian được xây dựng có cơ sở khoa học, có hệ thống và phù hợp với các chuyển động cơ học được quy định bởi các định luật của Newton.
Theo Newton, không gian được chia làm hai loại đó là không gian tuyệt đối và không gian tương đối.
Không gian tuyệt đối là cái trống rỗng để chứa mọi vật, nó tuyệt đối thấu suốt, không tác dụng lên cái gì và không chịu tác dụng của cái gì. nó có ba chiều, liên tục, vô hạn, đồng nhất, đẳng hướng, không chuyển động và có các phần tử hoàn toàn giống nhau. Không gian tuyệt đối tự nó từ xưa đến nay và mãi mãi về sau vẫn tồn tại như vậy không bao giờ thay đổi. Hình học của nó là hình học Euclide.
Không gian tương đối là không gian cụ thể, do các vật thể vật chất của chất rắn, chất lỏng, chất khí…chiếm chỗ. Đó là không gian cụ thể của hòn đá, căn nhà, trái đất….Theo Newton, không gian tương đối luôn luôn trùng với một khoảng nào đó của không gian tuyệt đối. Khoảng không gian đó hoàn toàn như nhau về độ lớn và hình dạng.
Về thời gian, theo Newton cũng được chia làm hai loại, đó là thời gian tuyệt đối và thời gian tương đối.
Thời gian tuyệt đối là sự lâu dài thuần tuý, là cái trống rỗng chứa các biến cố ( của một sự kiện hiện tượng bất kỳ nào đó xảy ra trong không gian và thời gian) không phụ thuộc vào cái gì và cũng không chịu ảnh hưởng của cái gì. nó có một chiều, liên tục, vô hạn, đồng nhất và trôi đều đặn từ quá khứ đến tương lai. Thời gian tuyệt đối tự nó từ xưa đến nay và mãi về sau này vẫn tồn tại như vậy, không bao giờ thay đổi. Thời gian tuyệt đối ở chỗ nào cũng như chỗ nào và lúc nào cũng trôi đều đặn như lúc nào.
Thời gian tương đối là thời gian thông thường, là thời gian biểu kiến. Đó là sự lâu dài cụ thể mà giác quan ta cảm thấy, có được nhờ có một quá trình nào đó. Thí dụ như dựa vào sự chuyển động của Trái Đất quay quanh Mặt Trời mà xác định ra năm, tháng, ngày, giờ…v…v… những quá trình mà ta coi đều đặn được dùng làm “ Đồng hồ” để đo thời gian.
Tóm lại quan niệm về không gian và thời gian của Newton đã có nhiều mặt tiến bộ hơn so với những quan niệm của trường phái Duy Tâm, siêu hình. Ông thừa nhận không gian và thời gian có tính chất khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Tuy nhiên, quan niệm của Newton vẫn còn hạn chế, làm cho khái niệm không gian và thời gian theo cơ học Newton chưa mang tính tổng quát.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Khoa học và kỹ thuật phát triển mạnh, con người bắt đầu tiếp xúc với những vật chất chuyển động nhanh, cỡ vận tốc ánh sáng ( 300.000km/s trong chân không). Khi đó, xuất hiện nhiều hiện tượng mâu thuẫn với các quan điểm cơ học của Newton. Cụ thể là: Không gian, thời gian, khối lượng đều phụ thuộc vào chuyển động. Những khó khăn đó, cơ học của Newton không thể giải đáp được. Từ đó, các nhà Thiên văn học rút ra kết luận: Cơ học Newton ( tức cơ học cổ điển) chỉ áp dụng cho những vật chất chuyển động với vận tốc nhỏ so với vận tốc ánh sáng. Như vậy, cần phải xây dựng một cơ học mới, tổng quát hơn, áp dụng cho tất cả các trường hợp. Đó là lý do ra đời của môn cơ học tương đối tính hay là thuyết tương đối hẹp và môn cơ học tương đối tổng quát hay là thuyết tương đối rộng của  Anbe Anhxtanh.
Để xây dựng thuyết tương đối hẹp,  Anhxtanh đã đưa ra hai tiên đề dựa trên kết quả đo vận tốc ánh sáng, đó là: Vận tố ánh sáng trong chân không là một bất biến đổi với mọi hệ quy chiếu quán tính.
Mọi định luật vật lý đều giống nhau trong các hệ quy chiếu quán tính. Từ đó, Einstein đã xây dựng được không gian và thời gian. Theo ông, không gian có tính tương đối và thời gian cũng có tính tương đối.
Con người, trước hết hiểu không gian và thời gian một cách có hệ thống thông qua cơ học Newton. Theo đó, không gian, thời gian không những không liên hệ gì với vận động mà ngay bản thân chúng cũng tách rời nhau. Không gian và thời gian là một khái niệm chỉ “ quảng tính”của vật. Vì vậy, chúng ta vẫn coi không gian và thời gian là hai phạm trù vật lý khác nhau.
Ngày nay, khả năng nghiên cứu của con người đã vươn tới tầm Vũ Trụ, tiếp xúc với những đối tượng vật lý có những đặc tính mới mẽ như các sao Notron, các Lỗ Đen….. là những vùng có sự tập trung vật chất rất lớn mà trên hành tinh chúng ta chưa từng có. Trong điều kiện đó, thuyết tương đối hẹp tỏ ra còn “ hẹp” chưa đáp ứng được tình hình thực tế đặt ra. Cho nên, Einstein đã xây dựng nên thuyết tương đối rộng hay còn gọi là thuyết tương đối tổng quát.
Theo thuyết tương đối rộng ( tổng quát) Einstein chia làm hai phần, đó là: Từ không gian, thời gian đến “ Không – thời gian” và từ không gian, thời gian với khối lượng đến “ Không – thời gian cong”.
Trong thuyết tương đối hẹp, mọi vật chất có khối lượng đều chuyển động với vận tốc không thể vượt qua vận tốc của ánh sáng. cho nên quỹ đạo của chúng đều nằm trong nón ánh sáng mà thôi. Trong phạm vi này, không gian thời gian có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, có nghĩa là không gian và thời gian đã “xích” gần lại với nhau khi cùng có quan hệ khăn khít với vận tốc, chúng không còn là hai cái “ trống rỗng” không liên hệ với cái gì và không bị bất cứ cái gì ảnh hưởng. 
Đến đây, thuyết tương đối rộng ( tổng quát) quan tâm đến trường hấp dẫn giữa các đối tượng vật chất, nhất là những đối tượng vật chất có khối lượng lớn, còn gọi là thuyết tương đối rộng là thuyết hấp dẫn Einstein. 
Đây là điều trái ngược với một trong những khẳng định của lý thuyết tương đối hẹp ( là không một dạng vật chất nào có thể chuyển động nhanh hơn vận tốc ánh sáng).
Trong khi đó, theo thuyết tương đối rộng ( tổng quát) thì lực hấp dẫn và lực quán tính đều có chung một tác dụng như nhau và được biểu hiện qua độ cong của không gian thời gian: Nó thể hiện một đặc tính của không gian thời gian: không gian, thời gian cong lại bởi quán tính của vật chất. Độ cong này ( tức là độ lệch khỏi không gian Euclide) phụ thuộc vào khối lượng và khoảng cách đến vật.
Điều này phụ thuộc với tiên đoán của thuyết tương đối rộng của Einstein: có nghĩa là không gian và thời gian có mối quan hệ gắn bó với nhau. Chúng phụ thuộc vào khối lượng vật chất tồn tại trong không gian và thời gian đó. Khối lượng càng lớn, khoảng cách đến các khối vật chất đó càng gần thì ảnh hưởng của vật chất đó lên không gian và thời gian càng mạnh làm cho không gian cong và thời gian kéo dài ra, trôi chậm lại.
Hoàn toàn khác với quan niệm không gian tuyệt đối và thời gian tuyệt đối, không làm ảnh hưởng đến cái gì và cũng không bị cái gì làm ảnh hưởng theo quan niệm của cơ học cổ điển. Không gian thời gian trong cơ học hiện đại ( theo thuyết tương đối) mang tính chất tương đối phụ thuộc sâu sắc vào vật chất, cũng như phụ thuộc vào vận động. Hay nói cách khác: không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Không có không gian và thời gian bên ngoài vật chất vận động. Như LêNin đã nói: “Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”.
Nói tóm lại, các quan niệm về không gian và thời gian của các nhà khoa học và các bậc hiền triết từ xưa tới nay đều có đúng có sai. Song, có lẽ gần chân lý nhất là nhận thức của triết học Mác-Lênin. theo Wikipedia, nhận thức đó là:
"Không gian, thời gian là một cặp phạm trù của triết học Marx-Lenin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất (cùng với phạm trù vận động, trong đó không gian chỉ hình thức tồn tại của khách thể vật chất ở ví trí nhất định, kích thước nhất định và ở một khung cảnh nhất định trong tương quan với những khách thể khác. Trong khi đó thời gian chỉ hình thức tồn tại của các khách thể vật chất được biểu hiện ở mức độ lâu dài hay mau chóng (độ dài về mặt thời gian), ở sự kế tiếp trước hay sau của các giai đoạn vận động. Ph.Ăng-ghen đã chỉ rõ phạm vi nghiên cứu của Triết học Mác-Lenin về vấn đề này, theo đó, Không gian và thời gian là không gian và thời gian vật chất. Không có không gian và thời gian thuần túy bên ngoài vật chất và "Dĩ nhiên, cả hai hình thức tồn tại này của vật chất nếu không có vật chất sẽ là hư vô, là những quan niệm trừu tượng trống rỗng tồn tại trong đầu óc của chúng ta".
(...)
Không gian và thời gian gắn bó mật thiết với nhau và gắn liền với vật chất và là phương thức tồn tại của vật chất. Theo chủ nghĩa Mác-Lenin thì không không có một dạng vật chất nào tồn tại ở bên ngoài không gian và thời gian. Ngược lại, cũng không thể có thời gian và không gian nào ở ngoài vật chất".
Cuộc nghiền ngẫm của chúng ta về không gian và thời gian dọc bước đường phiêu lưu "đi tìm cái gì đó" rốt cuộc đã cho chúng ta cách nhìn mới về chúng. Không gian và thời gian là hai thứ gắn liền mật thiết với nhau như hình với bóng, nhưng chúng vẫn độc lập với nhau, không thể hòa quyện vào nhau thành "món súp" không-thời gian, có thể co giãn tùy theo vận tốc hay bị khối lượng làm cong đi như Anhxtanh quan niệm.
Nhắc lại, thế giới nay lấp đầy Tồn Tại. Hay nói cách khác, Vũ Trụ lấp đầy không gian. Nếu chúng ta có khả năng quan sát khắp Vũ Trụ này thì cũng không thấy được một chút Hư Vô nào Vì nếu có phát hiện ra một kẽ hở không gian nào, kẽ hở đó sẽ hiện thực nên là cái có, tức Tồn Tại rồi. Nhưng có thể nào khoét một khoảng không gian ra khỏi đó để làm xuất hiện Hư Vô không? Không, không bao giờ!
Cũng giống như nếu mặt đất này toàn đại dương mà không có lục địa, làm thế nào chúng ta mang nước ra khỏi đại dương, tạo lỗ hổng không khí được?
Chúng ta cũng phân không gian thành hai dạng, tương đối và tuyệt đối, viết phân biệt là không gian và Không Gian. Không Gian là thể tích của thực thể vật chất (các thiên thể, các vì sao...), còn không gian là thể tích của Vũ Trụ. Không gian bao hàm Không Gian! Nếu không gian đúng thật là Tự Nhiên Tồn Tại duy nhất thì vật chất không thể tự nhiên có được, nó phải được bao hàm bởi không gian, xuất sinh từ không gian và khi không còn tồn tại nữa lại trở về với không gian, nghĩa là trở về với Tồn Tại. Khi một người chết đi, cấu trúc vật chất và vật chất tạo dựng nên người đó (cũng là thứ hun đúc nên tinh thần người đó!) sẽ chấm dứt hình dạng, trạng thái tồn tại "cũ", biến hóa thành một cách thức tồn tại mới hoặc trở về với không gian, tức là Tồn Tại, chứ không thể thành Hư Vô.
Sự khác nhau giữa tồn tại và hư vô là tồn tại thì có nội dung còn hư vô thì không. Nghĩa là khi nói đến một cái gì đó tồn tại thì phải hình dung được nó được xây dựng nên từ cái gì và tồn tại đối với cái gì. Đặc tính cơ bản của tồn tại là hiện hữu. Hiện hữu ở đâylà hiện hữu khách quan, không phụ thuộc vào cảm tính của con người, là tồn tại trước tồn tại. Trước hư vô, tồn tại muốn cũng không thể hiện hữu. Thí dụ, một phân tử nitơ trong khí quyển là một tồn tại. Nó có thể tương đối không hiện hữu trước con người nhưng tuyệt đối hiện hữu trong bầu khí quyển trước các phân tử khí khác bao quanh nó. Hoặc một con voi đang ở sở thú và chúng ta đang ở nhà. Nó dứt khoát phải là một tồn tại vì nó hiện hữu khách quan trong sở thú, dù có thể rằng không hiện hữu trước chúng ta. Một tồn tại có thể không hiện hữu trước cảm tính con người, nhưng một hiện hữu dứt khoát phải tồn tại.
Hư vô rõ ràng là không hiện hữu, còn Hư Vô thì không hiện hữu khách quan cũng không tồn tại. Điều đó cho thấy, muốn Tự Nhiên Tồn Tại thì phải tồn tại đã, và chỉ có thể tồn tại khi có hiện hữu khách quan. Hiện hữu khách quan là phương thức thể hiện cơ bản nhất của tồn tại. Vậy thì một tồn tại muốn được gọi là tồn tại thì tiên quyết phải hiện hữu một cách khách quan, tức là phải thể hiện. Thể hiện ở đây là phải thể hiện đến từng chi tiết nhỏ nhất tuyệt đối, đến tận cùng "chân tơ kẽ tóc" không gian và tận cùng giới hạn khoảng khắc thời gian. Mục đích của sự thể hiện ấy là để tồn tại được nhận diện. Một tồn tại phải được nhận diện nếu còn muốn tồn tại, mà nhận diện là có nghĩa phải phân biệt được. Phân biệt ở đây là vừa phải phân biệt với tồn tại xung quanh, vừa phải phân biệt với chính nó đến giới hạn tuyệt đối của khoảng khắc. Chính vì thế mà tồn tại luôn thường biến, biến hóa không ngừng. Muốn như thế tồn tại phải vận động không ngừng. Cuối cùng, có thể khẳng định, tồn tại là hiện hữu khách quan, biến hóa và vận động không ngừng một cách tự nhiên.
Vì biểu hiện của không gian là thể tích nên "đến tận cùng chân tơ kẽ tóc" không gian tức là đến tận cùng tuyệt đối giới hạn kích thước không gian. Còn "tận cùng giới hạn khoảng khắc" thời gian là đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của thời gian.
Nhưng cụ thể, thời gian là gì? Từ ngàn xưa, loài người đã biết đến không gian và thời gian. Cũng từ lâu đã có rất nhiều, không biết bao nhiêu, các bậc thánh hiền, minh triết, danh tài khoa học tìm hiểu, suy tư về chúng. Nhưng cho đến tận ngày nay, người ta vẫn không biết một cách đích xác và cụ thể chúng là gì. Dò tìm trên mạng, chúng ta toàn thấy những bài viết không trừu tượng thì cũng mông lung mơ hồ, không duy tâm tín ngưỡng thì cũng siêu hình áp đặt chủ quan về không gian và thời gian. Không gian là Tồn Tại, là cội nguồn của vật chất. Còn thời gian, có lẽ Wikipedia nói gần thực tế hơn cả: "Từ "thời gian" có trong tất cả các ngôn ngữ của loài người. Khái niệm thời gian có thể có cả ở động vật. Định nghĩa về thời gian là định nghĩa khó nếu phải đi đến chính xác. Đa số chúng ta ai cũng phải dùng từ đó và nói đến nó, ví dụ "thời gian trôi",... và do đó dứt khoát phải có một cách hiểu chung nhất. Thời gian là thuộc tính của vận động và phải được gắn với vật chất, vật thể. Các nhà triết học đúc kết rằng "thế giới" vận động không ngừng (luôn vận động). Giả sử rằng nếu mọi vật trong Vũ Trụ đứng im, khái niệm thời gian trở nên vô nghĩa. Các sự vật luôn vận động song hành cùng nhau. Có những chuyển động có tính lặp lại, trong khi đó có những chuyển động khó xác định. Vì thế để xác định thời gian người ta so sánh một quá trình vận động với một quá trình khác có tính lặp lại nhiều lần hơn, ổn định hơn và dễ tưởng tượng hơn...".
Quan niệm về thời gian như vậy vẫn có cái vẻ lờ mờ, rắm rối, chưa được sáng tỏ, gợi cho chúng ta cái cảm giác thời gian là một thực tại. Một tồn tại thực thì phải có nội dung, phải thể hiện. Từ xưa tới nay, người đời đã nói rất nhiều về thời gian, nhưng đã có bao giờ ai thấy được thời gian chưa? Chắc chắn là chưa rồi! Có quan sát mỏi mắt cũng không thể thấy được trực tiếp thời gian. Ấy vậy mà chúng ta vẫn cứ cảm giác thời gian tồn tại đây đó bàng bạc. Nó cứ như một dòng trôi rộng lớn không bờ không bến, cuốn trôi tất cả các sự kiện trong Vũ Trụ, từ tương lai, đến hiện tại và về quá khứ. Nhưng tương lai ở đâu, hiện tại là sao, quá khứ nơi nào, thì thật là bất định. Nếu tương lai là đại dương chứa đựng tất cả các sự kiện xảy ra cùng lúc để trôi về quá khứ thì Vũ Trụ sẽ không có lịch sử và phải ngẫm nghĩ lại hiện tại của nó. Còn nếu các sự kiện phải "chờ" đến lượt trôi về quá khứ thì tương lai cũng phải có quá khứ,hiện tại, tương lai.  Quá khứ và hiện tại cũng tương tự như thế. Vậy tình hình sẽ như thế nào!? Có thể xác định hướng trôi của thời gian trong không gian?
Nói chung, quan niệm từ trước đến nay mâu thuẫn mà suy tư trừu tượng của con người không thể giải quyết được. Chỉ còn một cách hiểu duy nhất, mà thật giản dị và cũng là quan niệm của triết học duy tồn, thời gian là một tồn tại ảo, có nội dung ảo, không phải thực tại. Nói chính xác hơn, thời gian là biểu hiện thường biến của tồn tại, của vận động và chuyển hóa không gian. Vì vận động là bản chất của tồn tại nên thời gian phải gắn bó với không gian như hình với bóng, nhưng không thể hòa quyện với không gian thành thứ "hổ lốn" không-thời gian co duỗi theo vận tốc và uốn cong theo khối lượng như Anhxtanh hình dung được! Những khái niệm như quá khứ, hiện tại, tương lai,thời gian trôi, vĩnh viễn...được xuất sinh từ sự trừu tượng của con người.

                                                ***
Từ đây, triết học tự nhiên của triết học duy tồn đã khẳng định dứt khoát rằng, không thể có Hư Vô trong thực tại. Ngay bản thân tư duy trừu tượng có thể hình dung ra bất cứ thứ gì nhưng không thể hình dung ra Hư Vô dù cố gắng đến cỡ nào. Bất cứ thứ gì, nếu hình dung ra được, tưởng tượng ra được, đều là tồn tại, dù là tồn tại ảo. Khi chúng ta hình dung ra một tiếng thét, vì nó không có nội dung gì cả, sao không thể cho nó là một Hư Vô? Nó không thể Hư Vô được mà chỉ có thể hư vô! Xét về nguyên nhân gây ra thì tiếng thét là kết quả của một vận động vật chất nên nó là có, vậy nó tồn tại. Xét bản thân tiếng thét một cách độc lập, phải coi nó là một tồn tại ảo, nên nó vẫn là có, tức tồn tại.
Vô hình dung với quan niệm như thế, chúng ta đã trả lời được thắc mắc của nhà bác học Pascal,khi ông ngước nhìn lên Vũ Trụ: "Sao phải có cái gì đó chứ không phải là không có gì?".
Vũ Trụ, như từ xưa tới nay loài người quan sát và nhận thức, chỉ có không gian và vật chất. Nếu loại bỏ được vậy chất sẽ chỉ còn lại không gian, và nếu loại bỏ cả không gian, thì lúc đó Vũ Trụ thực sự là Hư Vô. Khi Vũ Trụ Hư Vô thì đến một thể tích nhỏ nhất hay một trống rỗng nhỏ nhất cũng không có. Vậy thì có Vũ Trụ Hư Vô không? Một bộ não biết tư duy trừu tượng biết suy lý giỏi nhất cũng phải trả lời  phủ định trước câu hỏi đó!
Nếu không có Vũ Trụ Hư Vô thì cũng không thể loại bỏ không gian ra khỏi Vũ Trụ (thật là hoang mang khi loại không gian ra khỏi Vũ Trụ vì không biết nhét không gian vào đâu!?). Thế còn vật chất? Có thể loại bỏ khỏi Vũ Trụ trong tưởng tượng được không? Về mặt lôgic, có thể được vì không gây mâu thuẫn nào, miễn tìm được chỗ chứa (!). Và chúng ta đã có giải pháp mà trước kia đã từng một lần hình dung: Vũ Trụ là một đại dương thể tích không gian vĩ đại được ví như nước. Vật chất là tất cả các khối băng trôi lềnh bềnh trong đó. Băng tan thành nước (tức thành không gian), nước đóng lại thành băng (tức vật chất). Suốt quá trình đó thể tích không gian (tức Vũ Trụ) không đổi, Vũ Trụ không "suy suyển", vẫn bảo toàn. Sự hình dung đó đã dẫn dắt chúng ta tới quan niệm: vật chất là thứ được xuất sinh ra từ không gian. Nhưng sự xuất sinh đó hình thành bằng cách nào?
Để trả lời được câu hỏi đó, trước hết chúng ta hình dung rằng vật chất, vì lý do nào đó chuyển hóa hoàn toàn vào không gian (có thể tưởng tượng được điều đó nhưng không thể xảy ra trong thực tế vì "vướng" nguyên lý bảo toàn-một nguyên lý cơ bản của tự nhiên: lượng vật chất trong không gian được bảo toàn, đó là có thêm bao nhiêu lượng vật chất được chuyển hóa thành từ không gian thì có bấy nhiêu lượng vật chất chuyển hóa trở lại thành không gian). Lúc đó, như đã quan niệm, Vũ Trụ là một Tồn Tại vĩ đại và Tồn Tại vĩ đại cũng chính là không gian với lượng thể tích khó mà xác định được.
Vấn đề không gian vô hạn hay hữu hạn là vấn đề gây khốn khổ bậc nhất cho trí tuệ loài người, làm kiệt sức biết bao nhiêu bộ não trác tuyệt của họ. Quan niệm hướng nào theo một trong hai hướng ấy đều bộc lộ ra những mâu thuẫn không dễ gì giải quyết được. Về phía vô cùng lớn, nếu cho rằng Vũ Trụ hữu hạn (tức không gian hữu hạn!), thì ngoài ranh giới hữu hạn là gì nếu không phải Hư Vô? Lại phải nghĩ về một Vũ Trụ vô hạn. Nhưng nếu Vũ Trụ vô hạn, thì nguyên lý bảo toàn tồn Tại, một nguyên lý cơ bản thuộc hàng bậc nhất của Tự Nhiên Tồn Tại, sẽ mất hết ý nghĩa. Về phía vô cùng nhỏ, triết học duy vật biện chứng (triết học Mác- Lênin) cho rằng Vũ Trụ vô tận, "Điện tử cũng vô cùng tận như nguyên tử, tự nhiên là vô tận" (lời Lênin). Nhưng nếu Vũ Trụ có thể tích nhỏ vô tận ở phía vô cùng nhỏ, thì làm sao chúng hợp thành một đại dương thể tích không gian bao la được? Còn nếu sự nhỏ của không gian ở phía vô cùng nhỏ (vô cùng nhỏ hay vô cùng lớn là nói về sự rất nhỏ hay rất lớn, chứ không phải nói về cái nhỏ vô hạn hay lớn vô hạn) là có tận cùng giới hạn thì có cái sau tận cùng đó không?
Thế sao trong toán học vẫn có những hiện tượng lôgic nói về sự vô tận ở cả hai phía qui mô vô cùng lớn và vô cùng nhỏ? Đó có thể là do sự hoang tưởng quá lố chưa bị/được khống chế của tư duy trừu tượng!
Toán học được sinh ra do nhu cầu cuộc sống, dần dần được phát triển thành ngôn ngữ không thể thay thế của khoa học, nhất là vật lý học, trên con đường đi khám phá thế giới. Nhưng trong quá trình phát triển, do bị lũng đoạn bởi mặt trái tự do vô lối của tư duy trừu tượng, toán học vừa đạt được những thành quả huy hoàng vừa dần xa rời thực tại. Có thể ví toán học như ngọn thái sơn kim cương tỏa ra lấp lánh muôn sắc màu. Nó sinh ra từ thực tại, chỉ ra những điều tiềm tàng trong thực tại, nhưng không phải thực tại mà là thực tại ảo huyền thoại. Trước đây, người ta cứ tưởng toán học là ngọn thái sơn chân lý bất di bất dịch, nhưng thực ra nó còn đại diện cho cả những nghịch lý hợp lôgic nữa. Thí dụ:
                                                                   1 + 1 = 2
là điều không ai chối cãi được. Nhưng nếu nghĩ kỹ thì thấy nó chỉ đúng trong qui ước Vì:
                               "1 quả táo + 1 quả táo" không thể bằng "1 quả táo + 1 đống táo"
Vả lại, 2 là cái gì mà 1 + 1 bằng nó?
Lại nữa, tại sao một số lớn hơn số 0 (>0) đem chia cho một số lớn hơn số 0, nhưng nhỏ hơn số 1 lại cho kết quả lớn hơn nó? Thí dụ có 5 kg thịt chia cho 5 người được 1 kg/ng nhưng đem chia cho 0,5 người thì được 10 kg/ng. Sao kỳ thế? Thực ra phép toán 5/0,5 là sai. Phép toán đúng trong  thực tế phải là  5/(5 . 2 . 0,5) = 1 kg/ng. (Chia thịt cho một nửa người là chuyện tiếu lâm!)
<1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">Thí dụ trên đã dẫn chúng ta đến một kết luận tầm thường: trong thực tế đời sống, muốn cho phép chia có nghĩa, bao giờ số chia cũng phải lớn hơn hoặc bằng 1.
<1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi=""> Quan niệm tầm thường đó đã dọn đường cho chúng ta đến với một quan niệm thực sự lớn lao. Đó là, mọi thực thể, mọi tồn tại thực cũng như mọi hệ thống trong Vũ Trụ này đều được xây dựng nên từ đơn vị, tức từ cái 1, tuyệt đối hay tương đối. Chẳng hạn con bò là đơn vị tuyệt đối của đàn bò. Đơn vị tuyệt đối của giống loài bò là tế bào bò. Có thể chọn kg là đơn vị (tương đối) của thịt bò. Không ai chọn thịt bò làm đơn vị tính toán số lượng đàn bò cả. Tương tự như vậy, trong khi con người rõ ràng là đơn vị tuyệt đối của xã hội vì không có con người thì không có xã hội loài người. Nhưng vì sao người ta vẫn coi gia đình là tế bào của xã hội? Thực ra gia đình chỉ là đơn vị tương đối của một xã hội đã nhấn mạnh tính tư hữu mà thôi.
<1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi=""> Trước đây, các nhà khoa học cho rằng vật chất và năng lượng là có tính liên tục. Nhờ vấp phải "tai biến tử ngoại" và trong quá trình tìm cách giải quyết nó, họ đã phát hiện ra rằng chúng có tính gián đoạn, là gồm những đơn vị rất nhỏ gọi là lượng tử năng lượng và lượng tử vật chất (foton) tạo thành.
<1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">Theo quan niệm của chúng ta thì thế giới này vừa liên tục vừa gián đoạn, là cả hai mà cũng không phải cả hai (nghĩa là không thể hiện cùng một lúc được). Khi thấy nước liên tục thì nó không thể gián đoạn, và ngược lại, khi thấy nó gián đoạn thì không thấy nó liên tục. Ánh sáng cũng vậy, vừa là sóng, vừa là hạt, là thế nhưng cũng không phải thế. Nếu tồn tại thực là gián đoạn thì tồn tại ảo là liên tục. Chỉ có quan niệm như thế thì mới thỏa mãn được đặc tính "nước đôi" của Vũ Trụ mà chúng ta đã nêu ra trên bước đường hành trình của mình.
<1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">Vậy thì hạt đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của vật chất là gì? Đến nay chưa ai biết nó là gì, nhưng có thể phỏng đoán đó là một giả thực thể lưỡng tính: khi di chuyển thì có tính năng lượng (tính gián đoạn), khi đứng yên thì có tính sóng (tính liên tục).
<1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">Và cuối cùng, hạt đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của Tồn Tại, như chúng ta đã đặt tên, chính là hạt Không Gian, viết tắt là hạt KG. hạt KG là hạt có thể tích cực tiểu tuyệt đối của Vũ Trụ. Đại dương không gian bao la, "quan sát" ở tầm vĩ mô được thấy như môi trường "loãng" tuyệt đối, tưởng chừng cho mọi thực thể đi xuyên qua (nhưng thực ra không phải thế, mà chỉ có thể "thẩm thấu" qua, chuyển hóa qua!), "quan sát' ở tầm vi mô thì được thấy như một khối mạng được kết thành từ vô vàn hạt KG, <1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">khổng lồ khó tưởng tượng nổi và bền vững tuyệt đối cũng như cứng tuyệt đối. Trong vai trò là nút mạnh thì hạt KG tuyệt đối không được xê dịch, vì xê dịch có khả năng làm xuất hiện Hư Vô. Nhưng nếu nó không di chuyển thì Vũ Trụ lại chết cứng để rồi cũng xuất hiện Hư Vô. Chính vì vậy mà hạt KG đã "chọn" cách nước đôi: di chuyển mà cũng không di chuyển, là cả hai mà cũng không phải cả hai! Hạt KG <1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">chỉ có nội tại giao động, còn bản thân nó không di chuyển. Chỉ có phần giao động bị kích thích quá độ (tương tự như lượng cộng hưởng, lượng tử năng lượng) là di chuyển. Có thể minh họa hiện tượng này như sóng nước: các phần tử nước chỉ giao động, coi như đứng yên một chỗ, chỉ có năng lượng được truyền đi. 
<1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">Chúng ta đã biết Niutơn là người  khám phá ra định luật vạn vật hấp dẫn và biểu thức tính lực hấp dẫn giữa hai vật là
                                                 
                                       {\displaystyle F={\frac {GMm}{r^{2}}}} 

Trong đó: G là hằng số hấp dẫn 
                 M , m lần lượt là khối lượng của hai vật
                 r là khoảng cách giữa trọng tâm hai vật 
Như đã suy luận ở trên, lực hấp dẫn lớn nhất chỉ có thể bằng GMm, khi r = 1, nghĩa là bằng đơn vị khoảng cách giữa hai vật. Đơn vị khoảng cách phải chăng là  r = r1 + r2 ? Nhỏ hơn khoảng cách đó, r sẽ nhỏ hơn 0, xảy ra hiện tượng lực hấp dẫn tăng ảo, không thực một cách lạm phát. Rất có thể đây là ngộ nhận toán học dẫn vật lý học đến với điểm kỳ dị huyễn hoặc và không gian giãn nở lạm phát, để rồi xây dựng nên một thuyết Vũ Trụ Big Bang không tưởng!?

                                                ***
Vào khoảng 400 năm TCN, Arixtốt, nhà triết học, khoa học trụ cột của nền văn minh HiLạp đã không đồng ý việc cho rằng không gian Vũ Trụ là chân không, trống rỗng, không có gì, nghĩa là Hư Vô, mà cho rằng nó được lấp đầy bởi một chất rất nhẹ, linh động, gọi là ête. Ông lý giải rằng trong không gian tổn tại các chuyển động tự nhiên (hiểu như vốn dĩ, tự nó), nếu không có gì cản chúng lại, chúng sẽ tăng dần vận tốc lên vô hạn. Đó là điều phi lý. Nhưng ngược lại với điều đó, các nhà thần học Hồi Gíáo lại chống đối và đi ngược lại với luận thuyết của Aristote. Họ là những người theo thuyết nguyên tử và chấp nhận chân không.
Lão Tử là một đại hiền triết của thế giới phương Đông cổ đại. Chúng ta cho rằng học thuyết triết học của ông về tự nhiên cũng như xã hội mang tính hợp lý cao độ. Ông đã xây dựng khái niệm "Đạo" để nói về thế giới tự nhiên, về Vũ Trụ, và qua đó, về không gian. Khái niệm Đạo của ông là một khái niệm siêu việt, vừa là nguyên lý, vừa là bản thể của Vũ Trụ. Ông nói: "Đạo, bản thể thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó uyên áo và tựa như làm chủ tể vạn vật. Nó không để lộ tinh nhuệ ra, gỡ những rối loạn, chê bớt ánh sáng, hòa đồng với trần tục; nó sâu kín (không hiện) mà dường như trường tồn". Trong Đạo đức kinh có tới gần 40 thiên (chương) nhắc đến Đạo, nhưng không phải theo nghĩa thông thường, mà có tính trừu tượng, khái quát rất cao. Trước hết, Lão Tử dùng Đạo để chỉ bản nguyên của vũ trụ, tổ tông của muôn loài. Đó là cái mà ông gọi là "Đạo thường", "Đạo vô danh”. "Đạo thường" là đạo bản thể vĩnh cửu, bất biến, không giống cái gì cả, do đó khó có thể nói rõ được về nó, mà chỉ có thể dùng trực giác để lĩnh hội được phần nào mà thôi. Đạo ấy là vô thuỷ, vô chung nên  "... đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi". Có ý kiến cho rằng Đạo của Lão Tử là một thứ rất huyền  bí, thoát trần, không thể dùng ngôn ngữ, khái niệm để nói và nhận thức về nó, là một thứ siêu tự nhiên, thần bí, khó hiểu, một thực thể tinh thần tuyệt đối... Thực ra, theo Lão Tử, Đạo - cái bản nguyên của Vũ Trụ, vẫn có tính vật chất, vẫn có thực chứ không phải là cái siêu nhiên. Ông viết: "Đạo là cái gì... thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh tuý, tính tuý đó rất xác thực và rất đáng tin";  "... có thể coi nó là  mẹ của vạn vật trong  thiên hạ...". Vào thời khoa học mới bước đầu hình thành hiểu biết của con người về tự nhiên chưa nhiều, mà quan niệm được như thế, dù còn chất phác, ngây thơ, thì phải nói trí tuệ Lão Tử thật thâm hậu, thật thiên tài.
Đến thời Niutơn, quan niệm về không gian của cơ học cổ điển, kế thừa quan niệm trước đó của trường phái nguyên tử luận cộng với những thành tựu vừa mới khám phá được của Niutơn trong chuyển động cơ học, cũng cho rằng không gian trống rỗng, không ảnh hưởng gì tới các qui luật của chuyển động, và ông gọi đó là không gian tuyệt đối. Dù chính mình là nhân vật đề xướng ra quan niệm không gian tuyệt đối nhưng bản thân Niutơn cũng không giải thích được vì sao lực hấp dẫn lại có thể truyền tương tác qua những khoảng cách chân không rộng lớn như vậy (?). Niutơn cũng như nhiều nhà khoa học khác đã suy nghĩ "nát óc" vấn đề đó nhưng không giải quyết được, đành "nhường lại" cho các thế hệ sau. Và cho đến hôm nay, "Các thế hệ sau" vẫn chưa giải quyết dứt khoát được vấn đề hóc búa đó!
Khoa học vật lý vẫn tiếp tục phát triển, tiến lên những bước dài. Với nhiều hiện tượng Vũ Trụ đã khám phá, hầu hết các nhà vật lý đã hầu như đồng thuận rằng phải có thứ gì đó, tương tự như ête mà Arixtốt đã hình dung, lấp đầy Vũ Trụ. Mắcxoen, nhà vật lý thiên tài, người thợ xây cuối cùng của vật lý cổ điển, cũng tin rằng phải có ête để làm môi trường "cưu mang" sóng điện từ. Số đông các nhà khoa học thời đó tưởng rằng những hiện tượng vật lý trong Vũ Trụ đã được khám phá hầu hết. Vật lý học chỉ cần viết thêm vài trang nữa là hoàn thành sứ mạng của nó. Nhiệm vụ cuối cùng của họ có lẽ tập trung tìm cho ra ête mà thôi. Nhưng mấy ai học được chữ ngờ!
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Khoa học và kỹ thuật phát triển mạnh, con người bắt đầu tiếp xúc với những vật chất chuyển động nhanh, cỡ vận tốc ánh sáng ( 300.000km/s trong chân không). Khi đó, xuất hiện nhiều hiện tượng mâu thuẫn với các quan điểm cơ học của Newton. Cụ thể là: Không gian, thời gian, khối lượng đều phụ thuộc vào chuyển động. Những khó khăn đó, cơ học của Newton không thể giải đáp được. Từ đó, các nhà Thiên văn học rút ra kết luận: Cơ học Newton ( tức cơ học cổ điển) chỉ áp dụng cho những vật chất chuyển động với vận tốc nhỏ so với vận tốc ánh sáng. Như vậy, cần phải xây dựng một cơ học mới, tổng quát hơn, áp dụng cho tất cả các trường hợp.
Thí nghiệm nhằm mục đích khám phá sự tồn tại ête của Maikensơn và Mookly được coi là phát súng nổ đầu tiên cho một cuộc cách mạng long trời lở đất trong vật lý học. Nó không những không phát hiện ra ête mà còn trưng ra những mâu thuẫn nan giải về vận tốc ánh sáng. Để giải quyết mâu thuẫn, Anhxtanh đã nên ra hai tiên đề là vận tốc ánh sáng trong chân không là một bất biến đổi với mọi hệ quy chiếu quán tính và mọi định luật vật lý đều giống nhau trong các hệ quy chiếu quán tính. Từ đó ông xây dựng nên thuyết tương đối hẹp với quan niệm mới rằng, không gian có tính tương đối và thời gian cũng có tính tương đối, cụ thể là không gian và thời gian đều co lại theo chiều chuyển động, phụ thuộc vào mức tăng vận tốc của vật.
Không dừng lại ở đó, năm 1916, Anhxtanh lại đưa ra thuyết tương đối tổng quát. Với thuyết này không gian và thời gian không còn đứng riêng rẽ, độc lập, không ảnh hưởng tới nhau nữa, mà hòa quyện vào nhau thành một khối không-thời gian. Không những thế, thuyết tương đối tổng quát còn chỉ ra rằng nguyên nhân của lực hấp dẫn là do độ cong của không-thời gian gây ra. Độ cong này (tức là độ lệch khỏi không gian Euclide) phụ thuộc vào khối lượng và khoảng cách đến vật. Khối lượng càng lớn, khoảng cách đến các khối vật chất đó càng gần thì ảnh hưởng của vật chất đó lên không gian thời gian càng mạnh làm cho không gian cong và thời gian kéo dài ra, trôi chậm lại.
Trên đây, chúng ta đã trình bày sơ lược nhất lịch sử quan niệm của loài người về Vũ Trụ, về không gian và thời gian. Thực ra đó là cuộc tìm câu trả lời "không gian là gì?" và tranh luận dai giẳn giữa hai quan niệm không gian là Hư Vô hay không Hư Vô, là trống rỗng tuyệt đối hay còn ẩn chứa cái gì đó. Cho đến nay, hầu hết các nhà khoa học đều thừa nhận quan niệm về không gian và thời gian do Anhxtanh nêu ra, mặc dù còn chứa nhiều mâu thuẫn và nghịch lý khó lòng mà hiểu được.
Theo nguyên lý nước đôi của tự nhiên mà chúng ta đề xướng, thì tự nhiên bao giờ cũng có hai mặt của nó, thể hiện ra thành thế giới tương phản. Nghĩa là có mặt trái thì cũng có mặt phải, có âm thì cũng có dương, mọi sự xảy ra đều có thể theo hai chiều thuận nghịch. Nhưng nguyên lý nước đôi chỉ là tương đối, phần lớn tùy thuộc vào mức độ xác đáng trong nhận biết, cảm thức và qui ước của con người. Vì nguyên lý nhân quả - một nguyên lý cơ bản của tự nhiên, chỉ ra rằng '"nhân" nào "quả" nấy. Hay có thể nói,  trong tự nhiên có hai loại chân lý gồm chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Chân lý tương đối bao hàm cả phi lý,còn chân lý tuyệt đối thì chỉ có một.
Chính vì vậy mà một học thuyết khoa học ra đời, muốn trở thành một chân lý tuyệt đối của tự nhiên, phải không được có mâu thuẫn nội tại, không có nghịch lý, phi lý. Thế mà không hiểu sao các nhà khoa học lại làm điều ngược lại, chấp nhận những nghịch lý, phi lý phát sinh đầy rẫy trong các lý thuyết vật lý hiện đại như các lý thuyết tương đối, thuyết BigBang, thuyết Vũ Trụ giãn nở, thuyết lượng tử..., mà không tìm cách cố gắng khắc phục chúng, loại trừ chúng.
Vì lẽ đó mà chúng ta không tin vào tính đúng đắn của quan niệm về không gian và thời gian do Anhxtanh khởi xướng. Nếu Vũ Trụ này lấp đầy không gian, mà không gian là Tự Nhiên Tồn Tại, là cội nguồn vật chất như chúng ta đã quan niệm, còn thời gian là một tồn tại ảo,  chỉ là một thể hiện của vận động, chuyển hóa không gian, thì dứt khoát thời gian không thể phối hợp với không gian để hình thành nên một thứ không - thời gian bị cong đi do khối lượng như thế. Nếu không -thời gian cong là nguyên nhân gây ra lực hấp dẫn, thì khối lượng làm cong không - thời gian đã triển khai lực làm cong như thế nào và cong theo hướng nào?
Chúng ta nghiêng về quan niệm Vũ Trụ hay Không gian của Lão Tử: "Đạo (là tên gọi ám chỉ Vũ Trụ, không gian) là cái gì chỉ mập mờ, thấp thoáng; thấp thoáng mập mờ mà bên trong có hình tượng; mập mờ thấp thoáng mà bên trong có vật; nó thâm viễn, tối tăm mà bên trong có cái tinh túy; tinh túy đó rất xác thực, rất đáng tin. Từ xưa đến nay, đạo tồn tại hoài, nó sáng tạo vạn vật...". "Thần hang bất tử (ám chỉ Vũ Trụ, không gian. Đêm đêm nhìn lên bầu trời.chỉ thấy màu đen thăm thẳm và các vì sao như nhìn vào một cái hang vĩ đại, huyền bí!), gọi là Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu); cửa Huyền Tẫn là gốc của trời đất. Dằng dặc mà như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không kiệt (hay không mệt)". Cụ thể hơn, nếu ai đó hỏi chúng ta: "Không gian là gì?". Chúng ta sẽ mạnh dạn trả lời: "Không gian là một khối thể tích có cấu trúc kiểu mạng vĩ đại mà nút mạng là những hạt KG - thành phần đóng vai trò đơn vị nhỏ tuyệt đối của Tồn Tại!".

                                               ***
Như vậy, nói đến thế giới này có nghĩa là nói về Vũ Trụ. Nói về Vũ Trụ tức là nói về không gian và vật chất. Không gian và vât chất xét cho cùng chỉ là không gian, chỉ có thể là Tồn Tại. Vũ Trụ Tồn Tại là vốn dĩ thế, là tự nhiên như thế. Vì Tồn Tại tự nhiên như thế nên không thể có Hư Vô. Một minh chứng hùng hồn rằng, nếu Vũ Trụ là Hư Vô vốn dĩ thì làm sao có chúng ta ở đây để bàn luận về nó?
Cũng chính vì Tồn Tại là tự nhiên nên không gian là vô thủy vô chung, là không có cội nguồn, gốc gác. Nhưng đã là Tồn Tại thì phải thể hiện. Một Tồn Tại, nếu không phân biệt được với xung quanh, thì sao biết là nó Tồn Tại, sao gọi là Tồn Tại? Bất cứ thứ gì, không thể hiện thì không Tồn Tại, không phân biệt được với xung quanh thì không thể gọi là Tồn Tại được. Nói cách khác, thể hiện là điều kiện tiên quyết của Tồn Tại! Phân biệt được là đặc trưng cơ bản của Tồn Tại. Mà phân biệt là phải phân biệt đến tận cùng giới hạn, đến tận "chân tơ kẽ tóc", không những phân biệt được với xung quanh, mà còn với chính bản thân mình. Vì vậy, để tránh nguy cơ bị Hư Vô đi, Tồn Tại phải thường xuyên chuyển hóa, biến đổi, tức là phải thường biến.
Một Tồn Tại thường biến, hay một không gian thường biến là không gian luôn chuyển hóa, chuyển hóa về trạng thái, chuyển hóa về qui mô thể tích, chuyển hóa về hình dạng..., và chuyển hóa phải xảy ra ở từng hạt KG. Chuyển hóa không gian còn được gọi bằng một tên quen dùng từ xưa tới nay, đó là "vận động không gian". Có thể nói, vận động là bản chất của không gian, biểu hiện ra bằng một khái niệm mà loài người đã xây dựng được bằng cảm thức (cho đến nay vẫn còn hiểu mơ hồ!), đó là thời gian. Không gian tồn tại là vốn dĩ thế nên vận động cũng là vốn dĩ thế.
Vì thể tích không gian là vô cùng bao la, vô cùng vĩ đại, nhưng không phải lả vô tận, mà được tập hợp bởi vô vàn hạt KG thường biến, thì có thể xảy ra sự trùng lắp trong chuyển hóa, dẫn đến sự không phân biệt được giữa hạt KG nào đó với các hạt KG xung quanh, có thể làm xuất hiện Hư Vô, nên trong quá trình chuyển hóa, một số hạt KG lâm vào trạng thái bị kích thích tột độ, tương tự như cộng hưởng và để tránh nguy cơ phát nổ làm xuất hiện Hư Vô, ngay lập tức trạng thái kích thích tột độ bị giải tỏa, lượng kích thích quá độ của chúng (mà sau này được gọi là lượng năng lượng nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ) chuyển từ hạt KG này sang hạt KG khác, được thấy như lan truyền qua các hạt KG ra khắp Vũ Trụ với vận tốc cực đại Vũ Trụ (C = 3 . 10^10 cm/s). Các hạt kích thích tột độ mà cũng không phải hạt kích thích tột độ ấy được chia làm hai phần có trạng thái kích thích trái chiều nhau, đến lượt chúng, sẽ kết hợp với nhau từng đôi một, và tùy vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của từng trường hợp mà hoặc trao đổi kích thích cho nhau để cùng về trạng thái trung hòa hoặc kết hợp với nhau tạo thành hạt vật chất cơ bản đầu tiên (chính xác hơn: thành một thực thể vật chất mà tính hạt thể hiện rõ hơn tính sóng). Từ hạt vật chất cơ bản đầu tiên đó mà đa dạng vật chất, các hành tinh, ngôi sao, thiên hà...hình thành!
Như đã trình bày, vận động của Tồn Tại là vốn dĩ, là tự nhiên. Nhưng nhìn ở góc độ khác, vận động cũng phải có lý do và nguyên nhân. Lý do duy nhất của vận động rõ ràng là để thể hiện sự Tồn Tại (hay tồn tại), duy trì trạng thái tồn tại vốn dĩ, tránh Hư Vô (hay hư vô). Còn nguyên nhân, cũng duy nhất của vận động, là nhờ tác động trong vận động thường biến (vốn dĩ) của các hạt KG bao quanh (bốn hạt) và để tránh nguy cơ bị trùng lắp trạng thái, mà hạt KG đang xét, rối loạn quá trình biến đổi hài hòa, bị kích thích lên trạng thái tột độ, gây ra hiện tượng giống như lan tỏa bức xạ (lan truyền năng lượng) trong không gian. Đây rất có thể được coi như là "cú hích" đầu tiên của vận động không gian (các nhà khoa học xưa nay cho rằng, phải có "cú hích" khởi đầu cho vận động Vũ Trụ) và đóng luôn vai trò là "giọt", là lượng tử, đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối của năng lượng.
Theo nhận thức khoa học hiện nay, năng lượng là một thứ gì đó tiềm ẩn lực và có khả năng sinh công đối với vạn vật, là khả năng làm biến đổi trạng thái của vạn vật. Suy rộng ra, năng lượng là thứ gì đó hàm chứa khả năng chuyển hóa trạng thái, tạo ra đặc tính vận động của Tự Nhiên Tồn Tại. Nói như thế có nghĩa, khi các hạt KG dù vốn dĩ thường biến để bảo toàn Tồn Tại, phủ định Hư Vô, thì cũng coi như trong chúng có hàm chứa năng lượng làm động lực thực hiện quá trình tự nhiên đó.
Nói một cách đơn giản, Vũ Trụ là Tự Nhiên Tồn Tại. Tự Nhiên Tồn Tại là không gian, và không gian chính là thể tích. Dù đến ngày nay chưa biết bản chất thể tích là gì nhưng trong tầm quan sát của loài người thì thể tích có quảng tính, tức là nếu xét theo không gian Ơclít, bất cứ khoảng không gjan nào cũng có bề dọc, bề ngang và bề sâu. Muốn biết được qui mô hay thể tích của một khoảng không gian thì phải biết được độ dài (hay khoảng cách) của ba bề đó, tức là phải định lượng được ba bề đó. Rõ ràng, trong chiều sâu nhận thức, chúng ta thấy,  thể tích là một thứ gì đó rất cụ thể, tương tự như không khí vậy. Muốn xác định thể tích không gian, trước tiên, phải xác định được khoảng cách. Muốn xác định khoảng cách, phải xác định được điểm.
"Điểm" là gì? Điểm (toán học) là khái niệm cơ bản trong toán học, được thừa nhận như một khái niệm xuất phát, do Ơclít qui ước để xây dựng môn hình học, được hình dung như là cái gì đó rất nhỏ bé, không có kích thước hay kích thước bằng không. Trong toán học hiện đại, điểm được hiểu là một phần tử trong một không gian trừu tượng. Còn trong vật lý, khái niệm điểm được hiểu như một chất điểm, chất điểm là khái niệm cơ bản trong vật lý, là viên gạch đầu tiên dùng để xây dựng nên môn cơ học, đó là thực thể mà kích thước chiếm không gian có thể bỏ qua. Toán học quan niệm về điểm như thế khác nào cho điểm là một Hư Vô! Có lẽ vật lý học quan niệm đúng hơn, nhưng không phải có kích thước "chiếm" không gian mà có kích thước không gian thực sự, tức là có một thể tích, dù nhỏ tới mức nào.
Theo triết học duy tồn, mọi thứ, kể cả Vũ Trụ, đều được xây dựng nên từ đơn vị, và điểm chính là đơn vị tuyệt đối của không gian, có lượng thể tích nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ. Giả sử có thể tích một khoảng không gian là V và a là đơn vị khoảng cách (tương đối) thì có thể viết V = h . a^3 , trong đó h là hệ số. Khi a là đơn vị khoảng cách nhỏ nhất tuyệt đối a = 1 và h = 1. Do đó thể tích đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối là V = 1, và đó chính là hạt KG hay còn gọi là "điểm không gian".
Thể tích không gian là sự hợp thành của thể tích các điểm KG, nhưng không thể nói không gian được hình thành từ chỗ không có gì mà sự tồn tại không gian là vốn dĩ thế, là tự nhiên như thế, không có khởi đầu cũng không có tột cùng. Nếu thể tích của hạt KG là V = h . a^3 và số lượng hạt KG của một khoảng không gian là S thì thể tích của khoảng không gian ấy rõ rảng là W = S . h . a^3. Vì hạt KG là thường biến nên nó phải biểu hiện thời gian. Trong quá trình tìm hiểu Vũ Trụ, con người đã khám phá ra đặc tính cơ bản của mọi thực thể vật chất là có khối lượng và có một năng lượng toàn phần.
Theo quan niệm của lý thuyết cơ học cổ điển do Niutơn xây dựng, thì khối lượng là một đại lượng cơ bản nhằm chỉ "sức ỳ" hay còn gọi là "quán tính" trong chuyển động của vạn vật. Trong lý thuyết tương đối rộng do Anhxtanh khởi xướng và được hầu hết các nhà vật lý học thừa nhận, khối lượng còn được hiểu là khả năng làm cong không-thời gian, tạo ra trường hấp dẫn của vạn vật.
Vì phơi bày ra quá nhiều nghịch lý, phi lý không giải quyết được nên chúng ta tin thuyết tương đối rộng chỉ là một giải pháp toán học được lập nên nhằm giải thích một số hiện tượng bí ẩn của Vũ Trụ, một ngộ nhận khoa học của Anhxtanh, do đó cũng không tin quan niệm khối lượng là nguyên nhân gây ra trường hấp dẫn của vạn vật. Chúng ta vẫn tin vào Niutơn. Có lẽ quan niệm về khối lượng của Niutơn nếu không là chân lý thì cũng đã rất gần chân lý.
Một hạt KG bất động, nó có lượng thể tích nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ, và bằng V = h . a^3, với h là hệ số, a là kích thước (đường kính?) của hạt KG. Khi vận động, một phần lượng thể tích đó chuyển hóa thành lượng năng lượng nhỏ nhất Vũ Trụ:  V = h . a^3/2  ------->  E = m . c^2 ,với m là khối lượng nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ, c là tốc độ chuyển hóa (cũng là tốc độ di chuyển) cực đại tuyệt đối của Vũ Trụ.
Quan niệm của triết học duy tồn cũng cho rằng, khối lượng là số đo quán tính, là đặc trưng cho khả năng bảo toàn trạng thái chuyển động đang có của vật chất. và hơn thế nữa, có ý nghĩa có thể là quan trọng bậc nhất theo hình dung quá cỡ hoang tưởng của chúng ta, khối lượng chính là đặc trưng cản trở sự chuyển hóa không gian, không cho hạt KG hóa thành Hư Vô, mà từ trạng thái cộng hưởng, kích thích tột độ, chỉ có thể hạ xuống thành hạt KG thông thường bằng cách "truyền" lượng kích thích "dư thừa" như một bức xạ điện từ ra không gian. Lượng kích thích ấy đúng bằng mc2 , với m là khối lượng hạt KG, c là vận tốc cực đại của Vũ Trụ. Và đó cũng được coi là "giọt" năng lượng tuyệt đối nhỏ nhất, đóng vai trò là đơn vị năng lượng của Vũ Trụ. Nó hàm chứa một xung lực là f . t = m . c , với t là đơn vị thời gian nhỏ nhất tuyệt đối của Vũ Trụ. Qua đây chúng ta cũng cảm nhận được, vì sao vận tốc trong Vũ Trụ bị giới hạn và chỉ đạt giá trị cực đại tuyệt đối bằng c.
Cần nhấn mạnh lại rằng, quá trình chuyển hóa từ hạt không gian thông thường đến "hạt" bức xạ, "hạt" cơ bản đầu tiên của vật chất, là vốn dĩ thế, tự nhiên như thế. Nhưng chúng ta giải phẫu ra một cách siêu hình như thế nhằm "thấy rõ" ngọn ngành mà thôi! Còn nếu vẫn chưa hiểu nữa thì hãy nghe câu nói của nhà vật lý Phạm Việt Hưng: "Vật lý tuy không phải là một hệ logic hình thức, nhưng ngôn ngữ diễn đạt nó là toán học và ngôn ngữ thông thường. Cả hai thứ ngôn ngữ này đều bất toàn, vậy làm sao có thể có một hệ thống vật lý tuyệt đối hoàn hảo để coi là cuối cùng?".

                                                                          ***
Triết học duy vật biện chứng, nếu thay khái niệm "vật chất" bằng khái niệm "tồn tại", đã ở rất gần chân lý về quan niệm thế giới. Hay có thể nói, triết học duy tồn là bước phát triển vừa có tính kế thừa vừa có tính cách mạng của triết học duy vật biện chứng.
Trong "giáo trình triết học Mác - Lênin (tên gọi khác của triết học duy vật biện chứng)" (NXB chính trị quốc gia, năm 2004) viết:
"Đương nhiên, quan niệm về sự thống nhất của thế giới lấy việc thừa nhận sự tồn tại của nó làm tiền đề. Không thừa nhận sự tồn tại của thế giới thì không thể nói tới việc nhận thức thế giới.
(...) Như vậy, khái niệm tồn tại chỉ là tiền đề xuất phát của nhận thức triết học. Song vấn đề mà nhận thức triết học phải đi tới chính là quan niệm về sự tồn tại của thế giới.
Nói chung, chủ nghĩa duy vật hiểu sự tồn tại của thế giới như một chỉnh thể mà bản chất của nó là vật chất.
(...)
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng sự tồn tại của thế giới tự nhiên là tiền đề cho sự thống nhất của nó; song sự thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó. Ph. Ăngghen viết: "Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã". Sự khác nhau căn bản giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm không phải ở việc thừa nhận hay không thừa nhận tính thống nhất của thế giới mà ở chỗ chủ nghĩa duy vật cho rằng cơ sở của sự thống nhất thế giới là ở tính vật chất của nó....".
Về vấn đề thế giới này tồn tại hay không tồn tại, trước đây, nhà triết học Hy Lạp cổ đại tên là Pacmênit qua tác phẩm "Bàn về tự nhiên" và triết học trường phái Jaina ở Ấn Độ cổ đại đã từng đề cập đến. Triết học duy vật cũng thừa nhận thế giới này là tồn tại, nhưng vẫn chưa làm thấu tỏ được khái niệm tồn tại, vẫn sai lầm cho rằng bản chất của tồn tại là vật chất, chưa nhận thức được tồn tại và Tồn Tại. Chính vì vậy mà khi bàn về không gian và thời gian đã tỏ ra lúng túng, không dứt khoát được chúng là vật chất hay không phải vật chất.
Vào cuối thế kỷ XVII, khi đề xướng thuyết cơ học, Niutơn đã sai lầm khi cho rằng không gian và thời gian là những thực thể đặc biệt, không gắn bó gì với nhau và tồn tại độc lập bên cạnh vật chất cũng tương tự như các vật tồn tại độc lập bên cạnh nhau vậy. Đến lượt triết học duy vật biện chứng cũng quan niệm sai lầm nốt. Trong sách đã dẫn ở trên có viết: "Trên cơ sở các thành tựu khoa học và thực tiễn, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng không gian và thời gian là những hình thức tồn tại khách quan của vật chất. không gian và thời gian gắn bó hết sức chặt chẽ với nhau và gắn liền với vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất".
Ngày nay vật lý học không những vẫn chưa quan niệm được chính xác, mà còn quan niệm chìm sâu hơn trong lầm lạc về không gian và thời gian. Không gian và thời gian không thể hòa lẫn vào nhau thành một thứ hổ lốn co theo vận tốc và cong theo khối lượng được.
Nếu nhìn theo quan niệm của triết học duy tồn thì thật là đơn giản và sáng tỏ: không gian và thời gian là sự thể hiện của Tồn Tại và Vận Động, không co theo vân tốc cũng như cong theo khối lượng. Đúng thật là chúng gắn kết chặt chẽ với nhau, nhưng chỉ như hình với bóng dưới ánh mặt trời, không thể hòa lẫn vào nhau và cũng không thể vận động như vật chất.
Khi cho rằng bản chất của tồn tại là vật chất và thế giới này không có gì ngoài vật chất thì triết học duy vật biện chứng đã không bao hàm hết "cái có" của thế giới này. Tiếng chó sủa dù có nguyên nhân từ vật chất nhưng bản thân nó, một cách độc lập, phải là cái có, một tồn tại rõ ràng là phi vật chất. Cái có đó có vận động không? vận động là gì? Tại sao lại có vận động? Đây là những câu hỏi có tính "sống còn" đối với mọi trường phái triết học. Theo chúng ta biết, chưa có trường phái triết học nào, duy vật cũng như duy tâm, kể cả triết học duy vật biện chứng dù đã trả lời tương đối rốt ráo, nhưng vẫn chưa trả lời được rõ ràng và dứt khoát những câu hỏi đó.
Giáo trình đã nêu ở trên có viết: "Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn chủa vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi nói chung. Ph. Ăngghen viết: "Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất (...), bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong Vũ Trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản đến tư duy".
Khi định nghĩa vận động là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật chất", "là phương thức tồn tại của vật chất". Điều này có nghĩa là vật chất tồn tại bằng cách vận động (...). Không thể có vật chất không có vận động và ngược lại không thể có sự vận động nào lại không phải là vận động của vật chất, không thuộc về vật chất. (...)
Với tính cách "là thuộc tính cố hữu của vật chất" theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất. (...). Những người theo quan điểm duy tâm hoặc siêu hình không đi tìm nguồn gốc của vận động ở bên trong bản thân sự vật, mà đi tìm nguồn gốc bên ngoài sự vật...".
Dù rằng triết học duy vật biện chứng quan niệm như trên về vận động đã rất gần với sự thật nhưng vẫn chưa là sự thật. Vì chưa nhận thức được Tồn Tại (tồn tại tuyệt đối) và chưa đưa ra được khái niệm đích đáng về Hư Vô (hư vô tuyệt đối) nên chưa thấy được vận động không phải chỉ là thuộc tính cố hữu của vật chất mà bao quát hơn, là thuộc tính cố hữu của Tồn Tại. Mặt khác, triết học duy vật biện chứng cũng không chính xác khi quan niệm rằng vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Vì triết học duy vật biên chứng cũng cho rằng bản chất của tồn tại là vật chất nên có thể hiểu câu trên là "vận động là phương thức tồn tại của...tồn tại" và đâm ra buồn cười. Hơn nữa, vận động, hay nói đúng hơn là chuyển hóa, luôn luôn biến đổi, nghĩa là tồn tại luôn luôn biến đổi, thế thì làm sao vận động lại là phương thức tồn tại được? Theo triết học duy tồn, chỉ có thể nói thế này: vận động là phương thức thể hiện Tồn Tại, đồng thời là phương thức chuyển hóa của tồn tại. Và đây cũng là quan niệm của triết học duy tồn mà các trường phái triết học khác chưa quan niệm được: dù là vốn dĩ thế, tự nhiên thế thì cũng có thể mường tượng, nguyên nhân của việc nảy sinh ra vận động chính là để bảo toàn Tồn Tại, không cho xuất hiện Hư Vô. Chính vì vậy, có thể nói ví von, vận động là "lẽ sống còn" của Tồn Tại nói chung và của vật chất nói riêng. Không có vận động thì không có Tồn Tại. Mà không có Tồn Tại thì làm sao có vật chất và thế giới này được? Không có thế giới này, nói bắt chước giọng Ăngghen, chỉ có Hư Vô là một suy nghĩ mê sảng thực sự!
Nói cách khác, Tồn Tại là chuyển hóa. Chuyển hóa để xác định sự Tồn Tại vốn dĩ. Do Tồn Tại hữu hạn và trạng thái chuyển hóa cũng hữu hạn, để tránh trùng lắp dẫn tới Hư Vô, một phần Tồn Tại đã chuyển hóa theo hướng làm hình thành nên vật chất. Nếu chuyển hóa Tồn Tại có nguyên nhân tự thân (nguyên nhân bên trong) thì vận động vật chất có nguyên nhân từ bên ngoài (không có vận động tự thân). Nếu chuyển hóa Tồn Tại nhằm duy trì Tồn Tại thì vận động vật chất nhằm thay đổi, biến hóa vật chất (dĩ nhiên Tồn Tại vẫn được duy trì). Vì mang bản chất của Tồn Tại nên trong quá trình vận động hình thành vật chất, tồn tại cũng có tính tự duy trì trạng thái tồn tại (tồn tại tương đối) đang có của mình. Tình hình đó làm nảy sinh ra sự cản trở vận động (xét cho tận cùng thì vận động là chuyển động đơn thuần cơ học), tức khối lượng, và sự làm biến đổi trạng thái tồn tại, tức năng lượng, của vật chất.
Suy ra từ những lập luận ở trên và đúc kết lại, chúng ta rút ra dược một nguyên lý vô cùng quan trọng, có lẽ là quan trọng bậc nhất của nhận thức tự nhiên. Chúng ta gọi đó là NGUYÊN LÝ TỰ NHIÊN. NGUYÊN LÝ TỰ NHIÊN phát biểu rằng Tồn Tại chuyển hóa không ngừng, chuyển hóa là để xác thực Tồn Tại, bảo toàn Tồn Tại. Nếu quan sát ở góc độ tồn tại thôi thì, vật chất luôn gìn giữ, luôn "muốn" bảo toàn tồn tại cũ, có sẵn (quán tính), dẫn đến nguy cơ xuất hiện Hư Vô, do đó vật chất phải vận động. Vận động vật chất là luôn làm tồn tại đổi mới, qua đó mà bảo toàn Tồn Tại. Đây là nguyên lý bao trùm thế giới, là nguyên lý số một của vận động. Tồn Tại, mọi cái có, mọi tồn tại trên thế giới này khi vận động đều nhất nhất phải tuân theo nguyên lý tự nhiên. Vì vậy mà nguyên lý này cũng là nguyên lý cội nguồn, gốc rễ của mọi nguyên lý, qui luật, định luật. Việc tuân thủ tuyệt đối nguyên lý này của vạn vật - hiện tượng là nguyên nhân sâu xa nhất của sự thống nhất thế giới.
Có bốn hệ quả được rút ra từ nguyên lý tự nhiên và hợp với nguyên lý tự nhiên tạo thành hệ thống năm nguyên lý tiền đề cơ bản cho vận động hay chuyển hóa Vũ Trụ. Chúng ta liệt kê:
1/ Nguyên lý bảo toàn Tồn Tại, bảo toàn vật chất: Tồn tại thường biến theo chu kỳ nhưng vĩnh cửu. Vật chất do không gian chuyển hóa thành và chuyển hóa về lại với không gian. Hai chuyển hóa ngược nhau ấy giống nhau về mọi phương diện, chỉ ngược nhau về chiều nên lượng vật chất hiện hữu luôn không đổi.
2/ Nguyên lý tương tác (nguyên lý tác động tương hỗ): vận động là một quá trình thuận nghịch hoàn chỉnh, trong đó tổng của mọi tác động và phản tác động luôn luôn bằng không
3/ Nguyên lý nhân - quả: Mọi quá trình chuyển hóa trong Vũ Trụ đều phải có nguyên nhân từ bên ngoài, do các tồn tại khác tạo ra. Chỉ riêng Tồn Tại là có nguyên nhân từ bên trong, tức từ chính nó, hay nói cách khác, Tồn Tại và chỉ riêng Tồn Tại là vận động tự thân. 
4/ Nguyên lý cân bằng động: Tồn Tại là cân bằng. Vũ Trụ là một hệ cân bằng động tuyệt đối và vĩ đại.
Chúng ta không đồng thuận với quan niệm của triết học duy vật biện chứng cho rằng mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và phát triển. Trong "Giáo trình triết học Mác - Lênin" (sách đã dẫn) có viết:
"Tất cả các sự vật - hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược nhau (...).
(...).
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính qui định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, trong xã hội và tư duy.(...)
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. (...).
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự "đồng nhất" của các mặt đối lập. Với ý nghĩa đó, "sự thống nhất của các mặt đối lập" còn bao hàm cả sự "đồng nhất" của các mặt đó. Do có sự "đồng nhất" của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.
(...).
(...). Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập qui định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển."
Trên cơ sở lý luận đó về sự vận động và những hiện tượng thường thấy (nhưng bị hiểu sai lạc) trong hiện thực khách quan, triết học duy vật biện chứng cũng nêu ra ba qui luật cơ bản của tự nhiên (mà chúng ta đã phản biện bác bỏ đâu đó trong các chương trước của TT & HĐ).
Khi chúng ta nói Tồn Tại là cân bằng động tuyệt đối, thì điều đó có nghĩa mọi vận động của vạn vật cũng xảy ra trong thế cân bằng động. Một vật chuyển động đều có nghĩa là nó đi theo xu hướng động lực làm nó chuyển động và đã cân bằng với lực quán tính của nó. Lúc đầu nó vẫn giữ thế đứng yên, lập cân bằng động giữa nó với ngoại lực. Với ngoại lực lớn hơn lực quán tính,thế cân bằng động cũ bị phá vỡ. Vật phải chuyển động theo xu thế của ngoại lực để lập tức hình thành nên một  trạng thái cân bằng động mới. Ở hiện tượng này có phải nguyên nhân của sự vận động (chuyển động) là do giải quyết mâu thuẫn nội tại và vật chuyển sang di dời vị trí là nó đã phát triển? Cái luận điểm cho rằng, mâu thuẫn là nguyên nhân của vận động và phát triển xem ra không thuyết phục. Thế giới là thường xuyên biến đổi và Vũ Trụ là đầy đủ, tình hình đó dẫn đến sự đa dạng, đa cấu trúc, đa kiểu vận động của vật chất dẫn đến có thể phân chia thành các lực lượng đối lập, có tính mâu thuẫn không những trong nội tại và cả "ngoại tại" vật chất. Mặt khác, không thể nói đến sự phát triển nếu chưa có qui ước. Đối với vật chất, không có vận động tự thân. Quá trình sét rỉ của một thanh sắt, một cách tuyệt đối, không thể là kết quả của giải quyết mâu thuẫn nội tại và càng không phải là một sự phát triển nếu chưa qui ước.

                                              ***

Triết học duy tồn cũng chia triết học của mình ra hai phần cơ bản là triết học tự nhiên và triết học xã hội. Trên đây chúng ta đã trình bày những nhận thức cơ bản nhất, cốt lõi nhất của nhận thức về tự nhiên thuộc triết học duy tồn. Sau đây chúng ta tiếp tục trình bày những nhận thức cơ bản và cốt lõi về sự hình thành và vận động xã hội của triết học ấy.
Sự sống là một dạng tồn tại của thế giới tự nhiên. Thế giới sinh vật là một dạng đặc thù của thế giới vật chất. Ở một điều kiện phù hợp chín muồi nào đó trong quá trình duy trì trạng thái tồn tại đã có, sự sống được nảy sinh. Tính đặc thù cơ bản của sự sống dùng để phân biệt với vật chất nói chung là sự tự giác trong quá trình chống lại sự biến đổi của tác động ngoại cảnh (môi trường), duy trì trạng thái tồn tại đang có. Tính tự giác đó còn được gọi dưới những cái tên như "kiếm sống", "mưu sinh",..., và một cái tên bao quát nhất "cố gắng sống còn".
Có thể cho rằng tiền sự sống là các chất hữu cơ và dạng sống đầu tiên trên Trái Đất là các thực thể đơn bào. Đơn bào đã có tính tự giác, mưu sinh bằng cách tiếp thu các chất hữu cơ phù hợp có sẵn trong đại dương (gọi là chất dinh dưỡng). Nhờ có tính tự giác, không những khả năng "cố gắng sống còn" được tăng cường, mà còn hun đúc được một khả năng đặc biệt khác về duy trì sự sống, duy trì giống loài, đó là sự sinh đẻ. Cũng nhờ có tính tự giác mà sự mưu sinh, cố gắng sống còn, từ những hình thức kiếm ăn thụ động tiến dần đến những hình thức kiếm ăn chủ động.
Một trong những thể hiện rõ ràng nhất của tính tự giác trong thế giới sinh vật là đấu tranh sinh tồn và tiến hóa thích nghi.
Môi trường sống trên Trái Đất là hữu hạn trong khi sự sinh trưởng của thế giới sinh vật có khuynh hướng vô hạn độ. Tình hình đó, đồng thuận với các thảm họa thiên nhiên (tác dụng phụ), không những đã khống chế khả năng phát triển về số lượng các cá thể giống loài sinh vật, mà còn gây ra cuộc cạnh tranh khốc liệt để cố gắng sống còn giữa các cá thể và các giống loài sinh vật.
Ngày nay, đã không ít nhà khoa học lên tiếng phản bác học thuyết tiến hóa của Darwin. Theo Wikipedia:
"Trong sinh học, tiến hóa là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau. Các quá trình tiến hóa làm nảy sinh sự đa dạng ở mọi mức độ tổ chức sinh học bao gồm loài, các cá thể sinh vật và cả các phân tử như DNA và protein.
Sự sống trên Trái Đất khởi nguồn và sau đó tiến hóa từ một tổ tiên chung từ khoảng 3,8 tỷ năm trước. Sự tiến hóa thành loài mới và sự phân nhánh sự sống lặp lại có thể suy luận ra từ tập hợp những đặc tính sinh hóa và hình thái học chung, hay những chuỗi DNA chung. Những nét tương đồng này giống nhau hơn giữa những loài có tổ tiên chung gần gũi nhau hơn, và có thể dùng để tái dựng lịch sử tiến hóa từ những loài hiện tồn và những dấu vết hóa thạch. Hình ảnh về sự đa dạng sinh học trên hành tinh ngày nay hình thành từ cả sự hình thành loài và sự tuyệt chủng.
(...).
Nguồn gốc của đề xuất rằng một loại động vật có tổ tiên từ một loại động vật khác có thể lần ngược lên một vài triết gia Hy Lạp tiền-Socrates đầu tiên, như Anaximander và Empedocles. Đối lập với những quan điểm duy vật này, Aristotle hiểu toàn bộ sự vật tự nhiên, không chỉ những sinh vật, như là những sự hiện thực hóa bất toàn của những năng lực tự nhiên cố định khác nhau, được biết tới dưới tên "hình thức", "ý niệm", hay "loài". Đây là một phần trong triết lý mục đích luận của ông về tự nhiên trong đó mọi vật có một vai trò định trước để thực hiện những mệnh lệnh vũ trụ thần thánh. Nhà thơ và triết gia La Mã Lucretius đã đề xuất khả năng tồn tại những thay đổi tiến hóa của sinh vật. Những biến thể của tư tưởng này của Aristotle đã trở thành hiểu biết cơ bản của thời Trung Cổ, và được lồng ghép vào nền giáo dục Thiên Chúa giáo. (...).
Vào thế kỷ XVII phương pháp mới của khoa học hiện đại đã từ bỏ cách tiếp cận của Aristotle, và tìm cách giải thích cho các hiện tượng tự nhiên bằng các định luật tự nhiên giống nhau cho mọi vật hữu hình mà không cần phải giả thiết bất kì những mục loại cố định nào, hay bất kỳ trật tự vũ trụ thần thánh nào. 
(...).
(...). Sơ đồ tiến hóa chính thức đầu tiên là lý thuyết "tiến hóa biến đổi" (transmutation) của Lamarck vào năm 1809 nêu ra rằng các thế hệ đồng thời liên tục tạo ra những dạng sống đơn giản đã phát triển mức độ phức tạp lớn hơn qua những nhánh song song với một cường độ tiến triển không đổi, và rằng ở mức độ địa phương những nhánh này thích nghi với môi trường bằng cách thừa hưởng những thay đổi gây ra bởi việc sử dụng hay không dùng đến những tập tính ở cha mẹ(quá trình này về sau được gọi là học thuyết Lamarck). Những ý tưởng này bị các nhà tự nhiên học có uy tín đương thời phê phán, xem là một phỏng đoán thiếu những chứng cớ thực tế. Đặc biệt, Georges Cuvier còn nhấn mạnh rằng các loài là cố hữu và không có liên hệ, những sự tương đồng giữa chúng chỉ phản ánh sự sáng tạo của thần thánh vì những lý do mang tính chức năng. Cùng thời gian đó, các ý tưởng của Ray về sự sáng tạo ban phát được William Paley phát triển thành một thứ thần học tự nhiên đề xuất những sự thích nghi phức tạp như bằng chứng về sự sáng tạo thần thánh, được Charles Darwin ngưỡng mộ. 
Sự đột phá có tính phê phán khỏi quan niệm về những loài cố hữu khởi đầu với lý thuyết tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên, do Charles Darwin hệ thống hóa lần đầu tiên. Một phần chịu ảnh hưởng từ cuốn Khảo luận về nguyên lý dân số của Thomas Robert Malthus, Darwin nhận xét rằng sự phát triển quần thể có thể dẫn tới một "cuộc đấu tranh sinh tồn" trong đó những biến dị phù hợp sẽ thắng thế trong khi các cá thể khác bị diệt vong. Trong mỗi thế hệ, nhiều con non không thể sống sót tới tuổi sinh sản bởi nguồn tài nguyên hạn chế. Điều này có thể giải thích sự đa dạng động thực vật từ một tổ tiên chung thông qua sự vận hành của các quy luật tự nhiên theo cùng cách cho mọi loại sự vật. Darwin đã phát triển lý thuyết của ông về "chọn lọc tự nhiên" từ 1838 cho tới khi Alfred Russel Wallace gửi cho ông một lý thuyết tương tự năm 1858. Cả hai người đã trình bày những bài viết độc lập của mình cho Hội Linnean London. Vào cuối năm 1859, Darwin công bố cuốn "Nguồn gốc các loài" giải thích chi tiết về chọn lọc tự nhiên theo cách đã khiến cho thuyết tiến hóa được chấp nhận ngày càng rộng rãi."
Cho đến tận ngày nay, thuyết tiến hóa vẫn bị phản đổi từ một số nhóm người, nhất là những nhóm tôn giáo vẫn tin rằng sự sống được "kiến tạo" bởi một vị Thần hay Thiên Chúa toàn năng. Tuy vậy, cộng đồng khoa học không chấp nhận các lý luận phản đối đó bởi vì chúng hoàn toàn không đúng đắn, trích dẫn các câu của những người bôi nhọ để diễn dịch sai ý phương pháp khoa học, bằng chứng và các quy luật vật lý cơ bản. Ngoài ra người ta nói rằng toàn bộ thuyết tiến hóa, kể từ cuốn “Về nguồn gốc các loài” (1859) và cuốn “Nguồn gốc loài người” (1871) của Darwin đến những lý thuyết hiện đại sau này, đều là những giả thuyết tưởng tượng, những phỏng đoán không chắc chắn. Phỏng đoán “vĩ đại” nhất của Darwin là sự tồn tại của những thế hệ quá độ chuyển tiếp giữa các loài – vì sự tiến hóa diễn ra liên tục và dần dần tứng tí một (continuously and gradually) nên nếu loài A tiến hóa để biến thành loài B thì ắt phải có những loài trung gian nằm giữa A và B, được gọi là những thế hệ hay những mắt xích quá độ chuyển tiếp trong chuỗi tiến hóa từ A đến B. Những thế hệ này đã tuyệt chủng, nhưng theo Darwin, hóa thạch của chúng ắt phải nằm dưới lòng đất với số lượng lớn, và trước sau khoa học sẽ tìm thấy và phải tìm thấy. Nhưng phỏng đoán ấy càng “vĩ đại” bao nhiêu thì Darwin càng lo lắng bấy nhiêu về việc liệu có tìm thấy lượng hóa thạch đó hay không. Nếu không, lý thuyết của ông sẽ lâm nguy. chính Darwin đã bầy tỏ nỗi lo lắng này trong cuốn “Về nguồn gốc các loài” (Chương 9) như sau:
“… số lượng những sinh vật chuyển tiếp quá độ, vốn đã tồn tại trên trái đất, thật sự là khổng lồ. Nhưng tại sao mọi tầng vỉa địa chất không chất đầy những mắt xích chuyển tiếp quá độ đó? Khoa địa chất chắc chắn không tìm thấy bất kỳ một sợi dây xích hữu cơ biến đổi dần dần từng tí một nào như thế; và có lẽ điều này là sự chống đối rõ ràng nhất và nghiêm trọng nhất có thể được nêu lên để chống lại lý thuyết của tôi”.
Michael Denton, một nhà sinh học phân tử nổi tiếng của Úc, tác giả cuốn ““Evolution: A Theory in Crisis” (Tiến hóa: Một lý thuyết đang khủng hoảng), xuất bản năm 1985, trong đó viết:
Bất chấp những nỗ lực khổng lồ trong việc đào xới địa chất ở khắp nơi trên trái đất và bất chấp việc khám phá ra nhiều dạng động vật kỳ lạ trước đây chưa hề biết, số lượng vô cùng lớn những mắt xích liên kết chuỗi tiến hóa bị mất tích vẫn chưa được tìm thấy và hồ sơ hóa thạch hầu như vẫn gián đoạn như khi Darwin viết cuốn Về Nguồn gốc các loài”.
Đối với chúng ta, những người đại diện cho triết học duy tồn, vẫn khẳng định rằng, thuyết tiến hóa là một khám phá vĩ đại của loài người, nó luôn đúng. Chủ nghĩa thực chứng có cái hay là trưng ra bằng chứng rõ ràng, trực tiếp, khó lòng chối cãi, nhưng đôi khi nó cũng gây ngộ nhận ghê gớm, và nhất là làm giảm đáng kể mức độ trừu tượng của con người. Một tư duy khoa học mất đi sự tưởng tượng, thì đâu còn là tư duy khoa học nữa!?
Tinh thần tự giác mưu sinh trong môi trường thiên nhiên hạn định, có cả thuận lợi lẫn bất lợi và nguồn thức ăn bị khống chế do nhiều yếu tố đã gây ra tình trạng cạnh tranh, nhiều khi khốc liệt trong cố gắng sống còn. Cạnh tranh sinh tồn, hay với cái tên khác: "đấu tranh sinh tồn" là một qui luật cơ bản trong thế giới sinh vật. Nhờ tính cố gắng sống còn và qui luật đấu tranh sinh tồn mà hình thành nên quá trình tiến hóa - thích nghi, làm xuất hiện đa dạng giống loài sự sống trên Trái Đất.
Không có nước, không có sự sống! Khi mới xuất hiện sự sống đơn bào trong lòng nước. Vì chất dinh dưỡng nuôi sự sống đơn bào được nước vận chuyển đi khắp nơi trong lòng đại dương một cách dồi dào nên sự tự giác mưu sinh còn ở mức thấp, thụ động, thậm chí không "làm" cũng có "ăn". Dần dần, do sự phát triển lạm phát về số lượng cá thể đơn bào (phải nói, sự phát triển lạm phát số lượng cá thể sinh vật khi gặp điều kiện môi trường thuận lợi là một qui luật của thế giới sinh vật), đã làm trạng thái cân bằng động cung ứng dinh dưỡng ấy bị phá vỡ (cung ít hơn cầu). Để thích nghi, cố gắng sống còn trong tình hình mới, sự sống đơn bào phải lập mối quan hệ cân bằng động mới trong việc tìm sống bằng cách tạo ra, tiến hóa lên một sự sống di chuyển kiếm ăn trong lòng đại dương. Tình hình cứ thế, xảy ra các quá trình tương tự kế tiếp nhau theo thời gian, hợp thành một quá trình vĩ đại gọi là tiến hóa - thích nghi. Quá trình tiến hóa - thích nghi là quá trình phát triển - kế thừa, gìn giữ những ưu việt đã có, tăng cường ưu việt mới, cải tạo sinh học bằng cách hoàn thiện cấu trúc chức năng sinh vật, biến đổi cơ thể sinh vật cho phù hợp, nhằm thích nghi với những biến đổi bất lợi, có tính ổn định lâu dài theo thời gian của môi trường, đạt hiệu quả cao trong việc mưu sinh, cố gắng sống còn.
Tiến hóa - thích nghi chính là nguồn gốc sinh ra muôn loài. Nhờ quá trình ấy mà sự sống mở rộng từ đơn bào đến đa bào, từ thụ động chờ ăn đến chủ động tìm ăn, từ cuộc sống trong nước đến cuộc sống trên cạn, từ cách sống chạy nhảy trên bộ đến cách sống bay lượn khắp không trung, từ to tát hộ pháp mà sức sống phong phanh như khủng long đến nhỏ nhắn tép riu mà sức sống phi thường như vi khuẩn, ..., ... Chính quá trình đó cũng là đầu mối sinh ra loài người - loài có tư duy trừu tượng, loài tự đinh ninh nhận mình là thống soái thế giới sinh vật trên Trái Đất (có lẽ cũng có gần đủ quyền năng đó nếu thoát ly được thế giới sinh vật, chế ngự được ung thư và lòng tham vô độ của chính mình!!!). Nếu tự giác bảo toàn tồn tại là đặc tính rõ ràng nhất để phân biệt vật chất đơn thuần với thế giới sjnh vật, thì lao động sáng tạo là đặc trưng rõ ràng nhất để phân biệt loài người với bộ phận sinh vật còn lại của thế giới sinh vật. Lao động sáng tạo là hoạt động tự giác cao nhất của chủ động phục vụ sống còn. Nó thay Tạo Hóa hoàn thiện nhanh chóng quá trình tiến hóa - thích nghi, nó tạo dựng được trên Trái Đất những thứ chưa từng xuất hiện trong môi trường thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của con người. Đặc biệt, nó mở ra ngày càng sâu rộng tầm quan sát và nhận thức của loài người đối với thế giới tự nhiên.
Không phải loài người được trang bị tư duy trừu tượng là nhờ một đấng thánh thần siêu nhiên nào ban phát, mà nhờ vào cuộc đấu tranh gian khổ trường kỳ để sinh tồn với một sức vóc tương đối nhỏ bé, một cấu trúc cơ thể không sẵn sàng chiến đấu, trong một phạm vi môi trường đặc thù, thích hợp cho tư duy trừu tượng hình thành và phát triển.
Tư duy trừu tượng phát triển mạnh mẽ đã giúp loài người biết sống gắn kết hơn để duy trì sống còn như: hợp tác trong lao động, sống tương trợ theo cộng đồng, ..., ..., và quan trọng hơn cả là tìm ra được nguồn thức ăn mới (lúa nước), tự tạo ra được, có thể tích lũy để sống lâu dài mà không phải tìm kiếm thức ăn, từ đó mà tạo lập phương thức sống mới, được cho là cơ bản của loài người, chỉ loài người mới có, đó là định cư lâu dài và hợp quần xã hội.
Phương thức sống định cư lâu dài, tập hợp thành quần thể không phải chỉ khi xuất hiện loài người mới có mà đã có từ trước khi loài người xuất hiện rất lâu, có lẽ từ thời sơ sử sự sống trên Trái Đất vì tính ưu việt của nó, đó là một mặt, ít tốn năng lượng dùng cho mưu sinh, kéo theo lượng thức ăn cần cung cấp cũng ít đi, mặt khác là bảo vệ tốt hơn cho sự sống sinh vật trước các tai họa thiên nhiên. Vì lẽ đó, lúc đầu sự sống chỉ phát triển đến lối sống thực vật. Nhưng phương thức sống cố định tại chỗ trên cạn và hợp thành quần thể nương tựa vào nhau dần dần không còn đáp ứng được tính chủ động cố gắng mưu sinh để sống còn của toàn thể thế giới sinh vật nữa do tác động của qui luật phát triển lạm phát số lượng cá thể sinh vật trong một môi trường hạn định, làm một bộ phận sinh vật phải "biến" thành động vật. Sự "biến" đó là kết quả của quá trình tiến hóa - thích nghi, tưởng chớp nhoáng, nhưng thực ra là phải trải qua hàng tỷ năm.
Như vậy, từ một giả nhân phải đấu tranh sinh tồn lâu dài trong một môi trường tương đối khắc nghiệt đối với cơ thể sinh học đặc thù của giống loài mà sinh ra loài người được trang bị tư duy trừu tượng nhờ quá trình tiến hóa - thích nghi, từ giống loài tích cực chủ động kiếm ăn bằng hai bàn tay cùng với hai chân dùng để di chuyển mà tiến tới lao động sáng tạo, từ tập quán sống di cư, lang thang bầy đàn đến tập quán sống gia đình, định cư lâu dài, sản xuất lương thực, quây quần hợp thành xã hội phát triển, đã tổng hợp xây dựng nên một lối sống, một phương thức sống tối ưu để cố gắng sống còn trong thế giới sinh vật. Rõ ràng, nếu không có lao động sáng tạo, cách sống định cư ổn định và lối sống cộng đồng xã hội thì loài người không thể có được trình độ sống văn minh ngày nay.
Trước đây, khi lần đầu tiên nêu lên luận điểm lối sống cộng đồng xã hội là lối sống tối ưu của loài động vật có tư duy trừu tượng - loài người, chúng ta đã vô cùng áy náy với một trong những hiện tượng đặc trưng trong xã hội, đó là chiến tranh. Vì sao xã hội, hình thức tồn tại được cho là tối ưu để sống còn của sự sống, khi nó bao hàm cả chiến tranh, một hiện tượng có mục đích trái ngược với cố gắng duy trì sống còn?

                                              ***

Trong Wikipedia có viết:
"Chiến tranh là hiện tượng chính trị – xã hội có tính chất lịch sử, sự tiếp tục của chính trị bằng bạo lực giữa các tập đoàn xã hội trong một nước hoặc giữa các nước hay liên minh các nước với nhau. Đặc trưng của chiến tranh là đấu tranh vũ trang có tổ chức, theo những quy tắc nhất định và thường kết hợp với các hình thức đấu tranh khác (chính trị, kinh tế, ngoại giao,...).
(...) .
Nói tóm lại, chiến tranh là sự xung đột do từ mâu thuẫn ý thức giữa các tư tưởng khác nhau. Nguyên nhân của những mâu thuẫn này xuất phát từ tham vọng riêng của từng thực thể con người. Khi những tham vọng này đối chọi nhau đến mức độ căng thẳng cao độ thì chiến tranh xảy ra. Chỉ khi nào tồn tại hai bên đối nghịch nhau thì chiến tranh mới bùng nổ. Những hình thức chiến tranh đi từ hình thức thô thiển như chiến tranh vũ trang đến thể loại chiến tranh vi tế như sử dụng văn hóa để công kích.
(...) .
Hậu quả của chiến tranh không chỉ có sự hoang tàn mà còn có cả sự tiến bộ. Chiến tranh là thành phần không thể thiếu trong quá trình tiến hóa của tất cả các sinh vật, đoàn thể, tổ chức hầu đạt được mục tiêu sống còn và phát triển. 
(...). Những người theo thuyết lịch sử chú ý đến khía cạnh bất khả kháng của chiến tranh, họ cho rằng nó ngẫu nhiên như là một tai nạn giao thông. Có thể có các điều kiện, tình huống giống như là sắp xảy ra chiến tranh nhưng người ta không thể tiên đoán được thời gian và địa điểm xảy ra chiến tranh. Các nhà xã hội học phê phán cách tiếp cận này, họ cho rằng sự bắt đầu của các cuộc chiến tranh là do một số nhà lãnh đạo đưa ra, đó không phải là tai nạn thuần túy. Vẫn còn có những bất đồng nhưng thực sự rất khó khăn trong việc xây dựng một hệ thống tiên đoán về chiến tranh.
Theo các học thuyết tâm lý chiến tranh. (...), (...), cho rằng đó là "bản năng xâm lược" của con người, là "hành vi" của con người. Các đại diện của thuyết này như E.F.M. Durban và John Bowlby cho rằng loài người đặc biệt là đàn ông sinh ra đã có thói quen xung đột. Thông thường những loại xung đột này bị kìm nén bởi xã hội, nó cần một cơ hội để giải thoát các xung đột bằng chiến tranh. Học thuyết nhân khẩu có 2 nhóm: những người theo thuyết Malthus và những người theo thuyết bùng nổ dân số trẻ.
Học giả người Anh Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) cho rằng dân số luôn tăng dù chúng bị hạn chế bởi chiến tranh, bệnh tật và đói kém. Đây là lý thuyết được tính toán với xã hội trước dây khi mà nền sản xuất chưa phát triển và tỷ lệ tăng dân số không điều khiển được. Theo thuyết Malthus thì sự mất cân bằng giữa việc tăng dân số và tăng thức ăn là nguồn gốc của xung đột. Nghĩa là trong khi dân số tăng theo cấp số nhân thì nguồn tài nguyên, của cãi lại tăng theo cấp số cộng tạo ra sự mất cân đối dẫn đến chiến tranh. Lý thuyết bùng nổ dân số trẻ lại quan niệm do sự mất cân đối giữa những lực lượng trẻ được đào tạo, đến tuổi trưởng thành, cần có việc làm và số lượng những vị trí có thể cho họ trong xã hội là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự nổi loạn trong xã hội (bao gồm cả chiến tranh). Theo các học thuyết này "con người cần thức ăn, cần vị trí nên họ bắn nhau".
Theo học thuyết của Chủ nghĩa Marx: chiến tranh là hiện tượng chính trị – xã hội mang tính lịch sử, là hoạt động đấu tranh giữa các giai cấp, các nhà nước, các lực lượng chính trị có địa vị, lợi ích đối lập nhau trong một nước hoặc giữa các nước nhằm đạt được mục đích chính trị nhất định.
(...) .
Chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp không thể điều hòa. Trong đó, chế độ chiếm hữu tư nhân là nguồn gốc kinh tế – nguồn gốc sâu xa; đối kháng giai cấp là nguồn gốc xã hội – nguồn gốc trực tiếp của chiến tranh.
Nguyên nhân
Nguyên nhân chung: Là sự tác động giữa phương thức sản xuất bóc lột và những hiện tượng chính trị xã hội do phương thức sản xuất đó sinh ra dưới hình thức bạo lực vũ trang của giai cấp này đối với giai cấp khác.
Nguyên nhân đặc thù: Là sự tác động của những chính sách hiếu chiến, phản động của giai cấp thống trị, những kẻ cầm đầu nhà nước, tổ chức hoặc nhóm cực đoan.
Nguyên nhân đơn nhất: Là sự tác động có tính đột biến, tức thì từ những nhân tố cá biệt như cá tính bất thường của cá nhân cầm đầu tổ chức hoặc diễn biến không chuẩn xác của các thông tin, của phương tiện tiến hành chiến tranh,...trong những tình huống nhất định.
Trong các nguyên nhân trên, nguyên nhân chung là cơ bản, xuyên suốt của mọi cuộc chiến tranh trong lịch sử loài người.
(...). Bản chất của chiến tranh thể hiện trên hai mặt cơ bản luôn có sự thống nhất với nhau: Mặt chính trị và mặt bạo lực vũ trang. Chính trị là mục đích, bạo lực vũ trang là phương thức, biện pháp để thực hiện mục đích chính trị. Mặt chính trị và mặt phương thức bạo lực vũ trang không tách rời nhau".
Triết học duy tồn cho rằng các trường phái triết học, kể cả triết học Mác - Lênin, khi nói về chiến tranh đều có phần đúng và phần sai, phần sai là cơ bản.
Theo quan niệm của triết học duy tồn, suy cho cùng thì xã hội là một hiện tượng của thế giới tự nhiên, cho nên sự hình thành , tồn tại và phát triển của nó phải tuân theo các qui luật cơ bản của tự nhiên, phải nhận thức nó như nhận thức các hiện tượng tự nhiên khác. Nhưng đồng thời, xã hội cũng là kết quả có được từ sự chi phối của quá trình tiến hóa - thích nghi, là sản phẩm có được từ tư duy trừu tượng, từ đòi hỏi của lao động sáng tạo, cho nên sự hình thành, tồn tại và phát triển của nó cũng có những nét đặc thù của thế giới sinh vật, thuộc về thế giới sinh vật. Nguyên nhân nguồn cội làm nên mọi nguyên nhân gây ra các hiện tượng trong thế giới tự nhiên, của Tự Nhiên Tồn Tại là nguyên lý tự nhiên, thì nguyên nhân sâu xa gây ra các hiện tượng trong vận động xã hội cũng suy ra được từ nguyên lý số một ấy. Chẳng hạn. hiện tượng biến đổi nhưng bảo toàn khối lượng của vật chất có thể được giải thích trên cơ sở cố gắng duy trì tồn tại của chúng, thì sự biến đổi hình thái xã hội qua các thời kỳ cũng có thể giải thích được, dựa vào sự cố gắng duy trì tồn tại ấy, nhưng để giải thích rõ ràng hơn, có thể dựa vào sự thể hiện đặc thù của nguyên lý tự nhiên trong thế giới sinh vật: cố gắng sinh tồn (sự phát triển tư liệu và lực lượng sản xuất, gọi chung là trình độ sản xuất).
Phải cho rằng, lối sống lập thành xã hội không phải chỉ ở loài người mới có, mà ở các loài sinh vật đã thấy những hình thức sống quần cư khác nhau, các cá thể có liên quan với nhau mặt này hay mặt khác, lỏng lẻo hay chặt chẽ, có huyết thống hay không có huyết thống, nhằm tạo điều kiện hơn trong mưu sinh, trong việc tăng cường bảo vệ sự sống giống loài trước những tại họa đến từ môi trường. Lối sống hợp thành quần cư ở loài ong, loài kiến ..., nhất là lối sống hợp thành bầy đàn ở một số loài động vật hoang dã có thể coi là những hình thức manh nha, sơ khai của hình thức sống theo cộng đồng xã hội, một lối sống chủ yếu và cơ bản ở loài người biết tư duy trừu tượng. Sự thể đó bày ra một cảm tưởng rằng, lối sống theo cộng đồng xã hội là một sự lựa chọn tất yếu của loài có tư duy trừu tượng trong quá trình đấu tranh, vật lộn với môi trường thiên nhiên để sinh tồn. Không tìm ra cây lương thực này thì loài người cũng sẽ tìm được cây lương thực khác để chuyển phương thức sống cơ bản từ săn bắt - hái lượm sang trồng trọt - chăn nuôi, từ du cư, di cư sang định cư lâu dài, tạo điều kiện sống quây quần xã hội, hợp tác sản xuất nông nghiệp, vì đây chính là sự lựa chọn có tính chất tất yếu, có tính chất tối ưu, lựa chọn mà như không lựa chọn trên bước đường kiếm kế mưu sinh của mình.
Tóm lại, phương thức sống theo hợp quần xã hội là tất yếu đối với mọi loài được trang bị tư duy trừu tượng do có sự chi phối bởi qui luật phát triển lạm phát về số lượng cá thể sinh vật trong một môi trường thiên nhiên hữu hạn. Nhờ cuộc đấu tranh sinh tồn lâu dài để tiến hóa - thích nghi thông qua biến dị - di truyền trong một môi trường sống đặc thù và thường xuyên biến đổi, loài người đã hun đúc được một thứ vũ khí vô cùng lợi hại trong việc mưu sinh, cố gắng sống còn mà không loài sinh vật nào khác có được, đó là tư duy trừu tượng. Nhờ sự hối thúc thường xuyên của tư duy trừu tượng trong sự tích cực tìm cách mưu sinh tốt hơn, loài người, từ kiếp sống lang thang bầy đàn, đã đến được với lao động sáng tạo rồi từ đó mà có trồng trọt - chăn nuôi, tự cung tự cấp, sống ổn định lâu dài, liên kết thành xã hội tạo điều kiện hợp tác sản xuất, bắt chước thiên nhiên tạo ra các thứ dưỡng sinh, theo phương châm:
                                    Một cây làm chẳng nên non
                                    Ba cây chụm lại thành hòn núi cao.
Không phải xã hội đã hoàn thiện ngay từ buổi đầu xuất hiện. Xã hội hình thành, tồn tại và phát triển cũng như một thực thể sống, có thể gọi là thực thể sống ảo, tức là cũng sinh ra từ liên kết vật chất, từ cố gắng tồn tại,  cũng  trong vòng ảnh hưởng của cuộc đấu tranh sinh tồn, làm như cũng tiến hóa - thích nghi, cũng vận động và phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, đạt đến hoàn thiện và suy tàn theo sự phát triển và suy tàn của cuộc sống loài người. Tương tự như thế giới tự nhiên mang tính đầy đủ, vận động tự do, chuyển hóa ra muôn vàn trạng thái, miễn là không Hư Vô, vận động xã hội cũng vậy, miễn tồn tại xã hội được bảo toàn. Chính vì vậy mà vận động nội tại xã hội thể hiện ra thành các lực lượng tương phản, đối kháng nhau, đấu tranh với nhau theo qui luật mâu thuẫn mà triết học duy vật biện chứng đã mường tượng ra. Có lẽ nhận thức về xã hội của triết học duy vật biện chứng còn nhiều sai lầm dẫn đến một học thuyết cải tạo xã hội đậm màu lý tưởng, dẫn đến triệt tiêu sự tồn tại xã hội. Song, không phải vì thế mà tất cả những nhận thức về xã hội của nó đều sai lầm. Trong "Giáo trình triết học Mác - Lênin" (NXB chính trị quốc gia - 2004) viết:
"(...). Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo qui luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật.
Sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quá trình sinh học mà quan trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Đây là quá trình con người tác động vào giới tự nhiên, khai thác và cải biến giới tự nhiên để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Chính trong quá trình lao động, cấu tạo cơ thể của con người ngày càng hoàn thiện hơn và cũng chính trong quá trình lao động, nhu cầu trao đổi, hợp tác đã làm ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của loài người, tâm lý loài vật thành ý thức.
Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người, quá trình chuyển biến từ động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng dồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một công đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi là xã hội. Đây cũng là quá trình chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội.
(...).
Xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. (...).
Như vậy, xã hội là bộ phận đặc thù của tự nhiên. Tính đặc thù của bộ phận này thể hiện: Phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt dộng của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà cò tái sản xuất ra giới tự nhiên.
(...) xã hội vừa phải tuân theo những qui luật của tự nhiên, vừa phải tuân theo những qui luật chỉ vốn có đối với xã hội. Cũng như các qui luật tự nhiên, các qui luật xã hội mang tính khách quan.
(...).
Như vậy, qui luật của tự nhiên được hình thành xuyên qua vô số những tác động tự phát, mù quáng của các yếu tố tư nhiên, còn qui luật xã hội được hình thành trên cơ sở hoạt động có ý thức của con người. (...). Cho nên, cũng giống như các qui luật tự nhiên, qui luật xã hội là những mối liên hệ khách quan, tất yếu và phổ biến giữa các hiện tượng và các quá trình xã hội. Có nghĩa là, trước tiên, qui luật xã hội phải mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của qui luật nói chung, đó là tính khách quan, tất yếu và phổ biến.
Tính khách quan của qui luật xã hội thể hiện ở chỗ, tuy qui luật xã hội được biểu hiện thông qua hoạt động của con người nhưng nó không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của bất kỳ một cá nhân, hay một lực lượng xã hội nào..."
Có thể khẳng định, sự hình thành xã hội là một quá trình tất yếu, do đòi hỏi của con người từ lao động sáng tạo, tìm tòi vươn lên sản xuất, hình thức kiếm ăn hiệu quả nhất trong việc cấp dưỡng, duy trì sống còn. Sản xuất là dạng lao động sáng tạo hiệu quả  cao có chủ đích và được công cụ hỗ trợ. Sản xuất xã hội là sản xuất ra của cải vật chất cho cá nhân con người nói riêng, đồng thời cho tồn tại và phát triển xã hội nói chung. Thông qua quá trình sản xuất mà tình cảm con người ngày càng được củng cố và trở nên sâu sắc. Do đó, ngày nay, sản xuất đã trở thành đặc trưng cơ bản, chính yếu cho xã hội loài người. Sự phát triển của trình độ sản xuất qua các thời kỳ lịch sử đã phản ánh lên cấu trúc xã hội, thể hiện ra thành các trạng thái xã hội có thể phân biệt được tương đối với nhau. Triết học duy vật biện chứng cũng nói: "Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản xuất nhất định. Phương thức sản xuất đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao".
Loài vượn người - loài vượn cổ chưa chuyển hóa thành người hoặc mới chập chững những bước đi đầu tiên của con người, như số đông các loài động vật hoang dã khác, vẫn sống theo lối bầy đàn, kiếm ăn được chăng hay chớ, di cư thường xuyên mưu sinh trong một phạm vi môi trường rộng lớn Với số lượng cá thể ngày càng đông trong khi nguồn thức ăn bị giới hạn, sự cố gắng sống còn đã hối thúc loài vượn người mở rộng nguồn thức ăn, tìm tòi những thức ăn mới ngoài săn bắt - hái lượm. Bên cạnh đó, cuộc đấu tranh sinh tồn trong điều kiện hoàn cảnh môi trường đặc thù nào đó bắt chúng tiến hóa - thích nghi theo hướng nảy sinh ra tư duy trừu tượng, tạo nên những yếu tố tiền đề cần và đủ cho lao động sáng tạo ra đời. Từ đó, loài vượn người chuyển hóa thành người vượn, thế hệ loài người đầu tiên, tăng tốc quá trình phát triển đi lên của giống loài.
Trong quá trình phát triển ấy, tác dụng tổng hợp của tư duy trừu tượng và lao động sáng tạo đã giúp loài người khám phá ra một phương thức mới hiệu quả hơn hẳn phương thức săn bắt - hái lượm trong việc đảm bảo sống còn, đó là trồng trọt - chăn nuôi. Nhưng có được trồng trọt - chăn nuôi rồi, con người, về hình thức, vẫn chưa dứt khoát vượt thoát khỏi đời sống của loài vật hoang dã, vẫn sống theo lối bầy đàn, hầu như vẫn chưa có các khái niệm như tư hữu, để dành, tích lũy...Phát hiện ra cây lương thực (lúa nước), trồng "đại trà", đảm bảo nguồn thức ăn ổn định, lâu dài, giải phóng con người khỏi phần lớn những công việc kiếm ăn thuần túy thường ngày đầy khó khăn, vất vả, tạo điều kiện cho con người có lối sống định cư tiến thẳng lên văn minh, chính là cuộc cách mạng vĩ đại thứ hai trời long đất lở (sau cuộc cách mạng tìm ra công dụng của lửa và ăn thức ăn chín). Lần đầu tiên con người biết đến sản xuất, trình độ cao nhất của lao động sáng tạo, lao động thặng dư. Cuộc cách mạng đó vĩ đại đến nỗi cho đến ngày nay, nhiều người vẫn không biết rằng, loài người sinh ra từ đâu, cứ đinh ninh loài người sinh ra từ Chúa hoặc Thánh. Nhờ cuộc cách mạng vĩ đại đó, loài người bước vào đời sống hợp quần xã hội, tổ chức sản xuất nông nghiệp, thoái ly kiếp sống theo bầy đàn của loài động vật hoang dã, chính thức làm người.
Nhưng làm người là gì? Có lẽ đó là một câu hỏi chưa ai trả lời đích xác được. Trước những câu hỏi đại loại về con người như vậy, thường người ta vẫn trả lời theo hướng thiên vị, tự cho loài người là giống loài đẹp đẽ tối cao, đã là người thì phải đẹp đẽ, hoàn thiện. Thực ra đâu phải như vậy. Loài người đẹp đẽ nhất và cũng xấu xí nhất trong thế giới sinh vật. Phải chăng nên trả lời như thế!? Cũng chưa được vì chưa phân biệt dứt khoát được giữa con vật với con người, Anh bạn Hoang Tưởng của chúng ta có lần nói: "Con người là con vật ý thức được tương lai và hành động theo nhận thức quá khứ, có sáng tạo và khống chế được những hối thúc bản năng". Chúng ta nhớ lại và ngẫm nghĩ, hóa ra đó có thể là câu trả lời thỏa đáng nhất.

                                                                      ***
Loài người, sau khi tiếp cận được lối sống cộng đồng xã hội và sở hữu được lối mưu sinh bằng lao động sản xuất ra giá trị thặng dư (mà trước đó chưa hề có), thì bắt đầu tiến lên văn minh như vũ bão, đã có đủ khả năng xây dựng những công trình vĩ đại (như kim tự tháp, vạn lý trường thành...), có vẻ như đã hóa thánh: không có mang nhưng bơi, lặn hơn cá, không có cánh nhưng bay lượn hơn chim. Nhưng không phải vì thế mà con người giảm bớt được tính mù quáng trong hoạt động sống của nó, trái lại tính mù quáng đó ngày càng trở nên tồi tệ hơn, phạm vi ngày càng sâu rộng hơn, không còn là sự mù quáng đơn thuần của con vật nữa, mà là sự mù quáng trong sáng suốt, minh tuệ của con người. Bằng chứng rõ ràng nhất, không thể chối cãi được là gây hấn chiến tranh, phổ biến sự giết chóc tàn sát dã man ngay chính đồng loại mình. Ở thế giới sinh vật hoang dã, đâu có thấy phổ biến hiện tượng đi ngược lại với cố gắng bảo toàn sống còn ấy!?
Nếu Trái Đất đã may mắn có được thiên nhiên - một môi trường tự nhiên phù hợp để dung túng thế giới sự sống, thì sự tự giác tích cực mưu sinh kết hợp với tư duy trừu tượng đã tạo ra được xã hội - một môi trường sống nhân tạo không thể từ bỏ của lối sống đại đa số con người. Chính lối sống hợp quần xã hội và sinh tồn bằng lao động thặng dư trong qui mô sản xuất và ăn chia thành quả nhất định không những đã dẫn đến đáp ứng cho sự sống còn sinh học, mà còn đáp ứng cho một hình thái sống còn thứ hai, chỉ loài người tư duy trừu tượng mới có, không thể thiếu được và làm nên văn hóa nhân loại, đó là sự sống còn tinh thần. Nếu mục đích chủ yếu của đấu tranh sinh tồn cho sự sống còn sinh học là cái ăn, thì mục đích của đấu tranh sinh tồn cho sự sống còn tinh thần là danh lợi. Thực ra lợi là những thứ cần thiết cho sự sống còn của con người (trong đó tất nhiên có cả đời sống tinh thần), gồm thực phẩm và những thứ tiêu dùng thiết yếu phi thực phẩm, nảy sinh trong quá trình tiến lên văn minh của loài người. Lợi, hay cách gọi khác là nhu cầu. Nhu cầu gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, mang tính khách quan và chủ quan, tùy thuộc điều kiện hoàn cảnh môi trường sống mà có tính mức độ, và có tính phát triển về số lượng cũng như chất lượng theo trình độ văn minh của đời sống. Còn danh là thứ làm thỏa mãn đời sống tinh thần (là lợi), đồng thời cũng gián tiếp sinh ra lợi (quyền lực, lợi ích). Trong xã hội loài người, mọi hoạt động của con người đều nhằm mục đích danh lợi. Cho nên, muốn giải thích được thỏa đáng những hiện tượng xảy ra trong xã hội, tiên quyết phải dựa vào luận điểm này.
Môi trường sống xã hội, dù nhân tạo, thì xét cho cùng, cũng bị chi phối bởi các qui luật của môi trường thiên nhiên, chỉ có điều dưới những dạng đặc thù (chẳng hạn qui luật đấu tranh sinh tồn, qui luật cung cầu...). Tư duy trừu tượng, do bị áp lực thường xuyên bởi các qui luật ấy trong suốt quá trình lao động sản xuất xã hội lúc gặp thuận lợi cũng như lúc khó khăn, và nhất là qui luật phát triển lạm phát về số lượng cá thể sinh vật khi gặp điều kiện thuận lợi, đã nhào nặn con người thành những sinh linh có tâm hồn với đầy đủ các sắc thái tình cảm "hỉ, nộ, ái, ố" sâu sắc, hình thành đủ mọi khái niệm như sướng - khổ, giàu - nghèo, yêu - ghét, vị tha - hận thù...Tình hình đó nhất thiết dẫn dắt con người tới sự tranh giành, cướp đoạt lẫn nhau gây nên sự chết chóc đồng loại. Lúc đầu là vì sống còn, sau là để hưởng lạc, tích lũy cho sống còn. Và chiến tranh là không tránh khỏi.
Theo triết học duy tồn, chiến tranh là hình thái cực đoan của tranh giành danh lợi (danh lợi & quyền lợi) của hai hay nhiều xã hội, của hai hay nhiều tập đoàn người. Vì chiến tranh là tranh giành danh lợi cực đoan nên sự giết chóc, tàn sát lẫn nhau, phá hoại thành quả của nhau giữa người với người là đương nhiên khi con người vẫn còn chìm đắm trong mù quáng nhận thức.
Xã hội hình thành là một đòi hỏi tự nhiên từ sự tự giác sống còn và chủ động mưu sinh của con người. Xã hội tồn tại nhằm tạo điều kiện làm ra của cải, vật chất (danh lợi) bằng cách thức sản xuất. Xã hội tồn tại dần dần hun đúc nên cuộc sống tinh thần của con người với đầy đủ những sắc thái chia ra làm hai mặt tốt - xấu của nó. Nói chung mặt tốt là mặt có tác dụng gắn kết, duy trì sự tồn tại xã hội, còn mặt xấu là mặt có tác dụng phá hoại, làm phân rã xã hội.
Khi xét mức sống dân cư của một thời đoạn xã hội thì phải dựa trên trình độ tiêu dùng của dân cư thời đoạn xã hội đó mà đánh giá. Mức sống ngày nay chắc chắn là văn minh hơn, nhưng không thể gọi là cao hơn, sung túc hơn mức sống thời nguyên thủy. Có lẽ hình thái đầu tiên của xã hội loài người là hình thái Cộng sản nguyên thủy. đặc điểm của hình thái này là sở hữu chung về tư liệu sản xuất, lao động tập thể và hưởng chung thành quả lao động; công cụ sản xuất thô sơ, lực lượng sản xuất phát triển ở trình độ thấp. Dù "Cộng sản nguyên thủy" là một khái niệm xuất phát từ Karl Marx và Friedrich Engels, nhưng quan niệm của chúng ta có khác. Chúng ta cho rằng, vào thời Cộng sản nguyên thủy, chế độ sống theo vợ chồng mẫu hệ đã hình thành, manh nha trở thành tế bào xã hội, đời sống dân cư sung túc, của cải dồi dào, chưa có nhà nước, chưa có khái niệm danh lợi, chưa phân định giàu - nghèo, chưa có khái niệm tư hữu,  chưa phân tầng giai cấp...Xã hội thời kỳ đó thực sự bình đẳng, thực sự tự do.
Do những biến động thiên nhiên cũng như sự chuyển hóa xã hội ảnh hưởng đến sản xuất, sản xuất không theo kịp mức sống trung bình xã hội dẫn đến những giai đoạn thịnh - suy xã hội kế tiếp nhau. Điều đó làm cho một loạt những khái niệm cũng như phong phú sắc thái tình cảm liên quan đến đời sống con người như: của cải, vơ vét, tích lũy, giàu - nghèo, sướng - khổ, lười nhác - siêng năng, thiếu thốn - dư thừa,  hạnh phúc - khổ đau, vui - buồn...được hình thành và ngày càng trở nên sâu sắc. Cũng từ đó, mặt xấu về cuộc sống tinh thần của con người trong xã hội hình thành và ngày càng phát tác tiêu cực đến đoàn kết xã hội, có nguy cơ làm phân rã xã hội. Tình hình đó đòi hỏi sự ra đời của nhà nước để điều hành, trị an xã hội, tăng cường sự đoàn kết, hoạt động đồng bộ xã hội, bảo toàn xã hội.
Như vậy, mục đích tự nhiên đầu tiên, nguyên thủy, xuyên suốt và thiết yếu của nhà nước là trị an xã hội. Chính vì thế mà bản chất tự nhiên đầu tiên, nguyên thủy của nhà nước cũng là hoạt động vì đại đa số dân cư trong xã hội, nghĩa là "của dân, do dân và vì dân".
Học thuyết Mác - Lênin đã quan niệm chưa thuyết phục về sự ra đời của nhà nước khi cho rằng, lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể đều hòa được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt  luôn cả xã hội. 
Để thảm họa đó không diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hòa giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ...Mác - Ăngghen đã viết: "nhà nước chẳng qua chỉ là một bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác". Rốt cục, theo họ, bản chất của nhà nước, theo nguyên nghĩa, là nhà nước của giai cấp bóc lột. Từ quan niệm sai lầm đó, các nhà cách mạng mácxít đã đi đến nhận định, cho dù được che giấu dưới hình thức tinh vi như thế nào, cho dù có bị khúc xạ qua những lăng kính phức tạp ra sao, nhà nước trong mọi xã hội có giai cấp đối kháng cũng chỉ là công cụ bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Vì thế mà các nhà cách mạng mácxít đi đến một chủ trương đầy tính cực  đoan: xóa bỏ chế độ tư bản, dùng chuyên chính vô sản tiêu diệt giai cất tư sản, đập tan nhà nước tư bản, xây dựng nhà nước vô sản của giai cấp công nhân.
Thực ra, do Tự Nhiên Tồn Tại khi vận động và chuyển hóa xét cho cùng chỉ phải tuân theo một nguyên lý duy nhất là nguyên lý tự nhiên nên nó tồn tại một cách vừa tự do tối đa lại vừa bị ràng buộc tuyệt đối, tức là muốn chuyển hóa thành cái gì cũng được, miễn có khả năng, nhưng không được Hư Vô. Từ đó dẫn đến một đặc trưng quan trọng của Tự Nhiên Tồn Tại là đầy đủ. Đầy đủ là thứ gì cũng có, chỉ không có Hư Vô. Vì đầy đủ nên Tự Nhiên Tồn Tại vô cùng phong phú, đa dạng, có thể phân thành vi mô - vĩ mô, có thể thấy vừa liên tục vừa gián đoạn, và đặc biệt có thể phân thành tầng lớp, có thể được nhìn nhận như một thế giới tương phản, gồm các lực lượng đối nghịch nhau. 
Và xã hội, vì là bộ phận của Tự Nhiên Tồn Tại, của tự nhiên, của thiên nhiên, của thế giới sinh vật, có thể coi là bức tranh thu nhỏ của Trái Đất nên cũng có những đặc tính tương tự như của Tự Nhiên Tồn Tại, tương tự như của thiên nhiên Trái Đất, cũng có những đặc trưng về tính đầy đủ nhưng thể hiện ra dưới dạng đặc thù của riêng xã hội, mà triết học cổ đại Trung Hoa từ lâu đã gọi là hai lực lượng Âm - Dương và có lẽ được xây dựng nên từ ý niệm ban đầu là lưỡng phân lưỡng hợp được quan sát và nhận biết tuyệt đích của người Việt Cổ (!), coi như chỉ xã hội loài người mới có. Một trong những biểu hiện nổi bật của tính đầy đủ trong xã hội loài người là sự phân định dân cư xã hội thành hai lực lượng tương phản giàu - nghèo.
 Lúc đầu, sự phân tầng giàu - nghèo chỉ có tính ngẫu nhiên, hời hợt, nghĩa là sự phân tầng giàu - nghèo hình thành từ những yếu tố tự nhiên (như gặp thời tiết thuận hòa, thiên nhiên ưu đãi...). Theo quan niệm của chúng ta, sự phân tầng giàu nghèo do yếu tố tự nhiên (hoặc không do bóc lột thặng dư), không được coi là phân tầng giai cấp. Nhưng do các yếu tố thuận lợi - bất lợi, nhất là các quá trình thịnh - suy xã hội tác động đến tính chủ động tích cực đảm bảo sự sống còn của con người, dần dần làm cả mặt tích cực cũng như mặt tiêu cực của đời sống tinh thần của con người ngày càng phát triển, nghĩa là các sắc thái tình cảm ngày càng trở nên sâu sắc. Đó là nguyên nhân làm xuất hiện hàng loạt khái niệm mới, như của cải, tích cốc phòng cơ, cướp bóc, tranh dành, căm thù, tư hữu, phè phỡn, đói khổ, tốt - xấu, khinh - trọng, thừa - thiếu, đạo đức - vô đạo đức...
Cuối thời Cộng sản nguyên thủy, mặt trái của đời sống tinh thần dân cư nổi trội tàn phá xã hội mạnh mẽ. Nguy cơ phá vỡ sự đoàn kết tồn tại xã hội buộc đông đảo dân cư (đại biểu là tầng lớp giàu có) phải tập hợp lại, tìm cách hoàn thiện loại hình nhà nước - loại hình tổ chức đặc biệt, đã tồn tại tự nhiên từ trước như một dạng nhà nước sơ khai (nhà nước thị tộc?), đóng vai trò duy nhất là điều hòa hoạt động xã hội, đảm bảo sự ổn định xã hội. Mục đích hoàn thiện nhà nước là để cho nó có đủ năng lực thực hiện trị an xã hội, duy trì đời sống xã hội, giúp cho dân cư toàn xã hội được kiếm ăn, mưu sinh thuận lợi, trôi chảy. 
Việc làm đó là cần thiết để bảo vệ sự sống còn xã hội, nhưng đồng thời vô hình dung cũng bảo vệ như một lẽ đương nhiên công cuộc làm ăn cho tầng lớp giàu có. Đi đôi với quá trình kiện toàn bộ máy nhà nước là quá trình chuyển hóa xã hội: hình thái cộng sản chủ nghĩa tan rã, hình thành hình thái mới có tên tư bản nguyên thủy (tạm đặt tên như thế vì trên thế giới chưa ai thừa nhận hình thái xã hội này trong lịch sử xã hội loài người; chúng ta là những người đầu tiên nêu ra!), trình độ sản xuất đã được nâng cao hơn, đã xuất hiện sơ khai hình thức sản xuất hàng hóa, con người đã bắt đầu biết tích lũy của cải, sở hữu công cụ lao động và tư liệu sản xuất.
Trong thời tư bản nguyên thủy, lòng tham (sự ham muốn) đã trở thành như bản chất con người, cuộc sống gắn kết gia đình (vợ chồng và con cái) được củng cố, đóng vai trò như tế bào làm nên xã hội (chúng ta tin hình thức hợp thành gia đình sẽ trở nên nhạt nhòa khi hình thái cộng sản chủ nghĩa trở thành xã hội hiện thực). Cũng trong thời tư bản nguyên thủy, nhà nước biến thái dần thành nhà nước của tầng lớp giàu có, bênh vực tầng lớp giàu có. Dân cư trong xã hội đã nhận thức rõ thế nào là danh lợi, quyền lực và tranh giành quyền - lợi trong xã hội cũng chính là hoạt động nhằm cố gắng sống còn. Chiến tranh đã xảy ra một cách phổ biến. Lúc này sự phân định giàu - nghèo trong xã hội không còn mang yếu tố tự nhiên thuần túy nữa mà chủ yếu là mang yếu tố nhân tạo: nghèo do nhà nước áp chế, chèn ép, bóc lột mà nghèo đi, giàu do nhà nước ưu tiên, bênh vực dung túng, do cướp bóc được  mà giàu lên. Chính sự phân tầng giàu - nghèo bất chính ấy là nguyên nhân xuất hiện giai cấp.
Như vậy, phải cho rằng sự hình thành nhà nước là tiến đề xuất hiện giai cấp chứ không phải ngược lại như quan niệm của Mác - Lênin. Hơn nữa, không phải lúc nào trong xã hội cũng phân tầng giai cấp và sự tồn tại các giai cấp đạt mâu thuẫn đối kháng; khi nhà nước còn mang chức năng ban đầu (bản chất nguyên thủy là của dân, do dân và vì dân) thì không có phân tầng giai cấp và lịch sử xã hội loài người đã chỉ ra, chưa từng có sự phân tầng giai cấp nào khác ngoài sự phân tầng ra hai giai cấp thống trị - bị trị, nghĩa là tầng lớp công nhân, nông dân, vô sản, tư sản chưa từng tồn tại như những giai cấp có sức sống độc lập mà Mác - Lênin đã lầm tưởng để từ đó hô hào  cuộc cách mạng kinh thiên động địa, đầy ảo tưởng gọi là cách mạng vô sản, đấu tranh giai cấp khốc liệt, phá - xây điên cuồng, hướng tới lý tưởng xã hội tươi đẹp nhưng rốt cuộc...chẳng đến đâu cả!
Qua thời tư bản nguyên thủy thì đến thời chiếm hữu nô lệ. Đặc trưng của thời kỳ này là nhà nước chuyển hóa thành một thứ công cụ bạo lực đứng về phía tầng lớp giàu có, sẵn sàng trấn áp xã hội và được gọi là nhà nước chủ nô. Xã hội phân chia lực lượng dân cư thành hai tầng lớp mâu thuẫn đối kháng nhau rõ ràng là tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị. Sự tư hữu đã đạt đến mức độ tới hạn của nó: những gia đình có của không những chia nhau chiếm hữu hầu hết tư liệu sản xuất, mà còn chiếm hữu cả lực lượng lao động (chiếm hữu nô lệ), biến lực lượng lao động thành một dạng công cụ sản xuất, một đồ chơi giải trí đặc biệt. Sự làm giàu bất chính nhờ được nhà nước "cảnh sát" bảo hộ của tầng lớp thống trị và sự bị đày dọa cùng cực, bị vô sản hóa của tầng lớp bị trị đã ngày càng khoét sâu mâu thuẫn về quyền lợi giữa hai giai cấp, nung nấu sự bùng nổ cách mạng xã hội, làm xuất hiện hình thái xã hội phong kiến thay thế hình thái chiếm hữu nô lệ.
Cuối thời chiếm hữu nô lệ, những đòi hỏi phá bỏ những ràng buộc, xiềng xích nô lệ, được tự do mưu cầu danh lợi đã làm cho chiến tranh trở thành hiện tượng phổ biến. Sự mở rộng và phát triển của sản xuất hàng hóa yêu cầu nâng cao hơn nữa trình độ sản xuất đã là nguyên nhân chủ yếu dọn đường cho hình thái xã hội phong kiến ra đời thay cho chế độ chiếm hữu nô lệ đã trở nên lạc hậu. Đây là thời kỳ tồn tại tầng lớp điền chủ giàu có, sống xa hoa, phè phỡn, lãng phí nhờ thu điền tô của tầng lớp nông dân, nông nô trong xã hội. Đặc trưng của thời đại phong kiến là nhà nước khẳng định chế độ độc tài (chế độ quân chủ), cha truyền con nối như một lẽ tự nhiên. Chiến tranh huynh đệ tương tàn, giành giật danh lợi trong nội bộ tầng lớp thống trị và khởi nghĩa nông dân xảy ra triền miên chống sự áp bức, bóc lột tàn nhẫn của tầng lớp thống trị.
 Cứ ngỡ với tình trạng như thế, chế độ phong kiến rất nhanh suy tàn, chịu sự thay thế của một hình thái kinh tế xã hội mới. Nhưng không, thật lạ lùng, dù có lúc thịnh lúc suy, chế độ phong kiến vẫn tồi tại dai dẳng hàng ngàn năm, "thọ" nhất trong số các hình thái kinh tế xã hội đã từng tồn tại cho đến nay. Điều đó làm chúng ta suy nghĩ rất nhiều để cố tìm ra lời giải thích thỏa đáng.
Như chúng ta đã khẳng định, thế giới này chỉ có Tự Nhiên Tồn Tại chứ không thể có Hư Vô. Do đó, đặc tính cơ bản nhất của Tự Nhiên Tồn Tại là tồn tại và chuyển hóa. Khi tồn tại thì nó (Tự Nhiên Tồn Tại) phải cố gắng tồn tại (thể hiện ra là quán tính), và khi chuyển hóa thì biến đổi từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác. Sinh vật cũng tương tự, ra đời để sống cho dù đến mức hạn định thì phải chết đi (chuyểng sang dạng tồn tại khác). Do đó, trong một thiên nhiên chịu ảnh hưởng bởi qui luật tăng trưởng lạm phát về số lượng cá thể và nguồn thức ăn có tính hạn định, thì qui luật đấu tranh sinh tồn là qui luật cơ bản nhất trong thế giới sinh vật. Nhờ có qui luật đấu tranh sinh tồn mà quá trình tiến hóa - thích nghi được triển khai để thế giới sinh vật chuyển hóa thành đa dạng giống loài và hoàn thiện các cấu trúc cơ thể, các chức năng tìm kiếm thức ăn như ngày nay. 
Một trong những kết quả tưởng ngẫu nhiên nhưng thực ra là tất yếu của quá trình tiến hóa - thích nghi là làm xuất hiện loài người - loài có tư duy trừu tượng (ở bất cứ nơi nào có môi trường giống Trái Đất đều phải sinh ra loài có tư duy trừu tượng!). Loài có tư duy trừu tượng là loài tích cực nhất trong đấu tranh sinh tồn. Do đó, việc tìm ra lối sống tối ưu để đảm bảo sống còn là hướng đi tất yếu của nó. Và lối sống tối ưu ấy là định cư lâu dài cùng với sự đoàn kết, hợp quần thành cộng đồng xã hội.
Cần phải cho rằng, hình thức sống theo lối cộng đồng xã hội ở loài người có tư duy trừu tượng là tiếp nối hình thức sống theo lối quần thể, bầy đàn theo bản năng ở các loài sinh vật. Nếu mục đích của lối sống quần thể, bầy đàn là tăng cường hiệu quả trong hoạt động sống còn, trong việc kiếm ăn, thì mục đích của lối sống cộng đồng xã hội cũng tương tự, là nhằm tăng cường khả năng sống còn, tăng cường hiệu quả trong lao động, sản xuất, và cuối cùng là tạo khả năng tìm kiếm danh lợi ở mỗi cá thể. 
Trong thời đại phong kiến, tuy sự bóc lột của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp bị trị không ngừng tăng lên làm suy tàn xã hội, song sự phát triển của trình độ sản xuất hàng hóa xã hội và hình như cả sự xuất hiện chiến tranh liên miên cũng góp phần tích cực vào sự duy trì chế độ phong kiến (?). Điều đặc biệt là hình thức nhà nước độc tài (nhà nước quân chủ) đã như một hình thức nhà nước tối ưu, mặc định. Mọi cuộc chiến tranh, sau khi lật đổ được chế độ quân chủ này, ông vua này, thì rồi cũng dựng nên một chế độ quân chủ khác, ông vua khác. Phải chăng chế độ độc tài mang những yếu tố tự nhiên cần có, nghĩa là hợp lý, của mọi chế độ xã hội?
Tuy vậy, chế độ phong kiến rồi cũng đến thời kỳ suy tàn. Nhờ vào sự phát triển vũ bão của khoa học - kỹ thuật, và có lẽ do sự "đuối sức" của nền sản xuất hàng hóa thủ công, mang tính tự cung tự cấp trước sự lớn lên không ngừng về số lượng hàng tiêu dùng phi thực phẩm cộng với sự chi phí quá mức xa hoa, phung phí như tiệc tùng thừa mứa, xây dựng những cung điện, đền đài nguy nga, đồ sộ, ...của tầng lớp thống trị, làm phát sinh đòi hỏi mở rộng nền sản xuất hàng hóa cũ để thiết lập một nền sản xuất có trình độ cao hơn, rộng lượng hơn, tâp trung hơn để đạt hiệu quả cao hơn, gọi là nền sản xuất công nghiệp. Nhưng muốn có nền sản xuất công nghiệp thì chế dộ quân chủ trở nên không còn phù hợp nữa, phải xây dựng chế độ mới có khuynh hướng tự do hơn, dân chủ hơn quen gọi là chế độ tư bản. Và thế là một hình thái kinh tế xã hội mới ra đời, thay thế hình thái kinh tế xã hội phong kiến, được gọi là hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Hiện nay chúng ta đang sống trong hình thái xã hội này.
                                                                     
                                                ***

Sự cố gắng một cách tự nhiên để sống còn cộng với khả năng biết tư duy trừu tượng đã giúp con người tiếp cận được lối sống định cư lâu dài nhờ trồng trọt - chăn nuôi và hợp quần xã hội để hợp tác mưu sinh. Việc phát hiện ra phương thức trồng trọt - chăn nuôi và chế biến cây lương thực (cây lúa, cây ngô...) để làm thực phẩm nuôi sống cộng đồng đã là một cuộc cách mạng vĩ đại, không những giải quyết căn cơ việc kiếm ăn trong thiên nhiên của loài người, giúp loài người có đời sống ổn định hơn, mà còn tạo điều kiện cho loài người biết đến lao động thặng dư trong mưu sinh, từ đó tiến thẳng lên văn minh. Như vậy, ngoài cuộc sống vật chất như một tồn tại sinh học đơn thuần được đảm bảo, cuộc sống văn hóa - tinh thần giàu sắc thái tình cảm cũng phát triển ngày càng phong phú.
Khi đã làm đáp ứng tương đối dư dả miếng ăn và đạt đến năng lực lao động thặng dư thì do sẵn tính chủ động - thích nghi nên con người, ngoài việc kiếm miếng ăn trực tiếp (lương thực, thực phẩm), còn phát triển lao động thủ công nhằm sáng tạo ra những thứ phi lương thực - thực phẩm để đáp ứng nhu cầu sử dụng phát sinh trong trong cuộc sống ngày càng văn minh của mình (như công cụ lao động, vât dụng sinh hoạt, quần áo...).
Nhờ lao động có tư duy sáng tạo mà loài người có được thặng dư. Nhờ có lao động thăng dư mà con người phát triển lên sản xuất. Sản xuất là lao động có hệ thống và cho ra thặng dư.  Nền sản xuất đầu tiên mà loài người biết tới là nền sản xuất nông nghiệp có tính tự cung tự cấp. Khi nền sản xuất nông nghiệp đã đáp ứng đầy đủ mức độ tiêu dùng và tích lũy thì phần sản phẩm dôi ra hoặc chưa tối cần thiết cho nhu cầu tiếu dùng sẽ được đem đi quanh vùng để trao đổi những sản phẩm khác chủng loại hay còn thiếu. Khi sự trao đổi ấy đã thành tập quán thì người ta cũng sáng tạo ra những hình thức trao đổi mới tiện lợi hơn, vừa bảo toàn giá trị sản phẩm sau nhiều lần trao đổi, vừa tích lũy để dành làm của cải. Lượng sản phẩm trao đổi này càng tăng đã dần tạo nên một bộ phận con người độc lập đảm đương vai trò trao đổi, sống nhờ vào công việc trao đổi đó: lực lượng gọi là thương lái, con buôn. Đó là nguyên nhân ra đời của hình thức sản xuất có tên "sản xuất hàng hóa".
Xuyên suốt thời đại phong kiến là nền sản xuất hàng hóa nông nghiệp. Nền sản xuất này vẫn mang nặng tính tự cung tự cấp.
Thời đại phong kiến suy tàn không phải vì nền sản xuất của nó không phát triển mà có lẽ là do tác dụng tổng hợp của các yếu tố nguyên nhân sau:
      -Sự tiêu dùng xa hoa, phung phí của tầng lớp thống trị
      -Sự bị bóc lột thậm tệ của đông đảo tầng lớp bị trị
      -Hình thức tư hữu của cải đã được công nhận từ thời tư bản nguyên thủy, càng được củng cố thành lẽ hiển nhiên trong thời phong kiến cộng với ước muốn được tự do làm giàu vô giới hạn của tầng lớp có của trên con đường tìm kiếm danh lợi.
       -Chiến tranh dành giật danh lợi triền miên giữa các tập đoàn phong kiến, phe phái tôn giáo.
       -Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
       -Sự khám phá ra các vùng đất mới giàu tài nguyên thiên nhiên và mở rộng thị trường.
       -Nhu cầu về tiêu dùng ngày một phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng.
       -Sản xuất hành hóa đã phát triển đến trình độ đòi hỏi phải tách sản xuất hàng tiêu dùng phi thực phẩm ra khỏi sản xuất nông nghiệp, tồn tại độc lập thành những ngành sản xuất tập trung, có qui mô ngày một lớn, gọi chung là sản xuất công nghiệp.
Kế thừa hình thái kinh tế xã hội phong kiến là hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa. Theo Wikipedia thì:
"Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội của xã hội loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu, phôi thai và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Hà Lan và Anh ở thế kỷ XVII. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII, hình thái chính trị của "nhà nước tư bản chủ nghĩa" dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.

Một động cơ hơi nước Watt: động cơ hơi nước được sử dụng nhiên liệu bằng than thúc đẩy cuộc cách mạng công nghiệp ở Vương quốc Anh.

(...).
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là nhìn nhận quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, quyền này được Nhà nước tư bản chủ nghĩa bảo vệ về mặt luật pháp. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể và đôi khi ở một số nước tư bản chủ nghĩa, tại một số thời điểm tỷ trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ (hay còn gọi là mô hình kinh tế hỗn hợp), nhưng điều cơ bản phân biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản chủ nghĩa là trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa cộng sản và phần lớn trường phái chủ nghĩa xã hội công nhận quyền sở hữu toàn dân, tập thể và nhà nước đối với các tư liệu sản xuất (ví dụ như đất đai và tài nguyên khoáng sản).
(...).
Chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu tồn tại trên quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ xuất hiện dưới dạng các hoạt động buôn bán, cho thuê và cho vay và đôi khi là ngành công nghiệp quy mô nhỏ với một số lao động làm công ăn lương. Đã có một lịch sử rất dài trong trao đổi hàng hóa đơn giản và sản xuất hàng hóa đơn giản, đó là nền tảng ban đầu cho sự phát triển của tư bản từ trao đổi thương mại. "Thời kỳ chủ nghĩa tư bản" theo Karl Marx có từ các thương gia thế kỷ 16 và các thành phố đô thị nhỏ. Marx biết rằng lao động tiền lương đã tồn tại trên một quy mô nhỏ trong nhiều thế kỷ trước khi ngành công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Các nước Hồi đã giáo sớm ban hành chính sách kinh tế tư bản, di cư sang châu Âu thông qua các đối tác thương mại từ các thành phố như Venice. Chủ nghĩa tư bản trong hình thức hiện đại có thể được bắt nguồn từ sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản nông nghiệp và chủ nghĩa trọng thương trong thời kỳ Phục hưng.

Tiêu chuẩn vàng đã hình thành cơ sở tài chính của nền kinh tế quốc tế từ 1870 đến 1914.
Trong toán học và nghệ thuật, hai đại lượng được gọi là có tỷ số vàng hay tỷ lệ vàng nếu tỷ số giữa tổng của các đại lượng đó với đại lượng lớn hơn bằng tỷ số giữa đại lượng lớn hơn với đại lượng nhỏ hơn. Tỷ lệ vàng thường được ký hiệu bằng ký tự (phi) trong bảng chữ cái Hy Lạp nhằm tưởng nhớ đến Phidias, nhà điêu khắc đã xây dựng nên đền Parthenon.
Tỷ lệ vàng được biểu diễn như sau:


Các hình thức tư bản và trao đổi thương mại đã tồn tại nhiều năm trong phần lớn lịch sử, nhưng nó không dẫn đến sự công nghiệp hóa hay chi phối quá trình sản xuất của xã hội. Do nó đòi hỏi rất nhiều các điều kiện, bao gồm các công nghệ cụ thể về sản xuất hàng loạt, khả năng độc lập, tư nhân và buôn bán phương tiện sản xuất, một tầng lớp công nhân sẵn sàng bán sức lao động của mình để kiếm sống, khung pháp lý thúc đẩy thương mại, cơ sở vật chất cho phép lưu thông hàng hóa một quy mô lớn và an ninh cho sự tích lũy cá nhân. Nhiều điều kiện trong số này không tồn tại ở nhiều nước thế giới thứ ba, mặc dù có nhiều vốn và lao động. Những trở ngại cho sự phát triển của thị trường tư bản do đó ít kỹ thuật và xã hội, văn hóa và chính trị hơn..
(...).
Chủ nghĩa tư bản đã được mở rộng ra thế giới bởi các quá trình toàn cầu hóa và đến cuối thế kỷ 18 đã trở thành hệ thống kinh tế chiếm ưu thế. Sau đó trong thế kỷ 20, chủ nghĩa tư bản đã vượt qua thách thức của các nền kinh tế kế hoạch tập trung và hiện là hệ thống bao trùm toàn cầu,với nền kinh tế hỗn hợp là hình thức thống trị của nó trong thế giới công nghiệp hóa phương Tây.
Công nghiệp hóa cho phép sản xuất giá rẻ các mặt hàng gia dụng bằng cách sử dụng quy mô kinh tế trong khi tăng dân số nhanh tạo ra nhu cầu bền vững cho hàng hóa. Toàn cầu hoá trong giai đoạn này được định hình bởi chủ nghĩa đế quốc ở thế kỷ 18".
Khi cuộc sống loài người đã vượt thoát mông muội tiến lên văn minh và nhờ được tranh bị tư duy trừu tượng mà có được một cuộc sống tinh thần phong phú với một hệ thống tình cảm đa dạng sâu sắc thì ước mơ tột cùng của con người dần dần qui tụ lại thành một mục tiêu duy nhất là được sống một cuộc sống tự do, bình đẳng, bác ái, no đủ, hạnh phúc trong hòa bình. Mong ước ấy là chính đáng, hợp lý và không mâu thuẫn với tự nhiên. Chính vì thế mà hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa chưa phải là hình thái xã hội cuối cùng của xã hội loài người. Trong xã hội tư bản ngày nay vẫn còn những hiện tượng xảy ra trái với ước mong cuộc sống con người, trái với nhân tính thánh thiện của con người như chiến tranh, người bóc lột người, phân định giàu - nghèo thái quá, lao động kiếm ăn còn căng thẳng..., sự ham hố danh lợi và đam mê quyền lực vẫn còn ngự trị thường xuyên trong tâm hồn con người.
Ngay từ thời tư bản nguyên thủy, khi con người đã biết đến tư hữu của cải (trong đó bao gồm cả tư hữu về tư liệu sản xuất) và tranh đoạt danh lợi từ người khác, nghĩa là biết bóc lột thặng dư để làm giàu cho cá nhân mình, đã xuất hiện hiện tượng đấu tranh chống bóc lột, đòi công bằng. Cuộc đấu tranh ấy tùy vào mức độ của bóc lột, áp bức cường quyền mà có lúc đơn lẻ, lúc phong trào, lúc có thể hòa giải, lúc một mất một còn, và kéo dài đến ngày nay chưa dứt.
Cuộc đấu tranh ấy nổi lên đặc biệt mạnh mẽ vào nửa đầu thế kỷ XX khi có sự cạnh tranh tự do khốc liệt trong nội bộ tầng lớp tư sản nhằm tích lũy tư bản để mưu cầu phát triển, cạnh tranh đảm bảo sống còn. Sự bóc lột thậm tệ, thu hoạch giá trị thăng dư đến tận cùng khả năng (lạm thu) của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp bị trị đã thổi bùng ngọn lửa đấu tranh đòi chia lại giá trị thặng dư (đòi tăng lương, giảm giờ làm việc,...) của những người làm công ăn lương - đại diện cho tầng lớp bị trị lúc bấy giờ. 
Cuộc đấu tranh ở thời kỳ đầu tư bản chủ nghĩa, khi mà sản xuất thặng dư được thu hoạch (quá mức) chủ yếu từ sức lao động, vì đều có tính sống còn đối với cả hai tầng lớp thống trị và bị trị, nên vô cùng nóng bỏng, đối kháng gay gắt và không thể dung hòa. Tình hình đó thúc đẩy các nhà hoạt động chính trị, các nhà triết học nỗ lực lý giải, phân tích, tìm lời giải thích cho hiện tượng đó và đề xướng ra các mô hình xã hội tương lai. Trong bối cảnh ấy, triết học Mác - Lênin và học thuyết về chủ nghĩa cộng sản ra đời. Phải thừa nhận rằng, dù vẫn phạm sai lầm trong những quan niệm cơ bản của nó về tự nhiên - xã hội, dù hô hảo phải biện chứng nhưng thực ra vẫn cự đoan, cứng ngắc trong lập luận, nhận thức, thì triết học Mác - Lênin cũng đã có nhiều luận điểm đúng, nội dung của chủ nghĩa cộng sản đã rất gần với hiện thực khách quan, đã giải thích được có phần hợp lý mâu thuẫn thời đại và chỉ ra cách thức giải quyết mâu thuẫn ấy cho đông đảo tầng lớp bị trị cần lao, chỉ hướng cho loài người tiến đến một hình thái kinh tế xã hội mới vô cùng tươi đẹp, hiện thực trong mơ, gọi là hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa - hình thái xã hội cuối cùng của xã hội loài người.
Thế là nhờ vào sự tuyên truyền tập trung quần chúng của những người cấp tiến, số đông quần chúng cần lao đã tin vào luận thuyết của chủ nghĩa cộng sản, nâng cuộc đấu tranh dành quyền lợi với tầng lớp tư sản, mà thực chất là tầng lớp thống trị, thành cuộc đấu tranh cách mạng với tên gọi "cuộc cách mạng vô sản" với mục đích đầu tiên và sắt máu của nó: xóa bỏ chế độ tư bản, triệt tiên bóc lột, xây dựng chính quyền của giai cấp công - nông. Bắt đầu từ cuộc cách mạng Tháng Mười Nga và nhờ sự hậu thuẫn của cuộc cách mạng ấy, cuộc cách mạng vô sản đã thành công ở một số nước và làm hình thành nên một hệ thống các nước theo chủ nghĩa xã hội, lấy triết học Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, lấy học thuyết cộng sản chủ nghĩa làm kim chỉ nam cho hành động, đối lập với hệ thống theo chủ nghĩa tư bản. 
Sau hơn nửa thế kỷ tồn tại một cách khiên cưỡng và thất bại trong việc xây dựng mô hình của hình thái kinh tế xã hội cộng sản, hệ thống ấy bị chính hậu duệ của những người xây dựng nó đạp đổ tan tành, đưa về, hòa nhập trở lại với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Vài ba nước cộng sản còn lại, tuy vẫn bảo thủ theo chủ nghĩa cộng sản, nhưng đó chỉ là tuyên bố rỗng tuếch có tính hình thức, gắn nhãn mác. Để tránh sự sụp đổ, những nước đó dù hô hào trung thành với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, thì vẫn phải hoạt động tuân theo những nguyên tắc cơ bản của kinh tế tư bản chủ nghĩa.

                                                                            ***
Từ buổi đầu nảy sinh khái niệm tư hữu, tranh dành danh lợi, xuất hiện bất công và quá trình đấu tranh đòi quyền sống cơ bản của đại đa số quần chúng cần lao của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị cho tới nay, đã có không ít hình thái xã hội được cho là tốt đẹp mà con người hình dung ra, tưởng tượng ra và cố gắng đạt tới. Nhưng tất cả những hình thái xã hội ấy đều là những bức tranh đậm màu chủ quan của tư duy trừu tượng và ước vọng, do đó đều thiếu cơ sở khoa học, đều không phải là kết quả tất yếu cùa vận động tự nhiên, không hoang đường, không tưởng thì cũng lý tưởng, viễn tưởng, nghĩa là đều vô vọng. Con người, trong quá trình cố gắng mưu sinh, khi lâm vào cuộc sống khổ ải, thường khát khao, mơ tưởng đến cuộc sống an lành hơn, được sống trong một hình thái xã hội ấm no, hạnh phúc hơn, tươi đẹp hơn. Trong số những hình dung về hình thái xã hội tươi đẹp, đầy mộng mơ đó có ba kiểu in đậm trong tâm khảm, khó xóa nhòa trong tâm hồn nhiều người, đó là: Thiên Đàng, Niết Bàn và Chủ nghĩa Cộng Sản.
Nguồn gốc Phật giáo (và cả thiền nữa!), như chúng ta từng hoài nghi, bắt nguồn từ Đạo Giáo. Nhưng điều đó chỉ là suy đoán, không được xác minh với bất cứ bằng chứng cụ thể nào. Chỉ biết chắc rằng Đạo Giáo có xuất xứ từ Đạo Gia của Lão Tử. Theo chúng ta nhận định, Đạo Gia là trường phái triết học duy vật đầu tiên của nhân loại giải thích đúng đắn nhất về thế giới mà trước tác bất hủ của nó là "Đạo đức kinh". Dù luận giải triết học của trường phái còn chất phác, ngây thơ, đôi khi là hời hợt do nhận thức và cách diễn tả bằng văn tự của thời đại bấy giờ, nhưng những kết kuận của nó lại vô cùng thâm thúy, sâu sắc. Những di ngôn của nó cho tới tận ngày nay còn hừng hực tính chân lý. Cũng do sự hồ nghi của chúng ta về nguồn gốc Đạo Phật còn thấm đẫm mơ hồ nên vẫn phải theo sự diễn giải truyền thống. Trong Wikipedia có viết thế này:
"Phật giáo được Thích Ca Mâu Ni (Shakyamuni) truyền giảng ở miền bắc Ấn Độ vào thế kỷ 6 TCN. Được truyền bá trong khoảng thời gian 49 năm khi Phật còn tại thế ra nhiều nơi đến nhiều chủng tộc nên lịch sử phát triển của đạo Phật khá đa dạng về các bộ phái cũng như các nghi thức hay phương pháp tu học. Ngay từ buổi đầu, Bổn Sư Thích Ca, người sáng lập đạo Phật, đã tổ chức được một giáo hội với các giới luật chặt chẽ. Nhờ vào sự uyển chuyển của giáo pháp, đạo Phật có thể thích nghi với nhiều hoàn cảnh xã hội, nhiều dạng người, nhiều tập tục ở các thời kỳ khác nhau, và do đó ngày nay Phật giáo vẫn tiếp tục tồn tại và ngày càng phát triển rộng rãi trên toàn thế giới ngay cả trong các nước có nền khoa học tiên tiến như Hoa Kỳ và Tây Âu.
(...)
Về địa lý, phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà (Veda). Các bộ lạc du mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước công nguyên
Văn hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà thành một tôn giáo (đạo Bà La Môn) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bà La Môn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị
Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bà La Môn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bà La Môn còn cho rằng tồn tại một bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên). Việc giai cấp tăng lữ được đề cao và được hưởng mọi ưu đãi bổng lộc trong xã hội đã tạo điều kiện cho việc phân hoá thành phần này ra rất nhiều hướng triết lý hay hành đạo khác nhau và đôi khi chống chọi phản bác nhau. (...)
Ngay sau khi thành đạo (vào khoảng giữa sau thế kỉ thứ 6 TCN - có tài liệu cho đó là vào năm 589 TCN theo Phật giáo Nam Tông hay năm 593 TCN theo Phật giáo Bắc Tông) thì Thích Ca đã quyết định thuyết giảng lại hiểu biết của mình. 60 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Thích Ca đã hình thành tăng đoàn (hay giáo hội) đầu tiên. Sau đó, những người này chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều người muốn theo tu học. Để làm việc được với một lượng người theo tu học ngày càng đông, Phật đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm người. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo - tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính Phật, những lời chỉ dạy của Phật (Pháp), và cộng đồng tăng đoàn.
Trong thời đức Phật Thích Ca còn tại thế thì các tu sĩ Phật giáo được tập hợp trong tổ chức được gọi là Tăng đoàn, trực tiếp chịu sự hướng dẫn của Thích Ca về giáo lý và phương cách tu tập. Tăng đoàn là tổ chức thống nhất, bình đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt giới tính, tuổi tác, địa vị xã hội và có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên. Nhờ vào tổ chức có tính bình đẳng và qui củ nên Tăng đoàn tránh được nhiều chia rẽ.
Kỷ luật của giáo hội dựa trên nguyên tắc tự giác. Trong các kì họp, giới luật được nêu lên, sau đó thành viên tự xét và nhận vi phạm nếu có. Những điều lệ chính được đề cập là nhẫn nhục, hành thiện tránh ác, tự chủ và kiềm chế trong ăn nói và tinh tấn.
Ngoài những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia hay cư sĩ.Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ tăng đoàn về nhiều mặt..
Sau khi Phật nhập niết bàn thì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp (Maha Kassapa) thay phần lãnh đạo giáo hội.(...)
Asoka (A Dục) là hoàng đế của đế chế Mauryan, ra đời khoảng năm 273 TCN. Trước khi trở thành Phật tử, ông có tính khí rất hung bạo, đã giết nhiều anh em của mình để cướp ngôi vua cũng như đã xua quân chiếm lãnh thổ Kalinga (ngày nay thuộc bang Orissa) phía Đông Ấn Độ. Nhưng ngay sau đó nhờ gặp được Sa di Nigrodha, ông theo Phật giáo cải hối và làm rất nhiều điều thiện, chống lại bạo lực. Ông là người có công lớn khuyến khích Phật giáo, xây dựng hàng chục ngàn chùa chiền, bảo tháp Phật giáo.
Đây là giai đoạn đánh dấu sự phát triển của Phật giáo ra ngoài lãnh thổ Ấn Độ. Nhiều đoàn truyền giáo đạo Phật đã được cử đến khắp nơi từ Âu sang Á, đến tận Hy Lạp, các nước tại Trung Á, Trung Đông, cũng như Trung Quốc, Miến Điện và Sri Lanka. Hiện còn một vấn đề đang được tranh luận là liệu đoàn thuyết pháp của vua Asoka đã đến được Việt Nam hay không. Câu hỏi này còn trông chờ vào việc tìm ra thêm các bằng chứng về khảo cổ ở Việt Nam..."Do đòi hỏi bởi tình trạng ngột ngạt của sự áp bức của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp bình dân bị trị Ấn Độ, Đạo Phật ra đời như một học thuyết triết học duy tâm chủ quan nhằm giải thích nguyên nhân gây ra nỗi khổ đau, bất hạnh của con người và đề ra cách sống, cách luyện tập để thoát khỏi những khổ đau và bất hạnh ấy. Từ đó mà có khái niệm "Niết Bàn". Wikipeđia đã viết về khái niệm này:
"Niết-bàn (zh. 涅槃, sa. nirvāṇa, pi. nibbāna, ja. nehan) là từ được dịch âm từ gốc tiếng Phạn nirvāṇa hoặc tiếng Pāli nibbāna. Nirvāṇa nguyên là phân từ thụ động quá khứ của động từ niḥ-√vā (2) nirvāti với nghĩa "thổi tắt", "dập tắt" (một ngọn lửa) và như thế thì nirvāṇa mang nghĩa đã bị dập tắt, thổi tắt. Qua đó mà thuật ngữ nirvāṇa cũng được dịch nghĩa là Khổ diệt, Diệt (zh. 滅), Diệt tận (zh. 滅盡), Diệt độ (zh. 滅度), Tịch diệt (zh. 寂滅), Bất sinh (zh. 不生), Viên tịch (zh. 圓寂), và vì khổ diệt được hiểu là mục đích tối cao trong đạo Phật nên nirvāṇa cũng được dịch ý là Giải thoát (zh. 解脫).
Tóm lược lại thì Niết-bàn có thể được hiểu là: Tình trạng ngọn lửa tham lam, sân hận, ngu si đã bị dập tắt.
Niết-bàn là mục đích tu hành cứu cánh của mọi trường phái Phật giáo. Trong đạo Phật nguyên thủy, Niết-bàn được xem là đoạn triệt Luân hồi (zh, 輪回, sa., pi. saṃsāra). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba nghiệp bất thiện (zh. 不善, sa. akuśala, pi. akusala) là tham, sân và si".
Trong bài "Niết Bàn là cõi như thế nào?" đăng trên mạng (https://chuahanson.com/phat-giao-va-doi-song/niet-ban-la-coi-nhu-the-nao-92.html) có viết thế này:
"Một cách đơn giản, mọi người Phật tử đều hiểu rằng đó là cảnh giới giải thoát của các bậc chứng ngộ, đắc đạo. Như vậy, Niết-bàn được hiểu theo nghĩa đối đãi với cảnh giới phàm tục, cảnh giới của những người chưa đạt được giải thoát.
Khi chưa giải thoát, con người chìm đắm trong khổ não, nên Niết bàn hẳn là cảnh không còn khổ não. Khi chưa giải thoát, con người phải chịu sanh già bệnh chết, nên Niết-bàn hẳn là cảnh không còn sanh già bệnh chết… Tương tự như vậy, mọi người hiểu Niết-bàn theo như cách ngược lại với cõi thế tục này…

(...)
Nhưng Niết-bàn an lạc, yên vui như thế nào, chỉ có khi chứng ngộ rồi người ta mới có thể tự cảm nhận lấy mà thôi.
(...)
Niết bàn là cảnh giới như thế nào, Niết bàn là gì… Những điều ấy hoàn toàn không cần thiết đối với chúng ta khi còn đang chìm đắm trong những đau khổ của cuộc đời. Điều tối thiểu chúng ta cần biết chỉ là: Niết bàn là cảnh giới an lạc của giải thoát, của các bậc chứng ngộ, và nếu chúng ta kiên trì tu tập, bản thân chúng ta cũng sẽ có thể tự mình chứng đắc vào cảnh giới ấy. Thay vì để tâm tìm hiểu Niết bàn là gì, chúng ta nên chuyên tâm vào việc học tập và hành trì lý Tứ đế, thực hành Bát chánh đạo… Một khi đã tự mình chứng ngộ, chúng ta sẽ tự mình hiểu rõ Niết-bàn là gì, không cần phải nhọc tâm tìm hiểu".
Như vậy, Đạo Phật chỉ ra rằng mọi đau khổ gặp phải trong cuộc đời của mỗi người đều có nguyên nhân từ tham, sân, si và chủ yếu do chính bản thân con người đó gây ra. Đức Phật Thích Ca dạy rằng, muốn diệt khổ, giải thoát được khổ đau, nghĩa là đạt đến cõi Niết Bàn,đạt đến an lạc, thì mỗi con người phải tự thân tu tập kinh Phật. Và cõi Niết Bàn là một thứ gì đó có thật, nhưng không biết là thứ gì, không thể hình dung mà cũng không cần phải hình dung, ai chứng ngộ người đó biết (!)$$
Kitô Giáo ra đời sau đạo Phật, vào thời đoạn Đế quốc La Mã còn thịnh trị, tức là tầng lớp thống trị của nó còn đủ sức mạnh áp bức quần chúng cần lao bị trị. Đạo này (trong quá trình tồn tại của nó, có lẽ tiếp thu những quan niệm của đạo Phật, sau này bị lũng đoạn không ít bởi tầng lớp thống trị để phục vụ cho việc cai trị, xóa nhòa tính đối kháng trong mâu thuẫn quyền lợi giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị) giải thích một cách mơ hồ và yếm thế nguyên nhân gây ra những khổ đau, đầy ải bất hạnh trong xã hội và cách thức giải thoát chúng. Theo Wikipedia thì:
"Đức Chúa Giê-su sáng lập Kitô giáo vào khoảng năm 26 ở Do Thái. Đức Chúa Giê-su giáng sinh vào năm 1 Công Nguyên, tại làng Bethlehem xứ Judea. Trú quán của Giê-su là làng Nazareth, xứ Galilee. Đức chúa Giê-su khởi hành truyền bá Phúc Âm trong xứ Galilee lúc khoảng 30 tuổi.
Các tôn giáo trên thế giới đều dạy con người phải tự mình làm các điều lành thánh thiện, tu tâm dưỡng tính để tự cứu mình hay để được siêu thoát hoặc thi hành nghiêm túc các giới cấm của đạo để được lên thiên đàng. Cơ Đốc Giáo khẳng định là mọi người sinh ra đều mắc phải tội tổ tông truyền(do phạm luật Chúa Cha đã truyền dạy " Các ngươi được phép ăn tất cả trái cây trong vườn địa đàng, nhưng không được ăn cây ở giữa khu vườn nếu ăn các ngươi sẽ phải chết ") do nghe lời con rắn xúi dục, tham lam muốn bằng Thiên Chúa nên đã bị phạt làm người phải chịu chết và sinh con đau đớn, nên Chúa Cha đã ban Con Một của mình là Đức Chúa Giê-su xuống thế gian chịu chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc. Nếu ai muốn được cứu thì chỉ cần chấp nhận và tin tưởng vào sự ban cho như không này như lời tiên tri I-sai-a: "Hỡi những kẻ nào khát, hãy đến suối nước! Và người nào không có tiền bạc, hãy đến, mua mà ăn! Hãy đến, mua rượu và sữa mà không cần tiền, không đòi giá" I-sai-a.
Cuộc đời của Chúa Giê-su được ghi lại trong bốn sách Phúc Âm Tin Mừng theo thánh Mát-Thêu (Mathew), Maco, Lu-ca và Gio-an. Phúc Âm Mát-Thêu cho biết gia phả của Chúa Giê-su thuộc dòng dõi của vua Đa-vít và sanh bởi Đức nữ đồng trinh Ma-ri-a. Hai điều này làm ứng nghiệm lời tiên tri: "Có một chồi sẽ nứt từ gốc Y-sai, một nhánh từ rễ nó sẽ ra trái" và "Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai và sanh một con trai" (I-sai-a). Phúc Âm Ma-thi-ơ đã trưng dẫn tất cả 16 lần các lời tiên tri nói về Đấng Mê-si ở Cựu Ước được ứng nghiệm trong Đức Chúa Giê-su ở Tân ước để thuyết phục người Do Thái chấp nhận Đức Chúa Giê-su là Đấng Mê-si của mình. Phúc Âm Mác bày tỏ Đức Chúa Giê-su là Con của Đức Chúa Trời và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Phúc Âm Lu-ca bày tỏ Đức Chúa Giê-su là Con của Đấng Rất Cao, Chúa Con sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít trị vì đời đời, nước Chúa vô cùng. Phúc Âm Giăng bày tỏ Đức Chúa Giê-su là Đức Chúa Trời Ngôi Hai trở thành nhục thể để đem sự cứu chuộc đến cho nhân loại.
Trong thời gian ba năm rao giảng tin mừng, Đức Chúa Giê-su làm nhiều phép lạ như: hóa nước thành rượu, làm người chết sống lại, người mù được sáng, người què được đi... hầu để chứng tỏ Giê-su là Đấng Mê-si hay Đấng Christ, đã đến trong thế gian để làm ứng nghiệm các lời tiên tri trong Cựu Ước. Ngoài các dấu kỳ phép lạ, Đức Chúa Giê-su công khai xác nhận mình là Đấng Mê-si hay Đấng Christ, "Ta, người đang nói với ngươi đây, chính là Đấng đó" (Giăng). Ngoài các dấu kỳ phép lạ đã làm, Đức Chúa Giê-su còn giảng dạy là mỗi người phải hết lòng yêu mến Đức Chúa Trời và thương kẻ lân cận như mình. Chúa Giê-su kêu gọi mọi người phải thay đổi lòng mình, ăn năn và tin nhận Thiên Chúa để được cứu rỗi và thừa hưởng nước Trời.
Sau 3 năm giảng dạy về nước Trời, dân Do Thái tin theo Đức chúa Giê-su rất đông làm cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo coi chúa Giê-su là một mối đe dọa cho Do Thái Giáo. Nên họ đã bắt chúa Giê-su đem đến trường án vội vã kết tội chúa Giê-su đã phạm thượng, vì đã xưng mình là Con của Đức Chúa Trời, rồi họ đóng đinh chúa Giê-su trên thập tự giá cho đến chết.
Các sách Phúc Âm kể tiếp: Sau khi người ta đã đem chúa Giê-su chôn trong mồ, đến ngày thứ ba, Đức Chúa Giê-su sống lại. Sau khi sống lại, Chúa hiện ra với các môn đồ trong 40 ngày để ban Chúa Thánh Thần và sai các ông đi rao giảng và làm chứng cho Ngài đến tận cùng Trái Đất. Sau đó,chúa Giê-su thăng thiên trước sự chứng kiến của các môn đồ. Như sách Công vụ các Sứ đồ 1:9-11 ghi: Sau khi nói chuyện với các môn đồ lần chót xong, Đức Chúa Giê-su được cất lên trời. Các môn đồ ngó theo cho đến khi có một đám mây đến tiếp Chúa khuất đi, không thấy nữa. Đoạn, có hai thiên sứ mặc áo trắng hiện đến bảo các môn đồ rằng:chúa "Giê-su này đã được cất lên trời khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Chúa lên trời vậy". Chúa Giê-su cùng các thánh đồ sẽ trở lại thế gian này đánh bại Sa-tan để thành lập vương quốc của Chúa. Chúa sẽ ngồi trên ngôi Đa-vít trị vì đời đời, nước Chúa vô cùng. Bấy giờ "họ sẽ lấy gươm rèn lưỡi cày, lấy giáo rèn lưỡi liềm. Nước này chẳng còn giá gươm lên nghịch cùng nước khác, người ta chẳng còn tập sự chiến tranh. Muông sói sẽ ở với chiên con, beo nằm với dê con; bò con, sư tử con với bò nuôi mập cùng chung một chỗ, một đứa con trẻ sẽ dắt chúng nó đi. Bò cái sẽ ăn với gấu; các con nhỏ chúng nó nằm chung, sư tử ăn cỏ khô như bò. Trẻ con đương bú sẽ chơi kề rắn hổ mang, trẻ con thôi bú sẽ thò tay vào hang rắn lục. Nó chẳng làm hại, chẳng giết ai" (I-sai).
Sau khi Chúa Giê-su thăng thiên độ 10 ngày, đến ngày lễ Ngũ Tuần, các môn đồ của Chúa Cứu Thế đang nhóm lại để ăn lễ Ngũ Tuần theo truyền thống của Do Thái Giáo thì "thình lình, có tiếng từ trời đến như tiếng gió thổi ào ào, đầy khắp nhà môn đồ ngồi. Các môn đồ thấy lưỡi rời rạc từng cái một, như lưỡi bằng lửa hiện ra, đậu trên mỗi người. Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh" (CV 2:2-4).
Sau khi nhận được Đức Thánh Linh, các môn đồ của Đức Chúa Giê-su đi ra rao giảng cho mọi người biết Chúa Giê-su là Đấng Cứu Thế đã chết trên thập tự giá để chuộc tội cho nhân loại. Nếu ai bằng lòng tin nhận Chúa Giê-su và sự chết của Chúa trên thập tự giá là để đền tội cho mình thì người đó được cứu chuộc bởi ân điển của Đức Chúa Trời. Như Sứ đồ Phi-e-rơ xác định trước Toà Công Luận Do Thái rằng: "Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu" (CV 4:12). Sứ đồ Phao lô vốn là một thành viên của môn phái Pha-ri-seu, từng hăng say bắt bớ và sát hại người tin theo chúa Giê-su. Nhưng sau khi trở lại tin nhận Chúa và trở thành một sứ đồ đầy lòng nhiệt huyết rao giảng Tin Mừng, ông tuyên bố: "Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Mừng đâu, vì là quyền phép của Đức Chúa Trời để cứu mọi kẻ tin" (Rô 1:16).
Dù Cơ Đốc Giáo bị Do Thái Giáo bắt bớ từ năm 35 đến năm 44, và sau đó bị các Hoàng Đế La Mã bách hại từ năm 64 đến năm 312, Cơ Đốc Giáo vẫn bành trướng mạnh trong đế quốc La Mã. Vào thế kỷ II, Cơ Đốc Giáo đã trở thành một tôn giáo có tổ chức hoàn bị với các giáo lý chính xác. Đến thế kỷ IV, Cơ Đốc Giáo đã lan tràn đến Tây Ban Nha, Ba-Tư và miền đông Ấn Độ.
Đến cuối thế kỷ IV, các Hội Thánh Cơ Đốc Miền Đông nằm trong lãnh thổ của Đông Đế quốc La Mã được chia ra làm bốn giáo khu. Bốn giáo khu đó là Constantinople (Thổ Nhĩ Kỳ), An-ti-ốt (Syria), Giê-ru-sa-lem (Do-Thái) và Alexandria (Ai Cập). Các giáo khu này trực thuộc Đông Giáo hội, đặt dưới quyền quản trị của một Giáo Trưởng, tòa thánh ở Constantinople, Thổ Nhĩ Kỳ. Các Hội Thánh Cơ Đốc Miền Tây nằm trong lãnh thổ của Tây Đế quốc La Mã trực thuộc Giáo Khu Rô-ma, cũng gọi là Tây Giáo hội. Tây Giáo hội đặt dưới quyền quản trị của một Giám mục, tòa thánh ở La Mã, Ý. Đông Giáo hội và Tây Giáo hội có nhiều bất đồng về giáo lý và quyền hạn giữa chức Giám mục ở La Mã và Giáo trưởng ở Constantinople. Sự việc này là mầm móng gây ra mối chia rẽ giữa hai giáo hội từ thế kỷ V. Đến năm 1054, Tây Giáo hội và Đông Giáo hội chính thức dứt phép thông công lẫn nhau, rồi xem nhau như thù nghịch từ dạo đó cho đến nay.
Năm 1517, Tu sĩ Martin Luther phát khởi phong trào Cải Chánh Giáo hội Công giáo Rôma. Martin Luther cho rằng: Sự cứu chuộc là nhờ ân điển bởi đức tin vào sự ban cho của Đức Chúa Giê-su mà thôi, không phải nhờ làm việc lành để được cứu. Điều Martin Luther tin tưởng trái với truyền thống của Giáo hội Công giáo Rôma đã có hơn một ngàn năm trăm năm qua là "sự cứu chuộc là nhờ ân điển bởi đức tin vào công lao của Đức Chúa Giê-su cộng thêm việc làm phước đức của tín hữu". Vì giáo lý cứu rỗi khác biệt với Giáo hội Công giáo Rôma, nên Martin Luther và nhóm người theo phái Cải Chánh của Martin Luther tách rời khỏi Giáo hội Công giáo Rôma để thành lập Giáo hội Tin Lành Lutheran. Cũng trong thế kỷ 16 này và các thế kỷ kế tiếp, một số Giáo hội Cải Chánh khác được thành lập như: Reformed and Presbyterian, Anglican Communion, Báp-tít, Anh Em (Quakers), Congregationalists, Giám Lý, Ngũ Tuần, Disciple of Christ, Unitarians, Universalists, Evangelicals, Fundamentalists...
Đến năm 1962, Công đồng Vatican II của Giáo hội Công giáo Rôma không còn coi Tin Lành Cải Chánh là "Thệ Phản" hay "Đạo Lạc", nhưng coi là "Anh Em Tách Rời".
Tạp chí Life, xuất bản tháng 12 năm 1999 cho biết: Dầu phải trải qua các cuộc bắt bớ của Do Thái Giáo và các cơn bách hại của các Hoàng Đế La Mã, Cơ Đốc Giáo đã trở thành một tôn giáo lớn nhất thế giới, có số tín hữu vào khoảng trên hai tỷ người, với khoảng 2.000 hệ phái".
Cũng theo Wikipedia:
"Thiên đàng hay Thiên đường (chữ Hán 天堂; thiên: trời, tầng trời, cõi trời; đường hay đàng: cái nhà, cõi) là khái niệm về đời sau được tìm thấy trong nhiều tôn giáo và các tác phẩm triết học.
Những người tin vào thiên đàng cho rằng thiên đàng (hoặc Hoả ngục) là chỗ ở trong đời sau của nhiều người hoặc toàn thể nhân loại. Trong một số trường hợp, có những người, theo truyền thuyết hoặc theo lời chứng, có những trải nghiệm cá nhân giúp hiểu biết về Thiên đàng. Họ tin rằng những trải nghiệm họ có được là để thuật lại cho người khác biết về sự sống, Thiên đàng và Thiên Chúa.
(...). Thiên đàng thường được hiểu là nơi chốn của phước hạnh, đôi khi được hiểu là chỗ ở phước hạnh vĩnh cửu.
Trong phần lớn các giáo hội thuộc cộng đồng Cơ Đốc giáo, thiên đàng là sự trở lại tình trạng trước khi sa ngã của loài người, sự tái lập Vườn Eden, ở đó con người được tái hợp với Thiên Chúa trong tình trạng toàn hảo và tự nhiên của sự sống đời đời. Tín hữu Cơ Đốc tin rằng sự tái hợp này giữa con người và Thiên Chúa được hoàn tất qua sự hi sinh của Chúa Giê-su Cơ Đốc khi ngài chết trên thập tự giá vì tội lỗi của loài người.
Quan niệm phổ biến của hầu hết các tôn giáo là khi vừa lìa đời, con người sẽ bước ngay vào thiên đàng. Tuy nhiên, không phải tất cả tín hữu Cơ Đốc chia sẻ niềm tin này. Nhiều người trong cộng đồng Cơ Đốc giáo tin rằng trước khi vào thiên đàng cần phải chờ đợi "cho đến khi thế gian này qua đi".
Trong thần học Cơ Đốc, có hai khái niệm hỗ tương về thiên đàng thường được gọi là "sự sống lại của thân xác" và "sự bất diệt của linh hồn". Trong khái niệm đầu, linh hồn sẽ không lên thiên đàng cho đến khi có sự phán xét sau cùng là lúc thân xác được hồi sinh và mọi người chịu xét xử. Trong khái niệm sau, linh hồn lên thẳng thiên đàng sau khi chết. Cả hai khái niệm này được kết hợp trong học thuyết hai lần phán xét, theo đó linh hồn chịu phán xét lần đầu sau khi chết để vào ở một nơi phước hạnh tạm thời (paradise) trong khi chờ đợi sự phán xét lần thứ hai trong ngày tận thế.
(...).
Thuyết Phổ độ nói rằng, chúng ta đều biết là trên chín tầng mây có thiên đàng còn dưới lòng đất chẳng có gì cả vì lòng đất không có không khí, tối như mực, nhiệt độ lại quá cao không gì có thể ở được. Những người sinh thời sống tốt khi chết đi sẽ lên thiên đàng, thành hồn ma tốt còn những người sinh thời sống không tốt khi chết đi vẫn lên thiên đàng, thành hồn ma xấu.
Những người không tôn giáo có vẻ đều tin vào thuyết này và họ tin rằng, họ đang cần có phước hạnh vĩnh cửu. Theo niềm tin của họ, hỏa ngục (tức địa ngục) cùng ma quỷ chỉ là mê tín, vì dưới lòng đất chẳng có gì và nhiệt độ quá cao.
(...)
Theo dòng lịch sử, một trong những nguyên nhân chia cắt Cơ Đốc giáo là các quan điểm dị biệt về điều kiện được vào thiên đàng. Từ thế kỷ 16 đã hiện hữu ba quan điểm của ba trào lưu Cơ Đốc chính yếu: Công giáo Rôma, Chính Thống giáo và Kháng Cách. 
(...)
Giáo huấn Công giáo về thiên đàng được trình bày trong Giáo lý của Giáo hội Công giáo: "Những ai chết trong ân điển và tình bằng hữu của Thiên Chúa được thanh tẩy hoàn toàn và sống đời đời... Sự sống trọn vẹn này với Thiên Chúa... được gọi là thiên đàng. Đó là mục tiêu tối hậu và là sự ứng nghiệm đầy trọn những khao khát sâu xa nhất của con người, đó là tình trạng phước hạnh tuyệt đối và vĩnh hằng."
Sau khi chết, mỗi linh hồn phải đối diện với "sự phán xét đặc biệt" để hoặc sẽ vào thiên đàng sau khi ở Luyện ngục (Purgatory), hoặc vào thẳng thiên đàng, hoặc vào Hỏa ngục. Ý niệm này khác với quan điểm "sự phán xét chung" hoặc "sự phán xét sau cùng" khi Chúa Cơ Đốc trở lại để phán xét kẻ sống và kẻ chết.
(...)
Thiên đàng là nơi chốn dành cho những ai đã được thanh tẩy, người chết trong tội lỗi không được phép vào. "Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy hoàn toàn sẽ sống đời đời với Chúa Kitô. Họ đời đời giống Thiên Chúa, vì họ "nhìn thấy Ngài" mặt đối mặt." (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1023) "Những ai chết trong ân sủng và tình bằng hữu của Thiên Chúa và được thanh tẩy không trọn vẹn, dù không được chắc chắn sự cứu rỗi đời đời, phải trải qua sự thanh tẩy sau khi chết, cũng sẽ đạt được sự thánh khiết cần thiết để bước vào sự vui thoả của Thiên Chúa." (Giáo lý Giáo hội Công giáo 1054).
Nếu một người chịu rửa tội đúng cách, khi chết người ấy sẽ lên thiên đàng (theo đức tin Công giáo Rôma, thánh lễ rửa tội (báp têm) xoá sự trừng phạt hiện thời hay vĩnh cửu của mọi tội). Nếu một người không bao giờ phạm trọng tội, trong khi đã được xoá các khinh tội trước khi chết, người ấy sẽ vào thiên đàng.
Song, đa phần sẽ vào thiên đàng sau khi qua Luyện ngục (hoặc "nơi thanh tẩy"). Trong Luyện ngục, linh hồn phải chịu trừng phạt vì những tội đã phạm khi còn sống, nhưng không phải luôn luôn như vậy. Nếu một người dự thánh lễ, xưng tội đúng cách, cũng như đã được đại xá (plenary indulgence), sau khi chết sẽ vào thiên đàng. Có nhiều cách để được đại xá, chiếu theo các thánh chỉ của Giáo hoàng. Để được đại xá, cần phải dự thánh lễ xưng tội đúng cách, ăn năn, dự Bí tích Thánh thể đúng cách, đọc một số lần các kinh như Kinh Lạy Cha, Kinh Kính Mừng, Kinh Sáng Danh và làm số công đức. Hơn nữa, người ấy cần phải giữ mình khỏi mọi tội, trọng tội cũng như khinh tội, trong khi thực thi những điều này...".
Phải cho rằng sự ra đời của hai tôn giáo ấy là kết quả nỗi bức xúc tích tụ trong thời gian dài của tầng lớp bình dân cần lao trong quá trình đấu tranh đòi quyền lợi với tầng lớp thống trị trong xã hội. Vì xảy ra trong một thời đoạn mà bạo lực được khẳng định, sự áp bức bất công của tầng lớp thống trị đối với tầng lớp cần lao bị trị tồn tại như một lẽ đương nhiên, thêm nữa là có ưu thế hầu như áp đảo trước sự phản kháng liên tục của tầng lớp bị trị, và nhất là về sau còn bị sự phủ dụ của tầng lớp thống trị lũng đoạn,  nên những luận giải của hai "đạo" đó về mọi gian nan, khổ ải, đói nghèo... xảy ra trên thế gian của quần chúng bình dân đều mê tín, mù quáng, đều hầu như có nguyên nhân "tự mình", và như thế, đều sai lầm. Từ sai lầm đó mà dẫn đến việc đề ra những tiêu chí hành động "diệt khổ" đầy yếm thế, cải lương và cũng sai lầm nốt.
Hãy đọc bài "Nguồn Gốc của Khổ và sự Diệt Khổ" ( Tương Ưng BK IV, phần số XI: Bhagandha-Hatthaha, tr 512-517 ) đăng trên mạng: " Một thời Thế Tôn đang trú tại một thị trấn  tên là Uruvelakappa của người dân Mallas. Lúc đó viên trưởng thôn là Bhadraka đến tiếp kiến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài, ngồi xuống một bên và thưa rằng:
            -Bạch Thế Tôn, thật lành thay nếu Thế Tôn giảng cho con nghe về nguồn gốc của khổ và sự diệt khổ .
            - Này trưởng thôn, nếu ta giảng cho ông về nguồn gốc của khổ và sự diệt khổ dựa vào sự kiện trong quá khứ, nói rằng: ‘trong quá khứ nó như vậy ’, có thể ông sẽ khởi lên  hoang mang và nghi ngờ. Và nếu ta giảng cho ông về nguồn gốc của khổ và sự diệt khổ dựa vào sự kiện trong tương lai, nói rằng, ‘trong tương lai nó sẽ như vậy’, có thể ông sẽ khởi lên  hoang mang và nghi ngờ. Này trưởng thôn, thay vào đó, khi ta đang ngồi đây, và ông đang ngồi ở đó, ta sẽ giảng cho ông nghe về nguồn gốc của khổ và con đường diệt khổ. Hãy lắng nghe và chú tâm thật kỹ, ta sẽ nói.
             - Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” Bhadraka đáp lại.
            Thế Tôn nói như sau :
             - Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào? Nếu có người nào ở tại Uruvelakappa này bị hành hình, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng, hay tuyệt vọng không ?
            - Thưa có những người như thế, bạch Thế Tôn
            - Nhưng có người nào trong cùng hoàn cảnh như vây mà ông không khởi tâm buồn rầuthan tiếc, đau đớn, thất vọng, hay tuyệt vọng không ?
            - Thưa có những người như thế, bạch Thế Tôn
             - Này trưởng thôn, tại sao đối với một số người ở tại Uruvelakappa ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng khi họ bị hành hình, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, trong lúc đối với một số người khác ông lại không khởi tâm như thế ?
            - Bạch Thế Tôn, đối với những người ở Uruvelakappa mà con có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng khi họ bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, đó là những người con có lòng ái dục đối với họ. Nhưng đối với những người ở Uruvelakappa mà con không khởi lên những cảm xúc ấy, đó là những người con không có lòng ái dục đối với họ.
             – Này trưởng thôn, bằng nguyên tắc này đã được trông thấy, hiểu biết, đo lường và thấu đạt, hãy áp dụng phương pháp này đối với quá khứ và tương lai, như sau : “Bất cứ khổ đau nào  đã khởi lên trong quá khứ, tất cả những gì đã sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn; vì ái dục là gốc rễ của khổ đau. Bất cứ khổ đau nào sinh khởi trong tương lai, tất cả những gì sẽ sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn; vì ái dục là gốc rễ của khổ đau ”.
            - Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật tuyệt vời thay, bạch Thế Tôn ! Thật khéo nói thay lời dạy này của Thế Tôn: ‘Bất cứ khổ đau nào đã khởi lên trong quá khứ, tất cả những gì đã sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, vì ái dục là gốc rễ của khổ đau’. Bạch Thế Tôn, con có người con trai tên là Ciravāsi sống ớ căn nhà ngoài xa. Con thường dậy sớm và gởi một người đi đến đó, nói với anh ta,’Anh hãy đi đến đó và thăm hỏi xem nó như thế nào.’ Bạch Thế Tôn, cho đến khi anh ấy trở về, con cảm thấy lo âu bồn chồn, nghĩ rằng, ‘Hy vọng cậu bé không bị ốm đau gì !’
            -  Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào ? Nếu Ciravāsi bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng không ?
            -   Bạch Thế Tôn, nếu Ciravāsi bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, thậm chí đời con sẽ trở hành vô nghĩa, làm sao con không khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng ?
            -  Này trưởng thôn, cũng vậy bằng phương cách này, có thể hiểu như sau: ‘Bất cứ khổ đau nào  khởi lên, tất cả những gì sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn, vì ái dục là gốc rễ của khổ đau .’
            -  Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào ? Trước đây khi ông chưa trông thấy hay nghe nói về vợ ông, ông có khởi sinh lòng ham muốn, luyến ái đối với bà ấy không ?
            -  Thưa không, bạch Thế Tôn.
            -  Này trưởng thôn, vậy thì có phải chỉ sau khi ông trông thấy hay nghe nói về vợ ông, ông mới khởi sinh lòng ham muốn, luyến ái đối với bà ấy?
            - Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
            -  Này trưởng thôn, ông nghĩ thế nào ? Nếu vợ ông bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, ông có khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng không ?
            -  Bạch Thế Tôn, nếu vợ con bị hành quyết, bị tù tội, bị trừng phạt hay bị chỉ trích, thậm chí đời con sẽ trở hành vô nghĩa, làm sao con không khởi tâm buồn rầu, than tiếc, đau đớn, thất vọng hay tuyệt vọng ?
            -  Này trưởng thôn, cũng vậy bằng phương cách này, có thể hiểu như sau: ‘ Bất cứ khổ đau nào khởi lên, tất cả những gì sinh khởi đều bắt nguồn từ ái dục, với ái dục là cội nguồn, vì ái dục là gốc rễ của khổ đau' ."
Nhưng đạo Phật vẫn chưa giải thích được đến tận cùng: nguồn gốc của duyên khởi, của ái dục. Thử hỏi, nếu những thứ đó không hiện diện, thì con người có còn hiện diện nữa hay không? Đạo Ki - Tô ra đời cũng với những giáo lý giải thích nguyên nhân nỗi khổ đau và cách thức tiêu trừ khổ đau cho quần chúng cần lao theo xu hướng tương tự như Đạo Phật, tức là cũng đầy tín ngưỡng mê lầm, mù quáng, yếm thế và cải lương. Tuy nhiên, với quan niệm đầy bi quan, bất lực, bế tắc bị hạn chế bởi nhận thức thế giới của thời đại bấy giờ về một xã hội mà quần chúng cần lao được sống một cuộc sống tươi vui, hạnh phúc hơn, hai thứ tôn giáo ấy cũng vẽ nên được hai bức tranh tuyệt đẹp, đẹp đến không thể mô tả cụ thể được là Niết Bàn và Thiên Đàng, về cuộc sống con người khi đã "gột rửa" hết mọi tội lỗi gọi là Niết Bàn và Thiên Đàng. Thực ra đó là hai ảo tưởng hình thái xã hội được cho là tuyệt đối tốt đẹp, có tính thần thánh mà hai tôn giáo đã hình dung ra được để phủ dụ quần chúng cần lao. Dù bị cho là yếm thế, mù quáng, cải lương nhưng những giáo điều của hai tôn giáo ấy về khổ và diệt khổ cũng có những nét hợp lý, nhất là nét hiền dịu, giàu lòng nhân ái và hai hình dung về hình thái xã hội đẹp đẽ lý tưởng đã phủ dụ được tầng lớp cần lao tin theo, đã phù hợp với nguyện vọng ngàn đời về cuộc sống con người. Điều vừa nói phải chăng là lời giải thích cho sự tồn tại hàng ngàn năm nay của đạo Phật và đạo Ki - Tô.
Chính vì vậy mà Ăngghen đã viết: “Con người vẫn chưa hiểu rằng họ đã nghiêng mình trước bản chất của chính mình và đã thần thánh hoá nó như một bản chất xa lạ nào đó”. Lột tả bản chất của tôn giáo, ông cho rằng, “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc của con người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”. Và C. Mác, trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hegels” (1844), cũng đã viết như sau:
"Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Xóa bỏ tôn giáo, với tính cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cuộc sống khổ ải mà tôn giáo là vòng hào quang thần thánh của nó”.
Trên tinh thần đó và với những suy luận lôgic tưởng chừng như đã "chắc như bắp" rút ra được từ luận thuyết triết học duy vật biện chứng do chính mình xác lập, C. Mác và F. Ăngghen đã đề xứng ra học thuyết về chủ nghĩa cộng sản. Theo wikipedia thì:
"Chủ nghĩa cộng sản là một hình thái kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập xã hội phi nhà nước, không giai cấp, tự do, bình đẳng, dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói chung. Karl Marx cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của lịch sử, đạt được qua một cuộc cách mạng vô sản. Trong xã hội cộng sản, các quyết định về việc sản xuất cái gì và theo đuổi những chính sách gì được lựa chọn một cách dân chủ, cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào quá trình quyết định trong cả hai lĩnh vực chính trị và kinh tế. Việc sản xuất và phân phối của cải được tiến hành công bằng giữa các công dân. Karl Marx chưa bao giờ miêu tả chi tiết về việc chủ nghĩa cộng sản sẽ vận hành như thế nào trong vai trò một hệ thống kinh tế - xã hội, nhưng người ta hiểu rằng một nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ dựa trên sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa cộng sản cố gắng đưa ra một giải pháp khác cho các vấn đề của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và di sản của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc. Marx khẳng định rằng cách duy nhất để giải quyết các vấn đề này là tầng lớp lao động (vô sản), những người mà theo Marx là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất trong xã hội và là những người bị tầng lớp tư bản (tư sản) bóc lột, đứng lên làm tầng lớp cầm quyền thay cho giới tư sản để thiết lập một xã hội tự do, không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Người lao động đã được tổ chức thành giai cấp thống trị sẽ tước bỏ quyền tư hữu và kiểm soát tư liệu sản xuất vì lợi ích của xã hội. Theo quan điểm của những người cộng sản, chủ nghĩa cộng sản là con đường để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại. Thực hiện chủ nghĩa cộng sản thông qua cách mạng, bao gồm cách mạng lật đổ chế độ "người bóc lột người", và cách mạng xây dựng xã hội mới.
Trong vai trò một hệ tư tưởng chính trị, chủ nghĩa cộng sản thường được xem là một nhánh của chủ nghĩa xã hội; một nhóm học thuyết triết học chính trị và kinh tế được rút ra từ nhiều phong trào chính trị và tri thức có nguồn gốc từ các tác phẩm của các nhà lý thuyết của Cách mạng Công nghiệp và Cách mạng Pháp. Nhánh kia là lý luận của các đảng Dân chủ xã hội hiện có nhiều ảnh hưởng tại Tây Âu và Bắc Âu. Do cùng chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Marx, các đảng cộng sản và Dân chủ xã hội thường có quan hệ đồng minh với nhau thành một lực lượng chung được gọi là cánh tả.
Chủ nghĩa cộng sản bắt nguồn từ phương Tây nhưng càng di chuyển về phương Đông càng bị biến đổi tùy theo tâm lý, văn hóa và những điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương mà nó đi qua làm nảy sinh ra những trường phái tư tưởng cộng sản khác nhau với cách hiểu khác nhau về chủ nghĩa cộng sản. Những hình thức nổi bật của chủ nghĩa cộng sản, chẳng hạn như Chủ nghĩa Lenin, Chủ nghĩa Stalin, Chủ nghĩa Mao và Chủ nghĩa Trotsky, đều kế thừa từ Chủ nghĩa Marx, nhưng giữa chúng có những khác biệt tùy theo cách hiểu và bối cảnh xã hội mà nhà lý luận chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, chủ nghĩa cộng sản cũng có những phiên bản khác không liên quan đến Chủ nghĩa Marx, chẳng hạn Chủ nghĩa cộng sản Thiên chúa giáo và Chủ nghĩa cộng sản vô chính phủ (anarcho-communism).
(...)
(...)
Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý luận chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với các phong trào xã hội, phong trào chính trị rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ XIX, nở rộ và thoái trào trong thế kỷ XX - nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" không có biên giới quốc gia khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau. Tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra dồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Trong xã hội cộng sản, mỗi cá nhân được tự do phát huy mọi khả năng của mình theo triết lý "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người", tự do làm những điều không ảnh hưởng đến lợi ích và quyền tự do của người khác trên cơ sở tư liệu sản xuất chung để đảm bảo quyền tự do của tất cả mọi người. Các ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản đã có trước Marx từ rất lâu tại các nền văn minh khác nhau và được nhiều nhà tư tưởng đề cập đến. Marx là người đưa ra khả năng hiện thực hóa các ý tưởng đó trong tương lai dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra và xem đó như một sự tiến hóa của xã hội loài người...".
Trước đây, dưới "mái trường XHCN" chúng ta vẫn được dạy rằng triết học duy vật biện chứng là chân lý của thời đại, nghĩa là mọi lý thuyết, muốn đạt dược chân lý đích thực, đều phải lấy những luận điểm, luận cứ của nó làm cơ sở lý luận. Vì chỉ dược tuyên truyền một chiều, nên chúng ta cứ ngỡ những kết quả khám phá của nó, những cái gọi là phạm trù của nó, đều được coi là những qui luật cơ bản, hay ít ra cũng là những hiện tượng phổ biến có tính qui luật về tự nhiên - xã hội không thể phủ nhận. Và chủ nghĩa cộng sản, con đẻ của nó, được cho là hình thái kinh tế - xã hội cuối cùng của loài người, một hình thái xã hội, tương tự như Niết Bàn và Thiên Đàng, đẹp đẽ một cách lý tưởng mà con người có thể đạt tới nếu đi theo con đường cách mạng vô sản.
Đến độ tuổi trung niên, chúng ta vẫn đặt niềm tin vào học thuyết Mác - Lênin như một tín ngưỡng. Nhưng rồi, trước thực tế đổ vỡ của hệ thống các nước theo phe Xã hội chủ nghĩa (các nước đi theo con đường cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa cộng sản), những trái khoáy trong thực tiễn xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa cộng sản từ sau chiến tranh giải phóng dân tộc ở nước ta, những phản biện sâu sắc đối với hệ tư tưởng macxít - lêninnít, chúng ta đã phải đặt nghi vấn, đã phải tìm hiểu lại đến tận cội rễ, và (theo ý chúng ta) đã phát hiện ra những sai lầm "chết người" của học thuyết ấy... Cho đến nay chúng ta không còn tin học thuyết đó nữa, dù vẫn yêu chủ nghĩa cộng sản bởi ý tưởng "diệt khổ" của nó.
Sinh thời, C. Mác đã nói: "Các nhà triết học chỉ diễn giải thế giới khác nhau; vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới". Câu nói đó, theo chúng ta hiểu, hàm ý rằng, triết học duy vật biện chứng mà ông đề xướng, không những đã giải thích được một cách khoa học nguyên lý cơ bản về sự hình thành, tồn tại của giới tự nhiên và các hiện tượng, nhất là nguyên nhân gây ra sự thống khổ của tầng lớp cần lao (mà C. Mác gọi là "giai cấp vô sản") trong xã hội, mà còn đóng vai trò là cẩm nang lý luận, chỉ hướng cho việc tạo ra một xã hội không còn áp bức bóc lột, mọi người đều được sống trong tự do, bình đẳng, bác ái - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Và hình như C. Mác đã sai!
Từ xưa tới nay không có học thuyết triết học nào ra đời không mang tính khoa học, nghĩa là không vì mục đích thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của loài người về các hiện tượng tự nhiên - xã hội, và vì thiếu chứng cứ khoa học, dẫn chứng sai lầm hoặc các luận chứng còn nặng tính chủ quan, duy ý chí nên cũng không có học thuyết triết học nào thực sự khoa học. Hơn nữa, không phải chỉ có triết học Mác - Lênin mới vạch ra con đường cải tạo thế giới để "diệt khổ" mà nhiều triết học khác, duy vật cũng như duy tâm, như Đạo Gia, Nho Gia, Mặc Gia...cũng vạch ra cách thức "diệt khổ", nghĩa là không chỉ giải thích mà cũng còn hàm chứa ý tưởng cải tạo xã hội, cho dù vẫn phạm sai lầm trong nhận thức lý luận.
Nếu đặt ba hệ thống lý thuyết của triết học Mác - Lênin, Phật Giáo và Ki tô giáo bên cạnh nhau, thì chúng đều là sự giải thích nguyên nhân gây ra khổ đau và đều đề xứng cách thức "diệt khổ". Điều rất lạ là cả ba hệ thống lý luận ấy đều được sinh ra vào giai đoạn chìm đắm trong thống khổ cơ cực của đa số loài người (của tầng lớp bị trị cần lao). Phải chăng đó là một tất yếu!? Chúng ta có cảm tưởng rằng giáo điều Ki tô Giáo có nhiều nét tiếp thu từ Phật Giáo và cả hai tôn giáo ấy đều là kết quả đòi hỏi của tầng lớp bị trị cần lao đang gặp nhiều thống khổ cơ cực và hoàn toàn bế tắc, không tìm ra lối thoát, vào thời đại nhận thức khoa học về tự nhiên - xã hội còn chìm trong bóng tối. 
Nếu hai tôn giáo (Phật Giáo và Ki tô Giáo) chỉ ra nguyên nhân gây ra sự khổ đau chủ yếu là do cá nhân từng con người trong xã hội "tạo nghiệp" và do đó giải pháp "diệt khổ" cũng là từng cá nhân, bằng con đường tu tập, tự giác cải tạo, tự giác ngộ, để bản thân trở thành người toàn thiện, trong xã hội mọi người đều toàn thiện cả dẫn đến... cả xã hội an bình, hết khổ, coi như đạt trạng thái Niết Bàn (hay Thiên Đàng) trong hiện thực, thì triết học Mác -Lê lại như một hệ thống lý luận tương phản, có vẻ khoa học hơn:  chỉ ra nguyên nhân gây nên sự thống khổ, đói nghèo chủ yếu là do "ngoại tại", do bản chất tham tàn, độc ác của giai cấp tư sản, giải pháp "diệt khổ" mà học thuyết này đề xướng là tập hợp những người nghèo khổ (quần chúng cần lao) chủ động làm cuộc cách mạng vô sản, tiêu diệt giai cấp tư sản (được cho là nguyên nhân làm xuất hiện sự nghèo đói, thống khổ), lật đổ chế độ tư bản, xây dựng chế độ mới không còn bóc lột (được gọi là chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa - xã hội tiền đề để tiến lên hình thái xã hội được cho là cuối cùng của loài người, hình thái Cộng Sản Chủ Nghĩa).
Tương tự như Niết Bàn của Phật Giáo và Thiên Đàng của Ki tô Giáo, Chủ Nghĩa Cộng Sản cũng ra đời trong giai đoạn bị áp bức, đói nghèo cùng cực của tầng lớp quần chúng bị trị cần lao, cũng là sản phẩm của khát vọng giải phóng khỏi áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị mà triết học Mác -Lê cho là của giai cấp tư sản, và cuối cùng, cũng chính là ước mơ ngàn đời được sống trong tự do, bình đẳng, bác ái và an lạc không những của đại chúng bị trị cần lao mà còn là của cả loài người. Vì như thế, hơn nữa, vì ra đời từ sự suy luận tưởng chừng rất lôgic (thực ra lầm lẫn, nhộ nhận ngay từ đầu), tưởng chừng rất khoa học (nhưng vẫn bị gông xiềng bởi lối suy nghĩ chủ quan, máy móc, cực đoan, duy ý chí và ảo tưởng), nên ngay từ đầu, khi mới ra đời, Chủ Nghĩa Cộng Sản đã được đa số quần chúng bị trị đang đấu tranh đòi quyền lợi trước tầng lớp thống trị nhiệt liệt hưởng ứng, nhận những giáo lý của Chủ Nghĩa Cộng Sản làm chủ trương cách mạng, là kim chỉ nam cho hoạt động đấu tranh của mình, và đều khẳng định như "đinh đóng cột", Chủ Nghĩa Cộng Sản là tương lai sán lạn của cách mạng vô sản.
Tương tự như Đạo Nho của Khổng Tử, lý thuyết chủ nghĩa Cộng Sản của Mác - Lê nghe rất kêu nhưng không áp dụng được!
Nói đến cách mạng vô sản cũng nên nhắc đến Công xã Pari. Công xã Pari được coi là cuộc diễn tập của cách mạng vô sản. Trong bài "Công xã Pa-ri: kiểu mẫu vĩ đại nhất của phong trào vô sản thế kỷ XIX" của Lê Văn Phong đăng trên trang mạng "Tạp chí cộng sản" có viết: "Lần giở lại những trang lịch sử thế giới cận đại, Công xã Pa-ri 1871 để lại cho người đọc những cảm xúc thật đặc biệt, bởi đây là lần đầu tiên giai cấp vô sản trên thế giới đứng lên tiến hành cuộc cách mạng lật đổ giai cấp tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản, thành lập Công xã. Dù chỉ tồn tại vẻn vẹn có 72 ngày, nhưng những chính sách của Công xã Pa-ri về xây dựng nhà nước kiểu mới, về phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá giáo giục, chính sách đối với người lao động, v.v.. là tiền đề quan trọng cho việc xây dựng các nền chuyên chính vô sản sau này".
Còn theo wikipedia thì:
"Công xã Paris (tiếng Pháp: La Commune de Paris) là một chính quyền điều hành Paris trong một thời gian ngắn, từ ngày 18 tháng 3 đến ngày 28 tháng 5 năm 1871. Nó đã được mô tả như một vụ bạo loạn hoặc sự thiết lập một chính quyền theo chủ nghĩa xã hội, tùy theo tư tưởng của người bình luận.
Theo nghĩa đen, Công xã Paris chỉ là một cơ quan hành chính địa phương (hội đồng của một xã) đã nắm quyền điều khiển Paris trong vòng hai tháng mùa xuân năm 1871. Tuy nhiên, với những điều kiện khi thành lập, những quy định gây tranh cãi và một kết thúc đẫm máu đã làm cho nó trở thành một sự kiện chính trị quan trọng vào thời đó.
Cuối tháng 6 năm 1870, Đệ nhị đế chế Pháp bước vào thời kỳ khủng hoảng. Cũng mùa hè 1870, nước Pháp bước vào cuộc chiến với Phổ. Do chỉ huy yếu, thua kém về vũ khí, các chiến lược sai lầm... Pháp nhanh chóng bị Phổ đánh bại. Tháng 9 năm 1870, hoàng đế Napoléon III thất trận ở chiến trường Sedan phải đầu hàng thủ tướng nước Phổ là Otto von Bismarck. Ngày 4 tháng 9, nhân dân Paris nhận được tin, tự phát nổi dậy tràn vào Điện Bourbon, hô lớn: "Phế truất hoàng đế", "Cộng hòa muôn năm". Chiều ngày hôm đó, một chính phủ lâm thời được thành lập mang tên Chính phủ vệ quốc. Tướng Louis Jules Trochu, một người có tư tưởng bảo hoàng, nguyên thống đốc Paris, được cử làm Bộ trưởng Bộ chiến tranh và đứng đầu chính phủ mới.
Quân đội Phổ, sau chiến thắng ở trận Sedan, tiếp tục tiến về Paris. Khi thủ đô bị vây hãm vào gần cuối tháng 9, thành phố vẫn còn 246.000 vệ binh và thủy quân cùng 125.000 vệ quốc quân. Chính phủ tổ chức thêm 200 tiểu đoàn vệ quốc quân, cộng với 60 tiểu đoàn vốn có từ thời Đệ nhị đế chế. Lực lượng này bao gồm chủ yếu các thợ thủ công và công chức nhỏ. Trong khi đó, quân đội Pháp vẫn tiếp tục thua cuộc. Ngày 27 tháng 10, 15 vạn quân Pháp ở thành Metz do tướng François Achille Bazaine chỉ huy đầu hàng. Nhân dân Paris với quyết tâm cố thủ, phản đối việc chính phủ mới đàm phán với phía Phổ, tập trung trước tòa thị chính hô lớn: Đả đảo Trochu! Không đàm phán! Jules Favre, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao của Chính phủ Vệ quốc, đã bí mật ký thỏa thuận hòa ước với Otto von Bismarck.

Từ ngày 23 tháng 1 năm 1871, Chính phủ của Trochu bắt đầu đàm phán với Phổ lại cung điện Versailles. Đến ngày 28/1, Chính phủ Pháp ký hiệp định đình chiến, chấp nhận các điều hiện của phía Phổ. Theo các điều khoản đình chiến này, cuộc bầu cử Quốc hội Pháp sẽ được tổ chức vào 8 tháng 2 năm 1871 và sau đó Quốc hội sẽ ký hòa ước. Đúng như dự đinh, Quốc hội mới được thành lập vào đầu tháng 2 với 750 nghị viên. Phần lớn trong số này thuộc tầng lớp phú ông, địa chủ và có tới 450 người thuộc phái bảo hoàng. Adolphe Thiers trở thành Thủ tướng và Jules Favre tiếp tục giữ chức Bộ trưởng Bộ Ngoại giao. Ngày 28 tháng 2, Thiers gặp Bismarck và ký kết các điều khoản hòa ước:
  • Nước Pháp bồi thường chiến phí 5 ngàn triệu franc.
  • Các pháo đài Paris bị quân Đức chiếm đóng cho tới khi Pháp nộp 500 triệu đầu tiên.
  • Lãnh thổ phía đông bị chiếm đóng cho tới khi Pháp hoàn thành hết khoản bồi thường.
  • Alsace và một phần ba Lorraine thuộc về Đức.
  • Quân Phổ vào chiếm đóng Paris.
Phản đối hòa ước, trước ngày quân đội Phổ tiến vào Paris, dân chúng và vệ quốc quân đã chiếm 227 khẩu đại bác và súng liên thanh chuyển về Montmartre và Belleville. Trước sự chống cự này, quân đội Phổ chỉ chiếm một phần Paris và ở lại trong 62 giờ đồng hồ. Ngày 15 tháng 2, 215 trong tổng số 270 tiểu đoàn vệ quốc đã thành lập Liên minh Quân đội Vệ quốc, đứng đầu là Ủy ban Trung ương Vệ quốc. Ủy ban này gồm đại biểu ở tất cả các đơn vị, có cả những người xã hội và những hội viên của Quốc tế thứ nhất. Ngày 24 tháng 2, Ủy ban tổ chức một cuộc tuần hành trước nhà tù Bastille để kỷ niệm Đệ nhị Cộng hòa.
Giữa tháng 3 năm 1871, Quốc hội hạ lệnh tước vũ khí quân vệ quốc. Cuộc chiến ngày 18 tháng 3 giữa Chính phủ Versailles và quân vệ quốc là ngòi nổ trực tiếp cho Công xã Paris.
3 giờ đêm ngày 17 rạng sáng ngày 18 tháng 3, quân đội chính phủ Thiers tới chiếm các vị trí chiến lược bên tả ngạn sông Seine. Một nhóm khác cũng được điều đến các kho đại bác của Paris. Mục tiêu chủ yếu của quân đội chính phủ là đồi Montmartre ở phía bắc thành phố để chiếm các trọng pháo của quân vệ quốc. Đến 5 giờ 30, quân chính phủ chiếm được các trọng pháo nhưng chưa di chuyển đi được. Sau các tiếng kèn tập hợp và chuông báo động, quân vệ quốc tiến tới bao vây đồi. Trong cuộc chiến, nhiều binh lính quân chính phủ đã nghiêng về phía quân vệ quốc, viên tướng chỉ huy bị bắn chết tại chỗ. Tới 9 giờ sáng, lực lượng chính phủ thất bại, vội vã lui quân. Buổi trưa, Ủy ban Trung ương Vệ quốc ra lệnh các tiểu đoàn tiến vào trung tâm thành phố. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, quân vệ quốc đã chiếm được các cơ quan đầu não của phủ, tòa thị chính và các trại lính. Đến buổi chiều, Thiers cùng chính phủ phải rút về Versailles.
Ngày 26 tháng 3, bầu cử Hội đồng Công xã được tiến hành và ngày 28, kết quả được công bố. Trong số 85 đại biểu trúng cử, có 25 công nhân, 15 đại biểu thuộc tầng lớp tư sản trúng cử nhưng sớm từ chức sau đó. Phần còn lại gồm các bác sĩ, nhà báo, giáo viên, công chức... Khoảng gần 30 đại biểu của Hội đồng Công xã là hội viên của Quốc tế thứ nhất và cũng có cả những người ngoại kiều gốc Nga, Ba Lan, Hungary. Cuối tháng 3, do ảnh hưởng của Công xã Paris, nhiều cuộc khởi nghĩa khác cũng nổ ra ở Marseilles, Lyon, Toulouse...
(...).
Sau ngày 18 tháng 3, quân đội chính phủ Versailles hầu như tan rã. Về Versailles, Adolphe Thiers dần tập hợp lại được 12 ngàn quân. Cuối tháng 3, khi những cuộc nổi dậy ở các tỉnh thất bại, quân đội tập trung lại Paris và lên tới con số 65 ngàn. Trong khi đó, lực lượng của Công xã ban đầu khoảng 100 ngàn người, về sau tăng lên tới 200 ngàn. Nhưng trong số này chỉ có khoảng 20 đến 30 ngàn đã được luyện tập. Về vũ khí, tuy Công xã có được 1740 khẩu đại bác, nhưng do không có pháo thủ, một số bị phá hủy nên chỉ sử dụng được 320 khẩu. Quân đội Công xã cũng được trang bị hơn 400 ngàn súng trường.
Ngày 2 tháng 4, quân Versailles bắt đầu tấn công Paris. Quân Công xã nhanh chóng thua cuộc do tổ chức yếu, kỷ luật kém, sử dụng pháo không hiệu quả... Trong tháng 4 và 5, quân Versailles đã chiếm được phần lớn các pháo đài phía tây và nam thành phố. Từ giữa tháng 4, Paris liên tiếp bị bắn phá. Nhiều người của chính phủ Versailles thâm nhập vào hàng ngũ Công xã, tham gia cả Bộ Tổng tham mưu. Lực lượng tình báo này đã cho phá hủy một xưởng đúc đạn, lấy các bản đồ quân sự và tổ chức mở cửa thành Paris cho quân đội Versailles tiến vào.
Vào khoảng thời gian đang diễn ra cuộc chiến, ngày 10 tháng 5 năm 1871, Adolphe Thiers chính thức ký với Bismarck hòa ước nhượng Alsace và một phần Lorraine cho Phổ cùng khoản chiến phí 5.000 triệu franc}. Chính phủ của Thiers và phía Phổ cùng tham gia đàn áp Công xã. Theo yêu cầu của Thiers, Bismarck trao trả Pháp 10 vạn tù binh và lực lượng này cùng tham gia đàn áp Công xã. Sau hòa ước, Bộ Chỉ huy quân Phổ cho quân đội Versailles qua phía bắc thành phố, nơi Công xã ít đề phòng.
Ngày 20 tháng 5, quân đội Versailles bắt đầu tổng tiến công. Ngày 21, quân đội tràn vào Paris qua cửa ô Saint-Cloud. Tiếp đó là khoảng thời gian "Tuần lễ đẫm máu" kéo dài từ 21 tới 28 tháng 5. Ngày 27, quân Versailles chiếm được Belleville. Khoảng 200 binh lính Công xã rút vào cố thủ trong nghĩa địa Père-Lachaise. Tới ngày 28, cuộc kháng cự của Paris hoàn toàn thất bại.
Công xã Paris thất bại có nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan. Sau ngày 18 tháng 3, lực lượng của Công xã đã chiếm được nhiều cơ quan quan trọng, nhưng lại bỏ qua Bưu điện và Ngân hàng Pháp. Công xã cũng không hoàn thành thắng lợi bằng cách tấn công tiếp tục tới Versailles và điều này khiến chính phủ của Adolphe Thiers có thời giờ củng cố, xây dựng lại quân đội. Công xã cũng không mạnh tay với các nhân vật gián điệp, cho tới thời kỳ Tuần lễ đẫm máu mới thực hiện biện pháp mạnh nhưng không còn tác dụng.
Về kinh tế, do không tịch thu ngân hàng, những thành phần chống lại công xã đã vẫn có thể tiếp tục sử dụng tiền. Ngoài ra, về quân sự, Công xã Paris tỏ ra yếu kém. Quân đội của Công xã chưa được huấn luyện, tổ chức tốt. Việc lãnh đạo thiếu tập trung, được chia làm hai cơ quan là Ủy ban Quân sự và Ủy ban Trung ương quân vệ quốc. Lực lượng công nhân không xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với lực lượng nông dân. Các yếu kém về quân sự khiến Công xã nhanh chóng tan rã khi bị quân đội Versailles tấn công.
Dù chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi, Công xã Paris đã đề ra các chính sách tiến bộ phục vụ quyền lợi của nhân dân lao động: Tách nhà thờ ra khỏi hoạt động của nhà nước, quy định tiền lương tối thiểu, giảm lao động ban đêm, cấm cúp phạt vô cớ, đánh đập công nhân; Thực hiện chế độ giáo dục bắt buộc, miễn học phí... Đây là những chính sách của một chế độ mới, xã hội mới, là sự cổ vũ nhân dân lao động thế giới trong sự nghiệp đấu tranh cho một tương lai tốt đẹp hơn.
Công xã đã để lại nhiều bài học trong tổ chức lãnh đạo cách mạng, thực hiện liên minh các tầng lớp lao động, đây là các bài học được nhiều cuộc cách mạng sau này như Cách mạng Tháng Mười Nga, Cách mạng ở Cuba, Cách mạng Việt Nam... tiếp thu.
Bức tường Công xã (Mur des Fédérés) nổi tiếng nằm trong phạm vi nghĩa trang Père-Lachaise ở phía nam, đó là nơi 147 chiến sĩ Công xã Paris, những chiến sĩ tự vệ cuối cùng của khu Belleville, bị bắn chết vào ngày Chủ nhật, 28 tháng 5 năm 1871, ngày cuối cùng của "Tuần lễ đẫm máu" (Semaine Sanglante) và đánh dấu chấm hết cho sự tồn tại của Công xã Paris. Vì ý nghĩa đặc biệt của bức tường này, Père-Lachaise đã trở thành nghĩa trang được lựa chọn để chôn cất phần lớn các nhà lãnh đạo cánh tả của Pháp và là nơi làm lễ kỉ niệm hàng năm của những người cánh tả với số lượng lên từ vài trăm đến vài nghìn người (cá biệt năm 1936 có tới 600.000 người tham gia lễ kỉ niệm), các buổi lễ này được tổ chức bởi lãnh đạo của các đảng cánh tả (Đảng dân chủ xã hội Pháp, Đảng Cộng sản Pháp...) và các tổ chức cánh tả khác".
Có thể cho rằng, sự kiện Công xã Paris là loạt tiếng súng khởi đầu, báo hiệu một thời kỳ chiến tranh (gọi là chiến tranh thế giới I & II hết sức tàn khốc) dành giật danh lợi mới, trong đó có cao trào đấu tranh đi đòi quyền lợi sống còn của phong trào vô sản đòi lật đổ chủ nghĩa tư bản, mà nói chính xác ra là của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị xã hội.
Đến ngày 7 - 11 - 1917 thì cuộc cách mạng vô sản đầu tiên của thế giới (thường gọi là cách mạng Tháng Mười) thực sự giành được thắng lợi tại nước Nga, thành lập nên nước Cộng hòa Liên bang Xô viết, gọi tắt là Liên Xô. Đó cũng chính là hạt nhân, là điểm xuất phát, là nguồn cổ vũ, hỗ trợ quí báu cho phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột, cường quyền hướng về cách mạng vô sản mà về sau này, chính nó đã làm hình thành nên hệ thống các nước phe Xã Hội Chủ Nghĩa, lấy việc xây dựng kinh tế - xã hội theo mô hình xã hội chủ nghĩa hiện thực mà các nhà cộng sản đã hình dung làm tiền đề cho sự xuất hiện của hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa, một hình thái xã hội do Mác - Ăngghen - Lênin tưởng tượng ra, mà theo chúng ta hiểu, là hình thái xã hội cuối cùng, tuyệt đẹp một cách lý tưởng của quần chúng cần lao và cũng là của toàn thể loài người.
Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy, trong giai đoạn đầu của quá trình xây dựng CNXH, các nước trong phe XHCN cũng gặt hái được một số thành quả nhất định. Nguyên nhân, như sau này thấy rõ, không phải là do tính ưu việt hơn của nền kinh tế XHCN so với nền kinh tế TBCN mang lại, mà có thể là do ước vọng thực tâm về cuộc sống xã hội tương lai sẽ tươi đẹp và lòng nhiệt thành của những người làm cách mạng, do niềm tin vào lý tưởng cộng sản và bầu nhiệt huyết thủa ban đầu của quần chúng cần lao được tuyên truyền.
Nhưng sau đó, quá trình phát triển kinh tế ở các nước thuộc phe XHCN không biết vì đâu cứ trì trệ dần, đời sống của quần chúng cần lao tuy không kiệt quệ nhưng "ậm ạch", không cạnh tranh nổi với nền kinh tế và cuộc sống ở các nước thuộc phe TBCN. Từ đó mà nạn lạm quyền, cơ hội, gian dối, tham nhũng, ăn cắp nở rộ như bệnh dịch làm suy đồi xã hội, làm mất niềm tin vào công cuộc xây dựng CNXH.
Để rồi sau hơn nửa thế kỷ tồn tại, hệ thống các nước phe XHCN đổ vỡ tan tành, trở lại với xã hội phát triển theo con đường TBCN.

                                                    ***
 Theo tự nhiên, mọi hiện tượng sinh ra đều phải có nguyên nhân. Vậy, nguyên nhân cơ bản của hiện tượng sụp đổ khối các nước phe XHCN là gì?
Vì là sự sụp đổ đồng thời nên nguyên nhân của nó phải có tính chung, tính phổ quát, nằm trong nguyên lý xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Theo wikipedia thì: "Chủ nghĩa cộng sản là một hình thái kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập xã hội phi nhà nước, không giai cấp, tự do, bình đẳng, dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói chung. Karl Marx cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của lịch sử, đạt được qua một cuộc cách mạng vô sản. Trong xã hội cộng sản, các quyết định về việc sản xuất cái gì và theo đuổi những chính sách gì được lựa chọn một cách dân chủ, cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào quá trình quyết định trong cả hai lĩnh vực chính trị và kinh tế (...) . Karl Marx chưa bao giờ miêu tả chi tiết về việc chủ nghĩa cộng sản sẽ vận hành như thế nào trong vai trò một hệ thống kinh tế - xã hội, nhưng người ta hiểu rằng một nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ dựa trên sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất (và phát triển không tuân theo qui luật cung cầu nữa - NV).
Chủ nghĩa cộng sản cố gắng đưa ra một giải pháp khác cho các vấn đề của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và di sản của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa dân tộc. Marx khẳng định rằng cách duy nhất để giải quyết các vấn đề này là tầng lớp lao động (vô sản), những người mà theo Marx là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất trong xã hội và là những người bị tầng lớp tư bản (tư sản) bóc lột, đứng lên làm tầng lớp cầm quyền thay cho giới tư sản để thiết lập một xã hội tự do, không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Người lao động đã được tổ chức thành giai cấp thống trị sẽ tước bỏ quyền tư hữu và kiểm soát tư liệu sản xuất vì lợi ích của xã hội. Theo quan điểm của những người cộng sản, chủ nghĩa cộng sản là con đường để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại. Thực hiện chủ nghĩa cộng sản thông qua cách mạng, bao gồm cách mạng lật đổ chế độ "người bóc lột người", và cách mạng xây dựng xã hội mới.
(...)
Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý luận chính trị, kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với các phong trào xã hội, phong trào chính trị rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ XIX, nở rộ và thoái trào trong thế kỷ XX - nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" không có biên giới quốc gia khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau. Tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra dồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Trong xã hội cộng sản, mỗi cá nhân được tự do phát huy mọi khả năng của mình theo triết lý "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người", tự do làm những điều không ảnh hưởng đến lợi ích và quyền tự do của người khác trên cơ sở tư liệu sản xuất chung để đảm bảo quyền tự do của tất cả mọi người. Các ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản đã có trước Marx từ rất lâu tại các nền văn minh khác nhau và được nhiều nhà tư tưởng đề cập đến. Marx là người đưa ra khả năng hiện thực hóa các ý tưởng đó trong tương lai dựa trên nền tảng kinh tế - xã hội do chủ nghĩa tư bản tạo ra và xem đó như một sự tiến hóa của xã hội loài người...".
Chủ nghĩa Mác cho rằng, lịch sử phát triển xã hội loài người là một quá trình tự nhiên, và nếu đủ điều kiện thì phải trải qua năm hình thái kinh tế xã hội, theo đường xoắn trôn ốc, là "hình thái kinh tế xã hội cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy)", "hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ", "hình thái kinh tế xã hội phong kiến", "hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa", và cuối cùng là "hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa".
Khi C. Mác nói: "Tôi coi sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử-tự nhiên", tức là Mác đã gián tiếp thừa nhận dù có tiến hành hay không tiến hành cách mạng vô sản, hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa cũng sẽ phải xuất hiện!
Trước đây, khi còn nhỏ, một phần do thiếu hiểu biết và một phần do các nhà mácxít tuyên truyền, chúng ta đã tin tưởng một cách tuyệt đối, một cách "tín ngưỡng" vô điều kiện vào cách mạng vô sản, coi việc xây dựng CNXH, CNCS là mục đích thiêng liêng của mỗi đời người, khỏi phải bàn cãi. Nhưng thực tiễn, thông qua thời gian, đã phơi bày ra trước mắt chúng ta nhiều khuất tất, nhiều hồ nghi, nhiều mâu thuẫn giữa lý thuyết và thực hành không giải quyết nổi của cách mạng vô sản, của việc đi xây dựng hình thái xã hội mới - hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhất là sự đổ vỡ không phục hồi được của hệ thống các nước XHCN.
Nhưng vì sao số đông quần chúng cần lao trong thời kỳ đầu lại ngưỡng mộ chủ nghĩa cộng sản, dốc lòng ủng hộ cách mạng vô sản như vậy? Có lẽ vì mục đích của chủ nghĩa cộng sản được vẽ ra đầy thánh thiện, các nhà lý luận cộng sản đã tuyên truyền say sưa cho nó theo kiểu như "đúng rồi!" (vì bản thân họ cũng tin như "đinh đóng cột" vào tính đúng đắn của lý thuyết ấy!), và nhiệt huyết của những con người thực sự đạo đức, thực sự chân chính, hoạt động một cách xả thân cho cách mạng vô sản trong thời kỳ đầu. Có thể nói rằng, nhiều thế hệ quần chúng cần lao đã chiến đấu hy sinh vì chủ nghĩa cộng sản, đã đặt niềm tin tuyệt đối vào tương lai đầy sán lạn của cách mạng vô sản. Họ đâu biết rằng chủ nghĩa cộng sản theo sự hình dung của Mác chỉ là một hình thái xã hội lý tưởng, rất giống hiện thực nhưng không phải là hiện thực, như một bức tranh 3D của người họa sĩ tài hoa thiếu yếu tố vận động, thiếu hơi thở cuộc sống. Nói khác đi, hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa là một hình thái xã hội giả tạo, giống như thật, được lập trình từ bên ngoài và nhân vật đóng vai chính trong đó - con người, là những rôbốt.
Chúng ta đã nêu những ý kiến phản biện chủ nghĩa cộng sản và cả triết học Mác rải rác trong TT&HĐ, ở đây chúng ta không nhắc lại nữa, chỉ nêu ra những ý chính:
        - Ba qui luật cơ bản về tự nhiên mà triết học Mác nêu ra không phải là những qui luật, mà chỉ là những hiện tượng chuyển hóa của vật chất bị ngộ nhận là xảy ra phổ biến.
        - Xét lại các quan niệm về giai cấp, thặng dư, bóc lột, nhà nước, về sự tồn tại của nhà nước, về đấu tranh giai cấp, về sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản...
        - Vì thực thể nhà nước là điều kiện cần thiết để duy trì tồn tại mọi hình thái xã hội, và chế độ một vợ một chồng là biểu hiện cao độ của sở hữu cá nhân (tư hữu) cho nên trong hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa (nếu nó xuất hiện trong tương lai!) sẽ vẫn phải còn nhà nước nhưng chế độ một vợ một chồng (được nhà nước bảo hộ) sẽ dứt khoát bị thủ tiêu.
        -Nói chung, phải xét lại toàn bộ triết học Mác và chủ nghĩa cộng sản Mác - lênin.
Cần phải xác định rằng, bản thân sự tồn tại xã hội, vì xảy ra trong tự nhiên, bị các yếu tố tự nhiên chi phối, nên hoàn toàn tự nhiên. Xét theo quan niệm hẹp hơn, trên bình diện phân biệt hai yếu tố tự nhiên và nhân tạo (hiện tượng tạo dựng có sự xen vào của lý trí, ý chí, nói chung là của trí tuệ con người!), thì vì sự hình thành và tồn tại xã hội vừa là tự nhiên, vừa là nhân tạo, cho nên các tiến trình xảy ra trong xã hội do con người khuấy đảo, lũng đoạn đều mang ít nhiều tính khách quan lẫn chủ quan gây nên tính đúng ít, đúng nhiều của chúng, đều có thể xảy ra hoặc không xảy ra, đều có thể xảy ra ở dạng này hay dạng khác, thành công hay không thành công...
Từ những lập luận trên chúng ta mới hiểu vì sao người ta nói thực tiễn là thước đo của chân lý đối với các tiến trình xã hội, vì sao đã hỉnh thành và được lưu truyền hơn thế kỷ nay trên thế giới, triết học Mác vẫn không được mọi người thừa nhận là chân lý nhận thức cốt lõi, là lí thuyết bao quát, nền tảng, tiền đề của các ngành khoa học khác như vật lý học, toán học, hóa học..., và vì sao mà các công trình xây dựng hình thái xã hội cộng sản với tiền thân là xây dựng CNXH, sau ngót một thế kỷ kiên trì tạo dựng, bỗng đổ sụp nhanh chóng không gượng lại được. 
Như vậy, đến hôm nay, sau quãng thời gian đủ dài được thực tiễn kiểm chứng, phải chăng có thể nói rằng chủ nghĩa cộng sản chỉ là một cái cây khô dáng vóc tuyệt đẹp đượm sắc màu lý tưởng, không bao giờ đơm hoa kết quả? Nói chi cho xa, riêng ở Việt Nam, lời khẳng định đó là quá rõ ràng. Nếu không thế, sao các "tai to mặt lớn" đều đua nhau chạy tiền chạy bạc đưa con cháu ra các nước tư bản học để kiếm mảnh bằng về nước mưu cầu danh lợi cho bản thân? Phải chăng, ở các nước theo chế độ TBCN, nhiều kiến thức về khoa học ưu việt hơn ở các nước từng trong phe XHCN? Nói thật lòng, theo chúng ta, ngày nay nếu còn những ai tin vào cách giải thích về tự nhiên của triết học Mác, còn những ai tin vào con đường tiến lên CNCS của học thuyết Mác - Lê, thì chỉ là những người hoặc quá bảo thủ, cố bấu víu lấy một thời xả thân vì lý tưởng, hoặc là những người "thiếu hiểu biết", hoặc chỉ là những người cơ hội "chót lưỡi đầu môi". 
Ở Việt Nam, không ít người ngộ nhận rằng chúng ta vẫn đang tiến hành một cuộc cách mạng duy nhất từng được phát động từ ngày 3 - 2 - 1930 cho đến nay với khẳng định dứt khoát là làm “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”, mà trong thực tiễn chính là "đấu tranh giải phóng dân tộc kết hợp với xây dựng CNXH". Thực ra, cách mạng Việt Nam gồm hai cuộc tranh đấu hợp thành: cuộc đấu tranh chống thực dân - phong kiến dành độc lập dân tộc và cuộc cách mạng vô sản, đập tan chính quyền bóc lột của giai cấp tư sản, xây dựng chính quyền nhân dân, tiến tới CNXH, tạo điều kiện để bước vào hình thái xã hội CSCN. Chúng ta đã hoàn thành suất xắc đầy tự hào và oanh liệt cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc. Thế còn cuộc cách mạng vô sản, nếu tính từ năm 1945, sau khi đã đập tan chính quyền thực dân - phong kiến, chúng ta tiến hành tới đâu rồi? 
Nhưng CNXH là gì? Theo Hồ Chí Minh: “CNXH là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần được xóa bỏ… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến bộ, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là CNXH”. Nhớ lại ngày xưa, nước ta có một thời học hành và chữa bệnh hầu như không tốn tiền. Giờ thì sao? Và như thế, cách mạng đang tiến lên hay thụt lùi?
Có điều lạ dễ thấy là hình như các cuộc cách mạng vô sản đã từng xảy ra trên thế giới đều có động lực lúc ban đầu chỉ liên quan hoặc chủ yếu tới chiến tranh (chống ngoại xâm, giữ nước). Một điều lạ nữa là hầu như tất cả các nước (nếu không muốn nói là tất cả) có thể có đấu tranh này nọ, nhưng không cần đến cách mạng vô sản, vẫn diễn tiến theo hướng tìm cách xây dựng xã hội mình sao cho "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", nghĩa là tùy mức độ tiếp cận, ít nhiều đều theo định hướng XHCN! Nhớ lại: các nước từng theo XHCN ở châu Âu đến nay không còn duy trì được chế độ (đã "quay hết về" chế độ TBCN) do Liên Xô dựng lên đầy khiên cưỡng (không phải là sự lựa chọn của nhân dân các nước đó) vào "dịp" chiến thắng phát xít Đức.
Vậy, đã đến lúc phải xét lại tính đúng đắn về các nguyên lý của CNCS do Mác khởi xướng chưa?

                                              ***

Đang chấp bút chương XXXXVIII của tập nhận ký hành trình TT & HĐ cho anh Hoang Tưởng thì anh đột nhiên biến đi đâu mất dạng, không gửi thông tin về nữa. Đợi mãi, không thấy anh Hoang Tưởng gửi thêm thông tin về, chúng ta đành cố gắng "bịa ra", bắt chước lối suy nghĩ của anh, viết tiếp. Chứ không lẽ một tác phẩm đã huyễn tưởng là "cái đuôi to" lại để dở dang?
Nhưng khi viết xong chương đó, chúng ta thấy vẫn không hài lòng, còn thiêu thiếu chút gì đó như lẩu thâp cẩm đủ món ngon mà "nêm" còn nhàn nhạt. Thế là chúng ta lại nỗ lực ngồi vào bàn viết tiếp chương XXXXIX, và xác định là chương cuối cùng của tập "tràng giang đại hải" có tựa đề tự đặt TT &HĐ của anh Hoang Tưởng.
Đúng là không có Hoang Tưởng, làm việc gì cũng khó khăn, nhất là những việc có liên quan đến khoa học. Chính vì thế mà sau một thời gian dài lao tâm khổ trí rất nhiều, chúng ta mới viết xong chương XXXXIX một cách khiên cưỡng và khi đọc lại vẫn thấy ấm ức, chưa được thỏa mãn lắm...
Sự ấm ức đó cứ đè nặng tâm can chúng ta mãi để rốt cuộc, chúng ta đã quyết định "cày cuốc" thêm một chương nữa (chương XXXXX của toàn tập hay chươngIX, phần V của toàn tập), là chương cuối cùng thực sự của "thiên cổ kỳ...cục thư" này.
Bây giờ, để kết thúc, chúng ta xin nói những lời cuối cùng và tin rằng đây cũng là hơi hướng ý nghĩ tinh hoa của anh Hoang Tưởng:

"Tất cả là Tự Nhiên Tồn Tại. Tồn Tại là tuyệt đối, là thực. Hư Vô là tương đối, là ảo, là mặt tương phản của Tồn Tại. Khi Tự Nhiên Tồn Tại được coi là Vũ Trụ thì nền tảng của Vũ Trụ là không gian. không gian là một thể vốn dĩ thế và cũng được gọi là Không Gian.
Tiến về phía tầng nấc vi mô, không gian được thấy càng lúc càng đặc, càng cứng và ở đáy cùng vi mô thì nó trở thành một thể có cấu trúc mạng khối cứng tuyệt đối với nút mạng được đặt tên là hạt Không Gian (hạt KG). Hạt KG cố định tuyệt đối (để tránh Hư Vô) nhưng vận động nội tại không ngừng. Vận động nội tại đó sẽ có lúc tạo ra những xung động quá hạn, được định lượng E = h.v (với h là hằng số Plank, v là tần số cực đại có thể có của giao động), có khả năng phá vỡ hạt KG, làm xuất hiện Hư Vô. Để thoát khỏi tình huống đó, lượng kích thích E bằng cách cảm ứng kích thích KG, ngay lập tức được truyền cho một hạt KG thích ứng xung quanh. Lúc này lượng kích thích E = h.v dã chuyển hóa thành E = m.c^2 (với m được coi như khối lượng của hạt KG, c là tốc độ truyền cực đại có thể có trong Vũ Trụ và từ đây, thời gian trong Vũ Trụ hình thành, được coi là khoảng cực tiểu của quá trình chuyển hóa). Tương Tự như vậy, các lượng kích thích E lan truyền trong Vũ Trụ, gặp nhau, tương tác vớii nhau theo cách thích hợp, tạo nên lực lượng vật chất với những thể hiện muôn màu muôn vẻ mà chúng ta đã quan sát được hoặc chưa quan sát được.
Tiến về phía tầng nấc vĩ mô, không gian được thấy càng lúc càng loãng và mềm. Đến tầng nấc của con người quan sát được trở đi, không gian được coi là hoàn toàn trống rỗng, cho mọi thứ xuyên thấu.
Toán học là ngôn ngữ duy nhất của khoa học nhưng là một ngôn ngữ không hoàn chỉnh. Có lẽ do chưa phát hiện ra điều này nên loài người vẫn hồn nhiên ứng dụng toán học cả trong những vùng cấm kỵ dẫn đến những kết quả lầm lạc. Phải chăng những kết quả dẫn đến những hình dung về điểm kỳ dị, vụ nổ Big Bang, Vũ Trụ dãn nở... trong vật lý học ngày nay đều là những tưởng tượng sai lầm có nguyên nhân từ điều nói trên?
Xã hội loài người xuất hiện và tồn tại trong thiên nhiên nên nó cũng thuộc Tự Nhiên Tồn Tại. Nghĩa là sự tồn tại của nó cũng phải mang những đặc tính cơ bản của Tự Nhiên Tồn Tại, những tiến trình xảy ra trong lòng nó đếu phải tuân theo những quy luật của Tự Nhiên Tồn Tại, tức là đều phải... tự nhiên. Chẳng hạn một qui luật cơ bản của Tự Nhiên Tồn Tại là mọi quá trình chuyển hóa đều theo hướng bảo toàn tồn tại , thì đối với xã hội cũng vậy, được phát biểu dưới dạng đặc thù là mọi vận động xã hội đều theo hướng đảm bảo tối đa sống còn. Mọi hệ thống cơ học đều có quán tính và mọi chế độ xã hội đều có tính bảo thủ là vì thế.
Mặt khác, trên một bình diện khác ở phạm vi "hẹp" hơn, với lý do xã hội loài người hình thành và tồn tại là do nhu cầu đòi hỏi của con người, vì sự sống còn của con người, cho nên nó cũng bị ý chí của con người lũng đoạn sâu sắc. Có thể nói các tiến trình xã hội vừa bị chi phối có tính quyết định của các yếu tố tự nhiên đến đường hướng phát triển của chúng, vừa chịu sự thao túng mạnh mẽ của hành động con người, của sự sáng tạo, nhân tạo.
Xã hội xuất hiện và sự phát triển của nó làm cho nhà nước xuất hiện không lâu sau đó. Hoạt động sống còn của loài người sẽ dần lảm xuất hiện các khái niệm đói, no, nghèo, giàu, để dành, tích lũy...và nâng cao độ cảm xúc con người lên trạng thái tình cảm khác nhau như vui vẻ, tức giận, sung sướng, khổ đau, hạnh phúc bất hạnh...
Khi những yếu tố thiết yếu để cấu thành một xã hội đã xuất hiện đầy đủ thì xã hội cũng phân tầng phân lớp loài người mà về cơ bản là hai lực lượng thống trị (được nhà nhà nước thao túng, bảo hộ, là lực lượng thiểu số) và bị trị ( là lực lượng số đông, quần chúng trong xã hội, đối tượng phục vụ, bóc lột của nhà nước. Từ đó, xuất hiện luôn hiện tượng đấu tranh trong nội bộ loài người.
Cuộc đấu tranh trong nội bộ loài người thực chất là cuộc đi đòi lại quyền sống cơ bản của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị, xây dựng một xã hội công bằng, bác ái, văn minh, hay nói cách khác, đi thực hiện cái chân lý đã được khắc tạc trong tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
Các cuộc cách mạng tư sản được tiến hành nhằm mục đích chung là giải phóng lực lượng lao động, tập trung sản xuất, thỏa mãn yêu cầu phát triển của nền sản xuất hàng hóa, xét cho cùng, cũng nằm trong tiến trình dấu tranh đòi quyền sống cơ bản của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp phong kiến thống trị. Nhưng trong buổi giao thời từ chế độ phong kiến thối nát chuyển sang chế độ tư bản chủ nghĩa tiến bộ hơn, tức là vào thời đoạn tích lũy tư bản một cách hoang dại, tầng lớp tư sản tự do đã gây ra nhiều điều tác tệ đối với tầng lớp làm thuê, làm cho các khẩu hiệu với những lời lẽ hào nhoáng do các nhà cách mạng tư sản thành tâm nêu ra như: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc",hay: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Sự phân biệt xã hội chỉ được phép thành lập trên cơ sở nó đem lại lợi ích chung cho cả cộng đồng" dần dần trở thành mị dân.
Chính sự ứng xử tàn ác và bộ mặt mị dân thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản đã làm cho quá trình đấu tranh giành quyền sống cơ bản của tầng lớp bị trị bước vào trạng thái căng thẳng và trở thành nguyên nhân chủ yếu làm nổ ra cuộc cách mạng vô sản.
Cách mạng vô sản và thời đoạn đấu tranh giai cấp giữa tư sản và vô sản (khái niệm giai cấp theo Mác - Lê) là một giai đoạn cao trào của quá trình đấu tranh vì quyền sống cơ bản. Do bị hạn chế bởi nhận thức thời đại nên các nhà làm cách mạng vô sản đã có nhiều quan niệm chưa chuẩn, thậm chí là sai lầm về nguyên nhân dẫn đến đói khổ, về đối tượng thực sự gây ra nghèo khổ,về bản chất của xã hội tư bản chủ nghĩa..., từ đó đề ra nhiều chù trương cách mạng có phần cực đoan, thiên tả, làm xảy ra những cuộc truy sát, bức hại, đọa đày quá mức cần thiết.
Không có suy tưởng thì không có nhận thức. Đó là điều không ai chối cãi được. Nhưng tật nguyền mãn tính của con người là mơ mộng hão huyền. Khi suy tưởng vượt giới hạn, con người sẽ bước vào trạng thái với những ý nghĩ huyền ảo, siêu thực, phi thực. Vì lẽ đó mà toán học trở thành thứ ngôn ngữ diễn tả thực tại vừa chắc nịch chân lý, vừa lỏng lẻo nhạt nhòa và thời gian, thứ sinh ra từ chuyển hóa không gian, là công cụ phân định vận động vật chất lại có thể hòa quyện vào không gian.
Tuy nhiên, không biết có phải là may mắn không (?), con người có đặc tính là "chúa" hoài nghi. Nhờ có đặc tính này mới có những cú huých giúp khoa học nhân loại tiến lên, thời gian cũng vậy, trong tương lai nó sẽ trở về với vị trí vốn dĩ dành cho nó, đóng vai trò "ông" trọng tải công minh, chính trực nhất...
Hiện nay, trên thế giới, không còn nước nào theo chủ nghĩa cộng sản nữa, không có nước nào tiến hành cách mạng vô sản nữa, không có phong trào nào đòi xòa bỏ chế độ tư bản nữa. Quá trình đấu tranh đòi quyên sống cơ bản của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị vẫn còn đó, nhưng dã chuyển sang giai đoạn lắng dịu. Thử hỏi nếu không có đạo Phật góp phần tác động, thì tính lương thiện và vị tha trong tâm hồn người Á Đông có được cải thiện như ngày nay, nếu không có phong trào đấu tranh và xây dựng CNXH, thì tầng lớp bị trị có được chế độ tư bản đối xử như ngày nay?
Cuối cùng, có thể nói rằng, vai trò lịch sử của cách mạng vô sản thế giới đã qua rồi. Ở Việt Nam, đâu còn những người "thuần túy" cộng sản, tận tụy vì dân vì nước theo chuẩn mực đánh giá của thời kỳ đầu. Tuy vậy, hiện nay ở Việt Nam, người ta vẫn "kiên định" với triết học Mác - Lê và "trung thành" với định hướng XHCN. Phải nói thực rằng, đó chỉ là tình yêu theo "nhãn mác", niềm tin theo "quán tính", lòng trung thành với một lý tưởng cao đẹp đến mức thiêng liêng của một học thuyết thực tâm nhưng còn phạm sai lầm.
Tin rằng, trong một tương lai không xa, trên thế giới sẽ hiện lên một nước "VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA", không đảng phái, quốc hội thực sự là cơ quan quyến lực cao nhất của nhà nước, nguyên thủ quốc gia cũng đồng thời là chủ tịch quốc hội, với chủ trương hoàn thiện một nhà nước thực sự là "CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN", tạo tiền đề xây dựng chân phác được một hình thái xã hội mẫu mực: "DÂN GIÀU, NƯỚC MẠNH, XÃ HỘI CÔNG BẰNG, DÂN CHỦ, VĂN MINH" theo tiêu chí cộng sản chủ nghĩa".  

-----HẾT----- <1 .="" 0="" 1.="" 10="" 1="" 2.="" 5="" c="" ch="" chia="" cho="" gi="" h="" i="" kg="" l="" n="" ng="" nh="" p="" ph="" ra="" s="" sai.="" sao="" t.="" t:="" t="" ta="" th="" u="" vi="">

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH