Thứ Bảy, 13 tháng 6, 2020

BỘ MẶT CHIẾN TRANH 85

-Trong tình trạng chiến tranh đầy chết chóc và tan hoang, bản chất sống của loài người trở nên cực hạn về mọi phía:
+Yêu thương vô vàn mà cũng hận thù vô song
+Thông minh trí tuệ bao nhiêu thì cũng ngu ngốc, mù quáng bấy nhiêu.
+Tuyệt đỉnh dũng cảm thì cũng tột cùng hèn nhát.
+Vừa là thánh thần vừa là quỉ dữ.
...
-Chiến tranh mang bộ mặt gớm ghiếc, tởm lợm đến khủng khiếp, không thể tả được, dù bôi son trát phấn như thế nào, tung hô ra sao.
-Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người.
-Chiến tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính nghĩa là chiến tranh  nảy sinh từ việc giải phóng hoặc chống chiến tranh phi nghĩa, được hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?).
-Tóm lại, bộ mặt thật của chiến tranh nhìn từ mọi phía nói chung là độc ác, thiểu năng trí tuệ đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí.
-Ngày chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, người cộng sản có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói, đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn.
-Lão Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang lễ mà xử".
-Giống như bóng tối không thể làm tiêu tan bóng tối, thì hận thù không thể xoa dịu được hận thù, và chiến tranh không thể xóa bỏ được chiến tranh.
-Chỉ khi con người thoát ra khỏi vòng tham muốn danh lợi, thấu hiểu ý nghĩa thiêng liêng của cuộc sống, thấu hiểu về sự vô nghĩa tột cùng của cái chết và sự cảm thông, yêu thương sâu sắc đồng loại, mới có thể loại trừ được gây hấn và chiến tranh ra khỏi đời sống xã hội!
-Một khi còn tình cảm dân tộc hẹp hòi, lòng tham vị kỷ và cái tâm hận thù của con người, thì vẫn còn chiến tranh. 

 
Steve Johnson Vietnam 1969 70
------------------------------------------------------- 
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Máy bay và đại chiến thế giới - Phần 5

Bi kịch của người hùng Mỹ trở về từ Thế chiến II

Charles E. Kelly được trao Huân chương Danh dự cùng vinh quang và tiền bạc trong chiến tranh, nhưng cuộc sống rơi vào bế tắc thời hậu chiến.


Ngày 14/9/1943, tại ngôi nhà ở làng Altavilla, cách bờ biển Salerno của Italy khoảng 51 km, Charles E. Kelly đã lập chiến công không tưởng khi một mình hạ 40 lính Đức trong chưa đầy một giờ.
Một ngày sau, Kelly trở thành lính Mỹ đầu tiên ở chiến trường châu Âu được trao Huân chương Danh dự, phần thưởng cao quý nhất cho quân nhân Mỹ, với thành tích tiêu diệt thêm nhiều quân địch. Tuy nhiên, người hùng chiến trận này lại có số phận khá bi thảm khi trở về cuộc sống bình thường.
Charles E. Kelly sinh ngày 23/9/1920 trong gia đình có 9 người con ở thành phố Pittsburgh, bang Pennysylvania. Ngôi nhà không có điện nước sinh hoạt và nhà vệ sinh, cả 9 đứa trẻ đều phải ngủ trên gác mái. Kelly bỏ học và đi làm từ rất nhỏ.
Kelly được trao Huân chương Danh dự ngày 11/3/1944. Ảnh: US Army.
Kelly được trao Huân chương Danh dự ngày 11/3/1944. Ảnh: US Army.
Kelly nhập ngũ năm 1942 và sớm thể hiện là người vô kỷ luật khi từng trốn khỏi đơn vị và bị nhốt vào phòng biệt giam. Tuy nhiên, người lính này lại không bao giờ gây rắc rối khi bắt đầu tham chiến.
Năm 1943, Charles E. Kelly là binh nhất thuộc Sư đoàn 36 lục quân Mỹ. Ngày 9/9, sư đoàn này đổ bộ lên bờ biển Salerno, Italy, trở thành lực lượng tiên phong của Mỹ ở châu Âu.
Khi lính Mỹ thiết lập được đầu cầu trên bãi biển thì cũng là lúc quân Đức phản công và tái chiếm làng Altavilla. Chỉ huy Sư đoàn 36 ra lệnh cho hai tiểu đoàn tiến công để giành lại ngôi làng từ tay đối phương.
Trong trận đánh này, Kelly tình nguyện bò hơn 3 km dưới làn đạn quân thù để báo cáo vị trí phòng ngự của Đức trên ngọn đồi gần ngôi làng. Sau đó binh nhất này chỉ huy tổ ba người loại bỏ một ụ súng máy Đức đang chặn đà tiến quân của Mỹ. Kelly diệt xạ thủ súng máy địch và đối đầu với hơn 70 lính Đức đang áp sát. Một số binh sĩ trong trận đánh cho biết một mình Kelly đã hạ 40 tên địch.
Cuối ngày hôm đó, Kelly cùng 30 đồng đội được phái đến nhà trưởng làng Altavilla để hỗ trợ bảo vệ ngôi làng. Sáng 14/9/1943, Đức mở cuộc tấn công ngôi nhà và binh nhất Mỹ bắt đầu làm nên thành tích không ai ngờ tới.
Một mình Kelly cầm cự trước lực lượng áp đảo của đối phương. Binh nhất này sử dụng mọi vũ khí sẵn có gồm 3 khẩu súng trường tự động Browning, một tiểu liên Thompson, một súng trường Springfield, một súng carbine và một khẩu súng trường M1 để chống trả.
Trong lúc đối phương bắn phá dữ dội, Kelly xuống bếp ăn 4 quả trứng sống và uống một chai sâm panh để lấy sức chiến đấu. Trong chưa đầy một giờ giao tranh, binh nhất này đã hạ 40 lính Đức.
Tối hôm đó, lính Mỹ trong ngôi nhà được lệnh rút lui. Kelly tình nguyện ở lại bắn yểm trợ cho đồng đội trở về hội quân với Sư đoàn 36. Nhờ thành tích này, Kelly được trao tặng Huân chương Danh dự, trở thành lính Mỹ đầu tiên nhận phần thưởng này ở chiến trường châu Âu.
Một thời gian ngắn sau đó, Kelly được thăng cấp lên hạ sĩ rồi trung sĩ. Ông tiếp tục tham gia một số trận đánh lớn của Sư đoàn 36. Một bài báo viết về trận đánh ở làng Altavilla được đăng trên tờ Stars and Stripes đã đặt biệt danh cho ông là "biệt kích Kelly".
Kelly được trao Huân chương Danh dự, hai huân chương Sao bạc cùng một số huân chương dũng cảm trong thời gian chiến đấu ở Italy và Anh, nhưng không bao giờ coi trọng chúng. "Huân chương chỉ là những miếng đồng thau sau chiến tranh, còn tôi sẽ trở thành một cựu chiến binh mà thôi", Kelly nói.
Khi trở về Mỹ vào tháng 4/1944, Kelly được chào đón như người hùng. Thành phố Pittsburgh gọi đó là "Ngày biệt kích Kelly", ông cũng được chào đón trong suốt chuyến đi xuyên nước Mỹ dài 60 ngày để bán trái phiếu chiến tranh.
Kelly tại tiền tuyến ở Italy sau khi được thăng cấp trung sĩ. Ảnh: US Army.
Kelly tại tiền tuyến ở Italy sau khi được thăng cấp trung sĩ. Ảnh: US Army.
"Tôi diễn thuyết 5 lần mỗi ngày. Nhiệm vụ của tôi là kêu gọi người dân mua trái phiếu chiến tranh và nói những điều tốt đẹp về khẩu pháo 37 mm với mức tiền công 6 USD/ngày", Kelly cho biết.
Kelly được hãng 20th Century Fox trả 25.000 USD, tương đương 325.000 USD ngày nay, để dựng bộ phim về cuộc đời ông. Tờ Saturday Evening Post cũng trả cho ông 15.000 USD cho một bài báo viết về thành tích chiến đấu.
"Biệt kích Kelly" trở nên giàu có với các cơ hội việc làm và kinh doanh khiến nhiều người mơ ước trên khắp nước Mỹ. Tuy nhiên, chiến tranh qua đi cũng là lúc vinh quang kết thúc và chuỗi ngày bi kịch bắt đầu với cựu quân nhân Mỹ.
Sau những lễ vinh danh, cuộc sống của Kelly nhanh chóng lao dốc. Ông chi tiêu phóng khoáng khi liên tục chiêu đãi mọi người, mua nội thất cho mẹ và tặng tiền cho anh em.
Ngày 11/3/1945, một năm sau khi nhận Huân chương Danh dự, Kelly cưới Mae Francis Boish, một nhân viên thu ngân nhà hàng. Họ mua nhà và một trạm xăng ở Pittsburgh để kinh doanh, nhưng phải bán đi sau hai năm thua lỗ. Kelly cảm thấy buồn chán và không thể chịu được nhịp sống lặp đi lặp lại mỗi ngày.
Đây không phải cựu binh duy nhất khó thích nghi với cuộc sống dân sự sau chiến tranh. Hơn hai triệu lính Mỹ không có việc làm và hàng triệu người bị rối loạn tâm lý thời hậu chiến.
Năm 1950, vợ Kelly bị ung thư tử cung và qua đời sau một năm, để lại hai con cho ông chăm sóc. Cũng trong năm đó, nhà ông bị ngân hàng tịch thu. Biến cố này khiến Kelly mất kiểm soát và không thể trở lại bình thường. Ông làm nhiều việc từ bảo vệ, nhân viên an ninh cho đến công nhân xây dựng và thợ sơn, nhưng không bao giờ duy trì công việc được lâu dài.
Kelly làm quen và cưới một phụ nữ tên Betty Gaskins và tiếp tục gặp thử thách với cuộc sống đời thường. "Trong chiến đấu, bạn chỉ có một thứ để làm và bạn biết cách làm điều đó. Tuy nhiên, mọi thứ rất khó khăn trong đời thường. Bạn có việc để làm nhưng không thể thực hiện", Kelly nói trong một cuộc phỏng vấn.
Tháng 4/1961, ông bỏ nhà đi sau khi gọi điện cho vợ, cam kết lập một quỹ tín thác cho bà và các con, đồng thời dặn gia đình không nên tìm kiếm mình. Kelly không trở về nhà trong suốt 15 năm. Người vợ đơn phương ly hôn và tự nuôi con một mình.
Trong thời gian bỏ nhà, Kelly ngày càng nghiện rượu và làm mọi công việc thời vụ để kiếm sống trước khi bị đâm xe và hôn mê trong gần một năm vì chấn thương sọ não.
Năm 1984, Kelly qua đời trong cô độc ở một bệnh viện tại Pittsburg, nơi ông điều trị suy thận và gan sau 40 năm nghiện rượu nặng. Trước khi qua đời, ông nói rằng mình "không có bất kỳ họ hàng nào", dù 5 anh em của ông đang sống gần đó.
Duy Sơn (Theo National Interest)

Điểm danh những vũ khí ác độc nhất lịch sử nhân loại

Thứ sáu, ngày 05/06/2020 10:34 AM (GMT+7)
Bom nguyên tử, nhựa đường, khí mù tạt là những vũ khí ác độc, có tính sát thương cao và gây ra cái chết đau đớn cho nạn nhân.
Bình luận 0


Điểm danh những vũ khí ác độc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 1.
Đa số các vũ khí ác độc này đều xuất hiện từ Chiến tranh thế giới 2. Trong ảnh là nhựa đường/dầu sôi là những loại vũ khí tàn bạo sớm nhất của loài người. Để bảo vệ lâu đài, lãnh thổ, quân lính tẩm nhựa đường nóng chảy vào mũi tên, mũi giáo hay đá bắn vào địch. Họ cũng sử dụng dầu sôi để ngăn những đợt tấn công của kẻ thù trong cuộc chiến.
Điểm danh những vũ khí ác độc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 2.
Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, quân Đức lần đầu tiên sử dụng khí mù tạt để đe dọa kẻ thù. Khí mù tạt gây phồng rộp da, bỏng mắt và nôn mửa. Nó cũng có thể làm bỏng nội tạng, tổn thương khí quản khiến nạn nhân đau đớn và tử vong sau 4 đến 5 tuần từ khi tiếp xúc.
Điểm danh những vũ khí ác độc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 3.
V-1 Buzz là loại bom bay đầu tiên trên thế giới (tiền thân của tên lửa hành trình ngày nay) với khả năng gây sát thương trên diện rộng. Chiều dài của V-1 Buzz khoảng 8 m, sải cánh gần 7 m và chúng mang động cơ phản lực Argus 109-014. Chúng ra đời trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ hai, với tên gọi Buzz Bomb hay Doodlebug. Quân Đức dùng V-1 Buzz để tấn công thành phố London của Anh từ ngày 13/6/1944. Trong giai đoạn cao trào, hơn 100 quả Buzz Bomb tàn phá phía đông nam thành phố.
Điểm danh những vũ khí ác độc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 4.
Bom cháy là kỹ thuật tấn công bằng sức ép kết hợp với vụ nổ tạo khả năng hủy diệt cao. Quân Đức đã ném vũ khí này vào hai thành phố Conventry và London trong năm 1940. Khi Chiến tranh Thế giới thứ hai đến hồi kết, quân Anh đáp trả bằng cách ném bom cháy xuống thành phố Dresden, Đức.
Điểm danh những vũ khí ác độc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 5.
Bom nguyên tử là vũ khí hạt nhân có tính hủy diệt rất lớn. Đến nay, chỉ hai quả bom hạt nhân được Mỹ sử dụng để ném xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki, Nhật Bản tháng 8/1945. Dù 70 năm trôi qua, nhiều vùng ở Nhật Bản vẫn chịu hậu quả nặng nề của chất phóng xạ.
Điểm danh những vũ khí ác độc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 6.
Mìn có tính sát thương cao khiến nạn nhân bị thương nghiêm trọng rồi trải qua cảm giác đau đớn tột cùng tới lúc chết. Bom Napalm chứa gel và xăng. Ban đầu người ta sử dụng chúng để công phá các tòa nhà hay công trình lớn, nhưng sau đó chúng trở thành loại vũ khí hủy diệt. Gel và dầu mỏ sẽ dính vào da của nạn nhân, gây nên những vết bỏng nặng và khiến nạn nhân tử vong trong đau đớn.
PV (Theo Kiến Thức)

Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại

Thứ ba, ngày 09/06/2020 12:33 PM (GMT+7)
Những con ngựa chiến Mông Cổ có thể chạy với tốc độ gần 40km/giờ và chúng có thể vận động suốt cả ngày mà không cần nghỉ ngơi...
Bình luận 0

Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 1.
Trong lịch sử các cuộc chiến tranh nhân loại, ngựa (hay còn gọi là chiến mã) đóng một vai trò quan trọng làm nên những chiến thắng. Bằng cách ngồi trên lưng ngựa, các chiến binh có thể phát huy ưu thế “thần tốc” hơn và gây thiệt hại nhiều hơn với kẻ thù. Đó được xem như là sức mạnh quân sự trong các trận chiến. Chả thế mà có câu nói: “Nơi nào có dấu chân ngựa chiến, nơi đó là đống hoang tàn”.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 2.
Cách đây khoảng hơn 5.000 năm, tại phương Đông - cái nôi của nền văn minh nhân loại, con người đã biết dùng ngựa vào mục đích quân sự. Những đội quân kỵ binh (hay kỵ mã) thời ấy là lực lượng chủ yếu của quân đội, có thể so sánh như xe tăng, xe bọc thép và máy bay hiện nay được xem là sức mạnh của quân sự thời hiện đại.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 3.
Nhưng thời kỳ ấy, dấu ấn các cuộc chiến tranh đẫm máu tranh giành lãnh thổ, thuộc địa còn chưa phát huy chức năng vốn có của nó. Cách đây khoảng hơn 3.000 năm trước công nguyên, thế giới chỉ ghi nhận nền văn minh sông Nin Ai Cập bừng sáng.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 4.
Thời ấy, ngựa chủ yếu phục vụ trong quân đội. Người Assyria (sống vùng Trung Cận Đông, thuộc Châu Á, một phần Châu Phi) đi đầu trong các dân tộc dùng kỵ mã vào chiến tranh dưới dạng thức hình ảnh của những cỗ chiến xa đầu tiên do ngựa kéo được tìm thấy trên các bức chạm Sumer cổ xưa, có niên đại 3.000 năm trước Công nguyên.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 5.
Những chiếc chiến xa được kết cấu khá giản đơn gồm bốn bánh được gắn vào các trục không quay. Trên xe có thêm xà ích với một hoặc hai xạ thủ bắn cung. Ngoài ra còn có những lưỡi dao như lưỡi hái, nhọn và sắc là một thứ vũ khí nguy hiểm được gắn vào đuôi xe, có chức năng là vũ khí mỗi khi bị quân thù tấn công. Cùng với những thuyền chiến, những chiếc chiến xa được người Ai Cập và người Assyrie sử dụng để di chuyển rộng nhằm bành trướng uy quyền trên thế giới.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 6.
Tiếp sau người Ai Cập, người Assyria là người Trung Quốc, khoảng 2.000 năm trước Công nguyên, ngựa được dùng để kéo chiến xã và chỉ sau đó 1.000 năm, con ngựa được dùng làm “ngựa chiến” trong lực lượng chủ lực của quân đội của các triều đại phong kiến chuyên chế tập quyền. Hình ảnh “da ngựa bọc thây” xuất phát từ câu nói của Phục Ba Tướng quân Mã Viện đã nói lên hình ảnh bi hùng ở nơi chiến địa, người và ngựa đã vào sinh ra tử.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 7.
Nhiều con tuấn mã đã cùng với chủ tướng lập nên nhiều chiến công hiển hách, lưu danh trong sử sách. Và càng về sau, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc, trong các cuộc nội chiến thì ngựa chiến càng phát huy ưu thế của nó. Những nhà quân sự tài ba của Trung Quốc thời xưa là những người đã phát huy sức mạnh tiềm tàng của đội “ngựa chiến” để “tốc chiến, quyết chiến” làm nên những chiến thắng hiển hách. Những nhà quân sự này hiểu rõ chiến mã có thể phát huy thế mạnh ở những dạng địa hình khác nhau. Đơn cử như phép dùng ngựa chiến trong binh pháp “liên hoàn giáp mã”.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 8.
Tuy nhiên, những điều trên đây chưa hẳn đã là “thần tích” của ngựa. Người Mông Cổ được xem là dân tộc thuần dưỡng những con ngựa để phục vụ chiến tranh cừ khôi nhất. Bởi vậy, thế giới mới hết lời ngợi ca giống ngựa Mông Cổ là một trong những nòi ngựa trận mạc gan lì và dai sức nhất.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 9.
Theo những ghi chép để lại, ngựa chiến Mông Cổ cao đến 1,4m và nặng khoảng 350kg, có lông màu đỏ nâu hay đen, sải chân dài, mình thon, sinh trưởng trên những vùng thảo nguyên bát ngát của đế quốc Nguyên Mông huy hoàng vào thế kỷ thứ VIII. Những con ngựa này có thể chạy với tốc độ gần 40km/giờ và chúng vận động suốt cả một ngày mà không cần nghỉ ngơi.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 10.
Lịch sử ghi lại, trên những con ngựa chiến, những chiến binh của đế quốc Nguyên Mông vang bóng một thời đã băng ngàn dặm xa, chinh phục và thống trị các quốc gia ở vùng biển Đen, Đông Âu. Nổi danh hơn cả là thời Thành Cát Tư Hãn, được xem là thời kỳ “vàng son” của đế quốc Nguyên Mông. Khi vó ngựa của Thành Cát Tư Hãn đi đến đâu thì nơi đó cỏ không mọc được, thành bình địa đến đó, máu chảy đầu rơi, xơ xác, tiêu điều. Sử sách ghi lại, sau những trận chiến, Hoàng đế Thành Cát Tư Hãn từng ví von rằng: Đế quốc Nguyên Mông sẽ chinh phục và cai trị thế giới này từ trên lưng ngựa.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 11.
Khác với người phương Đông, người phương Tây, mà cụ thể là người Hy Lạp - La Mã sử dụng ngựa là đội kỵ binh, kỵ mã hùng hậu. Thời kỳ vương quốc Macedonia, người Hy Lạp - Macedonia đã sử dụng khá rộng rãi ngựa trong chiến trận.


Những trận chiến trên lưng ngựa kinh điển bậc nhất lịch sử nhân loại - Ảnh 12.
Trong trận Gaugamela đẫm máu (331 trước Công Nguyên), lực lượng của đế quốc Ba Tư rất hùng mạnh với voi chiến, hàng ngàn cỗ xe chiến, rất nhiều kỵ mã và bộ binh; nhưng Alexandros Đại đế đã tung 7.000 kỵ mã và 40.000 bộ binh vào trận, bố trí lực lượng có thể tấn công vào đại binh của vua Ba Tư Darius III vốn chậm chạp và cơ động kém, khiến cho quân Ba Tư hoảng loạn, giẫm đạp lên nhau.
Hà Kiều (Theo Kiến Thức)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét