CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/o (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)*
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vũ khí cổ đại P10 + P11
10 vũ khí và chiến thuật đáng sợ trong chiến tranh cổ đại
Tâm lý chiến, vũ khí hóa học hay còi tử thần, là những vũ khí và chiến thuật đáng sợ từng được áp dụng trong chiến tranh cổ đại.
Ngọc Anh (Ảnh: Ancient Origins)
Legion La Mã- Huyền thoại bộ binh
Legion Romana tức Quân đoàn La Mã, Binh đoàn La Mã là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã. Legion Romana được phiên âm là Lê dương La Mã để chỉ loại bộ binh nặng và đôi khi là toàn bộ Quân đội La Mã. Lực lượng nòng cốt của Quân đoàn La Mã là bộ binh nặng hay lê dương (phiên âm Hán Việt của tiếng Pháp légion) kèm theo quân đồng minh hỗ trợ (auxilium, binh lính không có quyền công dân La Mã), kỵ binh, lính xạ kích (bắn cung, máy bắn đá) và lính ném lao. Về mặt từ nguyên, trong tiếng Latinh legion có nghĩa là "chế độ quân sự cưỡng bách", có nguồn gốc từ lego nghĩa là tập trung.
Quân số của một quân đoàn La Mã tiêu biểu biến đổi theo thời gian. Trong giai đoạn Cộng hòa mỗi quân đoàn có 4.200 người chia thành 30 đến 35 tiểu đoàn (manipulus), mỗi tiểu đoàn 120 đến 140 người. Sang giai đoạn Đế quốc quân số của một quân đoàn tăng lên thành khoảng 5.200 người cộng thêm quân đồng minh hỗ trợ chia làm 10 đội quân (cohort), mỗi đội quân có 480 lính, riêng đội quân thứ nhất có 800 lính. Bộ binh được yểm trợ bởi kỵ binh ở hai bên sườn và lính xạ kích ở phía sau.
Vì các quân đoàn thường trực chỉ được tổ chức trong hệ thống quân đội La Mã sau cải cách của Marius (107 TCN) còn trước đó nó có tính nhất thời (được thành lập, sử dụng khi cần thiết và sau đó giải tán) nên hàng trăm quân đoàn đã được đặt tên và xếp số thứ tự trong lịch sử La Mã. Đến nay, chỉ có khoảng 50 quân đoàn có thể xác định được rõ ràng. Trong thời kỳ đầu của Đế quốc La Mã, thường có 25 đến 35 quân đoàn thường trực cùng với quân đồng minh và sẽ được tăng thêm khi cần thiết. Xem Danh sách các quân đoàn La Mã để biết thêm thông tin về chúng trong từng giai đoạn.
Vì sự thành công về quân sự của Cộng hòa La Mã và Đế quốc La Mã, quân đoàn La Mã từ lâu đã được coi là mô hình ưu tú thời cổ đại về năng lực và hiệu quả quân sự.
Lính Lê dương La Mã là những người lính chuyên nghiệp trong quân đội La Mã cổ đại sau những cải cách của Marius năm 107 TCN. Lính Lê dương La Mã phải là công dân La Mã dưới 45 tuổi. Họ sẽ được tuyển vào một quân đoàn La Mã trong một thời hạn quân dịch là 25 năm, một sự thay đổi so với trước đó là các người lính chỉ được gọi khi La Mã gặp các cuộc xung đột quân sự. Năm năm cuối, khi họ đã là các chiến binh kỳ cựu sẽ nhận các nhiệm vụ nhẹ nhàng hơn.
Khi hành quân trên các địa hình phức tạp, lính Lê dương cần phải mang theo áo giáp (lorica segmentata), khiên (scutum), nón sắt (galea), hai giáo phi (1 giáo nặng pilum và một giáo nhẹ), một đoản đao (pugio), một cặp Sandal nặng (Caligae), một túi đồ Sarcina, mười bốn ngày lương thực, một túi da đựng nước, đồ dùng nấu ăn, hai cái cọc (Sudes murale) để xây dựng lũy, một cái xẻng hoặc cái túi đan bằng liễu gai.
Lính Lê dương được huấn luyện rất chặt chẽ và khắc nghiệt; kỷ luật là nền tảng cho thành công của cả quân đội và những người lính phải tuân theo một chế độ huấn luyện liên miên và khắc nghiệt với vũ khí đặc biệt là trong cách hành quân: họ bị ép buộc phải luôn mang theo số quân trang lớn nhất di chuyển trong một đội hình khít thường xuyên. Kỷ luật là quan trọng nhất và mọi sự vi phạm đều sẽ bị trừng trị rất nặng bởi các sĩ quan chỉ huy. (xem thêm kỷ luật và các hình thức trừng phạt trong Quân đoàn la Mã)
Các quân đoàn thường chỉ huấn luyện Lính Lê dương, các loại quân khác được huấn luyện ở các trường địa phương. Việc huấn luyện thực hiện ngay tại nơi đóng quân. Binh lính được huấn luyện các kỹ năng chủ yếu như: bơi, ném đá, bắn cung phóng lao....
Kỷ luật của các quân đoàn La Mã nói riêng và cả quân đội La Mã nói chung vô cùng khắc nghiệt. Quy tắc đề ra luôn phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng. Nhiều lính Lê Dương rất sùng bái nữ thần kỷ luật Disciplina, lẽ sống của họ là cần kiệm, nghiêm khắc với bản thân và lòng trung thành tuyệt đối.
họ cũng đã sáng tạo ra đội hình con rùa khét tiếng. Đội quân La Mã được chia làm nhiều toán gọi là legion. Khi tấn công, các đội quân đột kích này xếp thành hình con rùa, quân lính tự lấy khiên bọc quanh mình, còn quân lính ở giữa thì lấy khiên che trên đầu, bảo vệ đầu mình và bảo vệ đầu của những người lính ở vòng ngoài.
Đội quân tiến lên một cách an toàn, nên đội hình con rùa là bất khả xâm phạm, bảo vệ những người lính bằng "Bức tường sắt thép" này. Đây là cách chiến đấu hữu hiệu nhất.
về 1 quân đoàn thì cũng có nhiều loại lính khác nhau phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, ngoại trừ các lính cơ bản nhất nhận khiêng vuông và kiếm ngắn, họ còn có các loại lính ném đá, lính phóng lao, lính bắn cung, lính thổi tù và, kị binh, lính cầm cờ hiệu, Mỗi quân đoàn đều có 1 biểu tượng nhất định, khi mất biểu tượng này cũng đc coi là mất danh dự của quân đoàn, và quân đoàn đó sẽ được lệnh giải tán vì đc coi là nỗi ô nhục của legion La Mã
về cách đánh thì thường thường những người lính bộ binh được trang bị lao, sau khi phóng vào quân địch thì họ sử dụng kiếm ngắn và khiêng để tạo thành đội hình con rùa rồi nhờ sự yểm trợ của xạ kích và kị binh để lao vào giáp chiến
nguồn wiki
#KBG
Năm 1920, một cuộc khai quật của các nhà khảo
cổ học tại Syria đã phát hiện được 20 bộ xương người trong một đường
hầm. Chủ nhân của những bộ xương này nhanh chóng được xác định là những
chiến binh cổ đại, từ khoảng hơn 2.000 năm trước. Nhưng tất cả họ đều
không có dấu hiệu bị chết bởi gươm giáo.
Những cái chết bí ẩn
Tuy nhiên, thay vì đụng độ với các chiến binh Ba Tư dưới đường hầm, những người lính La Mã xấu số này đã gặp phải một làn khói đen đặc và vô cùng độc hại. Trong phút chốc, phổi của họ bị đốt cháy. Những thanh gươm sắc bén trên tay không giúp gì được cho họ trước kẻ thù bất ngờ và tàn độc này. Toàn bộ nhóm lính La Mã chết đau đớn chỉ trong khoảnh khắc, nhiều người vẫn còn giữ những đồng tiền lương cuối cùng của họ trong chiếc túi đeo ở thắt lưng. Ngay gần đó, một người lính Ba Tư cũng phải chịu cái chết kinh hoàng như kẻ thù của mình. 20 người đàn ông này, được xác định chết vào năm 256 Trước công nguyên, chính là những nạn nhân đầu tiên của chiến tranh hóa học trên thế giới.
Vũ khí hoá học là thủ phạm
Trong những năm 250 trước công nguyên, đế chế Ba Tư của người Sasanian bắt đầu thời kỳ cực thịnh. Họ quyết định tấn công chiếm thành phố Dura vốn đang nằm dưới sự cai quản của đế chế La Mã. Đây là một mục tiêu cực kỳ khó xâm nhập đối với bất cứ một đội quân nào, dù là hùng mạnh đến mấy. Được bao bọc bên ngoài bởi sông Euphrates, những bức tường thành Dura lại dày tới hàng mét khiến việc công thành theo những cách truyền thống trở nên vô nghĩa.
Trước tòa thành bất khả xâm phạm này, người Ba Tư không chịu bỏ cuộc. Họ nghĩ ra một cách đánh mới: Đào các đường hầm xuyên qua bên dưới những bức tường thành để đưa lính xâm nhập vào bên trong thành phố. Một đường hầm như thế, dài tới 40 mét đã được tìm thấy còn nguyên vẹn trong cuộc khai quật khảo cổ học vào năm 1920. Để đối phó lại, quân La Mã cũng đào các đường hầm vòng quanh tường thành để ngăn chặn đối phương chui lên từ lòng đất. Cuộc chiến giữa hai bên chuyển từ mặt đất xuống các đường hầm tối tăm chật hẹp.
Trò chơi mèo đuổi chuột dưới lòng đất lần đầu tiên được mô tả bởi nhà khảo cổ học Robert de Mesnil. Ông cũng chính là người đã khai quật các đường hầm này vào năm 1920 và tìm thấy bộ xương của 19 binh sĩ La Mã và 1 binh sĩ Ba Tư nói trên. Khi đó, Mesnil phán đoán rằng, đã có một trận chiến giáp lá cà khốc liệt diễn ra tại đây.
Người Ba Tư đã đốt cháy đường hầm phòng ngự của người La Mã, khiến các chiến binh La Mã chết cháy. Giả thiết của nhà khảo cổ học người Pháp này không phải là không có cơ sở, bởi ông đã tìm thấy dấu vết của lưu huỳnh và dầu thông trong đường hầm. Đây là những vật liệu gây cháy vốn đã rất phổ biến thời trung cổ, và việc chúng thường được dùng trong các trận đánh chiếm thành đã được lịch sử ghi lại.
Quan điểm của Robert de Mesnil đã được giới chuyên môn chấp nhận suốt từ khi công bố những năm 1920. Gần một thế kỷ sau, năm 2011, khi nghiên cứu lại vấn đề trên, tiến sỹ James đã không đồng tình với lý giải của bậc tiền bối. Những đường hầm chật hẹp dưới lòng đất sâu không phù hợp cho một trận chiến giáp lá cà của cả hàng chục chiến binh. Ông cũng không cho rằng họ bị chết cháy. Lúc đầu, ông nghĩ rằng những người lính La Mã đã giẫm đạp lên nhau trong khi cố gắng thoát ra khỏi đường hầm. Nhưng khi nghiên cứu kỹ các bộ xương, nhà khoa học người Anh phát hiện một sự thật bất ngờ: Họ chết vì ngạt khói độc. Người Ba Tư đã hun khói độc trong đường hầm của người La Mã.
Do cả hai bên đều đào đường hầm để tấn công và phòng ngự ở dưới lòng đất, nhờ các tiếng động, họ có thể nhận ra đối phương khi các đường hầm sắp ăn thông với nhau. Quân Ba Tư đã đốt sẵn khói độc trong phần đường hầm của mình như một cái bẫy chờ sẵn quân La Mã, rồi họ rút lên mặt đất, không quên chặn hầm. Khi quân La Mã phá vỡ vách đất ngăn cách đường hầm hai phe, khói độc từ đường hầm của quân Ba Tư tràn sang đường hầm của quân La Mã, lan tỏa rất nhanh nhờ hệ thống thông gió của các đường hầm này.
Dấu vết của lưu huỳnh và dầu thông trong đường hầm mà Mesnil tìm thấy cũng được tiến sỹ James giải thích rất logic: Người Ba Tư đã sử dụng dầu thông để đốt cháy lưu huỳnh với nồng độ đậm đặc, biến thành hơi axit sulphuric. 19 người lính La Mã gục chết ngay tức khắc khi hít phải thứ khói độc này, khiến phổi bị cháy đen trong tích tắc.
Bản thân một người lính Ba Tư, vì một lý do nào đó đã ở lại đường hầm, cũng phải chịu chung kết cục bi thảm như kẻ thù. Quan sát vị trí các mảnh áo giáp còn sót lại trên bộ xương, tiến sỹ James đã nhận ra rằng, nhiều mảnh thuộc phần ngực áo nhưng lại nằm lên phần xương mặt và cổ. Điều đó chứng tỏ người lính Ba Tư xấu số này đã cố gắng kéo áo lên để che mặt khi hít phải khí độc. Hành động này chỉ đơn thuần là mang tính phản xạ theo bản năng, chứ không thể giúp anh ta thoát khỏi cái chết kinh hoàng do chính quân mình giăng ra.
Những chiến binh La Mã khác kinh hoàng trước làn khói độc chết người ấy và nhanh chóng tháo chạy. Những người Ba Tư thì chờ khói tan rồi quay lại bịt cửa hầm một cách vội vã, hòng ngăn kẻ thù truy kích. Họ đã xếp chồng các xác chết lên nhau, nhưng nỗi khiếp sợ trước hiệu quả khủng khiếp đến không ngờ của làn khói độc do chính mình tạo ra đã khiến những chiến binh Ba Tư không dám nán lại để lục soát xác chết. Đó là lý do vì sao tiền xu, áo giáp và vũ khí của những người chết vẫn còn nguyên vẹn.
Giả thiết của tiến sỹ James đã nhận được sự đồng tình của các nhà khoa học. Ông đã giải thích được tất cả những gì Robert de Mesnil đã khám phá một cách đầy thuyết phục. Cách giải thích này cũng rất phù hợp với bối cảnh lịch sử cổ đại lúc đó. Đế chế Ba Tư đã từng là một đế chế hùng mạnh, có một nền văn minh rực rỡ, một nghệ thuật quân sự phát triển đến mức tinh vi, đánh đâu thắng đó.
Đặc biệt, trước trận Dura, đã có một số hình thái sơ khai của vũ khí hóa học xuất hiện. Năm 189 trước công nguyên, người Hy Lạp đã đốt lông gà rồi lợi dụng hướng gió, thổi khói vào quân La Mã đang vây thành. Vì vậy, việc người Ba Tư đã học hỏi được các kinh nghiệm của tiền nhân, rồi phát minh ra vũ khí hóa học đầu tiên của loài người là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Di họa lâu dài
Trong hai cuộc Thế chiến và hàng chục cuộc chiến cục bộ khác nhau trên toàn thế giới, vũ khí hóa học hiện đại đã góp phần giết chết hàng chục triệu người, để lại di chứng nặng nề cho những người còn sống sau nhiều thập kỷ. Nghị định thư Geneve 1925 cấm sử dụng vũ khí hóa học, nhưng lại không cấm việc sở hữu. Vì vậy, hàng loạt quốc gia dù đã ký kết Nghị định thư này nhưng vẫn vô tình làm tổn hại thế lực thù địch bằng vũ khí hóa học. Các quốc gia không tham gia thì vẫn vô tư sử dụng. Điển hình là trong cuộc chiến Iran - Iraq kéo dài 8 năm (1980-1988), nhà cựu độc tài Iraq Saddam Hussein đã sử dụng các loại vũ khí hóa học khác nhau khiến khoảng 20.000 quân Iran thiệt mạng, khoảng 80.000 người bị thương và gánh chịu di họa cho đến tận ngày nay. Ngày 15/12/1980, Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Nghị định thư này.
Legion Romana tức Quân đoàn La Mã, Binh đoàn La Mã là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã. Legion Romana được phiên âm là Lê dương La Mã để chỉ loại bộ binh nặng và đôi khi là toàn bộ Quân đội La Mã. Lực lượng nòng cốt của Quân đoàn La Mã là bộ binh nặng hay lê dương (phiên âm Hán Việt của tiếng Pháp légion) kèm theo quân đồng minh hỗ trợ (auxilium, binh lính không có quyền công dân La Mã), kỵ binh, lính xạ kích (bắn cung, máy bắn đá) và lính ném lao. Về mặt từ nguyên, trong tiếng Latinh legion có nghĩa là "chế độ quân sự cưỡng bách", có nguồn gốc từ lego nghĩa là tập trung.
Quân số của một quân đoàn La Mã tiêu biểu biến đổi theo thời gian. Trong giai đoạn Cộng hòa mỗi quân đoàn có 4.200 người chia thành 30 đến 35 tiểu đoàn (manipulus), mỗi tiểu đoàn 120 đến 140 người. Sang giai đoạn Đế quốc quân số của một quân đoàn tăng lên thành khoảng 5.200 người cộng thêm quân đồng minh hỗ trợ chia làm 10 đội quân (cohort), mỗi đội quân có 480 lính, riêng đội quân thứ nhất có 800 lính. Bộ binh được yểm trợ bởi kỵ binh ở hai bên sườn và lính xạ kích ở phía sau.
Vì các quân đoàn thường trực chỉ được tổ chức trong hệ thống quân đội La Mã sau cải cách của Marius (107 TCN) còn trước đó nó có tính nhất thời (được thành lập, sử dụng khi cần thiết và sau đó giải tán) nên hàng trăm quân đoàn đã được đặt tên và xếp số thứ tự trong lịch sử La Mã. Đến nay, chỉ có khoảng 50 quân đoàn có thể xác định được rõ ràng. Trong thời kỳ đầu của Đế quốc La Mã, thường có 25 đến 35 quân đoàn thường trực cùng với quân đồng minh và sẽ được tăng thêm khi cần thiết. Xem Danh sách các quân đoàn La Mã để biết thêm thông tin về chúng trong từng giai đoạn.
Vì sự thành công về quân sự của Cộng hòa La Mã và Đế quốc La Mã, quân đoàn La Mã từ lâu đã được coi là mô hình ưu tú thời cổ đại về năng lực và hiệu quả quân sự.
Lính Lê dương La Mã là những người lính chuyên nghiệp trong quân đội La Mã cổ đại sau những cải cách của Marius năm 107 TCN. Lính Lê dương La Mã phải là công dân La Mã dưới 45 tuổi. Họ sẽ được tuyển vào một quân đoàn La Mã trong một thời hạn quân dịch là 25 năm, một sự thay đổi so với trước đó là các người lính chỉ được gọi khi La Mã gặp các cuộc xung đột quân sự. Năm năm cuối, khi họ đã là các chiến binh kỳ cựu sẽ nhận các nhiệm vụ nhẹ nhàng hơn.
Khi hành quân trên các địa hình phức tạp, lính Lê dương cần phải mang theo áo giáp (lorica segmentata), khiên (scutum), nón sắt (galea), hai giáo phi (1 giáo nặng pilum và một giáo nhẹ), một đoản đao (pugio), một cặp Sandal nặng (Caligae), một túi đồ Sarcina, mười bốn ngày lương thực, một túi da đựng nước, đồ dùng nấu ăn, hai cái cọc (Sudes murale) để xây dựng lũy, một cái xẻng hoặc cái túi đan bằng liễu gai.
Lính Lê dương được huấn luyện rất chặt chẽ và khắc nghiệt; kỷ luật là nền tảng cho thành công của cả quân đội và những người lính phải tuân theo một chế độ huấn luyện liên miên và khắc nghiệt với vũ khí đặc biệt là trong cách hành quân: họ bị ép buộc phải luôn mang theo số quân trang lớn nhất di chuyển trong một đội hình khít thường xuyên. Kỷ luật là quan trọng nhất và mọi sự vi phạm đều sẽ bị trừng trị rất nặng bởi các sĩ quan chỉ huy. (xem thêm kỷ luật và các hình thức trừng phạt trong Quân đoàn la Mã)
Các quân đoàn thường chỉ huấn luyện Lính Lê dương, các loại quân khác được huấn luyện ở các trường địa phương. Việc huấn luyện thực hiện ngay tại nơi đóng quân. Binh lính được huấn luyện các kỹ năng chủ yếu như: bơi, ném đá, bắn cung phóng lao....
Kỷ luật của các quân đoàn La Mã nói riêng và cả quân đội La Mã nói chung vô cùng khắc nghiệt. Quy tắc đề ra luôn phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng. Nhiều lính Lê Dương rất sùng bái nữ thần kỷ luật Disciplina, lẽ sống của họ là cần kiệm, nghiêm khắc với bản thân và lòng trung thành tuyệt đối.
họ cũng đã sáng tạo ra đội hình con rùa khét tiếng. Đội quân La Mã được chia làm nhiều toán gọi là legion. Khi tấn công, các đội quân đột kích này xếp thành hình con rùa, quân lính tự lấy khiên bọc quanh mình, còn quân lính ở giữa thì lấy khiên che trên đầu, bảo vệ đầu mình và bảo vệ đầu của những người lính ở vòng ngoài.
Đội quân tiến lên một cách an toàn, nên đội hình con rùa là bất khả xâm phạm, bảo vệ những người lính bằng "Bức tường sắt thép" này. Đây là cách chiến đấu hữu hiệu nhất.
về 1 quân đoàn thì cũng có nhiều loại lính khác nhau phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, ngoại trừ các lính cơ bản nhất nhận khiêng vuông và kiếm ngắn, họ còn có các loại lính ném đá, lính phóng lao, lính bắn cung, lính thổi tù và, kị binh, lính cầm cờ hiệu, Mỗi quân đoàn đều có 1 biểu tượng nhất định, khi mất biểu tượng này cũng đc coi là mất danh dự của quân đoàn, và quân đoàn đó sẽ được lệnh giải tán vì đc coi là nỗi ô nhục của legion La Mã
về cách đánh thì thường thường những người lính bộ binh được trang bị lao, sau khi phóng vào quân địch thì họ sử dụng kiếm ngắn và khiêng để tạo thành đội hình con rùa rồi nhờ sự yểm trợ của xạ kích và kị binh để lao vào giáp chiến
nguồn wiki
#KBG
Những chiến binh La Mã cổ đại đã chết như thế nào?
Năm 1920, một cuộc khai quật của các nhà khảo
cổ học tại Syria đã phát hiện được 20 bộ xương người trong một đường
hầm. Chủ nhân của những bộ xương này nhanh chóng được xác định là những
chiến binh cổ đại, từ khoảng hơn 2.000 năm trước. Nhưng tất cả họ đều
không có dấu hiệu bị chết bởi gươm giáo.
-
-
Những cái chết bí ẩn
Năm 2011, tiến sỹ Simon James, một nhà
khảo cổ và sử học tại đại học Leicester (Anh) lật lại hồ sơ, và ông
không đồng ý với kết luận này của các nhà khoa học tiền bối bởi nó mang
nặng tính phỏng đoán mà thiếu chứng cứ khoa học. Nghiên cứu lại toàn bộ
hồ sơ dữ liệu của cuộc khai quật, tiến sỹ James đi đến một kết luận bất
ngờ: Họ chết bởi khói độc! Con người đã biết sử dụng vũ khí hóa học từ
2.000 năm trước. Diễn biến dẫn đến cái chết dưới hầm ngầm từ hơn 2.000
năm trước của những chiến binh này được ông mô tả lại dựa trên những
chứng cứ khoa học đã thuyết phục được cả giới nghiên cứu.
Vào một ngày cách đây hơn 2.000 năm,
19 chiến binh La Mã đổ xô vào một đường hầm chật hẹp dưới lòng đất,
chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ thành phố Dura của đế chế La Mã trên đất
Syria trước cuộc tấn công của đội quân Ba Tư. Kẻ thù đang đào những
đường hầm ngầm xuyên dưới chân các bức tường thành vững chãi mà họ đang
trấn giữ.
Tuy nhiên, thay vì đụng độ với các chiến binh Ba Tư dưới đường hầm, những người lính La Mã xấu số này đã gặp phải một làn khói đen đặc và vô cùng độc hại. Trong phút chốc, phổi của họ bị đốt cháy. Những thanh gươm sắc bén trên tay không giúp gì được cho họ trước kẻ thù bất ngờ và tàn độc này. Toàn bộ nhóm lính La Mã chết đau đớn chỉ trong khoảnh khắc, nhiều người vẫn còn giữ những đồng tiền lương cuối cùng của họ trong chiếc túi đeo ở thắt lưng. Ngay gần đó, một người lính Ba Tư cũng phải chịu cái chết kinh hoàng như kẻ thù của mình. 20 người đàn ông này, được xác định chết vào năm 256 Trước công nguyên, chính là những nạn nhân đầu tiên của chiến tranh hóa học trên thế giới.
Chiến binh Ba Tư này đã chết đau đớn cùng với kẻ thù trong đường hầm. |
Trong những năm 250 trước công nguyên, đế chế Ba Tư của người Sasanian bắt đầu thời kỳ cực thịnh. Họ quyết định tấn công chiếm thành phố Dura vốn đang nằm dưới sự cai quản của đế chế La Mã. Đây là một mục tiêu cực kỳ khó xâm nhập đối với bất cứ một đội quân nào, dù là hùng mạnh đến mấy. Được bao bọc bên ngoài bởi sông Euphrates, những bức tường thành Dura lại dày tới hàng mét khiến việc công thành theo những cách truyền thống trở nên vô nghĩa.
Trước tòa thành bất khả xâm phạm này, người Ba Tư không chịu bỏ cuộc. Họ nghĩ ra một cách đánh mới: Đào các đường hầm xuyên qua bên dưới những bức tường thành để đưa lính xâm nhập vào bên trong thành phố. Một đường hầm như thế, dài tới 40 mét đã được tìm thấy còn nguyên vẹn trong cuộc khai quật khảo cổ học vào năm 1920. Để đối phó lại, quân La Mã cũng đào các đường hầm vòng quanh tường thành để ngăn chặn đối phương chui lên từ lòng đất. Cuộc chiến giữa hai bên chuyển từ mặt đất xuống các đường hầm tối tăm chật hẹp.
Trò chơi mèo đuổi chuột dưới lòng đất lần đầu tiên được mô tả bởi nhà khảo cổ học Robert de Mesnil. Ông cũng chính là người đã khai quật các đường hầm này vào năm 1920 và tìm thấy bộ xương của 19 binh sĩ La Mã và 1 binh sĩ Ba Tư nói trên. Khi đó, Mesnil phán đoán rằng, đã có một trận chiến giáp lá cà khốc liệt diễn ra tại đây.
Người Ba Tư đã đốt cháy đường hầm phòng ngự của người La Mã, khiến các chiến binh La Mã chết cháy. Giả thiết của nhà khảo cổ học người Pháp này không phải là không có cơ sở, bởi ông đã tìm thấy dấu vết của lưu huỳnh và dầu thông trong đường hầm. Đây là những vật liệu gây cháy vốn đã rất phổ biến thời trung cổ, và việc chúng thường được dùng trong các trận đánh chiếm thành đã được lịch sử ghi lại.
Quan điểm của Robert de Mesnil đã được giới chuyên môn chấp nhận suốt từ khi công bố những năm 1920. Gần một thế kỷ sau, năm 2011, khi nghiên cứu lại vấn đề trên, tiến sỹ James đã không đồng tình với lý giải của bậc tiền bối. Những đường hầm chật hẹp dưới lòng đất sâu không phù hợp cho một trận chiến giáp lá cà của cả hàng chục chiến binh. Ông cũng không cho rằng họ bị chết cháy. Lúc đầu, ông nghĩ rằng những người lính La Mã đã giẫm đạp lên nhau trong khi cố gắng thoát ra khỏi đường hầm. Nhưng khi nghiên cứu kỹ các bộ xương, nhà khoa học người Anh phát hiện một sự thật bất ngờ: Họ chết vì ngạt khói độc. Người Ba Tư đã hun khói độc trong đường hầm của người La Mã.
Do cả hai bên đều đào đường hầm để tấn công và phòng ngự ở dưới lòng đất, nhờ các tiếng động, họ có thể nhận ra đối phương khi các đường hầm sắp ăn thông với nhau. Quân Ba Tư đã đốt sẵn khói độc trong phần đường hầm của mình như một cái bẫy chờ sẵn quân La Mã, rồi họ rút lên mặt đất, không quên chặn hầm. Khi quân La Mã phá vỡ vách đất ngăn cách đường hầm hai phe, khói độc từ đường hầm của quân Ba Tư tràn sang đường hầm của quân La Mã, lan tỏa rất nhanh nhờ hệ thống thông gió của các đường hầm này.
Dấu vết của lưu huỳnh và dầu thông trong đường hầm mà Mesnil tìm thấy cũng được tiến sỹ James giải thích rất logic: Người Ba Tư đã sử dụng dầu thông để đốt cháy lưu huỳnh với nồng độ đậm đặc, biến thành hơi axit sulphuric. 19 người lính La Mã gục chết ngay tức khắc khi hít phải thứ khói độc này, khiến phổi bị cháy đen trong tích tắc.
Bản thân một người lính Ba Tư, vì một lý do nào đó đã ở lại đường hầm, cũng phải chịu chung kết cục bi thảm như kẻ thù. Quan sát vị trí các mảnh áo giáp còn sót lại trên bộ xương, tiến sỹ James đã nhận ra rằng, nhiều mảnh thuộc phần ngực áo nhưng lại nằm lên phần xương mặt và cổ. Điều đó chứng tỏ người lính Ba Tư xấu số này đã cố gắng kéo áo lên để che mặt khi hít phải khí độc. Hành động này chỉ đơn thuần là mang tính phản xạ theo bản năng, chứ không thể giúp anh ta thoát khỏi cái chết kinh hoàng do chính quân mình giăng ra.
Những chiến binh La Mã khác kinh hoàng trước làn khói độc chết người ấy và nhanh chóng tháo chạy. Những người Ba Tư thì chờ khói tan rồi quay lại bịt cửa hầm một cách vội vã, hòng ngăn kẻ thù truy kích. Họ đã xếp chồng các xác chết lên nhau, nhưng nỗi khiếp sợ trước hiệu quả khủng khiếp đến không ngờ của làn khói độc do chính mình tạo ra đã khiến những chiến binh Ba Tư không dám nán lại để lục soát xác chết. Đó là lý do vì sao tiền xu, áo giáp và vũ khí của những người chết vẫn còn nguyên vẹn.
Giả thiết của tiến sỹ James đã nhận được sự đồng tình của các nhà khoa học. Ông đã giải thích được tất cả những gì Robert de Mesnil đã khám phá một cách đầy thuyết phục. Cách giải thích này cũng rất phù hợp với bối cảnh lịch sử cổ đại lúc đó. Đế chế Ba Tư đã từng là một đế chế hùng mạnh, có một nền văn minh rực rỡ, một nghệ thuật quân sự phát triển đến mức tinh vi, đánh đâu thắng đó.
Đặc biệt, trước trận Dura, đã có một số hình thái sơ khai của vũ khí hóa học xuất hiện. Năm 189 trước công nguyên, người Hy Lạp đã đốt lông gà rồi lợi dụng hướng gió, thổi khói vào quân La Mã đang vây thành. Vì vậy, việc người Ba Tư đã học hỏi được các kinh nghiệm của tiền nhân, rồi phát minh ra vũ khí hóa học đầu tiên của loài người là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Trong hai cuộc Thế chiến và hàng chục cuộc chiến cục bộ khác nhau trên toàn thế giới, vũ khí hóa học hiện đại đã góp phần giết chết hàng chục triệu người, để lại di chứng nặng nề cho những người còn sống sau nhiều thập kỷ. Nghị định thư Geneve 1925 cấm sử dụng vũ khí hóa học, nhưng lại không cấm việc sở hữu. Vì vậy, hàng loạt quốc gia dù đã ký kết Nghị định thư này nhưng vẫn vô tình làm tổn hại thế lực thù địch bằng vũ khí hóa học. Các quốc gia không tham gia thì vẫn vô tư sử dụng. Điển hình là trong cuộc chiến Iran - Iraq kéo dài 8 năm (1980-1988), nhà cựu độc tài Iraq Saddam Hussein đã sử dụng các loại vũ khí hóa học khác nhau khiến khoảng 20.000 quân Iran thiệt mạng, khoảng 80.000 người bị thương và gánh chịu di họa cho đến tận ngày nay. Ngày 15/12/1980, Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Nghị định thư này.
Nhận xét
Đăng nhận xét