Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/o (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)*

(ĐC sưu tầm trên NET)
 

                                                               Vũ khí cổ đại P10  + P11

10 vũ khí và chiến thuật đáng sợ trong chiến tranh cổ đại

Tâm lý chiến, vũ khí hóa học hay còi tử thần, là những vũ khí và chiến thuật đáng sợ từng được áp dụng trong chiến tranh cổ đại.
 
Còi tử thần của người Aztec
Cách đây vài thập kỷ, các nhà khảo cổ học tìm thấy những đồ tùy táng có hình đầu người trông rất kỳ dị trong một ngôi đền của người Aztec ở Mexico. Cho rằng chúng chỉ là đồ chơi hay vật trang trí, họ lên danh sách và cất giữ chúng trong nhà kho. Tuy nhiên, vài năm sau, họ mới phát hiện  chúng chính là những chiếc còi tử thần phát ra âm thanh chói tai giống như tiếng thét. Người Aztec cổ đại dùng chúng trong tế lễ hay chiến đấu nhằm uy hiếp quân thù.
Trong các trận chiến, âm thanh đáng sợ của hàng trăm chiếc còi tử thần hợp lại có tác động tâm lý rất lớn, khiến kẻ thù mất phương hướng và nhụt chí. Nó giống như "tiếng người rú lên vì đau đớn, tiếng gió rít hay tiếng gào thét của hàng nghìn thây ma".
 
Kỵ binh giáp sắt
Vào thế kỷ 7-8 trước Công nguyên, chiến xa dần được thay thế bởi các đơn vị kỵ binh ở vùng Cận Đông. Một số đơn vị được trang bị nhẹ và giao nhiệm vụ quấy rối kẻ thù hoặc truy kích quân địch đang trên đường hành quân. Một số khác được trang bị nặng, có nhiệm vụ tập kích nhằm phá vỡ đội hình địch.
Đơn vị kỵ binh được trang bị nặng nhất thời cổ đại là kỵ binh cataphract. Từ "cataphract" bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là "bọc giáp toàn bộ" hay "kín mọi phía". Tuy nhiên, cataphract không phải là sản phẩm của người Hy Lạp. Nó được dùng để chỉ quân đội của Đế chế Seleucid vào khoảng thế kỷ 4 trước Công nguyên, sau khi họ mở nhiều chiến dịch quân sự chống lại các nước láng giềng ở phía đông.
Thông thường kỵ binh cataphract được điều động khi cần tấn công ồ ạt vào chiến tuyến kẻ thù. Nhờ bộ giáp nặng mà kỵ binh cataphract có thể giáng cho địch một đòn mạnh mẽ. Nói về sức mạnh của kỵ binh cataphract, sử gia Tacitus viết rằng "khi họ tấn công kẻ thù từ trên lưng ngựa, hầu như chẳng có một chiến tuyến nào có thể cản được họ".
Sức mạnh vô địch của kỵ binh cataphract cũng có thể có tác động tâm lý lên kẻ thù, sử gia Cassius Dio nói. Miêu tả thất bại của Crassus tại trận chiến Carrhae, Dio viết rằng "nhiều kẻ chết vì khiếp đảm ngay từ đợt tấn công đầu tiên của các kỵ sĩ cầm giáo này". Tiếng tăm của kỵ binh cataphract càng trở nên lừng lẫy hơn khi Heliodorus và Plutarch tuyên bố rằng họ mạnh đến mức có thể một phát đâm chết hai người.
 
Chất độc
Từ lâu con người đã sử dụng chất độc làm vũ khí. Thời cổ đại, người ta tẩm thuốc độc lên vũ khí săn bắn để nhanh chóng giết chết kẻ thù hay con mồi. Khi đã hiểu rõ những điểm mạnh của chất độc, người ta chế tạo ra nhiều công cụ và vũ khí chuyên dùng với chúng. Các nhà nghiên cứu cho rằng các công cụ giết người tinh vi và bí ẩn hơn có lẽ chỉ dành riêng cho những thành viên có địa vị cao trong bộ tộc, khiến cho người ngoài dễ lầm tưởng rằng cái chết của họ do một thế lực thần bí nào đó gây ra.
Những cái chết bất thình lình này thường bí ẩn và khó hiểu đến mức ở một số nền văn hóa, người ta gán các chất độc này với tà ma, quỷ thần và các sinh vật đến từ thế giới bên kia.
Vũ khí tẩm độc xuất hiện đầu tiên trong thần thoại Hy Lạp cổ đại xoay quanh chuyện Hercules tẩm độc mũi tên bằng nọc độc của quái vật Hydra. Sử thi của Homer cũng nhắc đến việc sử dụng vũ khí tẩm độc trong trận chiến thành Trojan.
Người xưa sử dụng vô vàn cách khác nhau để tiêu diệt kẻ thù bằng chất độc. Ví dụ, người Hindu tẩm độc vào thức ăn của kẻ thù, người Trung Quốc đốt cây có chứa độc tố để tạo ra thứ gọi là "sương mù săn đuổi linh hồn", hay người Hy Lạp thả hoa lê lư có chứa độc tố xuống các cầu dẫn nước quan trọng để đầu độc nguồn nước. Ngay cả Leonardo de Vinci cũng nhắc đến câu chuyện về một con tàu lớn chứa đầy hỗn hợp gồm lưu huỳnh, thạch tín và gỉ đồng để tấn công tàu địch. Khi hít phải hơi từ hỗn hợp này bốc lên, các thủy thủ sẽ bị ngạt thở ngay tức khắc.
 
Chiến xa
Chiến xa là thứ vũ khí ưu việt trong giai đoạn Tân Vương Quốc của Ai Cập cổ (thế kỷ 16-11 trước Công nguyên). Trên thực tế, nó được coi là một siêu vũ khí của thế giới cổ đại. Lịch sử của chiến xa bắt đầu từ trước khi nó xuất hiện tại Ai Cập cổ đại hơn một thiên niên kỷ.
Vào năm 1927-1928, khi đang khai quật khu vực Nghĩa trang Hoàng gia Ur thuộc Iraq ngày nay, nhà khảo cổ học người Anh Leonard Woolley đã tìm thấy một cổ vật được gọi là Cờ hiệu Hoàng gia Ur (có niên đại vào thiên niên kỷ thứ ba trước Công nguyên). Một mặt của cổ vật này khắc họa cỗ máy chiến tranh vùng Lưỡng Hà có hình thù giống như một chiếc xe kéo bốn bánh được kéo bởi bốn con lừa. Người họa sĩ còn giải thích cách vận hành thứ vũ khí này bằng các hình vẽ mô tả trạng thái chuyển động khác nhau của nó. Những con lừa này đầu tiên là đi, sau đó là chạy nước kiệu và cuối cùng là phi nước đại. Để người xem hiểu rằng đây là một vũ khí chiến đấu, người họa sĩ còn thêm vào bức vẽ hình ảnh một hoặc hai kẻ địch bị chiến xa đè nát.
Người Ai Cập cổ đại sử dụng chiến xa chủ yếu để bảo vệ bộ binh. Vì địa hình của Ai Cập và Canaan không thích hợp để triển khai chiến xa hạng nặng, người Ai Cập dùng chiến xa như những bệ bắn di động thay vì dùng chúng để tấn công trực diện quân thù. Các chiến binh trên chiến xa được trang bị cung, tên và giáo ngắn. Không chỉ sử dụng chiến xa để bắn tên như mưa vào quân địch, người Ai Cập còn dùng cỗ máy chiến tranh này để truy đuổi quân thù đang tháo chạy.
 
Lửa Hy Lạp
"Lửa Hy Lạp" hay "Lửa Biển", là thứ vũ khí xuất hiện đầu tiên tại Đế chế Byzantine vào thế kỷ 7. Theo sử gia Theophanes, nó được phát minh vào thế kỷ 6 bởi kiến trúc sư người Hy Lạp Kallinikos, từng là cư dân thành phố Heliopolis trước khi chuyển đến Baalbeck sinh sống. Điều này hiện vẫn còn gây tranh cãi. Một số sử gia khác cho rằng nó được phát minh ở Constantinople bởi một nhóm các nhà hóa học theo trường phái Alexandria.
Thứ vũ khí này là một loại chất lỏng. Người ta đổ nó vào những cái bình rồi dùng máy bắn đá ném vào tàu địch hoặc dùng vòi để phun. Nó tự bốc cháy. Điều đáng chú ý là lửa vẫn cháy khi ở trong nước và việc đổ nước vào đám cháy chỉ làm cho nó càng lan rộng ra mà thôi. Vì thế, rất khó kiểm soát được lửa. Chỉ một sơ suất nhỏ cũng có thể gây thiệt hại và thương vong lớn cho các chiến thuyền của Byzantine.
Loại vũ khí này góp phần quan trọng đem lại thắng lợi cho thành Constantinople trước quân đội Arab và nhiều đội quân xâm lược khác sau đó.
 
Vũ khí sinh học
Lịch sử ghi nhận những tác động ghê gớm mà dịch bệnh, ô nhiễm và chất độc có thể gây ra đối với con người. Ngay từ thời tiền sử, con người đã rút ra được nhiều kinh nghiệm và kiến thức từ những bài học đắt giá đó và vận dụng chúng một cách triệt để vào việc chế tạo ra các loại vũ khí sinh học và không ngừng sử dụng chúng trong cuộc chiến chống lại kẻ thù.
Thời cổ đại, người ta chưa hiểu hết về sự lây lan của dịch bệnh, nhưng họ tin rằng xác người hoặc động vật thối rữa là nguồn bệnh. Từ năm 400 trước Công nguyên, các cung thủ người Scythia đã biết nhúng tên vào xác thối và máu dính phân. Những cung thủ người Anh thường cắm đầu mũi tên xuống đất ngay phía trước mặt mình. Làm như vậy, không những họ có thể rút mũi tên và bắn được nhanh, mà đầu mũi tên sẽ bị bẩn và dễ gây nhiễm trùng cho kẻ trúng tên. Từ năm 300 trước Công nguyên, các chiến binh Hy Lạp, La Mã và Ba Tư đã làm ô nhiễm các giếng nước bằng phân và xác động vật.
Vào thế kỷ 14, Cái chết Đen, một đại dịch được cho là sự bùng phát bệnh dịch hạch lan tràn khắp châu Âu, vùng Cận Đông và Bắc Phi, gây ra thảm họa y tế lớn nhất trong lịch sử nhân loại và cướp đi sinh mạng của 75-200 triệu người. Thật đau đớn khi biết được rằng đại dịch này một phần do chính con người gây ra trong chiến tranh. Xác chết được ném qua bức tường của thành phố đang bị vây hãm nhằm uy hiếp, tạo nên mùi hôi thối không thể chịu được (bản thân thứ mùi này cũng chứa mầm bệnh) và gây bệnh truyền nhiễm cho quân thù.
 
Chiến thuật ruồi bu của người Scythia
Người Scythia nổi tiếng với chiến thuật ruồi bu, được thực hiện trước khi tiến hành bất kỳ một chiến thuật nào khác như đánh nghi binh hay phòng thủ.
Khi thực hiện chiến thuật này, nhiều đơn vị sẽ bao vây và tấn công mục tiêu cùng một lúc. Tuy nhiên, các đơn vị sẽ di chuyển cùng mục tiêu nhằm tiêu hao từng phần sinh lực địch và phá vỡ đội hình quân địch ngay từ bên trong. Việc di chuyển chậm chạm cùng với việc liên tục bị bắn tỉa từ xa khiến quân địch khiếp đảm và nhụt chí. Đội quân La Mã phải nếm trải điều này khi họ chỉ có thể di chuyển và chiến đấu trong vòng vây của đối phương chỉ cách đó một mét. Người Scythia đã tận dụng khoảng cách này tại trận chiến Carrhae năm 53 trước Công nguyên.
"Họ (quân La Mã) co cụm lại trong một không gian chật hẹp, bị vướng vào nhau và bị bắn hạ bằng tên", sử gia người Hy Lạp Plutarch viết.
Hàng rào tên dày đặc khiến quân địch dần dần mất phương hướng, vì thế mà giúp các cung thủ trên mình ngựa có thể tập trung tuyệt đối tiêu diệt quân địch. Có thể nói rằng, chiến thuật mở màn trận đánh này nghĩa là bắn tên như mưa vào quân địch, giữ chặt mục tiêu nhằm làm tiêu hao sinh lực địch, cho phép các cung thủ trên lưng ngựa bắn hú họa rồi nhắm bắn chính xác mục tiêu.
 
Vũ khí hóa học
Những bằng chứng khảo cổ đầu tiên của việc sử dụng vũ khí hóa học được tìm thấy ở khu vực Dura-Europos, bên bờ sông Euphrates, Syria. Dura-Europos là thành phố La Mã rơi vào tay người Sassania vào khoảng giữa thế kỷ 3.
Mặc dù không có ghi chép nào về cuộc vây hãm cuối cùng, nhưng các nhà khảo cổ Pháp và Mỹ đã tìm ra manh mối về những gì diễn ra. Nhiều cuộc khai quật thành phố Dura-Europos được tiến hành vào những năm 1920 và 1930. Các nhà khảo cổ tìm thấy một hầm mỏ của người Ba Tư và một hầm mỏ khác của người La Mã. Ngoài ra, họ còn tìm thấy xác của ít nhất 19 lính La Mã và một lính Sassania chất đống trong đường hầm.
Năm 2009, sau khi nghiên cứu các chứng cứ thu thập được, người ta hiểu được những gì đã diễn ra trong cuộc vây hãm. Người Sassania đã sử dụng khí độc để tiêu diệt quân cảnh vệ La Mã. Họ ném lưu huỳnh và nhựa đường vào lửa, tạo thành một loại khí gây ngạt. Khi lính cảnh vệ La Mã hít vào, chất khí này sẽ trở thành axit sunfuric. Chỉ vài phút sau đó, quân La Mã trong đường hầm đều chết hết. Điều này xảy ra khi quân La Mã đột nhập vào hầm mỏ của người Sassania nằm ngay phía dưới hầm mỏ của họ. Người lính Sassania duy nhất bị chết có thể là nạn nhân của chính vũ khí mà anh ta sử dụng và cũng chết vì ngạt khí độc. Sau khi đường hầm đã thông, người Sassania chất xác lính thành một đống ở miệng hầm của người La Mã như bức tường bảo vệ và tiến vào tiêu diệt hầm này.
 
Tâm lý chiến
Trận Pelusium là trận chiến quan trọng mang tính lịch sử diễn ra vào thế kỷ 6 trước Công nguyên. Trong trận chiến này, người Ba Tư đánh bại người Ai Cập và trở thành chủ nhân mới của vùng đất này. Trận chiến là một trong những ví dụ đầu tiên của việc sử dụng chiến tranh tâm lý. Biết việc người Ai Cập tôn thờ mèo và coi đó là biểu tượng của nữ thần Bastet, vua Ba Tư Cambyses II hạ lệnh cho binh sĩ vẽ hình thần mèo lên khiên. Người ta kể lại rằng trong suốt trận đấu, quân đội Ba Tư luôn đi sau một bầy mèo rất đông. Người Ai Cập không dám làm hại con vật linh thiêng này nên buộc phải dâng thành cho người Ba Tư.
 
Vũ khí tia nhiệt của Archimedes
Người ta nói rằng nhà toán học, kỹ sư, nhà phát minh và nhà thiên văn học người Hy Lạp Archimedes (287-212 trước Công nguyên) đã sáng chế ra loại vũ khí tia nhiệt, còn gọi là "tia chết" để tiêu diệt những tàu chiến tấn công Syracuse, thành phố nổi tiếng trong lịch sử Sicily. Theo tác giả Lucian vào thế kỷ hai và nhiều thế kỷ sau đó, thứ vũ khí này tập trung ánh sáng phản chiếu từ các khiên đồng đánh bóng vào tàu đối phương khiến chúng bốc cháy.
Mặc dù các nhà sử học vẫn đang tranh cãi về vũ khí này, nhưng các thí nghiệm đã chứng minh được sự tồn tại của nó là có thể. Năm 1973, nhà khoa học người Hy Lạp Ioannis Sakkas cho dựng 70 tấm gương phủ đồng chiếu vào một mô hình tàu chiến La Mã làm bằng gỗ dán ở cách đó 50 m. Khi ánh sáng phản chiếu từ các tấm gương hội tụ vào con tàu, nó bốc cháy.
Năm 2005, một nhóm sinh viên từ Viện Công nghệ Massachusettes, Mỹ cũng mô phỏng thành công vũ khí cổ đại này. Họ sử dụng những mảnh gương hình vuông đốt cháy một con thuyền ở cảng San Francisco.
Ngọc Anh (Ảnh: Ancient Origins)
Legion La Mã- Huyền thoại bộ binh
Legion Romana tức Quân đoàn La Mã, Binh đoàn La Mã là một đơn vị tổ chức của Quân đội La Mã trong giai đoạn từ Cộng hòa La Mã tới Đế quốc La Mã. Legion Romana được phiên âm là Lê dương La Mã để chỉ loại bộ binh nặng và đôi khi là toàn bộ Quân đội La Mã. Lực lượng nòng cốt của Quân đoàn La Mã là bộ binh nặng hay lê dương (phiên âm Hán Việt của tiếng Pháp légion) kèm theo quân đồng minh hỗ trợ (auxilium, binh lính không có quyền công dân La Mã), kỵ binh, lính xạ kích (bắn cung, máy bắn đá) và lính ném lao. Về mặt từ nguyên, trong tiếng Latinh legion có nghĩa là "chế độ quân sự cưỡng bách", có nguồn gốc từ lego nghĩa là tập trung.
Quân số của một quân đoàn La Mã tiêu biểu biến đổi theo thời gian. Trong giai đoạn Cộng hòa mỗi quân đoàn có 4.200 người chia thành 30 đến 35 tiểu đoàn (manipulus), mỗi tiểu đoàn 120 đến 140 người. Sang giai đoạn Đế quốc quân số của một quân đoàn tăng lên thành khoảng 5.200 người cộng thêm quân đồng minh hỗ trợ chia làm 10 đội quân (cohort), mỗi đội quân có 480 lính, riêng đội quân thứ nhất có 800 lính. Bộ binh được yểm trợ bởi kỵ binh ở hai bên sườn và lính xạ kích ở phía sau.
Vì các quân đoàn thường trực chỉ được tổ chức trong hệ thống quân đội La Mã sau cải cách của Marius (107 TCN) còn trước đó nó có tính nhất thời (được thành lập, sử dụng khi cần thiết và sau đó giải tán) nên hàng trăm quân đoàn đã được đặt tên và xếp số thứ tự trong lịch sử La Mã. Đến nay, chỉ có khoảng 50 quân đoàn có thể xác định được rõ ràng. Trong thời kỳ đầu của Đế quốc La Mã, thường có 25 đến 35 quân đoàn thường trực cùng với quân đồng minh và sẽ được tăng thêm khi cần thiết. Xem Danh sách các quân đoàn La Mã để biết thêm thông tin về chúng trong từng giai đoạn.
Vì sự thành công về quân sự của Cộng hòa La Mã và Đế quốc La Mã, quân đoàn La Mã từ lâu đã được coi là mô hình ưu tú thời cổ đại về năng lực và hiệu quả quân sự.
Lính Lê dương La Mã là những người lính chuyên nghiệp trong quân đội La Mã cổ đại sau những cải cách của Marius năm 107 TCN. Lính Lê dương La Mã phải là công dân La Mã dưới 45 tuổi. Họ sẽ được tuyển vào một quân đoàn La Mã trong một thời hạn quân dịch là 25 năm, một sự thay đổi so với trước đó là các người lính chỉ được gọi khi La Mã gặp các cuộc xung đột quân sự. Năm năm cuối, khi họ đã là các chiến binh kỳ cựu sẽ nhận các nhiệm vụ nhẹ nhàng hơn.
Khi hành quân trên các địa hình phức tạp, lính Lê dương cần phải mang theo áo giáp (lorica segmentata), khiên (scutum), nón sắt (galea), hai giáo phi (1 giáo nặng pilum và một giáo nhẹ), một đoản đao (pugio), một cặp Sandal nặng (Caligae), một túi đồ Sarcina, mười bốn ngày lương thực, một túi da đựng nước, đồ dùng nấu ăn, hai cái cọc (Sudes murale) để xây dựng lũy, một cái xẻng hoặc cái túi đan bằng liễu gai.
Lính Lê dương được huấn luyện rất chặt chẽ và khắc nghiệt; kỷ luật là nền tảng cho thành công của cả quân đội và những người lính phải tuân theo một chế độ huấn luyện liên miên và khắc nghiệt với vũ khí đặc biệt là trong cách hành quân: họ bị ép buộc phải luôn mang theo số quân trang lớn nhất di chuyển trong một đội hình khít thường xuyên. Kỷ luật là quan trọng nhất và mọi sự vi phạm đều sẽ bị trừng trị rất nặng bởi các sĩ quan chỉ huy. (xem thêm kỷ luật và các hình thức trừng phạt trong Quân đoàn la Mã)
Các quân đoàn thường chỉ huấn luyện Lính Lê dương, các loại quân khác được huấn luyện ở các trường địa phương. Việc huấn luyện thực hiện ngay tại nơi đóng quân. Binh lính được huấn luyện các kỹ năng chủ yếu như: bơi, ném đá, bắn cung phóng lao....
Kỷ luật của các quân đoàn La Mã nói riêng và cả quân đội La Mã nói chung vô cùng khắc nghiệt. Quy tắc đề ra luôn phải được tuân thủ một cách nghiêm ngặt, binh lính vi phạm sẽ bị trừng phạt rất nặng. Nhiều lính Lê Dương rất sùng bái nữ thần kỷ luật Disciplina, lẽ sống của họ là cần kiệm, nghiêm khắc với bản thân và lòng trung thành tuyệt đối.
họ cũng đã sáng tạo ra đội hình con rùa khét tiếng. Đội quân La Mã được chia làm nhiều toán gọi là legion. Khi tấn công, các đội quân đột kích này xếp thành hình con rùa, quân lính tự lấy khiên bọc quanh mình, còn quân lính ở giữa thì lấy khiên che trên đầu, bảo vệ đầu mình và bảo vệ đầu của những người lính ở vòng ngoài.
Đội quân tiến lên một cách an toàn, nên đội hình con rùa là bất khả xâm phạm, bảo vệ những người lính bằng "Bức tường sắt thép" này. Đây là cách chiến đấu hữu hiệu nhất.
về 1 quân đoàn thì cũng có nhiều loại lính khác nhau phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau, ngoại trừ các lính cơ bản nhất nhận khiêng vuông và kiếm ngắn, họ còn có các loại lính ném đá, lính phóng lao, lính bắn cung, lính thổi tù và, kị binh, lính cầm cờ hiệu, Mỗi quân đoàn đều có 1 biểu tượng nhất định, khi mất biểu tượng này cũng đc coi là mất danh dự của quân đoàn, và quân đoàn đó sẽ được lệnh giải tán vì đc coi là nỗi ô nhục của legion La Mã
về cách đánh thì thường thường những người lính bộ binh được trang bị lao, sau khi phóng vào quân địch thì họ sử dụng kiếm ngắn và khiêng để tạo thành đội hình con rùa rồi nhờ sự yểm trợ của xạ kích và kị binh để lao vào giáp chiến
nguồn wiki
#KBG

Những chiến binh La Mã cổ đại đã chết như thế nào?


Năm 1920, một cuộc khai quật của các nhà khảo cổ học tại Syria đã phát hiện được 20 bộ xương người trong một đường hầm. Chủ nhân của những bộ xương này nhanh chóng được xác định là những chiến binh cổ đại, từ khoảng hơn 2.000 năm trước. Nhưng tất cả họ đều không có dấu hiệu bị chết bởi gươm giáo.

Những cái chết bí ẩn

Năm 2011, tiến sỹ Simon James, một nhà khảo cổ và sử học tại đại học Leicester (Anh) lật lại hồ sơ, và ông không đồng ý với kết luận này của các nhà khoa học tiền bối bởi nó mang nặng tính phỏng đoán mà thiếu chứng cứ khoa học. Nghiên cứu lại toàn bộ hồ sơ dữ liệu của cuộc khai quật, tiến sỹ James đi đến một kết luận bất ngờ: Họ chết bởi khói độc! Con người đã biết sử dụng vũ khí hóa học từ 2.000 năm trước. Diễn biến dẫn đến cái chết dưới hầm ngầm từ hơn 2.000 năm trước của những chiến binh này được ông mô tả lại dựa trên những chứng cứ khoa học đã thuyết phục được cả giới nghiên cứu.

Vào một ngày cách đây hơn 2.000 năm, 19 chiến binh La Mã đổ xô vào một đường hầm chật hẹp dưới lòng đất, chuẩn bị sẵn sàng để bảo vệ thành phố Dura của đế chế La Mã trên đất Syria trước cuộc tấn công của đội quân Ba Tư. Kẻ thù đang đào những đường hầm ngầm xuyên dưới chân các bức tường thành vững chãi mà họ đang trấn giữ.

Tuy nhiên, thay vì đụng độ với các chiến binh Ba Tư dưới đường hầm, những người lính La Mã xấu số này đã gặp phải một làn khói đen đặc và vô cùng độc hại. Trong phút chốc, phổi của họ bị đốt cháy. Những thanh gươm sắc bén trên tay không giúp gì được cho họ trước kẻ thù bất ngờ và tàn độc này. Toàn bộ nhóm lính La Mã chết đau đớn chỉ trong khoảnh khắc, nhiều người vẫn còn giữ những đồng tiền lương cuối cùng của họ trong chiếc túi đeo ở thắt lưng. Ngay gần đó, một người lính Ba Tư cũng phải chịu cái chết kinh hoàng như kẻ thù của mình. 20 người đàn ông này, được xác định chết vào năm 256 Trước công nguyên, chính là những nạn nhân đầu tiên của chiến tranh hóa học trên thế giới.
 Chiến binh Ba Tư này đã chết đau đớn cùng với kẻ thù trong đường hầm.

Vũ khí hoá học là thủ phạm

Trong những năm 250 trước công nguyên, đế chế Ba Tư của người Sasanian bắt đầu thời kỳ cực thịnh. Họ quyết định tấn công chiếm thành phố Dura vốn đang nằm dưới sự cai quản của đế chế La Mã. Đây là một mục tiêu cực kỳ khó xâm nhập đối với bất cứ một đội quân nào, dù là hùng mạnh đến mấy. Được bao bọc bên ngoài bởi sông Euphrates, những bức tường thành Dura lại dày tới hàng mét khiến việc công thành theo những cách truyền thống trở nên vô nghĩa.

Trước tòa thành bất khả xâm phạm này, người Ba Tư không chịu bỏ cuộc. Họ nghĩ ra một cách đánh mới: Đào các đường hầm xuyên qua bên dưới những bức tường thành để đưa lính xâm nhập vào bên trong thành phố. Một đường hầm như thế, dài tới 40 mét đã được tìm thấy còn nguyên vẹn trong cuộc khai quật khảo cổ học vào năm 1920. Để đối phó lại, quân La Mã cũng  đào các đường hầm vòng quanh tường thành để ngăn chặn đối phương chui lên từ lòng đất. Cuộc chiến giữa hai bên chuyển từ mặt đất xuống các đường hầm tối tăm chật hẹp.

Trò chơi mèo đuổi chuột dưới lòng đất lần đầu tiên được mô tả bởi nhà khảo cổ học Robert de Mesnil. Ông cũng chính là người đã khai quật các đường hầm này vào năm 1920 và tìm thấy bộ xương của 19 binh sĩ La Mã và 1 binh sĩ Ba Tư nói trên. Khi đó, Mesnil phán đoán rằng, đã có một trận chiến giáp lá cà khốc liệt diễn ra tại đây.

Người Ba Tư đã đốt cháy đường hầm phòng ngự của người La Mã, khiến các chiến binh La Mã chết cháy. Giả thiết của nhà khảo cổ học người Pháp này không phải là không có cơ sở, bởi ông đã tìm thấy dấu vết của lưu huỳnh và dầu thông trong đường hầm. Đây là những vật liệu gây cháy vốn đã rất phổ biến thời trung cổ, và việc chúng thường được dùng trong các trận đánh chiếm thành đã được lịch sử ghi lại.

Quan điểm của Robert de Mesnil đã được giới chuyên môn chấp nhận suốt từ khi công bố những năm 1920. Gần một thế kỷ sau, năm 2011, khi nghiên cứu lại vấn đề trên, tiến sỹ James đã không đồng tình với lý giải của bậc tiền bối. Những đường hầm chật hẹp dưới lòng đất sâu không phù hợp cho một trận chiến giáp lá cà của cả hàng chục chiến binh. Ông cũng không cho rằng họ bị chết cháy. Lúc đầu, ông nghĩ rằng những người lính La Mã đã giẫm đạp lên nhau trong khi cố gắng thoát ra khỏi đường hầm. Nhưng khi nghiên cứu kỹ các bộ xương, nhà khoa học người Anh phát hiện một sự thật bất ngờ: Họ chết vì ngạt khói độc. Người Ba Tư đã hun khói độc trong đường hầm của người La Mã.

Do cả hai bên đều đào đường hầm để tấn công và phòng ngự ở dưới lòng đất, nhờ các tiếng động, họ có thể nhận ra đối phương khi các đường hầm sắp ăn thông với nhau. Quân Ba Tư đã đốt sẵn khói độc trong phần đường hầm của mình như một cái bẫy chờ sẵn quân La Mã, rồi họ rút lên mặt đất, không quên chặn hầm. Khi quân La Mã phá vỡ vách đất ngăn cách đường hầm hai phe, khói độc từ đường hầm của quân Ba Tư tràn sang đường hầm của quân La Mã, lan tỏa rất nhanh nhờ hệ thống thông gió của các đường hầm này.

Dấu vết của lưu huỳnh và dầu thông trong đường hầm mà Mesnil tìm thấy cũng được tiến sỹ James giải thích rất logic: Người Ba Tư đã sử dụng dầu thông để đốt cháy lưu huỳnh với nồng độ đậm đặc, biến thành hơi axit sulphuric. 19 người lính La Mã gục chết ngay tức khắc khi hít phải thứ khói độc này, khiến phổi bị cháy đen trong tích tắc.

Bản thân một người lính Ba Tư, vì một lý do nào đó đã ở lại đường hầm, cũng phải chịu chung kết cục bi thảm như kẻ thù. Quan sát vị trí các mảnh áo giáp còn sót lại trên bộ xương, tiến sỹ James đã nhận ra rằng, nhiều mảnh thuộc phần ngực áo nhưng lại nằm lên phần xương mặt và cổ. Điều đó chứng tỏ người lính Ba Tư xấu số này đã cố gắng kéo áo lên để che mặt khi hít phải khí độc. Hành động này chỉ đơn thuần là mang tính phản xạ theo bản năng, chứ không thể giúp anh ta thoát khỏi cái chết kinh hoàng do chính quân mình giăng ra.

Những chiến binh La Mã khác kinh hoàng trước làn khói độc chết người ấy và nhanh chóng tháo chạy. Những người Ba Tư thì chờ khói tan rồi quay lại bịt cửa hầm một cách vội vã, hòng ngăn kẻ thù truy kích. Họ đã xếp chồng các xác chết lên nhau, nhưng nỗi khiếp sợ trước hiệu quả khủng khiếp đến không ngờ của làn khói độc do chính mình tạo ra đã khiến những chiến binh Ba Tư không dám nán lại để lục soát xác chết. Đó là lý do vì sao tiền xu, áo giáp và vũ khí của những người chết vẫn còn nguyên vẹn.

Giả thiết của tiến sỹ James đã nhận được sự đồng tình của các nhà khoa học. Ông đã giải thích được tất cả những gì Robert de Mesnil đã khám phá một cách đầy thuyết phục. Cách giải thích này cũng rất phù hợp với bối cảnh lịch sử cổ đại lúc đó. Đế chế Ba Tư đã từng là một đế chế hùng mạnh, có một nền văn minh rực rỡ, một nghệ thuật quân sự phát triển đến mức tinh vi, đánh đâu thắng đó.

Đặc biệt, trước trận Dura, đã có một số hình thái sơ khai của vũ khí hóa học xuất hiện. Năm 189 trước công nguyên, người Hy Lạp đã đốt lông gà rồi lợi dụng hướng gió, thổi khói vào quân La Mã đang vây thành. Vì vậy, việc người Ba Tư đã học hỏi được các kinh nghiệm của tiền nhân, rồi phát minh ra vũ khí hóa học đầu tiên của loài người là điều hoàn toàn có thể xảy ra.      

Di họa lâu dài

Trong hai cuộc Thế chiến và hàng chục cuộc chiến cục bộ khác nhau trên toàn thế giới, vũ khí hóa học hiện đại đã góp phần giết chết hàng chục triệu người, để lại di chứng nặng nề cho những người còn sống sau nhiều thập kỷ. Nghị định thư Geneve 1925 cấm sử dụng vũ khí hóa học, nhưng lại không cấm việc sở hữu. Vì vậy, hàng loạt quốc gia dù đã ký kết Nghị định thư này nhưng vẫn vô tình làm tổn hại thế lực thù địch bằng vũ khí hóa học. Các quốc gia không tham gia thì vẫn vô tư sử dụng. Điển hình là trong cuộc chiến Iran - Iraq kéo dài 8 năm (1980-1988), nhà cựu độc tài Iraq Saddam Hussein đã sử dụng các loại vũ khí hóa học khác nhau khiến khoảng 20.000 quân Iran thiệt mạng, khoảng 80.000 người bị thương và gánh chịu di họa cho đến tận ngày nay. Ngày 15/12/1980, Việt Nam đã chính thức phê chuẩn Nghị định thư này.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét