Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 77/q (VŨ KHÍ CỔ ĐẠI)

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                              Vũ khí cổ đại P16

Boudicca, Nữ hoàng Celtic và cơn thịnh nộ cho người La Mã 

Boudicca, đôi khi còn được viết là Boadicea, là tên của nữ hoàng bộ tộc Iceni của gia tộc Celtic, bộ tộc đã thống nhất một số bộ lạc người Anh trong cuộc nổi dậy chống lại cuộc xâm lược của đế chế La Mã vào năm 60-61 sau công nguyên.

Nữ hoàng Celtic, cơn thịnh nộ, Boudicca, Bài chọn lọc,
“Chúng ta, những người Anh quốc, đã từng trải qua thời kỳ phụ nữ làm thủ lĩnh trong chiến tranh. Là hậu duệ của những vĩ nhân, nhưng giờ đây tôi không chiến đấu cho vương quốc và sự giàu có của mình. Tôi chiến đấu vì mất tự do, cơ thể bị đánh đập và con gái của bị xâm phạm…. Hãy xem có bao nhiêu người đang chiến đấu, vì điều gì? Các bạn có thể dành chiến thắng hoặc thất bại. Đó là những gì tôi, một người phụ nữ, lên kế hoạch để thực hiện – hãy để con người sống trong chế độ nô lệ nếu họ muốn”
- Nhà sử học cổ đại Tacitus trích lại lời kêu gọi của Nữ hoàng Boudicca khi tập hợp người Anh để phát động cuộc chiến chống lại sự đô hộ của người La Mã -
Tiếng tăm của bà vang dội sau khi đánh bại người La Mã trong ba trận đánh lớn, dù chiến thắng không bền lâu. Người La Mã tăng cường quân lực và cuối cùng đè bẹp cuộc nổi dậy, hành quyết hàng ngàn người Iceni và biến số còn lại thành nô lệ. Cái tên Boudicca ghi dấu trong lịch sử để nói tới một nữ hoàng, nữ chiến binh dũng cảm đã chiến đấu vì tự do để giải phóng bản thân và bộ tộc Celtic của Anh khỏi ách thống trị của La Mã.
 
Những năm đầu tiên
Nữ hoàng Celtic, cơn thịnh nộ, Boudicca, Bài chọn lọc, Nữ hoàng Bouddica xứ Celtic
Ít ai được biết về tiểu sử của Boudicca bởi thông tin duy nhất có được về bà là ở La Mã, đặc biệt từ các ghi chép của Tacitus (năm 56-117 sau công nguyên), một chính trị gia và sử gia của đế chế La Mã, và của Cassius Dio (năm 155-235 sau công nguyên), một sứ giả người Roman chuyên ghi chép lịch sử.
Tuy nhiên, người ta tin rằng bà được sinh ra trong một gia đình ưu tú tại thị trấn cổ Camulodunum (giờ là Colchester) trong khoảng năm 30 sau công nguyên, và có thể đã được đặt theo tên của nữ thần chiến thắng Celtic là Boudiga.
Lúc thiếu thời, bà có thể đã được gửi tới một gia đình quý tộc khác để học về lịch sử và các phong tục của bộ lạc, Boudicca cũng được học cách chiến đấu trong trận chiến.
Phụ nữ Celtic cổ mang cả hai vai trò là chiến binh và thủ lĩnh, các bé gái có thể được huấn luyện để chiến đấu bằng kiếm và các vũ khí khác giống con trai. Phụ nữ Celtic trong thế giới cổ đại có sự khác biệt rõ rệt do họ được hưởng tự do và địa vị trong xã hội. Họ được cấp nhiều quyền tự do hoạt động và được luật pháp bảo hộ hơn nhiều so với phụ nữ tại Hy Lạp, La Mã, và những xã hội cổ đại khác,
Nữ hoàng Celtic, cơn thịnh nộ, Boudicca, Bài chọn lọc, Phụ nữ Celtic được huấn luyện dùng kiếm và vũ khí khác
Năm 43 sau công nguyên, trước lúc Boudicca đến tuổi trưởng thành, lính La Mã xâm chiếm nước Anh và hầu hết tộc người Celtic đã buộc phải đầu hàng. Tuy nhiên, người La Mã cho phép hai vị vua Celtic giữ lại một số quyền nhất định, do đế quốc La Mã có thông lệ cho phép các quốc gia được tự chủ trong thời gian trị vì của vị vua đương thời, để rồi sau đó trong di chúc sẽ để lại vương quốc của mình cho thành Rome.
Khi 18 tuổi, Boudicca đã kết hôn với Prasutagus, một trong hai vị vua kể trên. Đám cưới của họ được tổ chức trong một ngày đêm và cùng lúc họ lễ bái các vị thần Celtic. Họ sinh được hai công chúa, tên là Isolda và Siora.
Tuy vậy, đây không phải là thời gian hạnh phúc cho Boudicca và Prasutagus. Sự chiếm đóng của La Mã dẫn tới nhiều thỏa thuận, sự hiện diện của binh lính, thành Rome luôn tìm cách đàn áp văn hóa tôn giáo của người Celtic. Vương quốc này phải đưa ra nhiều thay đổi lớn về kinh tế, bao gồm đánh thuế cao và cho vay nặng lãi.
Năm 60 sau công nguyên đánh dấu sự thay đổi lớn trong cuộc đời Boudicca khi chồng bà tạ thế.
Prasutagus cai trị với danh nghĩa độc lập nhưng buộc phải làm “đồng minh” của Roma, ông để lại vương quốc của mình cho vợ, hai con gái và hoàng đế La Mã. Tuy nhiên, luật La Mã chỉ cho phép dòng nam được kế thừa, nên khi Prasutagus chết, vương quốc của ông đã bị sáp nhập vào La Mã như thể là đã bị thôn tính.
“Vương quốc và gia đình bị cưỡng đoạt như những chiến lợi phẩm… Các thủ lĩnh của Iceni bị tước đoạt đất đai, nhà cửa giống như cả vương quốc đã được bàn giao cho người La Mã. Thân quyến của nhà vua bị đối xử như nô lệ”. – Tacitus đã chép lại lịch sử lúc bấy giờ.
Để nhục mạ hoàng tộc từng cai trị vương quốc, lính La Mã tịch thu đất đai và tài sản của Prasutagus, quý tộc bị bắt làm nô lệ, công khai đánh đập Boudicca, và hãm hiếp hai con gái của bà. Đây chính là nguyên nhân khiến Boudicca đòi trả thù những kẻ xâm lược tàn bạo vùng đất của mình. Tacitus ghi lại những lời nói của Boudicca khi nữ hoàng tuyên thệ sẽ trả thù cho tội ác của kẻ xâm lược La Mã:
“Không có gì là an toàn dưới sự tự phụ và kiêu ngạo của người La Mã. Chúng sẽ hủy hoại sự trang nghiêm và cưỡng bức những người phụ nữ trong trắng của chúng ta. Thắng trận hoặc bỏ mình, đó là những gì tôi, một người phụ nữ, sẽ làm.”
Và thế là Boudicca bắt đầu chiến dịch của mình, triệu tập người Anh chiến đấu chống lại đế chế La Mã, minh chứng cho câu nói “Địa ngục cũng không tàn khốc bằng cơn thịnh nộ của phụ nữ”.
Nữ hoàng Celtic, cơn thịnh nộ, Boudicca, Bài chọn lọc, Tác phẩm ‘Boadicea Haranguing the Britons’ của tác giả John Opie. (Nguồn ảnh: Wikipedia)

Bùi Hương, Bruce Phan (Theo Ancient Origions)

Giải mã vũ khí bí mật của Hanibal - thiên tài quân sự khiến thành Rome thất thủ

20/10/2016 13:10:06
Hannibal, danh tướng đã khiến Napoléon phải thốt lên "đây là thiên tài quân sự cần học hỏi" đã sử dụng loại vũ khí bí mật có một không hai trong lịch sử để giành chiến thắng lẫy lừng trong trận thủy chiến với vua Eumenes II.
Trong lịch sử quân sự thế giới, không ít lần động vật được huấn luyện để trở thành đội quân dũng mãnh, góp phần giành chiến thắng đầy bất ngờ.
Ngựa, chó, lạc đà là bốn trong rất nhiều động vật được các tướng lĩnh thời xưa huấn luyện để sử dụng như những chiến binh cảm tử nhất.
Tuy nhiên, vị tướng Hannibal của đế chế Carthage, người được xem là chiến thuật gia đại tài trong lịch sử quân sự thế giới, đã sử dụng một loài động vật chưa từng có trong tiền lệ cùng mưu kế tuyệt vời để chiến thắng đội quân La Mã và nhiều đế chế hùng mạnh, khát chiến khác.
Ông dùng voi chiến và rắn độc!
La Mã - Kẻ thù truyền kiếp của người Carthage
Là một trong những đế chế hùng mạnh nhất thời cổ đại, đế chế La Mã từ một vùng đất nhỏ, trải qua hàng loạt các cuộc chiến tranh xâm lược, đã trở thành một cường quốc rộng lớn, thâu tóm nhiều vùng đất màu mỡ.
Để có thể tồn tại suốt 16 thế kỷ dài đằng đẵng (từ năm 27 TCN đến năm 1453), La Mã không ít lần đem quân xâm chiếm nhiều đế chế và các nền văn minh lân cận, trong đó, Carthage là một trong những đế chế từng bị gót ngựa của quân La Mã giày xéo.
Trước khi La Mã đem quân đi xâm chiếm, Carthage là một đế chế hùng mạnh, trở thành bá chủ một vùng Địa Trung Hải rộng lớn.
Dưới thời của Hamilcar Barca (cha của danh tướng Hannibal, người chỉ huy quân đội trong cuộc Chiến tranh Punic lần 1), đế chế Carthage sở hữu hạm đội hải quân vô cùng hùng mạnh và thiện chiến.
Tuy nhiên, sau 3 cuộc Chiến tranh Punic kéo dài hơn 100 năm giữa đế chế La Mã và Carthage (kéo dài từ năm 264 TCN đến năm 146 TCN), mặc dù thắng La Mã trong cuộc Chiến tranh Punic lần thứ 2, nhưng cuối cùng người Carthage và danh tướng Hannibal cũng phải chịu sự thất bại vô cùng đẫm máu.
Mặc dù thất bại trước một La Mã hùng mạnh, nhưng sử sách vẫn ghi tên Hannibal với tư cách là một vị tướng có tài chiến thuật đỉnh cao.
Nhờ có ông mà, trong cuộc Chiến tranh Punic lần thứ hai (218 TCN - 202 TCN), La Mã phải nhận thất bại thảm hại nhất trong lịch sử mà Roma phải trải qua.
Tài dùng binh đỉnh cao của danh tướng Hannibal khiến La Mã phải khiếp sợ
Để nói đến những chiến thuật dụng binh của Hannibal, người từng khiến La Mã khiếp sợ, có lẽ không thể kể hết.
Thành tựu nổi bất nhất liên quan đến tài dụng động vật như chiến binh của Hannibal (sinh năm 247 TCN - mất năm 183 TCN) phải kể đến lần đánh La Mã trong cuộc Chiến tranh Punic lần 2.
1. Đội quân voi chiến bất tử của Hannibal
Sau khi kết thúc Chiến tranh Punic lần thứ nhất, vào năm 219 TCN, Hannibal bao vây và tiêu diệt hoàn toàn thành Saguntum (đồng minh của La Mã tại Tây Ban Nha) và chính thức mở cuộc Chiến tranh Punic lần thứ hai.
Vào mùa thu năm 218 TCN, sau khi chuẩn bị đủ binh lực, Hannibal đã thực hiện một cuộc hành quân chưa từng có trong lịch sử: Chỉ huy đội quân gần 100.000 kỵ binh, bộ binh và voi chiến đi 1.600 km trong hơn 5 tháng ròng rã để vượt qua dãy núi Alps, bí mật đánh quân La Mã từ phía sau.

Cuộc vượt dãy núi tuyết "không tưởng" của Hannibal đã giúp ông dành chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Punic lần 2.
Bất chấp tuyết lạnh, sự khắc nghiệt đến tột cùng của thời tiết vùng núi cao bậc nhất châu Âu, bất chấp những lần giao chiến với bộ lạc thổ dân, bất chấp cả những khan hiếm về nhu yếu phẩm, đội quân hàng chục nghìn người và voi chiến của Hannibal đã vượt núi thành công.

Hàng trăm nghìn quân lính, voi chiến của Hannibal bất chấp thời tiết khắc nghiệt qua dãy núi dài bậc nhất châu Âu.
Sau hơn 150 ngày ròng rã, đội quân của Hannibal đã vượt dãy Alps và đặt chân lên miền Bắc của La Mã, bắt đầu cuộc tấn công khủng khiếp giáng vào quân địch.
Trải qua hàng loạt các trận chiến như Trebia, Trasimene và Cannae trên "đất khách quê người", Hannibal đã đánh tan tác quân La Mã ngay tại đất nước của họ.
Đội quân voi chiến và ngựa chiến của Hannibal tiến đánh quân La Mã khủng khiếp chưa từng có. Quân La Mã choáng váng và bất ngờ. Lịch sử ghi nhận đây là lần thất bại khủng khiếp nhất của Roma trong lịch sử.
Chiến tích dẫn đoàn voi chiến vượt dãy núi Alps để tấn công thành Rome của La Mã từ phía sau nghe đã là "không tưởng" và hiếm có ai có thể thực hiện được. Tuy nhiên, vẫn có những mưu kế và chiến lược mà Hannibal còn "cao tay" hơn.
2. Lính biệt kích rắn: Đội quân khiến đội quân đế quốc Pergamon hoảng loạn cực độ
Sử sách ghi chép rằng, sau khi kết thúc cuộc Chiến tranh Punic lần thứ hai với quân La Mã, thừa thắng xông lên, Hannibal tiếp tục tiến hành cuộc thủy chiến "mất ít sức" vào đế quốc Pergamon của vưa Eumenes II (thời Hy Lạp cổ đại).

Thủy chiến tốn ít sức nhất của Hannibal.
Trong trận chiến này, nhận thấy quân địch chiếm ưu thế và số lượng hơn rất nhiều, Hannibal đã nghĩ ra một diệu kế khiến các sử gia hiện đại về sau khâm phục không ngớt lời.
Trước khi tham chiến, bằng con mắt tinh tường, Hannibal quan sát kỳ hành tung của chiếc chiến thuyền của vua Eumenes II.
Mặt khác, ông sai quân bắt hàng trăm con rắn độc bí mật cho vào những chiếc bình lớn, để lên thuyền của ông.
Khi cuộc chiến nổ ra, Hannibal tiến thẳng đến chiến thuyền của vua Eumenes II, chỉ huy quân lính đột nhập thuyền và phóng hàng loạt bình rắn độc lên thuyền vua Eumenes II.
Hoảng sợ khi nhận thấy nhiều quân lính bị giết chết bằng những "chiến binh" động vật, vua Eumenes II và quân lính trên thuyền bắt đầu bỏ chạy.
Như "rắn bị mất đầu", các thuyền quân khác thấy vua bất ngờ tháo chạy cũng quay đầu trở về căn cứ.
Cuộc chiến nhanh gọn, không mất nhiều công sức nhưng thể hiện mưu lược khôn ngoan của Hannibal đã giúp đội quân số lượng ít ỏi của ông chiến thắng một cách bất ngờ.
Cũng là mưu kế đỉnh cao, nếu như trong trận chiến với quân La Mã, Hannibal chiến thắng quân La Mã bằng đội quân voi thiện chiến thì trong trận thủy chiến với vua Eumenes II, vị danh tướng xứ Carthage lại tiếp tục chiến thắng bằng mưu kế đỉnh cao với đội biệt kích rắn đáng sợ.
Theodore Ayrault Dodge, nhà sử học quân sự của Mỹ từng gọi Hannibal là "cha đẻ của chiến thuật" quả không sai. Nhờ những chiến tích "không tưởng" của ông mà sử sách hiện đại còn lưu danh ông đến tận ngày nay.
Đến danh tướng Napoléon Bonaparte cũng phải thốt lên ông nhận ông là một trong những "thiên tài quân sự đáng học hỏi".
Theo Soha.vn


Các loại vũ khí được sử dụng vào đời Trần

Dưới đây là bảng danh sách những loại vũ khí, binh chủng có bằng chứng xác nhận là đã thật sự được sử dụng – hoặc ít nhất, được biết đến – vào đời Trần. Để tránh việc suy luận nhiều khi có thể dẫn đến sai lầm, bài viết này loại bỏ những thông tin về vũ khí được nhắc đến ở những triều đại Ngô – Đinh – Lý trước đó. Các thông tin đó sẽ được đề cập ở những bài viết khác, tương ứng với triều đại của nó. Bài viết cũng loại bỏ phần chiến thuyền, vì đây là một đề tài phức tạp, gắn liền với binh chủng thuỷ quân, cần có một bài riêng.

1/ Giáo + khiên:

– Trên chiếc thạp bằng sứ tráng men thời Trần, ta thấy vẽ hình các chiến binh cầm giáo và khiên đang tập luyện với nhau.
quantran
Thạp gốm đời Trần
= > Như vậy, vào đời Trần, có thể người ta thường sử dụng giáo kết hợp với khiên.

2/ Gậy:

– Sứ giả Nguyên là Trần Phu trong cuốn An Nam Tức Sự của mình miêu tả về dân binh đời Trần như sau:
“ Mỗi châu huyện có quan gọi là “tướng tưu”, coi việc tuần tra, kiêm lĩnh quân sĩ. Có biến động thì lệnh bọn tráng đinh đi đến, các đồ khí giới đều tự trang bị, không có cung tên, chỉ cầm phiêu thương, nỏ thuốc độc, cũng có người cầm cây gỗ trắng
( Nguyên văn viết là: “ 无弓矢,惟持药弩标枪,亦有操白梃者 – vô cung thỉ, duy trì dược nỗ phiêu thương, dựu hữu thao bạch đĩnh giả”. Văn bản gốc miêu tả cây gậy dưới cái tên “ bạch đĩnh”.)

3/ Lao:

– Cũng Trần Phu ở trên đã xác nhận trong số các vũ khí của dân binh đời Trần, có một thứ mà ông gọi là phiêu thương-标枪. Phiêu thương là cách người Trung Quốc…hiện đại dùng để gọi cây lao. Đáng tiếc là ta không dám chắc người đời Nguyên có sử dụng cách gọi đó với cùng một nghĩa hay không.
mui giao doi Tran
hai loại mũi giáo đời Trần khai quật được. Hình từ sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, tập 24. Có thể mũi lao cũng trông như thế này.

4/ Nỏ thuốc độc:

– Cũng Trần Phu ở trên đã xác nhận trong số các vũ khí của dân binh đời Trần, có một thứ mà ông gọi là dược nỗ-药弩, tức nỏ thuốc độc.
– Nguyên Sử cũng xác nhận tướng Nguyên là Lý Hằng đã bị tên độc bắn chết khi tham chiến ở ta trong cuộc xâm lăng lần thứ 2. Nhưng sách không thể xác nhận được mũi tên đó được bắn bằng cung hay nỏ.
–  Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, năm 1305 viết rằng:
“ Bấy giờ có viên độc bạ là Trần Cụ tính khoan hậu, cẩn thận, thật thà, giỏi ngề đánh cá, bắn nỏ và chơi cầu. Vua sai dạy thái tử các nghề ấy.
…Người đời bắn nỏ, chân đứng cũng như bắn cung, tức là kiểu chữ “đinh” không thành, chữ “bát” không ngay. Cụ thì đứng ngay ngắn mà bắn và bảo mọi người:”Phàm bắn cung thì tay trái giơ ra phía trước nắm lấy thân cung, tay phải kéo dây cung về phía sau, mình đã  nghiêng thì chân cũng phải lệch, còn bắn nỏ thì đưa cân bằng ra phía trước, cho nên khi cầm nỏ mà bắn, thân mình ngay ngắn, thì cớ gì chân lại phải đứng lệch?”.”
Di san bat tu binh
tranh đi săn tù binh trên thạp gốm đời Trần. Ở góc phải có xuất hiện một thứ không rõ là cung hay nỏ.

5/ Cung tên:

– Cũng chi tiết về Trần Cụ mà Toàn Thư chép ở trên, ta có thể thấy người đời Trần có hiểu biết về cung và thật sự biết bắn cung. Bằng chứng là Trần Cụ đã phân tích sự khác biệt giữa cách bắn cung và bắn nỏ như ta thấy. Như vậy, lời nói của Trần Phu không hẳn phủ nhận việc người Việt sử dụng cung tên, mà là xác nhận dân binh đời Trần không sử dụng loại vũ khí này.
– Trong Hịch tướng sĩ, Trần – Quốc Tuấn khuyên các tướng phải “huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”.
– Nguyên Sử cũng xác nhận tướng Nguyên là Lý Hằng đã bị tên độc bắn chết khi tham chiến ở ta trong cuộc xâm lăng lần thứ 2. Nhưng sách không thể xác nhận được mũi tên đó được bắn bằng cung hay nỏ.
Điều khó khăn ở đây là ta không thể biết được cung tên thời Trần được chế tạo bằng loại chất liệu gì, để qua đó ước lượng lực bắn và tầm bắn của cung Việt thời đó.

6/ Khiên:

– Như trên đã nói, thạp sứ đời Trần có hình ảnh mô tả binh sỉ sử dụng khiên và giáo.
– Trong An Nam Tức Sự, sứ giả Trần Phu miêu tả về các vương hầu như sau:
“ Nắm việc nước có hai người, chú của vua là Thái sư Trần Quang Khải và em là Thái úy Trần Đức Diệp. Việc nước lớn nhỏ, Khải, Diệp đều nắm giữ. Hễ ngồi kiệu đến dưới cửa điện thì có hai người cầm hai cái mộc, tròn như cái gương, màu xanh, rộng sáu thước, trên mộc vẽ hình Mặt trăng, Mặt trời, sao Bắc đẩu, 28 ngôi sao, ý là để tự phòng vệ vậy.
Thap men 2
Một chiếc thạp đời Trần khác, miêu tả người chiến binh sử dụng khiên cùng một loại vũ khí lạ, trông như chày.
– Theo sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, người ta đã khai quật được một cái khiên gỗ dài tới 1 met, có hình dạng như sau:
khienthoibanggo
khiên bằng gỗ, cao 1 met

7/ Sóc:

là loại giáo dài khoảng 4,1 met.
– bài thơ Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão: “Hoành sáo giang sơn cáp kỷ thu” ( cắp ngang ngọn sóc đã được mấy mùa thu rồi)
– Trần Quang Khải sau khi đánh thắng trận Chương Dương – Thăng Long đã làm thơ ca ngợi chiến công, trong đó có câu “Đoạt sáo Chương Dương độ” ( đoạt sóc ở Chương Dương)
= > Theo những bài thơ này thì sóc được cả quân ta lẫn quân Nguyên sử dụng.

8/ Kích:

phiên bản cao cấp hơn của giáo, cách sử dụng cũng khó hơn rất nhiều.
– Trong Bạch Đằng Giang Phú của Trương Hán Siêu có viết: “ chiết kích trầm giang”. Cụm từ này được sách giáo khoa dịch là “ sông chìm giáo gẫy”, nhưng kỳ thực ý nghĩa của nó là “ những ngọn kích gẫy trầm mình dưới đáy sông”.
Tuy vậy, bài phú này mang nhiều tính ước lệ. Ngoài việc xác nhận người đời Trần biết đến sự tồn tại của kích ra, ta không dám chắc nó có thật sự khẳng định binh sĩ hai bên sử dụng loại vũ khí này hay đây chỉ là một cách nói cường điệu trong văn vẻ mà thôi. Ngoài ra, ta cũng không có tư liệu hình ảnh gì về kích thời Trần.
kich1
Các mẫu kích trong đồ nghi trượng thời Nguyễn
kich2
Phương Thiên Họa Kích trong tranh đời Nguyễn, xuất hiện trong cuốn ” techique du people Annam”

9/Câu liêm:

loại vũ khí có cán dài, lưỡi quắm, dùng để móc hoặc cắt dây leo.
– Trong trận Bạch Đằng (1288), tướng Nguyên là Phàn Tiếp bị thương nhảy xuống nước, quân ta dùng câu liêm móc lên bắt sống.
cau liem 2
– Theo sách Lịch Sử Việt Nam Bằng Tranh, người ta cũng đã khai quật được một lưỡi câu liêm đời Trần, hình dáng như sau ( có vẽ hai mũi câu liêm đã bị gãy):
cauliem

10/ Đao kiếm:

Theo người Việt thường hình dung:
– Kiếm là thứ vũ khí cán ngắn, thân kiếm thanh mảnh, mũi nhọn, lưỡi có thể dài hoặc cong, thường dùng để đâm hoặc chém.
– Đao được xem là tương tự kiếm nhưng thân thường to bản và có lưỡi cong, chủ yếu dùng để chém.

Thật ra Trung Quốc và các nước Đông Á khác không phân loại như vậy. Thứ người Việt thường xem là “ đao” kia thực chất là mẫu đao kiểu Tống-Minh,có lưỡi cong và thân thường to bản. Thế nhưng, đó chỉ là một trong rất nhiều kiểu đao mà thôi.

Theo cách phân loại của Trung Quốc, được cả Hàn và Nhật đồng tình sử dụng:
–  Kiếm: có 2 lưỡi, có thể dùng để đâm hoặc chém
–  Đao: có 1 lưỡi, thiên về chém Nhưng vẫn có thể dùng để đâm ( nếu có mũi nhọn).
* Katana -刀, trong tiếng Nhật kỳ thực có nghĩa là đao, không phải là kiếm như người Việt thường gọi.
* Cần phải nói thêm rằng, trước khi đụng độ với quân Mông Cổ, đao kiếm các nước Đông Á như Trung Quốc, Hàn, Nhật đều thẳng tắp. Đao cong mà ta thấy sau này là do ảnh hưởng từ vũ khí của người Mông Cổ.

Như vậy, để tránh những rắc rối có thể xảy ra do việc phân loại, tôi gộp hết cả hai loại vào một nhóm.
Nhà Trần để lại một số tư liệu về đao kiếm như sau:
– Trong bài Bạch Đằng Giang Phú, Trương Hán Siêu mô tả quân nhà Trần trong trận Bạch Đằng như sau:
,  – Tì hưu lục quân, binh nhẫn phong khỉ”
Từ “ nhẫn”-có thể dùng để ám chỉ vũ khí có mũi nhọn, lại cũng có thể dùng để ám chỉ vũ khí có lưỡi để chém ( VD: đao nhẫn –  : lưỡi đao). Như vậy, từ này có thể dùng để cùng lúc ám chỉ cả giáo, đao, kiếm và tất cả các vũ khí dùng để đâm hoặc chém khác.

– Đao còn được nhắc đến gián tiếp ở các sự kiện như sau trong Toàn Thư:
+ “1285: Tháng 5, ngày mồng 3, hai vua đánh bại giặc ở phủ Trường Yên2, chém đầu cắt tai giặc nhiều không kể xiết.”
+ “ 1285: Hôm đó, ta đánh bại giặc ở Tây Kết, giết và làm bị thương rất nhiều, chém đầu Nguyên Soái Toa Đô8”
+ Năm 1288, có người tên Đặng Long hàng giặc, “ hắn bị bắt, đem chém để răn bảo kẻ khác.”
+ Năm 1309: “ Tên Hân bị chém ở cầu Giang Khẩu”.

Còn rất nhiều dòng có nội dung tương tự thế. Vũ khí dùng để chém người ở đây tuy không được nói rõ, nhưng ta có thể dễ dàng nhận biết là đao hoặc kiếm ( dù thiên về đao hơn).

– tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ có lẽ là bằng chứng rõ ràng nhất về sự xuất hiện của đao kiếm đời Trần. Trong tranh có vẽ các thị vệ cầm đao đang đứng hầu. Cây đao trong tranh là loại đao cong, cho thấy nhà Trần đã rất nhanh chóng tiếp thu mẫu vũ khí này trong quá trình chiến đấu với người Mông Cổ.
dao Truc Lam Dai Si
quân hầu cầm đao cong trong tranh Trúc Lâm Đại Sĩ Xuất Sơn Đồ đời Trần.

11/ Kỵ binh:

– Được Toàn Thư nhắc đến trong trận Bình Lệ Nguyên năm 1258. Trận này miêu tả tướng Lê Tần “ một mình một ngựa ra vào trận giặc ( Mông Cổ), sắc mặt bình thản như không”.
Tuy thế, sử không miêu tả rõ hơn về trang bị giáp trụ lẫn vũ khí mà kỵ binh thời này sử dụng. Nó cũng không miêu tả quy mô kỵ binh đời Trần chi tiết như thế nào.
vinh quy bai to
thạp gốm đời Trần, vẽ cảnh người cưỡi ngựa. 

12/ Tượng binh:

– Toàn Thư có vài lần nhắc đến voi vào đời Trần như sau “ 1269: Mùa xuân, tháng 2, Chiêm Thành dâng voi trắng.”. Thế nhưng, không thật sự có một dòng nào nhắc đến voi chiến vào đời Trần.
– Trong các sản phẩm thủ công nghiệp, chúng ta vẫn còn thấy hình ảnh voi trên các thạp gốm tráng men đời Trần.
voi trên thạp gốm đời Trần
– Ngoài ra, bảo tàng Lịch Sử Quốc Gia vẫn còn lưu lại một cái bình trà hình con voi có quản tượng ngồi trên nó.
am hinh voi






Như vậy, dưới đời Trần, người Việt thật sự có tiến hành thuần hoá và sử dụng voi. Tuy nhiên, ta không có bằng chứng khẳng định việc họ dùng voi trong chiến trận. Ta chỉ có thể suy đoán rằng thời Trần vẫn có tượng binh, vì binh chủng này đã từng được sử dụng vào đời Lý trước đó ( Thân Cảnh Nguyên đánh quân Tống xâm lược ở ải Quyết Lý năm 1077) và đời Hồ sau đó ( nhà Hồ sử dụng voi chiến trong trận Đa Bang năm 1407).

13/ Máy bắn đá:

 – Nguyên sử, phần An Nam truyện có chép việc sử dụng pháo của quân nhà Trần. Sự kiện đó diễn ra vào tháng 2-1285. Quân Nguyên lúc đó tiến đến gần Đông Bộ Đầu, đóng ở bên kia sông Nhị, chuẩn bị tiến công vào Kinh thành Thăng Long. Quân ta do vua Trần chỉ huy từ bên này sông đã “bắn pháo hô to, thách đánh” (nguyên văn của Nguyên sử là: Phát pháo đại hô cầu chiến.). Nguyên văn chữ Hán ghi chữ “ pháo” bằng bộ “ thạch” ( đá), ám chỉ máy bắn đá.
Ta không biết đời Trần sử dụng loại máy bắn đá cụ thể gì. Nhưng theo truyền thống các nước Á Đông như Trung Quốc, Nhật thì trong khu vực thịnh hành loại máy bắn đá giật tay thô sơ.
sketch-siegecatapults_zpsszqkcol2
máy bắn đá giật tay, kiểu máy bắn đá rất phổ biến ở Á Đông.

14/ Hoả súng:

là phiên bản rất sơ khai của súng ống hiện đại. Kích cỡ của nó lúc đó có thể to như đại bác, nhưng thường là những ống đồng nhỏ, buộc lên đầu cán gỗ để người lính cầm tay khi bắn.
Loại vũ khí này bắt đầu xuất hiện vào cuối đời Trần. Nhưng hiện nay, ta không còn lưu lại được mẫu hoả súng nào của triều đại này nữa. Thông tin duy nhất còn lại về sự xuất hiện của nó là trong trận chiến cuối cùng với Chế Bồng Nga được Toàn Thư ghi chép:
“ Khát Chân liền ra lệnh các hoả súng nhất tề nhả đạn,bắn trúng thuyền Bồng Nga, xuyên suốt ván thuyền, Bồng Nga chết, người trong thuyền ồn ào kêu khóc”
Điều đáng lưu ý ở đây là sức mạnh đáng kể của hoả súng nhà Trần. Vào thế kỷ XIV, các hoả súng đương thời trên thế giới thường có lực bắn và tầm bắn yếu. Thế nhưng, hoả súng nhà Trần – dù không biết được bắn ở cự ly nào – đã xuyên thủng cả ván thuyền và giết chết vua Chiêm. Đây là một điều đặc biệt đáng ghi nhận.
1067839-yuan_chinese_gun
mẫu hoả súng của nhà Nguyên- Mông thế kỷ XIV
Hand-cannon_14263_lg
cách sử dụng hand-cannon đương thời

15/ phủ:

một cây rìu có cán dài.
phu doi Tran
Nằm ở góc trái tấm hình dưới đây là cây phủ đầu rồng đời Trần được khai quật. Tuy vậy, không có bằng chứng gì phủ được nhà Trần sử dụng làm vũ khí, bởi vì nó vốn được các triều đại phong kiến dùng làm…đồ nghi trượng mà thôi.

16/ Nỏ nước:

Website này đề cập đến An Nam Tức Sự của sứ giả Trần Phu:
http://thuvienhoasen.org/a12913/phan-i-nghien-cuu-ve-tran-nhan-tong-chuong-v-vua-tran-nhan-tong-va-su-nghiep-xay-dung-hoa-binh-thoi-hau-chien
Theo đó, Trần Phu từng nhắc đến một thứ vũ khí gọi là nỏ nước:
“Nỏ nước, một tên khác là xá sa, người bắn dùng hơi để bắn xa được ba mươi bộ. Bắn trúng thì thấy có cái bóng màu hồng và ngứa thì liền lấy dao khoét bỏ mảnh thịt đó đi. Không thế thì ngứa cho đến chết “.

Thế nhưng, do thiếu bản chữ Hán, tôi không thể kiểm chứng được thông tin này. Ngoài ra, cách diễn tả của đoạn trích cũng quá khó hình dung loại vũ khí trên có hình thù và hoạt động như thế nào.

17/ Máy bắn nỏ:

Trong An Nam Chí Lược, Lê Trắc xác nhận quân đội nhà Trần sử dụng loại thuyền tiêu chuẩn có tên là Mông Đồng. Mỗi chiếc thuyền này có thể chở khoảng 50 người gồm một nửa là tay chèo, nửa kia là quân lính. Ngoài ra, mỗi thuyền còn được trang bị 2 máy bắn nỏ.
Tuy vậy, ta không có thông tin chi tiết về loại máy bắn nỏ được nhà Trần sử dụng.

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét