Thứ Sáu, 24 tháng 3, 2017

LỊCH SỬ BÓNG ĐÁ 6

(ĐC sưu tầm trên NET)

                                                               Vua Bóng Đá Pele 

                                                       Huyen Thoai_Lionel Messi



Ai là cầu thủ vĩ đại nhất Châu Âu trong lịch sử?

TT&VH 2 liên quan

Từ Beckenbauer, Cruyff, Platini tới Zidane, Ronaldo, Van Basten... Hãy đưa ra lựa chọn của bạn xem ai là cầu thủ vĩ đại nhất Châu Âu trong lịch sử qua bản danh sách dưới dây.
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 1
1.Zidane
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 2
Zidane 3 lần giành QBV FIFA, 1 lần giành QBV World Cup. Ở cấp CLB. Zidane vô địch Champions League, vô địch Liga với Real Madrid, vô địch Serie A với Juventus. Zidane cũng vô địch World Cup và vô địch Châu Âu với tuyển Pháp.
Các đội bóng khoác áo: Cannes, Bordeaux, Juventus, Real Madrid, Pháp
2.Ronaldo
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 3
Ronaldo có 3 cúp vô địch Premier League, vô địch Champions League, đoạt cúp FA, 2 cúp Liên đoàn với Man United, vô địch Champions League, vô địch Liga, 2 cúp Nhà Vua với Real Madrid. Ngoài ra anh còn giành 1 siêu cúp Châu Âu, 2 cúp Thế giới các CLB. Ronaldo là cầu thủ đầu tiên giành chiếc giày vàng Châu Âu 4 lần và giành QBV FIFA 3 lần.
Các đội bóng đã khoác áo: Sporting Lisbon, Manchester United, Real Madrid, Bồ Đào Nha.
3.George Best
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 4
Ông vô địch cúp C1 với Man United, giành QBV Châu Âu và là cầu thủ xuất sắc nhất năm 1968. Pele bảo “George Best là cầu thủ vĩ đại nhất thế giới”.
Các đội bóng đã khoác áo: Manchester United, Stockport County, Cork Celtic, Los Angeles Aztecs, Fort Lauderdale Strikers, Hibernian, San Jose Earthquakes, Sea Bee, Hong Kong Rangers, Bournemouth, Brisbane Lions, Bắc Ireland.
4.Johan Cruyff
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 5
Cruyff 3 lần giành QBV Châu Âu, 3 cúp Châu Âu, giành 9 danh hiệu VĐQG Hà Lan, giúp Barca chấm dứt cơn khát danh hiệu ở Liga. Cruyff là cha đẻ của bóng đá tổng lực.
Các đội bóng đã khoác áo: Ajax, Barcelona, Los Angeles Aztecs, Washington Diplomats, Levante, Feyenoord, Hà Lan
5.Kenny Dalglish
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 6
Có biệt danh “Vua Kenny”, Dalglish giành 6 chức vô địch Anh, 2 cúp FA, 4 cúp Liên đoàn, 7 siêu cúp Anh, 3 cúp C1, 1 siêu cúp Châu Âu. Ngoài ra ông 4 lần vô địch Scotland, giành 4 cúp QG Scotland, một cúp Liên đoàn Scotland cùng Celtic.
Các đội bóng đã khoác áo: Celtic, Liverpool, Scotland.
6.Ryan Giggs
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 7
Ryan Giggs 13 lần vô địch Premier League, giành 4 cúp FA, 3 cúp Liên đoàn Anh, 2 chức vô địch Champions League, 2 cúp thế giới các CLB, 1 siêu cúp Châu Âu, 9 siêu cúp Anh.
Các đội bóng đã khoác áo: Manchester United, xứ Wales.
7.Paolo Maldini
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 8
Chỉ khoác áo AC Milan trong suốt 25 năm sự nghiệp, giành 26 danh hiệu trong đó có 5 chức vô địch cúp C1/Champions League, 7 Scudetto. Maldini cũng vào chung kết World Cup 1994 và EURO 2000 với Azzurri.
Các đội bóng đã khoác áo: AC Milan, Italy.
8.Bobby Charlton
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 9
Sir Bobby Charlton vô địch World Cup 1966, 3 lần vô địch Anh, vô địch cúp C1 mùa 1967-68.
Các đội bóng đã khoác áo: Manchester United, Preston North End, Waterford United, Anh.
9.Eusebio
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 10
Chơi 745 trận và ghi 749 bàn thắng, Eusebio được coi là cầu thủ vĩ đại nhất trong lịch sử Benfica. Cùng đội bóng này, ông 11 lần VĐQG, giành 5 cúp Bồ Đào Nha, 1 cúp C1 Châu Âu. Eusebio là cầu thủ ghi bàn nhiều thứ 8 trong lịch sử cúp C1, 2 lần giành chiếc giày vàng Châu Âu và giúp Bồ Đào Nha giành HCĐ World Cup 1966.
Các đội bóng đã khoác áo: Sporting de Lourenco Marques, Benfica, Boston Minutemen, Monterrey, Toronto Metros, Beira-Mar, Las Vegas Quicksilvers, Uniao de Tomar, New Jersey Americans, Bồ Đào Nha.
10.Xavi
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 11
Vẫn đang thi đấu sau khi đã giành nhiều danh hiệu hơn bất kỳ cầu thủ người Tây Ban Nha nào (28 danh hiệu) trong đó có các chức vô địch World Cup và Châu Âu với tuyển Tây Ban Nha cùng 8 chức vô địch Liga, 4 chức vô địch Champions League với Barca.
Các đội bóng đã khoác áo: Barcelona, Al Sadd, Tây Ban Nha.
11.Van Basten
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 12
Ông vô địch EURO 1988 với tuyển Hà Lan, vô địch cúp C1 với AC Milan các năm 1989, 1990, 4 lần đoạt Scudetto với Milan và 3 lần VĐQG Hà Lan với Ajax.
+Các đội bóng đã khoác áo: Ajax, AC Milan, Hà Lan.
12. Ferenc Puskas
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 13
Là một trong những tiền đạo vĩ đại nhất thế giới, Puskas đã ghi 84 bàn thắng sau 85 trận khoác áo tuyển Hungary, ghi 514 bàn thắng sau 529 trận ở các giải VĐQG Hungary và Tây Ban Nha. Puskas giành QBV Châu Âu năm 1953, vô địch cúp C1 ba lần với Real Madrid.
Các đội bóng đã khoác áo: Budapest Honvéd, Real Madrid, Hungary, Tây Ban Nha.
13.Franz Beckenbauer
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 14
Beckenbauer 2 lần giành QBV Châu Âu, chơi 103 trận cho tuyển Đức và dự 3 kỳ World Cup. Ông vô địch World Cup cả với tư cách cầu thủ lẫn HLV, 3 lần đoạt cúp C1 với Bayern Munich, 5 lần vô địch Bundesliga five times (trong đó có 1 lần với Hamburg).
Các đội bóng đã khoác áo: Bayern Munich, New York Cosmos, Hamburg, Đức.
14.Stanley Matthews
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 15
Phù thủy rê dắt bóng, Stanley Matthews được Pele mô tả là “cầu thủ dạy chúng ta cần phải chơi bóng như thế nào”. Ông cũng là cầu thủ già nhất từng chơi ở giải đấu thuộc hạng cao nhất của bóng đá Anh và là cầu thủ già nhất khoác áo ĐTQG.
Các đội bóng đã khoác áo: Stoke City, Blackpool, Anh.
15.Gerd Mueller
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 16
Vô địch Châu Âu 1972, World Cup 1974 và 3 lần đoạt cúp C1 với Bayern Munich, Gerd Mueller đã ghi 365 bàn thắng sau 427 trận ở Bundesliga cho Bayern, ghi 66 bàn sau 74 trận cho Bayern ở cúp Châu Âu, giành QBV Châu Âu năm 1970.
Các đội bóng đã khoác áo: 1861 Nördlingen, Bayern Munich, Fort Lauderdale, Đức.
16.Michel Platini
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 17
3 lần giành QBV Châu Âu 1983, 1984, 1985, Michel Platini giữ kỷ lục ghi nhiều bàn thắng nhất trong một VCK EURO (9 bàn ở EURO 1984). Ông cùng tuyển Pháp vô địch Châu Âu 1984, giành HCĐ World Cup 1986, đoạt cúp C1, Scudetto với Juventus, vô địch Pháp với Saint Etienne.
Các đội bóng đã khoác áo: Nancy, Saint-Étienne, Juventus, Pháp.
17.Lev Yashin
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 18
Được nhiều người coi là thủ môn vĩ đại nhất thế giới mọi thời đại, “nhện đen” Lev Yashin là thủ môn duy nhất từng giành QBV Châu Âu. Ông 5 lần VĐQG Liên Xô (cũ), 3 lần giành cúp QG Liên Xô (cũ) với Dynamo Moskva và giúp Liên Xô (cũ) vô địch Châu Âu 1960.
Các đội bóng đã khoác áo: Dynamo Moskva, Liên Xô.
18.Karl Heinz Rummenigge
Ai la cau thu vi dai nhat Chau Au trong lich su? - Anh 19
Rummenigge 2 lần giành QBV Châu Âu, đoạt cúp Thế giới các CLB, đoạt 2 chức vô địch Bundesliga, Rummenigge cũng vô địch Châu Âu 1980, á quân World Cup 1982, 1986.
Các đội bóng đã khoác áo: Bayern Munich, Inter Milan, Servette, Đức
HT
Tổng hợp

Những đội hình xuất sắc nhất trong lịch sử World Cup


1.Brazil 1970


Trước năm 1970, đội bóng Nam Mỹ đã giành hai chức vô địch thế giới nhưng đội hình năm 1970 mang về chức vô địch thế giới lần thứ ba cho Brazil được xem là đội hình xuất sắc nhất khi giành sáu trận thắng với hiệu số bàn thắng bại là 19/7. Brazil 1970 sở hữu những tên tuổi lớn của bóng đá thế giới như Pele, Jairzinho, Tostao, Rivelino và Carlos Alberto.
2. Tây Đức 1974


Đây là đội hình đã đánh bại đội tuyển Hà Lan vốn có triết lý “bóng đá tổng lực” mang tính cách mạng. Tây Đức 1974 có hàng phòng thủ rất chắc chắn dưới sự dẫn dắt của Franz Beckenbauer và thủ môn Sepp Maier - một trong những thủ môn vĩ đại nhất mọi thời đại. Phía trên là tiền đạo Gerd Mueller với bốn lần lập công cho Tây Đức.   
3. Pháp 1998


Không chỉ là đội bóng bất bại tại vòng chung kết World Cup 1998, Pháp còn là đội bóng có thành tích xuất sắc với hiệu số bàn thắng bại là 15/2 sau 7 trận và “đè bẹp” Brazil với tỉ số 3-0 trong trận chung kết, đây được xem là trận chung kết chênh lệch nhất trong lịch sử các kỳ World Cup. Đội hình Pháp 1998 không thực sự hào nhoáng nhưng họ cũng sở hữu những cái tên sáng giá như Thierry Henry, Zinedine Zidane, Didier Deschamps và Laurent Blanc.
4. Brazil 2002


Brazil là đội tuyển duy nhất giành chiến thắng liên tiếp ở bảy trận đấu để tiến vào trận chung kết và giành chức vô địch với hiệu số bàn thắng bại là 18/4. Ronaldo đã có một kỳ World Cup thành công nhất khi ghi được tám bàn thắng và đồng đội của anh là Rivaldo cũng ghi được năm bàn thắng.
5. Ý 1982


Đội tuyển Ý không giành bất cứ chiến thắng nào tại vòng bảng và chỉ lọt vào vòng trong nhờ vào ba trận hòa. Nhưng càng vào sâu họ càng tỏa sáng. Paolo Rossi trở thành vua phá lưới với sáu bàn thắng, trong đó có một cú hat-trick trong trận gặp Brazil. Danh hiệu vô địch là hoàn toàn xứng đáng dành cho đội tuyển Ý. Đây cũng là chức vô địch World Cup đầu tiên của Ý kể từ sau Thế chiến thứ 2.  
6. Tây Ban Nha 2010


Tây Ban Nha có lẽ là nhà vô địch World Cup giàu cảm xúc nhất mọi thời đại. Với lối chơi tiki-taka, Tây Ban Nha chia cắt đối thủ bằng những pha phối hợp nhỏ chính xác. Sau thất bại trong trận đấu mở màn, Tây Ban Nha vẫn vượt qua vòng bảng và giành chiến thắng ở cả bốn trận knockout với cùng tỷ số 1-0, bao gồm cả trận chung kết trước đội tuyển Hà Lan.
7. Argentina 1986


Argentina giành danh hiệu vô địch lần thứ hai sau ba kỳ World Cup có sự hiện diện của Diego Maradona. Maradona ghi cả bốn bàn thắng cho Argentina trong chiến thắng trước Anh và Bỉ, trong đó có 2 bàn thắng nổi tiếng nhất trong lịch sử World Cup. Bàn thắng đầu tiên là pha dùng tay đưa bóng vào lưới thủ thành Peter Shilton của đội tuyển Anh, bàn thắng này nổi tiếng với tên gọi “bàn tay của Chúa”. Bàn thắng thứ hai còn thần thánh hơn khi ông đi bóng hơn nửa chiều dài sân, vượt qua năm hậu vệ của tuyển Anh để đưa bóng vào lưới. Bàn thắng này được bầu chọn là bàn thắng của thế kỷ.
Đình Phú
Theo latimes.com

Top 10 cầu thủ giành nhiều Quả bóng vàng nhất trong lịch sử thế giới

Quả bóng vàng châu Âu là giải thưởng danh giá dành cho các cầu thủ. Cùng Edu2Review điểm qua 10 gương mặt sở hữu nhiều Quả bóng vàng nhất nhé!

Quả bóng vàng châu Âu là giải thưởng được tạp chí France Football trao tặng cho cầu thủ thi đấu nổi bật nhất của từng năm, là cột mốc đánh dấu trong nghiệp của mỗi cầu thủ. Đồng thời đây cũng là cơ sở để so sánh các cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá thế giới.

Edu2Review 1. Lionel Messi

Số Quả bóng vàng: 5 (2009, 2010, 2011, 2012, 2015)
Lionel Messi sinh ngày 24 tháng 6 năm 1987 là một cầu thủ người Argentina hiện đang chơi cho CLB Barcelona và đội tuyển quốc gia Argentina với vị trí Tiền đạo. Anh được đánh giá là một trong những cầu thủ xuất sắc nhất mọi thời đại và trong cuộc đua giành danh hiệu Quả bóng vàng kéo dài 9 năm cùng với Cristiano Ronaldo, Messi hiện là người chiến thắng khi anh 5 lần được lên nhận giải vào các năm 2009, 2010, 2011, 2012 và 2015.

Messi.jpg
Messi đã có được rất nhiều danh hiệu cao quý cùng CLB Barcelona

Trong sự nghiệp thi đấu của mình, Lionel Messi đã có được rất nhiều danh hiệu cao quý cùng với CLB Barcelona, tiêu biểu nhất là 8 lần vô địch La Liga, 4 lần vô địch Champions League. Tuy nhiên, Messi lại không thực sự gây được ấn tượng khi chơi trong màu áo của đội tuyển Argentina, anh đã thất bại trong 3 trận Chung kết liên tiếp tại World Cup 2014, Copa America 2015 và Copa America 2016.

Edu2Review 2. Cristiano Ronaldo

Số Quả bóng vàng: 4 (2008, 2013, 2014, 2016)
Năm 2016, danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu được trao cho ngôi sao của CLB Real Madridđội tuyển Bồ Đào Nha - Cristiano Ronaldo, giúp bộ sưu tập Quả bóng vàng của anh lên đến con số 4. Tính đến thời điểm hiện tại, Cristiano Ronaldo là cầu thủ xuất sắc nhất trong lịch sử bóng đá Bồ Đào Nha. Đồng thời, anh cũng là cầu thủ ghi được nhiều bàn thắng nhất khi chơi trong màu áo của CLB Real Madrid. Anh đã cùng các đồng đội trong CLB Real Madrid 1 lần vô địch La Liga, 2 lần vô địch Champions League vào năm 2014 và 2016, Á quân châu Âu năm 2004 và hạng 4 World Cup 2006.

Cover.jpg
Trước khi gia nhập "gia đình Real Madrid", anh đã cùng CLB Manchester United 3 lần giành chức vô địch Ngoại hạng Anh và 1 lần vô địch Champions League vào năm 2008

Edu2Review 3. Michel Platini

Số Quả bóng vàng: 3 (1983, 1984, 1985)
Bóng đá Pháp đã sản sinh ra rất nhiều tài năng và trong số đó Michel Platini được xem là nhân vật vĩ đại nhất. Michel Platini sinh ngày 21 tháng 6 năm 1955 tại Pháp, ông là Tiền vệ xuất sắc nhất mà  nước Pháp từng sản sinh.
Sự nghiệp của ông đạt tới đỉnh cao trong mùa giải 1984 - 1985, khi ông cùng đội tuyển Pháp giành chức vô địch châu Âu và ngay sau đó là chiến thắng tại Cup C1 cùng với CLB Juventus.

Michel Platini.jpg
Trong sự nghiệp thi đấu của mình, Michel Platini được biết đến là cầu thủ tấn công hay nhất của thập niên 80

Edu2Review 4. Johan Cruyff

Số Quả bóng vàng: 3 (1971, 1973, 1974)
Johan Cruyff sinh ngày 25 tháng 4 năm 1947 tại Hà Lan, là người có sự nghiệp gắn với những năm tháng đẹp nhất trong lịch sử CLB Ajax. Ông giữ vai trò là đội trưởng và đã 8 lần vô địch Hà Lan, 3 lần vô địch châu Âu. Ngoài ra, ông cũng cùng đội tuyển Hà Lan vào tới tận Chung kết World Cup 1974.

Johan Cruyff.jpg
Johan Cruyff là một trong những người khai sinh ra triết lý bóng đã tổng lực Hà Lan

Trong cương vị HLV, ông đã dẫn dắt CLB Barcelona 4 lần giành chức vô địch La Liga và 1 lần vô địch châu Âu năm 1992. Ông cũng được biết đến là người đặt nền móng cho lối chơi phối hợp toàn sân của Barcelona. Ngày 24 tháng 3 năm 2016, Johan Cruyff đã qua đời sau một thời gian chiến đấu kiên cường với căn bệnh ung thư.

Edu2Review 5. Marco van Basten

Số Quả bóng vàng: 3 (1988, 1989, 1992)
Marco van Basten sinh ngày 31 tháng 10 năm 1964 là một HLV và cựu cầu thủ người Hà Lan. Ông được xem là xuất sắc nhất trong bộ ba huyền thoại "Người Hà Lan bay" của CLB AC Milan. Trong sự nghiệp thi đấu của mình, ông đã cùng CLB Ajax 3 lần giành chức vô địch Hà Lan và khi khoác áo CLB AC Milan, ông đã giành 4 Scudetto và 2 lần vô địch châu Âu. Khi thi đấu trong đội tuyển Hà Lan, Marco van Basten đã cùng đồng đội giành chức vô địch châu Âu và ông cũng là cầu thủ xuất sắc nhất, vua phá lưới của mùa giải năm 1988.

Marco van Basten.jpg
Ông được xem là xuất sắc nhất trong bộ ba huyền thoại "Người Hà Lan bay" của CLB AC Milan

Edu2Review 6. Franz Beckenbauer

Số Quả bóng vàng: 2 (1972, 1976)
Franz Beckenbauer được mọi người đặt cho danh vị "Hoàng đế" đủ để thấy tài năng và tầm ảnh hưởng của ông với không chỉ bóng đá Đức mà còn cả thế giới. Ông là người khai sinh ra vị trí Libero của bóng đá hiện đại và là một trong hai người duy nhất trong lịch sử vô địch World Cup cả với tư cách cầu thủ và huấn luyện viên (năm 1974 và 1990), người còn lại là Mario Zagallo của Brazil.

Franz Beckenbauer.jpg
Ông đã dẫn dắt đội tuyển Đức giành vô địch Thế giới năm 1990

Trong lịch sử vĩ đại của mình, Franz Beckenbauer đã cùng CLB Bayern Munchen giành 4 đĩa bạc Bundesliga, 3 lần vô địch châu Âu và cùng với Hamburger SV giành 1 đĩa bạc năm 1982. Thêm vào đó, đội trưởng Franz Beckenbauer của đội tuyển Tây Đức đã giành chức vô địch châu Âu năm 1972, vô địch Thế giới năm 1974 và với cương vị HLV, ông đã dẫn dắt đội tuyển Đức giành vô địch Thế giới năm 1990.

Edu2Review 7. Ronaldo

Số Quả bóng vàng: 2 (1997, 2002)
Ronaldo sinh ngày 18 tháng 9 năm 1976 là một trong những Tiền đạo xuất sắc nhất của bóng đá Brazil cũng như thế giới. Anh được biết đến với biệt danh "Người ngoài hành tinh" khi là cầu thủ duy nhất đạt tất cả danh hiệu ở World Cup: Vô địch World Cup, Quảng bóng vàng World Cup, Chiếc giày vàng World Cup.

Ronaldo.jpg
Khi khoác áo đội tuyển Brazil, anh có những thành công được cả thế giới biết đến và ngưỡng mộ

Anh cùng với người đồng đội của mình - Zidane trở thành hai cầu thủ có nhiều danh hiệu Cầu thủ xuất sắc nhất năm của FIFA nhất với 3 lần, vào các năm 1996, 1997 và 2002. Tuy nhiên, Ronaldo lại có sự nghiệp thi đấu CLB không gây được ấn tượng do những chấn thương mà anh liên tiếp gặp phải.

Edu2Review 8. Alfredo Di Stéfano

Số Quả bóng vàng: 2 (1957, 1959)
Alfredo Di Stéfano sinh ngày 4 tháng 7 năm 1926, là cựu cầu thủ kiêm HLV người Argentina. Tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với CLB Real Madrid. Alfredo Di Stéfano đã cùng với Ferenc Puskás tạo nên cặp Tiền đạo thống chị bóng đá châu Âu. Từ năm 1954 đến 1964, ông đã 5 lần cùng CLB Real Madrid giành chức vô địch châu Âu và 8 lần vô địch Tây Ban Nha.
Tuy nhiên do trước kia danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu chỉ trao cho các cầu thủ châu Âu nên phải đến khi mang quốc tịch Tây Ban Nha, Alfredo Di Stéfano mới có được danh hiệu cao quý này vào năm 1957.

Alfredo Di Stéfano.jpg
Tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với CLB Real Madrid

Edu2Review 9. Kevin Keegan

Số Quả bóng vàng: 2 (1978, 1979)
Kevin Keegan sinh ngày 14 tháng 2 năm 1951, là cựu HLV và là một trong những cầu thủ vĩ đại nhất của bóng đá Anh. Tuy nhiên, mọi thành công trong sự nghiệp thi đấu của ông lại gắn liền với CLB Hamburger SV. Kevin Keegan đã cùng với CLB này giành 2 đĩa bạc Bundesliga và 1 lần đặt chân vào Chung kết châu Âu. Với thành công này đã giúp ông sở hữu 2 Quả bóng vàng liên tiếp năm 1978, 1979 và ông cũng chính là người Anh duy nhất 2 lần giành được danh hiệu Quả bóng vàng cao quý này.

Kevin Keegan.jpg
Ông chính là người Anh duy nhất 2 lần giành được danh hiệu Quả bóng vàng cao quý

Edu2Review 10. Karl-Heinz Rummenigge

Số Quả bóng vàng: 2 (1980, 1981)
Karl-Heinz Rummenigge sinh ngày 25 tháng 9 năm 1955, là cựu cầu thủ người Đức và hiện đang làm CEO của Bayern Munchen. Ông là huyền thoại bóng đá người Đức và cùng với Bayern Munchen, Karl-Heinz Rummenigge đã giành 1 cúp liên lục địa và 1 lần vô địch châu Âu.
Khi thi đấu trong đội tuyển Đức, Karl-Heinz Rummenigge đã cùng đồng đội giành vị trí Á quân tại FIFA World Cup 1982 và FIFA World Cup 1986 và 1 lần vô địch châu Âu năm 1980.

Karl-Heinz Rummenigge.jpg
Ông vinh dự 2 lần giành danh hiệu Quả bóng vàng châu Âu vào năm 1980 và 1981

*Hãy truy cập Edu2Review mỗi ngày để đón đọc những kỷ lục hấp dẫn.

Thùy Dương tổng hợp

Đội hình 11 tượng đài bóng đá chưa một lần vô địch EURO



​EURO là một trong những giải đấu danh giá nhất thế giới cấp độ đội tuyển, bên cạnh World Cup. Giải đấu quy tụ vô số các ngôi sao xuất chúng của châu Âu, là nơi tranh tài đỉnh cao mà bất cứ tài năng nào cũng muốn trải nghiệm và tất nhiên, chiếc cúp bạc tôn vinh nhà vô địch là nỗi thèm khát của mọi cầu thủ. 

Tuy vậy, người tranh tài thì nhiều mà bục vinh quang thì có hạn. Vì thế đã có rất nhiều tượng đài trong lịch sử phải ngậm ngùi nhìn đối thủ đăng quang. Cho thấy tính cạnh tranh ở EURO là khốc liệt đến chừng nào. Sau đây là 11 trường hợp tiêu biểu nhất.

1. Thủ môn Gianluigi Buffon (Italia)



Italy v Norway - UEFA EURO 2016 Qualifier

​Đây chính là thủ thành có mặt trong Đội hình xuất sắc nhất lịch sử EURO do hơn 3.5 triệu lượt fan bình chọn trên UEFA.com. Một sự công nhận vô hình như đầy giá trị về những đóng góp của Buffon trong màu áo Thiên thanh, bất chấp việc anh chưa từng một lần lên đỉnh ở giải đấu này.

2. Hậu vệ phải Gianluca Zambrotta (Italia)



Spain v Italy - Euro 2008 Quarter Final

​Hậu vệ phải lừng danh của Italia, từng chơi bóng cho cả Juventus, Barcelona lẫn Milan. Là thành viên của tuyển Thiên thanh vô địch World Cup 2006 nhưng cũng giống như người đồng hương Buffon, Gianluca Zambrotta chỉ về nhì ở EURO 2012.

3. Trung vệ Jaap Stam (Hà Lan)



Euro 2004: Sweden v Holland

​Hòn đá tảng lừng danh với cá tính dị biệt của Manchester United chưa một lần được nếm trải vinh quang trong màu áo đội tuyển Hà Lan. Vị trí cao nhất mà Jaap Stam đạt được cũng chỉ là vị trí thứ tư ở World Cup 1998.

4. Trung vệ Fabio Cannavaro (Italia)



Euro2008 Qualifier - Italy v Faroe Islands

​Fabio Cannavaro là một trong số ít những cầu thủ ở hàng phòng ngự giành được Quả bóng vàng trong lịch sử. Anh có tới 136 lần ra sân trong màu áo tuyển Italia, Giúp đội nhà vô địch World Cup 2006 nhưng trước đó từng về nhì ở EURO 2000.

5. Hậu vệ trái Paolo Maldini (Italia)



MALDINI/ITALIEN - BELGIEN ( ITA - BEL ) 2:0;

​Paolo Maldini, huyền thoại của Milan có 126 lần ra sân cho đội tuyển Italia. Một lần về nhì, một lần về 3 ở World Cup 1994 và 1990. Ở EURO, số phận cũng nghiệt ngã không kém với Paolo Maldini khi đội bóng của anh lần lượt dừng chân ở bán kết và chung kết các kỳ 1988, 2000.

6. Tiền vệ phải Luis Figo (Bồ Đào Nha)



Fussball: EM 2004 in Portugal, Finale, POR-GRE

Những tiếc nuối của Luis Figo gắn liền với câu chuyện cổ tích mang tên Hy Lạp ở EURO 2004. Thời điểm mà Bồ Đào Nha hội tụ đầy đủ các yếu tố để lên ngôi nhưng họ lại bất ngờ trượt chân trước ngưỡng cửa thiên đường.​

7. Tiền vệ trung tâm Paul Scholes (Anh)



Fussball: EM 2004 in Portugal, ENG-SUI

Giành​ hết thảy mọi vinh quang trong màu áo Manchester United, từ giải quốc nội cho đến châu lục, thế nhưng Paul Scholes vẫn "vô duyên" khi lên tuyển. Sau 66 lần ra sân cùng Tam sư, chàng tiền vệ xuất chúng này chưa có bất kỳ thành tích nào đáng kể.

8. Tiền vệ trung tâm Paul Gascoigne (Anh)



FUSSBALL: EURO 1996 ESP

​Paul Gascoigne, danh thủ lừng danh gần 500 lần ra sân ở xứ sở Sương mù. Tham dự cả World Cup lẫn EURO cùng Tam sư. Tuy nhiên thành tích cao nhất của Gascoigne cũng chỉ là vào đến bán kết EURO năm 1996.

9. Tiền vệ trái George Best (Bắc Ireland)



George Best

​Cầu thủ xuất chúng nhất chưa từng tham dự EURO. Huyền thoại bất tử của Manchester United với 137 bàn sau 361 lần ra sân. Có 37 lần khoác áo đội tuyển Bắc Ireland, ghi được 9 bàn, và đó là tất cả những gì Best có được ở cấp độ quốc gia.

10. Tiền đạo Johan Cruyff (Hà Lan)



Tiền đạo Johan Cruyff

​Johan Cruyff, tượng đài của lối tấn công tổng lực rực lửa. Ông từng 3 lần đoạt Quả bóng Vàng, lọt danh sách FIFA 100 của Vua bóng đá Pele, có mặt trong top những huyền thoại vĩ đại nhất mọi thời đại nhưng chưa một lần chạm tay vào chiếc cúp bạc danh giá của EURO.

11. Tiền đạo Eusebio (Bồ Đào Nha)



Tiền đạo Eusebio (Bồ Đào Nha)

​"Báo đen" Eusebio là nỗi khiếp sợ của mọi hàng phòng ngự thời đỉnh cao. Sau 64 lần khoác áo đội tuyển, Eusebio ghi đến 41 bàn. Tuy vậy ông chỉ có thể giúp sức đưa Bồ Đào Nha đến tấm huy chương đồng World Cup 1966, còn ở EURO thì chưa có dấu ấn gì đáng kể.


Giải bóng đá vô địch các câu lạc bộ châu Âu

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Champions League
Năm thành lập 1955
(thay đổi thể thức năm 1992)
Châu lục Châu Âu (UEFA)
Số đội 32 (vòng bảng)
76 hay 77 (tổng cộng)
Đủ điều kiện tham gia UEFA Super Cup
FIFA Club World Cup
Đương kim vô địch Tây Ban Nha Real Madrid (lần thứ 11)
Câu lạc bộ thành công nhất Tây Ban Nha Real Madrid (vô địch 11 lần)
Website Website chính thức
Mùa giải 2016-17
Giải vô địch bóng đá các câu lạc bộ châu Âu (tiếng Anh: UEFA Champions League hoặc đơn giản là Champions League; tên thường gọi ở Việt Nam: Cúp C1) là giải bóng đá hàng năm của Liên đoàn bóng đá châu Âu (UEFA) dành cho các câu lạc bộ có thứ hạng cao tại các giải vô địch quốc gia châu Âu. Đây là một trong những giải đấu danh giá nhất trên thế giới và là nơi tranh tài của các câu lạc bộ lớn nhất châu Âu, thường là các nhà vô địch của mỗi giải quốc nội (và, đối với một vài quốc gia, có thể là một hay vài câu lạc bộ xếp sau). Trận chung kết mùa giải 2012-13 là trận đấu được xem nhiều nhất trong khuôn khổ UEFA Champions League từ trước đến nay, và cũng là sự kiện thể thao được quan tâm nhất trên thế giới năm 2013, với khoảng 360 triệu người xem qua sóng truyền hình.[1]
Được giới thiệu lần đầu vào năm 1992, giải đấu được đưa ra để thay thế cho European Champion Clubs' Cup, hay đơn giản là European Cup, vốn đã diễn ra kể từ năm 1955[2]. Giải đấu mới có thêm một vòng bảng và cho phép nhiều câu lạc bộ từ cùng một quốc gia tham dự. Trước năm 1992, giải đấu chỉ có các trận đấu loại trực tiếp và chỉ cho phép các đội vô địch giải đấu của mỗi quốc gia tham dự. Trong những năm 1990, thể thức thi đấu đã được mở rộng với việc có thêm một vòng bảng thi đấu vòng tròn hai lượt, cùng với việc cho phép những đội á quân từ những giải đấu xếp hạng cao nhất được phép tham gia. Hiện tại, trong khi hầu hết các quốc gia châu Âu vẫn chỉ có các nhà vô địch tại giải đấu quốc nội được phép tham dự, những giải đấu hàng đầu tại châu Âu được phép cử tới bốn đại diện tham gia giải đấu, và có thể lên tới năm đại diện bắt đầu từ mùa giải 2015-16[3]. Những câu lạc bộ kết thúc giải quốc nội ở những vị trí thấp hơn mà không đủ điều kiện tham dự UEFA Champions League vẫn có thể đủ điều kiện tham gia vào giải đấu cấp thấp hơn, UEFA Europa League.
Theo thể thức hiện tại, UEFA Champions League sẽ được bắt đầu vào giữa tháng Bảy với ba vòng sơ loại và một vòng play-off. 10 đội chiến thắng cuối cùng sẽ tiến vào vòng bảng, cùng với 22 đội khác đã đủ điều kiện để được vào thẳng. 32 đội bóng sẽ được chia thành tám bảng đấu, mỗi bảng bốn đội, thi đấu vòng tròn hai lượt. Tám đội đầu bảng và tám đội nhì bảng sẽ vào vòng loại trực tiếp, đến khi chọn được hai đội cuối cùng thi đấu trong trận Chung kết, thường diễn ra vào cuối tháng Năm. Đội vô địch UEFA Champions League sẽ được phép tham dự UEFA Super CupFIFA Club World Cup.
Real Madrid là câu lạc bộ thành công nhất trong lịch sử giải đấu với 11 lần vô địch, trong đó có 5 mùa giải European Cup liên tiếp đầu tiên. Tây Ban Nha cũng là quốc gia vô địch nhiều lần nhất (16 lần)[4], theo sau là Ý và Anh (12 lần mỗi quốc gia)[5][6]. 22 câu lạc bộ khác nhau đã vô địch giải đấu này, 12 trong số đó đã vô địch nhiều hơn một lần. Kể từ khi giải đấu được đổi tên và thay đổi thể thức thi đấu vào năm 1992, không có câu lạc bộ nào từng bảo vệ thành công chức vô địch. Câu lạc bộ cuối cùng vô địch hai lần liên tiếp là A.C. Milan vào mùa giải 1989-90. Năm 2016, Đương kim vô địch là Real Madrid với chức vô địch thứ 11 trong lịch sử câu lạc bộ, đánh bại Atlético Madrid 5-3 trên chấm luân lưu sau khi hòa 1-1 trong 120 phút trận chung kết ở San Siro, Milano.
Bên cạnh đó, Liên đoàn bóng đá châu Âu cũng tổ chức Giải bóng đá nữ vô địch câu lạc bộ châu Âu (UEFA Women's Champions League)

Lịch sử

Năm 1954, Gabrief Hanot - của báo L'Equipe - đã đề xuất một giải thi đấu giữa các đội vô địch bóng đá các quốc gia châu Âu. Tháng 1 năm 1955, báo L'Equipe đã gửi bản dự thảo "European Cup" đến nhiều câu lạc bộ bóng đá. Ngày 2 tháng 4 năm 1955, 16 đại diện các câu lạc bộ đã thảo luận bản dự thảo này và thông qua sau 3 giờ đồng hồ.
Trận đấu đầu tiên đã diễn ra ngày 4 tháng 9 năm 1955 tại Lisbon (Bồ Đào Nha) giữa Sporting Lisbon và FK Partizan (Nam Tư), kết quả hòa 3-3. Và đội vô địch đầu tiên là Real Madrid (giải có 16 đội tham dự).
Từ mùa bóng 1992/1993, giải được đổi tên thành "UEFA Champions League". Và đến mùa bóng 1997/1998, có một sự thay đổi lớn trong điều lệ giải, ngoài các đội vô địch quốc gia, các đội có thứ hạng cao trong mỗi giải vô địch (số lượng đội của mỗi quốc gia dựa theo bảng xếp hạng các thành viên UEFA trong 5 năm gần nhất) cũng có quyền tham dự. Mùa bóng năm 2005/2006 và 2006/2007, 3 quốc gia Tây Ban Nha, AnhÝ (từ mùa bóng 2013-2014 Ý chỉ còn 3 đội tham dự, vì Đức đã lấy mất một suất của Ý), được quyền cử 4 đội tham gia.

Nhạc hiệu

Bản nhạc nền Cúp C1 châu Âu, tên chính thức được gọi đơn giản là "Champion League", do nhà soạn nhạc người Anh Tony Britten soạn theo phong cách của nhà soạn nhạc người Đức George Frideric Handel (1658-1759), được dàn nhạc Royal Philharmonic Orchestra (Luân Đôn - Anh) trình bày. Bản nhạc có mang nhiều âm hưởng của bản Zadok the Priest của Handel.

Chiếc cúp

Chiếc Cup UEFA Champions League
Chiếc Cup UEFA Champions League
Cúp cao 74 cm, nặng 8 kg và đắt giá nhất khoảng 200.000 franc. Đội đoạt cúp còn được nhận 20 Huy chương vàng và một bản sao của chiếc cúp với kích cỡ nhỏ hơn, đồng thời có quyền giữ chiếc cúp thật trong vòng một năm trước khi trao lại cho UEFA "trong tình trạng nguyên xi" (nếu hư hại sẽ bị phạt nặng), một tháng trước trận chung kết lần sau.
Trước năm 2009, nếu một đội 3 lần liên tiếp đoạt chức vô địch, hoặc 5 lần khác nhau, đội có quyền sở hữu vĩnh viễn chiếc cúp và lúc này UEFA phải làm một chiếc cúp khác hoàn toàn giống hệt. Tính tới thời điểm hiện tại, có 6 câu lạc bộ có được vinh dự này là: Real Madrid (11 lần vô địch); A.C. Milan (7 lần); FC Bayern München (5 lần, trong đó 3 lần liên tiếp); Liverpool FC (5 lần); Ajax Amsterdam (4 lần, trong đó 3 lần liên tiếp). Kể từ năm 2009, UEFA sẽ giữ vĩnh viễn bản gốc của chiếc cúp, do vậy một câu lạc bộ nếu đạt đủ 5 danh hiệu vô địch, hoặc vô địch 3 lần liên tiếp thay vào đó sẽ nhận được một bản sao của chiếc cúp với cùng kích thước và tên của nhà vô địch được khắc trên đó, cùng với phù hiệu cho những người chiến thắng. Đó là một logo nhỏ hình elip, nền xám, logo là một hình phác thảo một phần của chiếc cúp với viền trắng, ở giữa là số danh hiệu vô địch C1 của câu lạc bộ. Năm câu lạc bộ đã kể trên, cùng với F.C. Barcelona với chức vô địch thứ 5 vào mùa giải 2014-15 sẽ vinh dự được gắn phù hiệu cho những người chiến thắng trên tay trái của áo thi đấu mãi mãi về sau, mỗi khi thi đấu tại UEFA Champions League.
8 ngôi sao trên biểu tượng quả bóng của Cúp C1 (UEFA Champions League) là biểu tượng cho 8 đội bóng từng bảo vệ thành công chức vô địch (Real Madrid, SL Benfica, Inter Milan, Ajax Amsterdam, Bayern Munchen, Liverpool FC, Nottingham Forest, A.C. Milan).

Quy định

Các đội tham dự và thể thức thi đấu

Từ khởi đầu tới mùa bóng 1996-1997

Kể từ khi ra đời với tên gọi European Champion Clubs' Cup (tức Cúp C1), giải đấu này chỉ dành cho các đội đoạt chức vô địch quốc gia tại giải vô địch hạng cao nhất của các quốc gia châu Âu là thành viên của UEFA và đội đương kim vô địch của mùa giải trước - đang giữ cúp.
Vì vậy, nếu một đội bóng không bảo vệ được danh hiệu vô địch trong nước nhưng đoạt được cúp C1 thì năm sau tiếp tục được dự giải và quốc gia đó sẽ là nước duy nhất có 2 đội dự Cúp C1. Nếu đội vô địch Cúp C1 đồng thời đoạt "cú đúp" - vô địch cả giải trong nước thì quốc gia đó vẫn chỉ có 1 đội dự cúp này như những nước khác. Trong cả trường hợp đội vô địch Cúp C1 bị xuống hạng ở giải trong nước vẫn được dự giải này trong mùa bóng tiếp theo.
Thể thức duy nhất mà UEFA áp dụng từ năm 1955 tới năm 1991 là phân cặp đấu loại trực tiếp từ vòng đầu tới vòng cuối cùng. Vòng đầu có 32 đội, lần lượt qua 5 lượt tới trận chung kết còn 2 đội.
Mùa bóng 1986-1987, vòng 1 Cúp C1 chỉ có 31 đội tham dự do sự cố chính trị làm vắng mặt 1 thành viên. Do đó đội đương kim vô địch là Steaua Bucharest của Rumani được vào thẳng vòng 2.
AC Milan mừng chiến thắng năm 2007
AC Milan mừng chiến thắng năm 2007
Ở mùa giải 1991/92, Cúp C1 vẫn mang tên là European Champion Clubs' Cup như trước đây, nhưng UEFA đã thử nghiệm một thể thức thi đấu mới. 8 đội lọt vào tứ kết được chia làm 2 bảng thi đấu vòng tròn một lượt (vẫn gồm 2 lượt trận sân nhà sân khách cho mỗi cặp đấu), chọn ra 2 đội đầu bảng vào thi đấu trận chung kết.
Mùa giải 1992/93, giải bóng đá này chính thức được đổi tên thành UEFA Champions League - giải đấu của các nhà vô địch. Lúc này, vòng tứ kết vẫn gồm 8 đội nhưng lại có thêm vòng bán kết. Trận bán kết diễn ra giữa đội nhất bảng này gặp nhì bảng kia, nhưng chỉ thi đấu một trận duy nhất trên sân của những đội nhất bảng.
Real Madrid là đội bóng giữ kỷ lục lâu bị loại ở Cúp C1 nhất. Tính từ khi tham gia năm 1955 tới năm 1960, Real Madrid liên tục vô địch cúp này 5 năm và chưa từng bị loại. Tới mùa bóng 1960-1961, Real cùng FC Barcelona là đội vô địch trong nước cùng đại diện cho Tây Ban Nha dự giải. Do thời đó chưa có quy định hạt giống nên việc bốc thăm ngẫu nhiên khiến Real Madrid và Barcelona gặp nhau ngay vòng đầu. Kết quả Barcelona đã loại Real bằng kết quả hoà 2-2 ở sân Bernabeu và thắng 2-1 ở sân Nou Camp. Đó là lần đầu tiên Real Madrid bị loại ở Cúp C1.

Từ mùa bóng 1997-1998

Logo của giải đấu được thể hiện ở trung tâm của sân trước mỗi trận đấu
Logo của giải đấu được thể hiện ở trung tâm của sân trước mỗi trận đấu
UEFA mở rộng số đội tham dự, cho phép các nước có thành tích cao nhất được cử 2 đại diện tham dự - đội vô địch và đội á quân. Do số đội tăng lên, số đội dự vòng bảng là 16 và do đó có 4 bảng sau 2 vòng đầu. 8 đội đứng đầu 4 bảng lọt vào vòng tứ kết, đấu loại trực tiếp tới chung kết.
Trong những năm tiếp theo, do sức ép từ phía nhóm G-14, các đội bóng mạnh và giàu có ở châu Âu, UEFA mở rộng đối tượng tham dự Champions League hơn, cho phép 3 quốc gia có thành tích cao nhất được cử tới 4 đội tham dự, các nước có thành tích thấp hơn có số đội tham dự giảm dần, để tạo điều kiện cho những đội bóng giàu có cơ hội đoạt Cúp này ngay cả khi không vô địch trong nước nhiều năm liền.
Các vòng loại cho các đội yếu từ những nước có hệ số điểm thấp được thu xếp từ mùa hè để bắt đầu vào tháng 9, vòng 1 bắt đầu là vòng đấu bảng với số đội tham gia là 32 đội tại 8 bảng đấu.
Quy định mở rộng đối tượng tham dự này khiến cho giải thực chất không còn đúng với tên gọi "giải đấu của các nhà vô địch" - Champions League nữa.

Quy định hiện nay (bắt đầu từ mùa giải 2015-16)

Bắt đầu từ mùa giải 2015-16, đương kim vô địch UEFA Europa League sẽ được phép tham dự Champions League, nhưng chỉ bắt đầu từ vòng play-off, nhằm đảm bảo khả năng tham gia vòng bảng của các đội bóng cạnh tranh khác. Do đó, số lượng tối đa đội bóng đến từ cùng một quốc gia có thể tham gia Champions League cũng đã được tăng từ bốn lên năm đội.

Đội được xếp thẳng vào vòng thi đấu Đội được thi đấu do đã vượt qua vòng trước
Vòng sơ loại thứ nhất
(8 đội)
  • 8 đội vô địch từ các quốc gia xếp hạng 47–54

Vòng sơ loại thứ hai
(34 đội)
  • 30 nhà vô địch từ các quốc giá xếp hạng 16-46 (trừ Liechtenstein)
  • 4 đội chiến thắng từ vòng sơ loại thứ nhất
Vòng sơ loại thứ ba Nhóm những đội vô địch
(20 đội)
  • 3 đội vô địch từ các quốc gia xếp hạng 13-15
  • 17 đội chiến thắng từ vòng sơ loại thứ hai
Nhóm những đội không vô địch
(10 đội)
  • 9 đội á quân từ các quốc gia xếp hạng 7–15
  • 1 đội đứng thứ ba từ quốc gia xếp hạng 6

Vòng play-off Nhóm những đội vô địch
(10 đội)

  • 10 đội chiến thắng từ vòng sơ loại thứ ba trong nhóm những đội vô địch
Nhóm những đội không vô địch
(10 đội)
  • 2 đội đứng thứ ba từ các quốc gia xếp hạng 4-5
  • 3 đội đứng thứ 4 từ các quốc gia xếp hạng 1-3[UCL]
  • Đương kim vô địch UEFA Europa League[UEL]
  • 5 đội chiến thắng từ vòng sơ loại thứ ba trong nhóm những đội không vô địch
Vòng bảng
(32 đội - chia làm 8 bảng đấu)
  • 12 nhà vô địch từ các quốc gia xếp hạng 1-12
  • 6 đội á quân từ các quốc gia xếp hạng 1-6
  • 3 đội đứng thứ ba từ các quốc gia xếp hạng 1-3
  • Đương kim vô địch UEFA Champions League
  • 5 đội chiến thắng từ vòng play-off trong nhóm những đội vô địch
  • 5 đội chiến thắng từ vòng play-off trong nhóm những đội không vô địch
Vòng knock-out
(16 đội)

  • 8 đội nhất bảng trong 8 bảng đấu
  • 8 đội nhì bảng trong 8 bảng đấu
^UEL : Đương kim vô địch Europa League có thể được xếp thẳng vào vòng bảng nếu đương kim vô địch Champions League đã đạt vị trí cần thiết tại giải quốc nội để được đá thẳng vòng bảng Champions League. Nếu đương kim vô địch Champions League đến từ một quốc gia xếp hạng 13 hoặc thấp hơn, đương kim vô địch Europa League sẽ thay thế họ đá vòng play-off trong nhóm những đội vô địch. Danh sách những đội đá play-off sẽ được điều chỉnh cho phù hợp nhằm đảm bảo đủ 10 đội cho mỗi nhóm tại vòng play-off.
^UCL : Nếu những nhà vô địch Champions League và Europa League đến từ những quốc gia xếp hạng từ 1-3 và không đạt được vị trí cần thiết ở giải quốc nội để đủ điều kiện tham dự Champions League, đội đứng thứ tư tại giải quốc nội sẽ chuyển xuống chơi tại Europa League.

Xếp hạng vòng bảng

Đội thắng được 3 điểm, hòa 1 điểm, thua 0 điểm. Trong trường hợp có hai hay nhiều đội bằng điểm nhau sau khi vòng đấu bảng kết thúc, việc phân định ngôi thứ sẽ dựa trên các tiêu chuẩn sau:
- Giành được nhiều điểm hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại cao hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Ghi được nhiều bàn thắng trên sân của đối phương hơn trong các trận đối đầu trực tiếp.
- Có hiệu số bàn thắng bại của tất cả các trận đấu trong bảng cao hơn.
- Ghi được nhiều bàn thắng hơn trong tất cả các trận đấu trong bảng.
- Hệ số điểm của quốc gia vào thời điểm đầu mùa bóng (Hệ số này do UEFA thiết lập và xếp hạng).
Đội đứng thứ ba tại mỗi bảng sẽ chuyển xuống chơi vòng 32 đội tại UEFA Europa League

Tiền thưởng

Các vị nguyên thủ G8 tạm nghỉ trong cuộc họp thượng đỉnh để theo dõi trận chung kết năm 2012, tại Trại David, Mỹ, 19-5-2012: Cameron, Obama, Merkel, Barroso, Hollande và những người khác.
Các vị nguyên thủ G8 tạm nghỉ trong cuộc họp thượng đỉnh để theo dõi trận chung kết năm 2012, tại Trại David, Mỹ, 19-5-2012: Cameron, Obama, Merkel, Barroso, Hollande và những người khác.
Bắt đầu từ mùa giải 2015-16, UEFA trao 2 triệu cho mỗi đội chiến thắng và 3 triệu € cho mỗi đội bị loại khỏi vòng play-off. Với đội lọt vào vòng bảng, họ sẽ nhận thêm 12 triệu € từ UEFA. Đội thắng trong mỗi trận vòng bảng nhận thêm 1,5 triệu € và nếu hòa nhận thêm 500.000 €. Đối với vòng 16 đội, UEFA thưởng cho mỗi đội 5,5 triệu €, và đối với vòng tứ kết mỗi đội nhận thêm 6 triệu €. Mỗi đội trong bốn đội vào bán kết nhận 7 triệu €, và đội Á quân được thưởng 10.5 triệu €. Đội vô địch được UEFA thưởng 15 triệu €.[7]
  • Vòng sơ loại thứ nhất: €200.000
  • Vòng sơ loại thứ hai: €300.000
  • Vòng sơ loại thứ ba: €400.000
  • Thua trận play-off: €3.000.000
  • Thắng trận play-off: €2.000.000
  • Tiền thưởng chung cho mỗi đội vòng bảng: €12.000.000
  • Đội thắng trong 1 trận vòng bảng: €1.500.000
  • Đội hòa trong 1 trận vòng bảng: €500.000
  • Vòng 16 đội: 5.500.000
  • Tứ kết: €6.000.000
  • Bán kết: €7.000.000
  • Á quân: €10.500.000
  • Đội vô địch: €15.000.000
Doanh thu và lợi nhuận của UEFA Champions League đến từ quảng cáo, vé trận đấu... cũng như bản quyền truyền hình tại mỗi quốc gia sẽ được dùng để chia thưởng cho các câu lạc bộ cũng như liên đoàn các quốc gia có câu lạc bộ tham dự.
UEFA (10 tháng 8, 2012) cũng ước tính doanh thu từ UEFA Champions League và UEFA Super Cup là 1,34 tỷ €.[7]

Các trận chung kết

Năm Đội vô địch Tỷ số Đội hạng nhì Sân vận động
1956 Tây Ban Nha
Real Madrid
4–3 Pháp
Stade Reims
Parc des Princes, Paris
1957 Tây Ban Nha
Real Madrid
2–0 Ý
Fiorentina
Santiago Bernabéu, Madrid
1958 Tây Ban Nha
Real Madrid
3–2 Ý
A.C. Milan
Heysel, Brussels
1959 Tây Ban Nha
Real Madrid
2–0 Pháp
Stade Reims
Neckar, Stuttgart
1960 Tây Ban Nha
Real Madrid
7–3 Đức
Eintracht Frankfurt
Hampden Park, Glasgow
1961 Bồ Đào Nha
SL Benfica
3–2 Tây Ban Nha
FC Barcelona
Wankdorf, Berne
1962 Bồ Đào Nha
SL Benfica
5–3 Tây Ban Nha
Real Madrid
Olympic, Amsterdam
1963 Ý
A.C. Milan
2–1 Bồ Đào Nha
SL Benfica
Wembley, London
1964 Ý
Inter Milan
3–1 Tây Ban Nha
Real Madrid
Prater, Viên
1965 Ý
Inter Milan
1–0 Bồ Đào Nha
SL Benfica
San Siro, Milano
1966 Tây Ban Nha
Real Madrid
2–1 Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư
FK Partizan
Heysel, Brussels
1967 Scotland
Celtic F.C.
2–1 Ý
Inter Milan
Nacional, Lisboa
1968 Anh
Manchester United
4–1 Bồ Đào Nha
SL Benfica
Wembley, London
1969 Ý
A.C. Milan
4–1 Hà Lan
Ajax Amsterdam
Santiago Bernabéu, Madrid
1970 Hà Lan
Feyenoord Rotterdam
2–1 Scotland
Celtic F.C.
San Siro, Milano
1971 Hà Lan
Ajax Amsterdam
2–0 Hy Lạp
Panathinaikos
Wembley, London
1972 Hà Lan
Ajax Amsterdam
2–0 Ý
Inter Milan

De Kuip, Rotterdam
1973 Hà Lan
Ajax Amsterdam
1–0 Ý
Juventus
Crvena Zvezda, Belgrade
1974 Tây Đức
FC Bayern München
1–1
(4–0)
(đá lại)
Tây Ban Nha
Atlético Madrid
Heysel, Brussels
1975 Tây Đức
FC Bayern München
2–0 Anh
Leeds United F.C.
Parc des Princes, Paris
1976 Tây Đức
FC Bayern München
1–0 Pháp
AS Saint-Étienne
Hampden Park, Glasgow
1977 Anh
Liverpool F.C.
3–1 Đức
Borussia Mönchengladbach
Olimpico, Roma
1978 Anh
Liverpool F.C.
1–0 Bỉ
Club Brugge
Wembley, London
1979 Anh
Nottingham Forest F.C.
1–0 Thụy Điển
Malmö FF
Olympic, München
1980 Anh
Nottingham Forest F.C.
1–0 Đức
Hamburger SV
Santiago Bernabéu, Madrid
1981 Anh
Liverpool F.C.
1–0 Tây Ban Nha
Real Madrid
Parc des Princes, Paris
1982 Anh
Aston Villa F.C.
1–0 Đức
FC Bayern München
De Kuip, Rotterdam
1983 Tây Đức
Hamburger SV
1–0 Ý
Juventus
Olympic, Athena
1984 Anh
Liverpool F.C.
1–1
(4–2)
(pen)
Ý
AS Roma

Olimpico, Roma
1985 Ý
Juventus
1–0 Anh
Liverpool F.C.
Heysel, Brussels
1986 România
Steaua Bucureşti
0–0
(2–0)
(pen)
Tây Ban Nha
FC Barcelona
Ramon Sánchez Pizjuán, Sevilla
1987 Bồ Đào Nha
FC Porto
2–1 Đức
FC Bayern München
Ernst Happel, Viên
1988 Hà Lan
PSV Eindhoven
0–0
(6–5)
(pen)
Bồ Đào Nha
SL Benfica
Neckar, Stuttgart
1989 Ý
A.C. Milan
4–0 România
Steaua Bucureşti
Camp Nou, Barcelona
1990 Ý
A.C. Milan
1–0 Bồ Đào Nha
SL Benfica
Ernst Happel, Viên
1991 Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư
Sao Đỏ Belgrade
0–0
(5–3)
(pen)
Pháp
Olympique de Marseille
San Nicola, Bari
1992 Tây Ban Nha
F.C. Barcelona
1–0 Ý
U.C. Sampdoria
Wembley, London
1993 Pháp
Olympique de Marseille
1–0 Ý
A.C. Milan
Olympic, München
1994 Ý
A.C. Milan
4–0 Tây Ban Nha
FC Barcelona
Olympic, Athena
1995 Hà Lan
Ajax Amsterdam
1–0 Ý
A.C. Milan
Ernst Happel, Viên
1996 Ý
Juventus
1–1
(4–2)
(pen)
Hà Lan
Ajax Amsterdam
Olimpico, Roma
1997 Đức
Borussia Dortmund
3–1 Ý
Juventus
Olympic, München
1998 Tây Ban Nha
Real Madrid
1–0 Ý
Juventus
Amsterdam ArenA, Amsterdam
1999 Anh
Manchester United
2–1 Đức
FC Bayern München
Camp Nou, Barcelona
2000 Tây Ban Nha
Real Madrid
3–0 Tây Ban Nha
Valencia CF
Stade de France, Paris
2001 Đức
FC Bayern München
1–1
(5–4)
(pen)
Tây Ban Nha
Valencia CF
San Siro, Milano
2002 Tây Ban Nha
Real Madrid
2–1 Đức
Bayer Leverkusen
Hampden Park, Glasgow
2003 Ý
A.C. Milan
0–0
(3–2)
(pen)
Ý
Juventus
Old Trafford, Manchester
2004 Bồ Đào Nha
FC Porto
3–0 Pháp
AS Monaco FC
Veltins-Arena, Gelsenkirchen
2005 Anh
Liverpool F.C.
3–3
(3–2)
(pen)
Ý
A.C. Milan
Atatürk Olimpiyat, Istanbul
2006 Tây Ban Nha
Barcelona
2–1 Anh
Arsenal
Stade de France, Paris
2007 Ý
A.C. Milan
2–1 Anh
Liverpool F.C.
Olympic, Athena
2008 Anh
Manchester United
1–1
(6–5)
(pen)
Anh
Chelsea F.C.
Luzhniki, Moskva
2009 Tây Ban Nha
Barcelona
2–0 Anh
Manchester United
Olimpico, Roma
2010 Ý
Inter Milan
2–0 Đức
FC Bayern München
Santiago Bernabéu, Madrid
2011 Tây Ban Nha
Barcelona
3–1 Anh
Manchester United
Wembley, London
2012 Anh
Chelsea F.C.
1–1
(4–3)
(pen)
Đức
FC Bayern München
Allianz, Munich
2013 Đức
FC Bayern München
2–1 Đức
Borussia Dortmund
Wembley, London
2014 Tây Ban Nha
Real Madrid
4–1 Tây Ban Nha
Atlético Madrid
Estádio da Luz, Lisbon
2015 Tây Ban Nha
Barcelona
3–1 Ý
Juventus
Olympic Stadium, Berlin
2016 Tây Ban Nha
Real Madrid
1–1
(5–3)
(pen)
Tây Ban Nha
Atlético Madrid
San Siro, Milano
2017


Sân vận động Thiên niên kỷ, Cardiff

Thống kê

Xếp hạng các quốc gia có số lần vô địch nhiều nhất

Quốc gia Vô địch Á quân Câu lạc bộ vô địch Câu lạc bộ á quân
Tây Ban Nha Tây Ban Nha 16 11 Real Madrid (11)
Barcelona (5)
Real Madrid (3)
Barcelona (3)
Atlético Madrid (3)
Valencia (2)
Ý Italia 12 15 AC Milan (7)
Inter Milan (3)
Juventus (2)
Juventus (6)
AC Milan (4)
Inter Milan (2)
Fiorentina (1)
Roma (1)
Sampdoria (1)
Anh Anh 12 7 Liverpool FC (5)
Manchester United (3)
Nottingham Forest (2)
Chelsea (1)
Aston Villa (1)
Liverpool FC (2)
Manchester United (2)
Leeds United (1)
Arsenal (1)
Chelsea (1)
Đức Đức 7 10 Bayern Munich (5)
Borussia Dortmund (1)
Hamburg (1)
Bayern Munich (5)
Bayer Leverkusen (1)
Borussia Mönchengladbach (1)
Eintracht Frankfurt (1)
Hamburg (1)
Borussia Dortmund (1)
Hà Lan Hà Lan 6 2 Ajax Amsterdam (4)
PSV Eindhoven (1)
Feyenoord Rotterdam (1)
Ajax Amsterdam (2)
Bồ Đào Nha Bồ Đào Nha 4 5 SL Benfica (2)
FC Porto (2)
SL Benfica (5)
Pháp Pháp 1 5 Olympique de Marseille (1) Stade Reims (2)
Olympique de Marseille (1)
AS Saint-Étienne (1)
AS Monaco FC (1)

Xếp hạng theo câu lạc bộ

Đội bóng Vô địch Á quân Năm vô địch Năm hạng nhì
Tây Ban Nha Real Madrid 11 3 (1956, 1957, 1958, 1959, 1960,
1966, 1998, 2000, 2002, 2014, 2016)
(1962, 1964, 1981)
Ý A.C. Milan 7 4 (1963, 1969, 1989, 1990, 1994,
2003, 2007)
(1958, 1993, 1995, 2005)
Đức FC Bayern München 5 5 (1974, 1975, 1976, 2001, 2013) (1982, 1987, 1999, 2010, 2012)
Tây Ban Nha FC Barcelona 5 3 (1992, 2006, 2009, 2011, 2015) (1961, 1986, 1994)
Anh Liverpool FC 5 2 (1977, 1978, 1981, 1984, 2005) (1985, 2007)
Hà Lan Ajax Amsterdam 4 2 (1971, 1972, 1973, 1995) (1969, 1996)
Ý Inter Milan 3 2 (1964, 1965, 2010) (1967, 1972)
Anh Manchester United FC 3 2 (1968, 1999, 2008) (2009, 2011)
Ý Juventus FC 2 6 (1985, 1996) (1973, 1983, 1997, 1998, 2003, 2015)
Bồ Đào Nha SL Benfica 2 5 (1961, 1962) (1963, 1965, 1968, 1988, 1990)
Bồ Đào Nha FC Porto 2 0 (1987, 2004) -
Anh Nottingham Forest FC 2 0 (1979, 1980) -
Anh Chelsea FC 1 1 (2012) (2008)
Đức BV Borussia Dortmund 1 1 (1997) (2013)
Đức Hamburg SV 1 1 (1983) (1980)
Scotland Celtic FC 1 1 (1967) (1970)
România FC Steaua Bucureşti 1 1 (1986) (1989)
Pháp Olympique de Marseille 1 1 (1993) (1991)
Hà Lan Feyenoord 1 0 (1970)
Anh Aston Villa FC 1 0 (1982)
Hà Lan PSV Eindhoven 1 0 (1988)
Serbia Crvena Zvezda 1 0 (1991)
Tây Ban Nha Atlético de Madrid 0 3 (1974, 2014, 2016)
Pháp Stade Reims 0 2 (1956, 1959)
Tây Ban Nha Valencia CF 0 2 (2000, 2001)
Ý AC Fiorentina 0 1 (1957)
Đức Eintracht Frankfurt 0 1 (1960)
Serbia FK Partizan 0 1 (1966)
Hy Lạp Panathinaikos FC 0 1 (1971)
Anh Leeds United AFC 0 1 (1975)
Pháp AS Saint-Étienne 0 1 (1976)
Đức VfL Borussia Mönchengladbach 0 1 - (1977)
Bỉ Club Brugge KV 0 1 (1978)
Thụy Điển Malmö FF 0 1 (1979)
Ý AS Roma 0 1 (1984)
Ý UC Sampdoria 0 1 (1992)
Đức Bayer 04 Leverkusen 0 1 (2002)
Pháp AS Monaco FC 0 1 (2004)
Anh Arsenal FC 0 1 (2006)

Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất

Số liệu thống kê chính xác tới 09 tháng 03, 2017[8][9]
Bàn thắng không bao gồm những trận ở sơ loại.

Cầu thủ Quốc tịch Bàn thắng Số trận Hiệu xuất Năm thi đấu Câu lạc bộ
1 Cristiano Ronaldo Bồ Đào Nha Bồ Đào Nha 95 135 0.7 2003– Manchester United, Real Madrid
2 Lionel Messi  Argentina 94 113 0.83 2005– Barcelona
3 Raúl  Tây Ban Nha 71 142 0.5 1995–2011 Real Madrid, Schalke 04
4 Ruud van Nistelrooy  Hà Lan 56 73 0.77 1998–2009 PSV, Manchester United, Real Madrid
5 Thierry Henry  Pháp 50 112 0.45 1997–2010 Monaco, Arsenal, Barcelona
6 Alfredo Di Stéfano  Argentina 49 58 0.84 1955–64 Real Madrid
7 Andriy Shevchenko  Ukraina 48 100 0.48 1994–2012 Dynamo Kyiv, Milan, Chelsea
Zlatan Ibrahimović Thụy Điển Thụy Điển 48 119 0.4 2001– Ajax, Juventus, Internazionale, Barcelona, Milan, Paris Saint-Germain
9 Eusébio Bồ Đào Nha Bồ Đào Nha 46 65 0.71 1961–74 Benfica
Karim Benzema  Pháp 50 87 0.57 2006– Lyon, Real Madrid
Filippo Inzaghi  Ý 46 81 0.57 1997–2012 Juventus, Milan

Những cầu thủ ra sân nhiều nhất

Số liệu thống kê chính xác tới ngày 10 tháng 12 năm 2016[10][11]
Danh sach không bao gồm những trận ở vòng sơ loại.

Cầu thủ Quốc tịch Số trận ra sân Năm thi đấu Câu lạc bộ
1 Iker Casillas  Spain 156 1999– Real Madrid, Porto
2 Xavi  Spain 151 1998–2015 Barcelona
3 Raúl González  Spain 142 1995–2011 Real Madrid, Schalke 04
4 Ryan Giggs  Wales 141 1993–2014 Manchester United
5 Paolo Maldini  Italy 128 1988–2008 Milan
6 Cristiano Ronaldo  Portugal 133 2003– Manchester United, Real Madrid
7 Clarence Seedorf  Netherlands 125 1994–2012 Ajax, Real Madrid, Internazionale, Milan
8 Paul Scholes  England 124 1994–2013 Manchester United
9 Roberto Carlos  Brazil 120 1997–2007 Real Madrid, Fenerbahçe
10 Zlatan Ibrahimović  Sweden 119 2001– Ajax, Juventus, Internazionale, Barcelona, Milan, Paris Saint-Germain

Các kỷ lục

Bài viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp hoàn thiện bài viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Những ấn tượng đặc biệt về các kỳ World Cup trong lịch sử

Thu Hạnh (TTXVN/Vietnam+) Bản in

Nước chủ nhà của World Cup 2014 vẫn là đội giành nhiều chức vô địch nhất trong lịch sử. (Nguồn: Getty)

Qua 19 lần được tổ chức, giải vô địch bóng đá thế giới (World Cup) đã chứng kiến 8 quốc gia đứng lên bục đăng quang.

Brazil là đội duy nhất tham dự đủ 19 vòng chung kết và hiện đang giữ kỷ lục 5 lần vô địch giải.
1. World Cup lần thứ nhất - Uruguay 1930: Uruguay đi vào lịch sử

Có 13 đội bóng tham dự, trong đó có 9 đại diện châu Mỹ và 4 đại diện châu Âu.

World Cup đầu tiên không thi đấu tranh hạng ba, mà chỉ có trận chung kết để xác định hai đội có thứ hạng cao nhất.

Ở cả hai trận bán kết, hai đội bóng Nam Mỹ là Argentina và Uruguay cùng giành chiến thắng vang dội trước hai đội Mỹ và Nam Tư.

Là đội bóng mạnh nhất thế giới vào thời điểm đó, Uruguay đã giành chức vô địch với chiến thắng 4-2 ở trận chung kết.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 32. Tổng số bàn thắng: 89, trung bình: 2,78 bàn/trận. Tổng số khán giả: 1.614.677, trung bình: 60.495 người/trận.

2. World Cup lần thứ 2 - Italy 1934: Đến lượt Italy

Khác với kỳ World Cup đầu tiên, do có quá nhiều nước muốn giành quyền đăng cai giải nên phải có tới 8 phiên họp mới ra được quyết định: Italy sẽ là chủ nhà của World Cup 1934.

Tại kỳ World Cup này, số lượng các đội bóng tham dự cũng tăng từ 13 đội lên 33 đội. Với số lượng các đội tham dự tăng vọt, lần đầu tiên FIFA phải tiến hành vòng đấu loại tại các khu vực để chọn 16 đội được quyền dự Vòng chung kết tại Italy.

Tại giải này, lần đầu tiên tổ chức trận đấu tranh hạng 3 và đội tuyển Đức đã giành thắng lợi trước đội tuyển Áo với tỷ số 3-2.

2 đội lọt vào chung kết là Italy và Tiệp Khắc. Với bàn thắng quyết định ghi được trong 2 hiệp phụ, Italy đăng quang ngôi vô địch.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 17. Tổng số bàn thắng ghi tại giải: 70, trung bình: 4,12 bàn/trận. Tổng số khán giả: 395.000 người, trung bình: 23.235 người/trận.

3. World Cup lần thứ 3 - Pháp 1938: Italy vô địch lần thứ hai

World Cup lần thứ 3 bị bao phủ bởi bóng đen của Chiến tranh thế giới lần thứ II sắp bùng nổ. Tây Ban Nha rút lui khỏi giải vì nội chiến. Áo cũng vắng mặt do đang phải đối đầu với cuộc xâm lược của phát xít Đức.

World Cup lần thứ 3 là giải đầu tiên mà đương kim vô địch và chủ nhà không phải tham dự vòng đấu loại mà được quyền lọt thẳng vào vòng chung kết.

Hai đội giành được quyền vào chung kết ở giải lần này là Italy và Hungary. Cuối cùng Italy đã thắng Hungary với tỷ số 4-2, và trở thành đội đầu tiên 2 lần liên tiếp giành chức vô địch thế giới.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 18. Tổng số bàn thắng ghi tại giải: 84, trung bình: 4,67 bàn/trận. Tổng số khán giả: 483.000 người, trung bình: 26.833 người/trận.

4. World Cup lần thứ 4 - Brazil 1950: Uruguay đăng quang lần thứ hai

Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, đến năm 1950, World Cup đầu tiên thời kỳ hậu chiến được tổ chức tại xứ sở của lễ hội Carnaval và vũ điệu Samba nóng bỏng. Một trong những điểm gây chú ý ở giải lần này là sự xuất hiện lần đầu tiên của các đại diện bóng đá Anh hiện đại.

Đây cũng là kỳ World Cup đầu tiên áp dụng thể thức thi đấu vòng tròn.

Trong trận chung kết, đội tuyển Uruguay đã giành thắng lợi 2-1 trước đội tuyển Brazil. Như vậy, sau 20 năm, Uruguay đăng quang lần thứ hai.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 22. Tổng số bàn thắng ghi tại giải: 88, trung bình: 4 bàn/trận. Tổng số khán giả: 1.337.000 người, trung bình: 60.733 người/trận.

5. World Cup lần thứ 5 - Thụy Sĩ 1954: “Thần kinh thép” chiến thắng

Thể thức thi đấu lần này lại trở lại như cũ: có các vòng tứ kết, bán kết và chung kết.

Đương kim vô địch Uruguay bị “knock-out” ở trận bán kết trước đội bóng tấn công xuất sắc nhất giải, Hungary, với tỷ số 2-4. Trận chung kết là cuộc tái ngộ giữa Cộng hòa Liên bang Đức và Hungary. Ở vòng 1, Hungary đã hạ Đức với tỷ số 8-3.

Tại trận chung kết, Cộng hòa Liên bang Đức có sự điều chỉnh kịp thời. Các cầu thủ Cộng hòa Liên bang Đức thể hiện lối chơi phòng thủ chặt chẽ kết hợp với những cuộc tấn công chớp nhoáng, đã khiến Hungary không thể lặp lại được thành tích của mình. Hơn nữa, tinh thần thi đấu quật khởi của người Đức đã giúp họ thực hiện một cú lội ngược dòng ngoạn mục khi bị dẫn trước tới 0-2 mà cuối cùng vẫn giành thắng lợi chung cuộc 3-2.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 24. Tổng số bàn thắng ghi tại giải: 140, trung bình: 6,38 bàn/trận. Tổng số khán giả: 943.000 người, trung bình: 36.269 người/trận.

6. World Cup lần thứ 6- Thuỵ Điển 1958: Cúp vàng lỡ hẹn với châu Âu

Đội chủ nhà Thụy Điển được sự cổ vũ cuồng nhiệt của khán giả nhà và sự chuẩn bị chu đáo, đã thể hiện một phong độ xuất sắc. Trận chung kết Thuỵ Điển-Brazil đã diễn ra rất tưng bừng. Với một đội hình rất mạnh, Brazil trở thành đội bóng Nam Mỹ đầu tiên và duy nhất trong thế kỉ 20 giành được Cup tại một giải vô địch thế giới được tổ chức trên đất châu Âu. tỷ số của trận chung kết là 5-2.

World Cup lần này cũng ghi nhận sự xuất hiện của một nhân vật huyền thoại, người mà sau này đã được đông đảo giới hâm mộ bóng đá tôn sùng là ông Vua của bóng đá thế giới. Đó là Pele.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 35. Tổng số bàn thắng ghi tại giải 126, trung bình 3,60 bàn/trận. Tổng số khán giả 868.000 người, trung bình 24.800 người/trận.

7. World Cup lần thứ 7- Chile 1962: Brazil bảo vệ thành công ngôi vô địch

Vượt qua các đối thủ, Brazil và Tiệp Khắc gặp nhau ở trận đấu cuối cùng. Brazil đã bảo vệ thành công ngôi vô địch. Tỷ số của trận chung kết là 3-1.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 32. Tổng số bàn thắng ghi tại giải: 89, trung bình: 2,78 bàn/trận. Tổng số khán giả: 776.000 người, trung bình: 24.260 người/trận.

8. World Cup lần thứ 8 - Anh 1966: Cúp vàng về với quê hương bóng đá

Năm 1966, lần đầu tiên World Cup được tổ chức tại nước Anh, quê hương của bóng đá. Trận chung kết Anh-Đức là điểm nóng nhất của giải, trong đó tâm điểm của cuộc tranh cãi là bàn thắng quyết định chiến thắng cho đội tuyển Anh của tiền đạo Geoff Hurst được ghi vào phút thứ 100 của trận đấu.

Đến nay, người ta đã tham khảo nhiều bức ảnh tư liệu nhưng vẫn không thể xác định được quyết định của trọng tài Thuỵ Sĩ Dienst công nhận bàn thắng cho đội tuyển Anh khi đó là đúng hay sai. Tỷ số của trận chung kết là 4-2.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 32. Tổng số bàn thắng: 89, trung bình: 2,78 bàn/trận. Tổng số khán giả: 1.614.677, trung bình: 60.496 người/trận.

9. World Cup lần thứ 9- Mexico 1970: Brazil giành vĩnh viễn Cúp “Nữ thần vàng”

Giải lần này ghi nhận một nét mới trong hệ thống luật thi đấu: Lần đầu tiên, ban tổ chức cho phép các cầu thủ dự bị được thay thế.

Theo điều lệ Giải Vô địch thế giới của FIFA, đội nào 3 lần giành chức vô địch sẽ được trao tặng vĩnh viễn Cúp “Nữ thần vàng”.

Sau 40 năm kể từ khi World Cup đầu tiên được tổ chức, mới có một đội bóng lập được kỳ tích này: Đó là Brazil. Trong 90 phút đi vào lịch sử đó, các cầu thủ Brazil đã trình diễn một vũ điệu samba huyền ảo và đầy hứng khởi để giành thắng lợi 4-1 trước Italy.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 32. Tổng số bàn thắng: 95, trung bình: 2,97 bàn/trận. Tổng số khán giả: 1.673.975, trung bình: 52.312 người/trận.

10. World Cup lần thứ 10 - Cộng hòa Liên bang Đức 1974: Beckenbauer lên ngôi Hoàng đế

World Cup lần này có nhiều nét mới. Thứ nhất, chiếc Cúp vàng mới được đặt tên là FIFA. Thứ hai là việc áp dụng thể thức thi đấu mới: Ở vòng 1, 16 đội được chia làm 4 bảng để chọn 8 đội vào vòng sau. Ở vòng 2, 8 đội lại được chia tiếp thành 2 bảng mới. Hai đội đứng thứ nhất 2 bảng sẽ vào thẳng chung kết. Hai đội đứng thứ nhì sẽ gặp nhau để tranh ngôi vị thứ 3.

“Cỗ xe tăng” Đức dưới sự dẫn dắt của Beckenbauer đã giành ngôi vô địch, sau khi hạ gục Hà Lan 2-1 trong trận chung kết

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 38. Tổng số bàn thắng: 97, trung bình: 2,25 bàn/trận. Tổng số khán giả: 1.774.022 người, trung bình: 46.685 người/trận.

11. World Cup lần thứ 11 - Argentina 1978: Kết thúc nửa thế kỷ chờ đợi

Sự ủng hộ cuồng nhiệt của khán giả nhà, cộng với một Kempes sáng chói trên sân đã giúp cho Argentina lần đầu tiên giành chức Vô địch bóng đá Thế giới sau khi đánh bại Hà Lan với tỷ số 3-1 trong trận chung kết.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 38. Tổng số bàn thắng: 102, trung bình: 2,68 bàn/trận. Tổng số khán giả: 1.610.215 người, trung bình: 42.374 người/trận.

12. World Cup lần thứ 12 - Tây Ban Nha 1982: Italy lần thứ ba đăng quang

Năm 1982, World Cup dừng chân tại xứ sở của những chú bò tót, Tây ban Nha.

Đây là World Cup đầu tiên có 24 đội bóng tham dự và cũng là vòng chung kết đầu tiên áp dụng thi đá luân lưu 11 mét để phân định thắng bại trong các trận đấu loại trực tiếp.

Tại giải lần này, sau 12 năm chờ đợi, đội tuyển Italy mới có cơ hội đuổi kịp thành tích của Brazil (đăng quang chức vô địch lần thứ 3), đồng thời đưa bóng đá châu Âu ngang tầm với thành tích của Nam Mỹ trong cuộc chạy đua giữa hai khu vực mạnh nhất thế giới về bóng đá. Trong trận chung kết, Italy đã giành thắng lợi trước Cộng hòa Liên bang Đức với tỷ số 3-1.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 52. Tổng số bàn thắng: 146, trung bình: 2,81 bàn/trận. Tổng số khán giả: 1.842.250, trung bình: 35.482 người/trận.

13. World Cup lần thứ 13 - Mexico 1986: Maradona và “bàn tay của Chúa”

Dưới sự dẫn dắt của Maradona, Argentina như một con diều gặp gió, thắng như chẻ tre và tiến đến trận chung kết để gặp “cỗ xe tăng” Đức và giành thắng lợi với tỷ số 3-2. Cuối cùng, vòng nguyệt quế đã thuộc về các cầu thủ đến từ xứ sở Tango.

Mexico 86 được đánh giá là một giải hấp dẫn, có chất lượng chuyên môn cao và thu hút nhiều danh thủ xuất sắc của thế giới. Nhưng trên bầu trời đầy sao ấy, sáng nhất vẫn là ngôi sao mang tên Maradona.

Sự kiện đáng chú ý nhất tại giải này có tên “bàn tay của Chúa”. Bàn thắng mở tỷ số của Maradona đã trở thành bàn thắng gây tai tiếng nhất trong lịch sử World Cup. Sau này qua camera, ảnh chụp lại và chính Maradona thú nhận anh đã kín đáo dùng bàn tay đưa bóng vào lưới!

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 52. Tổng số bàn thắng: 132, trung bình 2,54 bàn/trận. Tổng số khán giả: 2.407.431 người, trung bình 46.297 người/trận.

Maradona và pha bóng đi vào lịch sử

14. World Cup lần thứ 14 - Italy 1990: Trận chung kết “nhạt nhẽo”

Trận chung kết World Cup năm 1990 vẫn là cuộc đối đầu Đức- Argentina, nhưng Maradona không còn dũng mãnh như 4 năm trước; còn Đức có một dàn cầu thủ phong độ ổn định cao. Vì vậy, không có gì đáng bàn về chiến thắng của người Đức, ngoại trừ việc cả 2 đội đã trình diễn một trận chung kết “nhạt nhẽo” nhất trong lịch sử bóng đá thế giới và Đức chỉ giành được thắng lợi từ một quả penalty gây tranh cãi.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 52. Tổng số bàn thắng: 115, trung bình: 2.21 bàn/trận. Tổng số khán giả: 2.5115.168, trung bình: 48.369 người/trận.

15. World Cup lần thứ 15 - Mỹ 1994: Brazil lần thứ 4 vô địch thế giới

Trận chung kết Brazil và Italy là một cuộc tranh tài quyết liệt và không bàn thắng nào được ghi suốt 120 phút của trận đấu. Cuối cùng, sau một loạt đá penalty (3-2), Brazil trở thành đội tuyển 4 lần giành chức vô địch bóng đá thế giới. Còn Baggio, người đưa Italy đến trận chung kết lại góp phần đem chiến thắng cho đối thủ khi sút hỏng quả penalty định mệnh, đã trở thành “tội đồ” của các tifosi.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 52. Tổng số bàn thắng: 141, trung bình: 2,71 bàn/trận. Tổng số khán giả: 3.587.538, trung bình: 68.991 người/trận.

16. World Cup lần thứ 16 - Pháp 1998: Nước Pháp khắc tên mình lên Cúp vàng FIFA

Đến năm 1998, Pháp đã trở thành quốc gia thứ 3 trên thế giới lần thứ 2 được FIFA chọn làm địa điểm tổ chức World Cup.

Trận chung kết giữa Pháp và Brazil đã diễn ra ngoài dự đoán khi Pháp có một trận đấu tưng bừng và quá dễ dàng trước nhà đương kim vô địch. Chiến thắng với tỷ số 3-0, Cúp vàng cho nước Pháp là hoàn toàn xứng đáng.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 64. Tổng số bàn thắng: 171 bàn, trung bình: 2,67 bàn/trận. Tổng số khán giả: 2.785.100, trung bình: 43.517 người/trận.

17. World Cup lần thứ 17 - Nhật Bản và Hàn Quốc 2002: Lần đầu tiên hai quốc gia đồng tổ chức.

Cúp bóng đá thế giới lần đầu tiên được tổ chức ở châu Á còn chứng kiến nhiều điều “chưa từng có”. Dù có nhiều ý kiến trái ngược nhau, nhưng World Cup lần đầu tiên của thế kỷ 21 này đã mang về một kết thúc có hậu. Lần đầu tiên, một đội đến từ châu Á - Hàn Quốc - đã lọt vào đến bán kết. Với lối đá hút hồn, Brazil xứng đáng lần thứ 5 lên ngôi với thắng lợi 2-0 trước Đức trong trận chung kết.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 64. Tổng số bàn thắng: 161, trung bình 2,52 bàn/trận. Tổng số khán giả: 2.705.134, trung bình 42.268 người/trận.

18. World Cup lần thứ 18 - Đức 2006: Italy lần thứ 4 vô địch thế giới

World Cup 2006 kết thúc với chức vô địch dành cho Italy sau 24 năm chờ đợi. Azzurri đã đăng quang một cách hết sức thuyết phục với bản lĩnh, tinh thần đồng đội và lối chơi phòng ngự chặt chẽ.

Trong trận chung kết, Italy đã giành thắng lợi trước Pháp trong loạt đá luân lưu 11 m với tỷ số 5-3 (tỷ số sau hai hiệp phụ là 1-1).

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 64. Tổng số bàn thắng: 147, trung bình 2,30 bàn/trận. Tổng số khán giả: 3.359.439, trung bình 52.491 người/trận.

Đội tuyển Italy nâng cao chiếc cúp vô địch. (Nguồn: Getty)

19. World Cup lần thứ 19 - Nam Phi 2010: Tây Ban Nha lần đầu đăng quang

Lần đầu tiên, FIFA đưa đưa giải đấu đến châu Phi. Và cũng lần đầu tiên, đội tuyển Tây Ban Nha giành chức vô địch World Cup. Sau trận chung kết có thi đấu hiệp phụ với đội tuyển Hà Lan, Tây Ban Nha đã chiến thắng với tỷ số 1-0 và trở thành đội vô địch ghi ít bàn thắng nhất trong lịch sử World Cup với 8 bàn thắng.

- Những con số đáng chú ý:
Số trận đấu: 64 trận. Tổng số bàn thắng: 145, trung bình 2,27 bàn/trận. Tổng số khán giả: 3.178.856 người, trung bình 49.670 khán giả/trận./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét