Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 89
Hoàng Hoa Thám
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hoàng Hoa Thám | |
---|---|
Đề Thám |
|
Tiểu sử | |
Biệt danh | Đề Dương Đề Thám Hùm thiêng Yên Thế |
Sinh | 1836 Tiên Lữ, Hưng Yên, Việt Nam |
Mất | 10 tháng 2 năm 1913 Bắc Giang, Việt Nam |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Đội quân Trần Xuân Soạn Khởi nghĩa Cai Kinh Khởi nghĩa Cai Vàng Khởi nghĩa Đại Trận Khởi nghĩa Yên Thế |
Năm tại ngũ | 1862-1913 |
Thân thế
Năm 1962, nhà nghiên cứu Hoài Nam, trong một bài viết đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, cho biết Đề Thám sinh năm 1846, trước khi cải từ họ Trương sang họ Hoàng, ông còn mang họ Đoàn. Kể từ đó, hầu hết các tài liệu viết về Đề Thám đều cho rằng ông gốc họ Trương, hồi bé tên Trương Văn Nghĩa, sau đổi thành Trương Văn Thám, quê ở xã Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên; sau di cư lên Sơn Tây (nay bao gồm một phàn ngoại thành Hà Nội, một phần các tỉnh Phú Thọ, Hòa Bình, Tuyên Quang và toàn tỉnh Vĩnh Phúc), rồi đến Yên Thế (Bắc Giang). Cha ông là Trương Văn Thận và mẹ là Lương Thị Minh. Sinh thời, cha mẹ ông đều là những người rất trọng nghĩa khí; cả hai đều gia nhập cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Văn Nhàn, Nông Văn Vân ở Sơn Tây.Gần đây, Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm trong một bài viết công bố trên tạp chí Xưa và Nay' đã căn cứ vào Đại Nam thực lục' – Chính biên (Đệ nhị kỷ, các quyển CII, CXVIII, CXXIII, CLXII, CLXXIII, CLXXIV), Gia phả họ Bùi (Thái Bình) và Gia phả họ Đoàn (Dị Chế) cho biết Trương Thận (tức cha của Đề Thám) chỉ là biệt danh của một thủ lĩnh nông dân để nổi lên chống lại nhà Nguyễn, tên chính là Đoàn Danh Lại, người làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, bị anh em Bùi Duy Kỳ bắt giết đem nộp triều đình vào tháng 9 năm Bính Thân, Minh Mệnh thứ 17 (tháng 10 năm1836). Cũng theo Nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm, Đoàn Danh Lại có hai con trai: con lớn tên là Đoàn Văn Lễ (sau cải là Trương Văn Leo, không rõ năm sinh), con thứ là Đoàn Văn Nghĩa (tức Trương Văn Nghĩa, tức Đề Thám sau này, sinh được mấy tháng thì bố mẹ bị giết hại). Luận điểm này được Khổng Đức Thiêm khẳng định lại trong tác phẩm Hoàng Hoa Thám (1836-1913).
Chống Pháp
Thời kỳ đầu
Năm 26 tuổi, Hoàng Hoa Thám tham gia khởi nghĩa của Cai Vàng (1862-1864); năm 34 tuổi lại gia nhập cuộc khởi nghĩa Đại Trận (1870-1875), và được gọi là Đề Dương. Khi Pháp đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (11-1873) Hoàng Hoa Thám gia nhập nghĩa binh của Trần Xuân Soạn, lãnh binh Bắc Ninh. Khi Pháp chiếm Bắc Kỳ lần thứ 2 (4-1884), ông tham gia khởi nghĩa của Cai Kinh (Hoàng Đình Kinh) ở Hữu Lũng (1882-1888). Cuối năm 1885, ông cùng Bá Phức trở lại Yên Thế đứng dưới cờ của Lương Văn Nắm (tức Đề Nắm) và trở thành một tướng lĩnh có tài.Tháng 4 năm 1892, Đề Nắm bị thủ hạ Đề Sặt sát hại. Hoàng Hoa Thám trở thành thủ lĩnh tối cao của phong trào Yên Thế, tiếp tục hoạt động, lập căn cứ ở Yên Thế và trở thành thủ lĩnh danh tiếng nhất của phong trào với biệt danh "Hùm xám Yên Thế". Trong gần 30 năm lãnh đạo, ông đã tổ chức đánh nhiều trận, tiêu biểu là Luộc Hạ, Cao Thượng (tháng 10 năm 1890), thung lũng Hố Chuối (tháng 12 năm 1890) và Đồng Hom (tháng 2 năm 1892), trực tiếp đương đầu với các Thiếu tướng Godin, Voyron và Đại tá Frey.
Trong hai năm (1893-1894) quân Pháp đã tập trung lực lượng để đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Pháp không từ một thủ đoạn nào, từ phủ dụ đến bao vây tàn sát.
Hoàng Hoa Thám bằng chiến thuật du kích tài tình đã tránh được mũi nhọn của quân Pháp và đã gây cho họ những tổn thất nặng nề. Nghĩa quân Yên Thế đã trừng trị nhiều kẻ phản bội, trong đó có Đề Sặt.
Giảng hòa lần thứ nhất 1894
Thấy chưa thể dập tắt được phong trào, tháng 10 năm 1894, Pháp đã chấp nhận giảng hòa, cắt nhượng cho nghĩa quân bốn tổng thuộc Yên Thế. Nhưng chỉ vài tháng sau (đến tháng 10 năm 1895), Pháp đã bội ước, giao cho Đại tá Galliéni huy động hàng ngàn quân có đại bác yểm trợ mở những cuộc tấn công trên quy mô lớn vào Yên Thế, treo giải thưởng 30.000 franc cho kẻ nào bắt được ông. Không đàn áp được phong trào, Pháp tiếp tục bao vây, truy đuổi, tiêu diệt cả lực lượng của Kỳ Đồng đang khai thác đồn điền ở Yên Thế để nghĩa quân mất chỗ dựa về vật chất và tinh thần, buộc Đề Thám phải chấp nhận cuộc giảng hòa lần thứ hai vào năm 1897.Giảng hòa lần thứ hai 1897
Trong hơn 10 năm hòa hoãn (từ tháng 12 năm 1897 đến ngày 29 tháng 1 năm 1909), nghĩa quân Yên Thế đã có những bước phát triển mới: địa bàn hoạt động được mở rộng từ trung du đến đồng bằng, kể cả vùng Hà Nội. Hoàng Hoa Thám tổ chức ra "đảng Nghĩa Hưng" và "Trung Châu ứng nghĩa đạo" làm nòng cốt. Đặc biệt, Hoàng Hoa Thám đã chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ngày 27 tháng 6 năm 1908 trong trại lính pháo thủ tại Hà Nội mà trươc đây quen gọi là vụ Hà thành đầu độc, làm chấn động khắp cả nước. Ngoài ra, Hoàng Hoa Thám còn xúc tiến xây dựng Phồn Xương thành căn cứ kháng chiến, bí mật liên hệ với lực lượng yêu nước ở bên ngoài. Nhiều sĩ phu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Văn Ngôn, Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên... đã gặp gỡ Hoàng Hoa Thám và bàn kế hoạch phối hợp hành động, mở rộng hoạt động xuống đồng bằng. Một cánh quân thuộc Trung Quốc Cách mạng Đồng minh hội của Tôn Trung Sơn đã được Đề Thám chu cấp trong một thời gian dài.Lực lượng suy yếu
Ngày 29 tháng 1 năm 1909, Thống sứ Bắc Kỳ đã huy động 15.000 quân chính quy và lính khố xanh, 400 lính dõng là một lực lượng lớn nhất từ trước tới lúc đó do Đại tá Bataille chỉ huy tổng tấn công vào căn cứ Yên Thế.Đề Thám vừa tổ chức đánh trả, vừa phải rút lui khỏi Yên Thế. Nghĩa quân bị tổn thất nặng, trong đó có con trai của ông là Cả Trọng bị tử thương. Sau khi thoát khỏi vòng vây, ông chỉ huy lực lượng còn lại phối hợp với các toán nghĩa quân đang có mặt ở Vĩnh - Phúc Yên tiến hành một cuộc vận động chiến, thôn trang chiến nổi tiếng, gây cho quân Pháp nhiều thiệt hại trong tháng 7-1909. Đầu tháng 8-1909, Lê Hoan được tung vào chiến trường. Đề Thám vừa đánh vừa lui về núi Sáng trên dẫy Tam Đảo và đánh thắng một trận quan trọng ở đây. Kể từ khi bà Ba Cẩn và con gái út của ông là Hoàng Thị Thế bị bắt[2], lực lượng nghĩa quân giảm sút dần và tới đầu 1910 bị tan rã. Đề Thám phải sống ẩn náu trong núi rừng Yên Thế cùng hai thủ hạ tâm phúc.
Cái chết
Khởi nghĩa Yên Thế chấm dứt vào năm 1913. Có những giả thiết khác nhau về cái chết của thủ lĩnh Hoàng Hoa Thám.- Trong những ngày cuối cùng, lực lượng ngày càng mỏng, Đề Thám chỉ
còn vài thủ hạ bảo vệ bên cạnh và liên tục phải di chuyển. Khi ông tới
vùng Hố Lẩy, người Pháp đã bố trí 3 người đến trá hàng để tiếp cận và hạ
sát ông cùng 2 thủ hạ vào sáng mồng 5 Tết năm Quý Sửu, tức ngày 10 tháng 2 năm 1913, sau đó mang thủ cấp ông ra bêu Phủ đường Yên Thế để thị uy dân chúng. Tuy nhiên, có ý kiến nghi ngờ về giả thiết này khi dẫn 3 thông tin khác:
- Nhà cầm quyền Pháp chỉ cho bêu đầu có 2 ngày rồi vội cho tẩm dầu, đốt thành tro đem đổ xuống ao và không cho công bố ảnh thủ cấp những người chống lại bị chém giết
- Theo Lý Đào, một cận vệ cũ của Hoàng Hoa Thám và thường cắt tóc cho Đề Thám nên biết đầu ông có một đường gồ chạy từ trán lên đỉnh đầu, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm, nhưng cái đầu cắm ở Phủ đường không có đường gồ, cằm không có râu
- Theo người dân làng Lèo, thủ cấp bị bêu là của sư ông trụ trì ở chùa Lèo, vì sư ông có dung mạo khá giống với Hoàng Hoa Thám và không thấy xuất hiện từ hôm đó, có lẽ bị giết để thế chỗ
- Hoàng Hoa Thám chạy trốn và sống ẩn dật những ngày cuối đời trong dân chúng, và cuối cùng chết vì bệnh tật. Một số quan lại cho rằng ông mất vào trước thời điểm ngày 10 tháng 2 năm 1913, còn dân chúng lại cho rằng ông mất sau thời gian này.
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 06:40 ngày 18 tháng 2 năm 2015.
Bí ẩn chưa được biết tới về cái chết và phần mộ của Hoàng Hoa Thám
Tượng đài tưởng niệm Hoàng Hoa Thám tại trị trấn Cầu Gồ, Yên Thế, Bắc Giang.
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã qua hơn một thế kỷ, người anh hùng Yên Thế đã hy sinh một cách oanh liệt. Thế nhưng phần mộ của người anh hùng này thực sự ở đâu? Liệu có phải đã bị thực dân Pháp phanh thây như các tài liệu để lại từng ghi chép? Đó là những dấu hỏi lớn chưa có lời giải đáp thỏa đáng gần một thế kỷ nay về những bí mật xung quanh cái chết và phần mộ của người anh hùng này.
Bí ẩn về cái chết của thủ lĩnh được mệnh danh “hùm Thiêng Yên Thế” Trong gần 80 năm thực dân Pháp đô hộ, ở Việt Nam đã diễn ra hàng loạt những cuộc khởi nghĩa nông dân oanh liệt chống giặc ngoại xâm, khởi nghĩa Yên Thế là một trong số đó. Cuộc khởi nghĩa này kéo dài tới gần 30 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình và quả cảm của lãnh tụ Hoàng Hoa Thám (tức Đề Thám) - vị tướng quân, linh hồn của cuộc khởi nghĩa. Nhưng cuối cùng, cuộc khởi nghĩa đã đi vào thoái trào và người anh hùng bị giặc Pháp giết hại. Liệu cụ có thực sự bị bắt và phanh thây hay không?Hoàng Hoa Thám (1858-1913) quê gốc ở làng Dị Chế, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, sau di cư lên Sơn Tây (Hà Tây), rồi lại lên Yên Thế (Bắc Giang). Trong tác phẩm “Chân tướng quân”, nhà chí sĩ Phan Bội Châu - trên cơ sở những tìm hiểu thực tế gặp gỡ của mình với cụ Hoàng Hoa Thám - đã viết về thời thơ ấu của cụ như sau: “Hồi còn nhỏ, tính nết hết sức đặc biệt, người khỏe mạnh béo tốt, sức mạnh như hổ, khi chơi đùa đánh nhau với trẻ chăn trâu thì có thể đánh nổi vài chục đứa… Nhưng Ngài lại rất ôn hòa, được anh em yêu mến, ai cần gì cũng giúp đỡ”.
Các truyền thuyết và ghi chép còn lưu truyền lại rằng, cả cha mẹ đẻ lẫn cha nuôi của Hoàng Hoa Thám mặc dù nghèo khổ nhưng đều là những người trọng nghĩa khí và rất nồng nàn tinh thần yêu nước. Bởi vậy, không có gì lạ khi mới 15 - 16 tuổi, Hoàng Hoa Thám đã “vứt bỏ roi trâu, cởi áo tơi” làm người lính chân đất gia nhập phong trào chống Pháp (ghi chép của chí sĩ Phan Bội Châu về Hoàng Hoa Thám).
Theo như ghi chép của Phan Bội Châu, vị anh hùng nông dân Yên Thế đã rất nhanh chóng chứng minh được những tài năng hơn người và sự dũng cảm của mình: “Khi gặp địch thì xông lên trước tiên, chém được nhiều địch; chưa đầy nửa năm tham gia nghĩa quân đã được thăng lên chức Đầu mục, một năm sau được thăng lên chức Bang tá (những cấp bậc và chức danh trong hàng ngũ nghĩa quân khởi nghĩa chống pháp - PV); có thể tự chỉ huy một cánh quân, gặp giặc giao chiến một mình, có thể đảm đương một mặt phòng ngự…
Cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp kéo dài nhất
Sau khi tham gia những cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ nhưng đều bị thất bại, Hoàng Hoa Thám đã gia nhập nghĩa quân của Hoàng Đình Kinh. Cùng với Bá Phức, Thống Luận, dưới quyền chỉ huy của Hoàng Đình Kinh (Cai Kinh), ông lấy tên là Đề Dương sau được Cai Kinh đổi tên thành Hoàng Hoa Thám (tức Đề Thám). Sau khi Cai Kinh chết, Đề Thám tách ra hoạt động riêng và trở thành thủ lĩnh của phong trào nông dân Yên Thế chống thực dân Pháp xâm lược.
Năm 1890, nghĩa quân Đề Thám xây dựng một hệ thống công sự vững chắc ở thung lũng Hố Chuối. Tại căn cứ này, tháng 12.1890, Đề Thám cùng với trên dưới 100 nghĩa quân đã đánh bại ba cuộc tấn công của địch, đông tới hàng ngàn người, có đại bác yểm trợ và do những sĩ quan cao cấp chỉ huy.
Trong trận đánh ở Đồng Hom vào tháng 3.1892, Đề Thám diệt mấy chục tên địch. Tiếp đến, nhiều trận đánh khác đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề. Thất bại trong âm mưu tiêu diệt nhanh nghĩa quân, giặc Pháp đã phải 2 lần giảng hòa với Đề Thám. Lần thứ nhất là năm 1894, kẻ địch buộc phải để ông làm chủ 4 tổng: Hữu Thượng, Nhã Nam, Mục Sơn và Yên Lễ, tức là gần hết vùng Thượng Yên Thế. Lần thứ hai vào năm 1897, Pháp phải công nhận ông được phép khẩn hoang ở Phồn Xương, được giữ 25 tay súng bảo vệ đất đai của mình.
Đồn điền Phồn Xương thực chất là căn cứ chống Pháp. Hoàng Hoa Thám vừa tiếp tục ngấm ngầm huấn luyện quân ngũ, vừa cày cấy khai phá đất đai để tích trữ lương thực. Phồn Xương cũng là nơi thu hút sĩ phu, thủ lĩnh các phong trào yêu nước. Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đến với Hoàng Hoa Thám để bàn bạc việc phối hợp tác chiến, viện trợ lẫn nhau giữa các phong trào. Hoàng Hoa Thám đã giúp đỡ Duy Tân hội xây dựng đồn điền “Tú Nghệ” (do Phạm Văn Ngôn và Hoàng Xuân Hành phụ trách) để luyện tập quân sự. Hoàng Hoa Thám cũng mở rộng hoạt động về tận Hà Nội, liên hệ với đảng Nghĩa Hưng tiến hành vụ đầu độc lính Pháp ngày 27.6.1908…
Chân dung danh nhân Hoàng Hoa Thám. |
Trong gần 12 năm tạm hòa hoãn, thực dân Pháp tìm mọi cách để hạ uy tín của lãnh tụ Hoàng Hoa Thám, thủ tiêu ông, nhưng ông luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu mỗi khi thực dân Pháp bội ước phản công. Từ tháng 1.1909, thực dân Pháp tấn công trở lại, Hoàng Hoa Thám đã kịp thời đối phó. Ông huy động những tay súng còn lại cùng với những tướng lính tâm phúc như Cả Dinh, Cả Huỳnh, Ba Biều… tiếp tục cuộc chiến đấu ngày một ác liệt quanh các vùng Phúc Yên, Thái Nguyên, Tam Đảo, Yên Thế…
Cuộc khởi nghĩa Yên Thế dưới sự chỉ huy của Đề Thám đã vươn lên thành một lực lượng kháng chiến uy lực, gây ra những tổn thất nặng nề cho thực dân Pháp và tay sai. Yên Thế trở thành một cái gai khó nhổ của Pháp. Để dập tắt cuộc khởi nghĩa đầu tháng 11.1909, thực dân Pháp dồn lực lượng về Yên Thế, bao vây Đề Thám. Trong lần tấn công quyết liệt của địch lần này, bà Ba Cẩn (vợ ba Đề Thám) bị bắt, nhiều nghĩa quân khác lần lượt hy sinh. Nghĩa quân Yên Thế dần dần tan rã. Đề Thám chỉ còn lại một mình với hai người nghĩa quân sống ẩn náu trong núi rừng Yên Thế. Ngày 10.2.1913, ông bị bọn tay sai của Pháp sát hại.
Theo một số nguồn tư liệu, vào đầu năm 1913, khi Hoàng Hoa Thám di chuyển tới vùng Hồ Lẩy trong khu rừng Tổ Cú, kẻ thù đã sắp đặt cho ba tên tay sai trá hình đến tiếp cận, rồi bất ngờ hạ sát ông cùng hai chiến binh thân tín nhất vào sáng mồng 5 Tết năm Quý Sửu, tức ngày 10.2.1913. Sau đó, chúng cắt thủ cấp của ông mang ra bêu tại chợ Nhã Nam để thị uy dân chúng, rồi cho đốt đầu Đề Thám thành tro và đổ cả xuống ao mất dấu tích.
Theo nhiều tài liệu lịch sử, địa điểm Hố Lẩy chính là nơi Đề Thám bị sát hại. Cuốn “Khởi nghĩa Yên Thế” của hai tác giả Khổng Đức Thiêm và Nguyễn Xuân Cần do Sở VH-TT tỉnh Bắc Giang - Hội KHLS Việt Nam xuất bản năm 1997 đã ghi rõ, Đề Thám bị giặc giết tại Hố Lẩy (Tân Hiệp, Yên Thế, Bắc Giang) vào sáng mùng 5 Tết (10.2.1913). Giặc đã chặt đầu cụ cùng hai người thủ hạ nộp cho Đồn trưởng chợ Gồ và sau đó mang ra Nhã Nam. Tại đây, trước cổng lớn của đồn binh, ba cái đầu đã được bêu ở đó nhiều ngày. Được một thời gian, giặc Pháp mang đầu cụ xuống Cao Thượng thiêu xác và đầu, rồi đổ tro xuống trước ao thành Phủ Mọc.
Trong cuốn “Tìm hiểu Hoàng Hoa Thám” do Sở VH-TT Hà Bắc xuất bản năm 1984, căn cứ trên tài liệu của Bút-sê (Đại lý Pháp tại Nhã Nam Yên Thế), nhà nghiên cứu Tôn Quang Phiệt đã nêu việc cụ Đề Thám cùng hai thuộc hạ bị những kẻ tay chân của thực dân Pháp sát hại rồi vùi xác xuống Hố Lẩy, mang thủ cấp về Nhã Nam lĩnh thưởng. Thế nhưng, có nhiều truyền thuyết cho rằng cụ Hoàng Hoa Thám chưa chết, mà cái chết của cụ chỉ là giả tạo để trốn tránh thực dân Pháp. Cho tới nay, vẫn chưa có kết luận thống nhất nào về những ngày cuối cùng của “hùm thiêng Yên Thế” vì tồn tại nhiều giả thuyết khác nhau về cái chết của người anh hùng này.
Tuy nhiên, nhiều người không tin rằng “hùm thiêng Yên Thế” lại dễ dàng để cho kẻ thù hạ sát như thế và họ cũng không tin rằng, thủ cấp được bêu ra ở chợ Nhã Nam năm đó thực sự là thủ cấp Hoàng Hoa Thám. Theo Lý Đào - một cận vệ cũ của Đề Thám, một người từng nhiều lần cắt tóc cho ông, trên đầu “hùm thiêng Yên Thế” vốn có một đường gồ chạy từ trán lên tới đỉnh, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm. Thế nhưng, trên cái thủ cấp mà thực dân Pháp đã cắm ở chợ Nhã Nam lại không có đường gồ và cằm cũng không có râu. Một số người dân làng Lèo cho rằng, thủ cấp bị bêu đó chính là của sư ông trụ trì ở chùa Lèo. Sư ông này bình sinh có dung mạo khá giống với Đề Thám và từ hôm cái thủ cấp trên bị bêu ra thì cũng không thấy ông sư xuất hiện ở đâu nữa.
Cho tới gần đây, một số nhà nghiên cứu vẫn cho rằng, có thể Hoàng Hoa Thám đã thoát được khỏi âm mưu ám sát cuối tháng 2.1913 và đã đổi tên họ để sống ẩn dật trong dân gian…
Nghi vấn về nơi chôn cất cụ Hoàng Hoa Thám
(LĐĐS) - Số 46
Nguyễn Huệ
Nơi an nghỉ của cụ Hoàng Hoa Thám vẫn mãi là một bí ẩn chưa lời giải đáp. Những cuộc tìm kiếm diễn ra ở một số khu vực được cho là nơi cụ an nghỉ nhưng đều không có kết quả. Chỉ đến khi người ta phát hiện một ngôi mộ ở xã Mai Trung, huyện Hiệp Hòa với nhiều chứng cứ xác thực thì tưởng chừng đã có cơ sở tìm ra nơi an nghỉ của cụ Đề Thám. Tuy nhiên trong nhiều năm nay, ngôi mộ này vẫn chưa được nghiên cứu một cách kĩ càng xem đúng có phải là nơi an nghỉ của cụ hay không.
Kỳ 2: Cuộc truy tìm phần mộ Đề Thám và những câu hỏi chưa có lời giải đáp
Chân dung Hoàng Hoa Thám cùng con cháu (Ảnh tư liệu tại nhà triển lãm khởi nghĩa nông dân Yên Thế).
Theo sử sách đã ghi, cái chết của cụ Hoàng Hoa Thám là do giặc Pháp giết hại, nhưng có nhiều cơ sở để khẳng định, cái chết của cụ còn nhiều bí ẩn chưa được giải đáp. Vì vậy sau này, phần mộ của cụ được hậu duệ tiến hành tìm ở các địa điểm nghi là nơi cụ đã an nghỉ. Vậy đâu mới chính là mộ của cụ “hùm thiêng Yên Thế”?
Hành trình tìm mộ của hậu duệ Tin rằng cái chết của cụ Hoàng Hoa Thám không như sử sách đã chép 100 năm trước là cụ bị giặc giết hại vào sáng mùng 5 Tết năm 1913 (tức ngày 10.2.1913) tại Hố Lẩy, Tân Hiệp, Yên Thế, Bắc Giang, mà đó là một vị sư có khuôn mặt giống với cụ Đề Thám đã đứng ra thế mạng để bảo vệ cụ khỏi bàn tay những kẻ phản bội và giặc Pháp, nên sau này, hậu duệ của cụ đã tiến hành cuộc truy tìm phần mộ với mong muốn giải đáp những thắc mắc và mang cụ về để thờ phụng xứng đáng với tầm vóc của một vị danh nhân.Cuộc truy tìm mộ cụ Đề Thám được hai người cháu nội tên là Hoàng Thị Hải (SN 1930) và Hoàng Thị Điệp (1932) - con gái ông Hoàng Hoa Phồn. Ông Hoàng Hoa Phồn là con trai út duy nhất của cụ Đề Thám với bà ba Đặng Thị Nho. Trong những ngày nguy cấp của cuộc khởi nghĩa, cụ Đề Thám đã đem ông Phồn gửi một người nghĩa quân nuôi giấu, nhờ đó mà đã thoát chết. Bà Hoàng Thị Điệp kể lại với con cháu rằng, cụ Đề Thám chết vì bệnh tật chứ không phải chết vì bị giặc giết hại. Những lời kể này được con cháu ghi lại làm tài liệu và hiện vẫn còn lưu giữ. Cụ Điệp nhớ lại trước kia đã được mẹ nói lý do chết của cụ Hoàng Hoa Thám là: “Mẹ tôi kể lại rằng, cụ không phải bị quân Pháp chặt đầu mà chết vì bệnh kiết lị. Cụ vốn đã kiệt sức và ốm nặng trong quá trình kháng chiến nên sức khoẻ rất yếu và mắc bệnh mà chết. Sau này, tôi có hỏi lại nhiều lần và đều được mẹ tôi trả lời như vậy”.
Hai bà cùng con cháu đã đi hết các nơi nghi là phần mộ của cụ để tìm kiếm. Và nhờ các cơ quan chức năng như Viện Sử học, Sở Văn hóa -Thông tin tỉnh Bắc Giang… và Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người vào cuộc để tìm. Gia đình đã tiến hành nhiều cuộc tìm kiếm ở các nơi nghi vấn như Yên Thế, Hiệp Hòa (tỉnh Bắc Giang) và thung lũng Đồng Sinh của tỉnh Lạng Sơn. Cuộc tìm kiếm diễn ra mười mấy năm trời, bắt đầu từ những năm 1990 của thế kỷ trước. Năm 2005, cụ Hoàng Thị Hải mất, cụ Hoàng Thị Điệp lại tiếp tục hành trình cùng các con, cháu.
Cuộc tìm kiếm phần mộ ở thung lũng Đồng Sinh
Vì công việc tìm kiếm mộ rất khó khăn nên gia đình hậu duệ cụ Đề Thám đã nhờ các cơ quan chức năng, có sự tham gia của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, giúp đỡ. Một trong những nơi đoàn tìm kiếm đầu tiên là thung lũng Đồng Sinh, Đông Ma thuộc Tân Lập, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.
Có nhiều lý do để tin rằng, cụ Hoàng Hoa Thám đã an nghỉ tại đây vì nơi này từng là chốn lui về của nghĩa quân Yên Thế. Hai thung lũng này được bao bọc bởi dãy núi Cai Kinh. Đây là nơi hiểm yếu, để vào được chỉ có một con đường duy nhất là băng qua Hang Tối - một hang đá rộng thông từ bên này qua bên kia của dãy núi Cai Kinh. Theo đoàn khảo sát, nơi này có nhiều nghi vấn hợp lý hơn cả vì đây chính là đại bản doanh của Cai Kinh, người đầu tiên gây dựng phong trào khởi nghĩa Yên Thế và cũng là chỉ huy, người thầy của cụ Hoàng Hoa Thám. Sau này, tên của Cai Kinh được đặt cho dãy núi. Vì vậy, sau giai đoạn cuối của cuộc khởi nghĩa Yên Thế, rất có thể cụ Đề Thám đã rút quân về đây ẩn náu, tránh sự truy sát của thực dân Pháp. Lý do chọn nơi đây để ẩn náu bởi đó là chỗ duy nhất thực dân Pháp không dám đánh tới vì toàn bộ xung quanh là rừng núi, nếu có bị tấn công cũng dễ bề phòng thủ hoặc lui sang mạn Võ Nhai, Thái Nguyên, hoặc quay về Yên Thế, tỉnh Bắc Giang.
Sau 8 tháng khảo sát, cuối tháng 12.2009, đoàn bắt đầu tìm kiếm ở đây. Dưới sự giúp đỡ của Trung tâm Nghiên cứu tiềm năng con người, các cuộc khai quật được tiến hành ở giữa các thung lũng và các gò cao. Thời gian đào bới tìm kiếm là 2 tuần, cùng với máy xúc và sự giúp đỡ của một đơn vị bộ đội công binh gần đó. Cuộc tìm kiếm tập trung nhiều nhất là ở một chiếc gò cao giữa thung lũng, vị trí được các nhà ngoại cảm chỉ dẫn là nơi cụ Hoàng Hoa Thám yên nghỉ.
Sau nhiều ngày tiến hành khai quật, trong các hố khai quật được mở, có tìm được một số dấu tích chứa di cốt người nhưng không có cơ sở để khẳng định đó là hài cốt của cụ Hoàng Hoa Thám. Theo chỉ dẫn của các nhà ngoại cảm, cụ Hoàng Hoa Thám khi mất được chôn cất bằng gỗ tốt nên không có lý do gì mà không còn lại dấu tích của xương cốt. Vì vậy, cuộc tìm kiếm ở thung lũng Đồng Sinh, Đông Ma, Tân Lập huyện Hữu Lũng đã tạm gác lại.
Cuộc tìm kiếm phần mộ tại Yên Thế
Nhiều tài liệu lịch sử còn ghi lại, Hố Lẩy chính là nơi Đề Thám bị sát hại. Vì vậy, địa điểm tìm kiếm tiếp theo được tiến hành tại Hố Lẩy, Yên Thế. Nơi được cho là có mộ cụ Hoàng Hoa Thám tại địa danh Hố Lẩy nằm cuối vườn vải nhà chị Nguyễn Thị Thủy (thôn Đồng Gia, xã Tân Hiệp, huyện Yên Thế) chỉ là một khu đất bằng phẳng. Theo lời kể của chị Thủy, trước đây, ngôi mộ được đắp cao, phía trước có tấm bia xây bằng gạch. Nhưng mấy chục năm qua, những dấu tích đó đã không còn nữa. Nơi đây cũng từng được Phòng Văn hóa -Thông tin huyện tiến hành khảo sát ngay từ những năm 1990-1991, tuy nhiên kết quả thu được không rõ ràng.
Việc tìm kiếm cũng được tiến hành tại làng Trủng nơi con trai út của cụ Hoàng Hoa Thám là Hoàng Hoa Phồn sống ở đó, vì có thuyết kể rằng, cụ Đề Thám mất và được chôn tại làng Trủng (xã Ngọc Châu, huyện Tân Yên), cụ đã sống tại gia đình cụ Thống Luận cho tới khi nhắm mắt xuôi tay. Chính Thống Luận đã nuôi Đề Thám khi cụ bị bệnh, đã chôn Đề Thám khi Đề Thám chết. Về sau, Thống Luận còn gả con gái của mình cho con trai út của Đề Thám là Hoàng Hoa Phồn. Ở làng Trủng cũng có một ngôi đền thờ Hoàng Hoa Thám, ngôi đền tọa lạc trên một khu đất cao, cách đó vài trăm mét có tấm biển ghi “Nơi đây lãnh tụ phong trào khởi nghĩa Yên Thế đã sống thời niên thiếu”. Cũng có thuyết cho rằng, mộ cụ được chôn dưới nền đình làng Trủng, lại cũng có người cho rằng, xưa kia Thống Luận đã chôn cụ ngay dưới gốc cây đa để che mắt kẻ thù.
Tuy nhiên, tất cả những cuộc tìm kiếm đó đều không mang lại kết quả và được ghi chép chi tiết và bảo tồn tại Nhà triển lãm cuộc khởi nghĩa nông dân Yên Thế tại thị trấn Cầu Gồ, huyện Yên Thế. Mãi cho tới thời gian sau này, khi cuộc tìm kiếm phần mộ diễn ra ở Mai Trung, huyện Hiệp Hòa thì mới có những chứng cứ rõ ràng hơn.
Bản sao bài thơ dưới mộ được tạm dịch và lưu ở đền Tân Lập. |
Ở xóm Tân Lập, xã Mai Trung, huyện Hiệp Hòa có một ngôi mộ vô chủ được người dân nơi đây lập đền thờ ngay cạnh. Theo người dân, bởi họ phát hiện có nhiều chứng cứ trùng hợp, có cơ sở rằng - ngôi mộ này có thể là nơi an nghỉ của cụ Hoàng Hoa Thám nên họ mới lập đền thờ.
Thực ra, ngôi mộ này không phải mới được biết đến, mà nó được phát hiện từ năm 1991. Mộ nằm trên phần đất nhà ông Đàm Văn Đường, xóm Tân Lập. Ngôi mộ này trước kia vốn được người dân biết tới là mộ của một người ăn mày đã tồn tại hàng trăm năm mà không ai biết là có từ bao giờ. Một lần, hai đứa con của ông Đường ra vườn chơi thì thấy hai khúc xương người hở ra ở phần mộ. Những người dân gần đó liền thử bới một phần mộ thì thấy một số di vật, như tiền cổ, quần áo và một cái liễn.
Trong đó có một bài thơ viết trên giấy cổ được đựng trong một chiếc liễn sành úp ngược xuống đất, miệng liễn được ốp chặt đáy bằng một chiếc đĩa, bên trong có hai tờ giấy, một tờ có một bài thơ ký tên Loan. Xung quanh liễn được ốp bằng lá trầu khô và một lớp vôi và cát. Nội dung bài thơ đó viết bằng chữ Hán và tạm dịch là: Cờ nghĩa bao năm nay lỡ vận/ Hậu thế nghìn năm ai biết không?/ Yên Ngựa nghỉ vào đây lòng đất/ Thế sự Hoàng Hoa ai biết chăng? Có ghi ngày tháng và tên tác giả bài thơ đó được dịch là: Một nghìn chín trăm mười ba/ Tháng năm ngày mồng chín/Loan.
Cụ Nguyễn Văn Nghê - người dịch bài thơ và nắm giữ tư liệu về ngôi mộ. |
Khi phát hiện ngôi mộ, người cháu 4 đời của cụ Lý Loan tên Nguyễn Văn Sử (SN 1950), nhà gần ngôi mộ, khẳng định, rằng bài thơ trên chính là bút tích của cụ Lý Loan khi chôn cất cụ Hoàng Hoa Thám ở đây. Bí mật này được giấu kín và truyền lại cho con cháu. Ông Sử cũng cho hay, trước kia cụ Hoàng Hoa Thám bị thất trận thì đã chạy về đây và đóng giả là người ăn mày để ẩn náu trong nhà cụ Lý Loan - là bạn thân và cũng là người ủng hộ cụ trong cuộc khởi nghĩa Yên Thế. Sau này, khi cụ Đề Thám chết đã được cụ Lý Loan chôn cất ở đó. Mộ chôn chỉ dám làm thấp vì sợ giặc Pháp biết sẽ đào mộ. Khi chôn cất, vì tiếc cho sự nghiệp còn dang dở, nên cụ Lý Loan đã làm bài thơ trên và chôn cùng cụ Đề Thám.
Cụ Đàm Văn Nghị kể về gốc tích ngôi mộ. |
Theo nhiều người dân, ở nơi này có nhiều dấu tích cùng địa danh liên quan đến khởi nghĩa Yên Thế được cụ Hoàng Hoa Thám đặt tên như chuôm Yên Thế, hoặc gò Chanh, còn gọi là gò Cai Chanh (một vị thủ lĩnh dưới trướng Hoàng Hoa Thám). Vì thế, người dân tin rằng, cụ Hoàng Hoa Thám đã từng sống ở đây cho đến lúc thác và đặt tên cho những địa danh đó. Đến năm 2004, người dân trong thôn đã gom góp tiền xây dựng một ngôi đền cạnh ngôi mộ. Con cháu hậu duệ của cụ Hoàng Hoa Thám cũng cung tiến vào đó một bức tượng đồng tạc chân dung của cụ Đề Thám để thờ cúng.
Tuy nhiên, để đảm bảo đây có đúng là ngôi mộ của cụ Hoàng Hoa Thám hay không thì vẫn chưa có lời khẳng định chính xác. Người dân cũng chỉ mới tin đây là mộ cụ Hoàng Hoa Thám qua lời kể và khẳng định của ông Sử, chứ cũng chưa rõ có đúng hay không. Theo lời của ông Nguyễn Văn Duyệt -Trưởng ban quản lý đền - thì: “Chúng tôi cũng không dám khẳng định đây là mộ cụ Hoàng Hoa Thám. Mà chỉ căn cứ vào những dấu tích còn để lại trong mộ và lập đền thờ”.
Còn theo cụ Nguyễn Văn Nghê (98 tuổi) - một thầy nho ở thôn Cẩm Trung, xã Xuân Cẩm gần đó, người trực tiếp dịch bài thơ và cũng là người nắm giữ nhiều tư liệu về ngôi mộ này - thì: “Hồi nhỏ, tôi thấy ông tôi, cũng là một tuần đinh, có qua lại với cụ Lý Loan, kể về người ăn mày ở rừng thông đó. Ông tôi kể rằng, đó không phải là người tầm thường, tối chỉ về đó trú chân còn ban ngày thường đi đâu đó. Ông tôi cũng nhiều lần mang thức ăn, rượu ra rừng thông đó biếu cho người ăn mày trong những buổi đi tuần”. Cụ Nghê cũng không khẳng định đó có chắc là mộ cụ Hoàng Hoa Thám hay không, chỉ biết rằng nếu căn cứ theo những gì các cụ truyền lại và bài thơ với những vần thơ đầy phí khách như vậy thì cũng có thể khẳng định đó có thể là cụ Hoàng Hoa Thám.
Đền thờ Hoàng Hoa Thám ở Tân Lập, Mai Trung, Hiệp Hòa. |
Việc xác định người nằm dưới mộ là ai rất đơn giản, chỉ cần dùng phương pháp xét nghiệm ADN. Tuy nhiên, đã gần chục năm nay, người dân xóm Tâm Lập đã gửi nhiều đơn đến cơ quan chức năng để yêu cầu tiến hành cuộc nghiên cứu xem người dưới mộ có đúng là cụ Hoàng Hoa Thám hay không, nhưng vẫn chưa có hồi âm gì. Vì vậy, câu hỏi về phần mộ - nơi yên nghỉ của người anh hùng thủ lĩnh khởi nghĩa Yên Thế, danh nhân Hoàng Hoa Thám - vẫn là một dấu chấm hỏi chưa lời giải đáp.
Lời sấm truyền và cái chết chưa lý giải của Hoàng Hoa Thám
Bí ẩn lời sấm truyền trong rừng thiêng Yên Thế
Dường như biết được cái chết của mình, cụ Đề đã để lại lời sấm truyền cho hậu thế mà có lẽ đến nay vẫn còn ứng nghiệm với thực tế: "Ta chết chỉ có trời biết, đất biết và quạ biết". Có lẽ do có sự trùng hợp với lời sấm truyền này mà cho đến nay bí ẩn về ngôi mộ và cái chết của thủ lĩnh Đề Thám vẫn chưa thể có lý giải nào hợp lý.
Về không gian những nơi có thể được coi là nơi Hoàng Hoa Thám tạ thế, những chuyện thêu dệt kỳ bí ngày một nhiều và được lan rộng. Theo tài liệu của nhà nghiên cứu Khổng Đức Thiêm, tính đến ngày 1/12/1909, ngày bà Ba Cẩn bị bắt, Hoàng Hoa Thám chỉ còn hai thủ hạ đi theo (theo lời cung của 4 nghĩa quân Yên Thế ra hàng Bonifacy ngày 6/12/1909). Ông đã bí mật về nương náu tại mỏm cao 28 mà nhân dân địa phương quen gọi là Ngàn Ván hoặc đồi Yên Lễ (nay thuộc xã Dương Lâm, Tân Yên, Bắc Giang), tạm ngừng tất cả các hoạt động về quân sự...
|
Tượng đài Hoàng Hoa Thám sừng sững trong khu di tích Yên Thế. |
Đồng hành với các sự kiện trên, nhiều nhà nghiên cứu cũng cho rằng, trong trận Ngàn Ván xảy ra đêm 21/11/1911, tuy Hoàng Hoa Thám và 2 cận vệ thoát ra ngoài nhờ trận mưa đột ngột nhưng cả ba thầy trò đều bị thương, bị bỏng rất nặng rồi qua đời khoảng mùa đông năm 1911. Tuy nhiên, các tài liệu của Bouchet, Paul Charle được ghi lại trong Lịch sử Quân sự Đông Dương vẫn cho thấy, các hoạt động của cụ Đề tại Bằng Cục (1/1912), Ngọc Cục, Ngọc Châu, Thúy Cầu, Dĩnh Thép, Lèo (tháng 2 và 3/1912) mà nổi bật là việc trừng trị Phó đội Liên ở Dĩnh Thép (19/11/1912) và Đồng Cửu ở Lục Giới (24/12/1912). Nhiều người không chắc chắn, đây có phải là những hoạt động của cụ Đề hay không, nhưng có vẻ nó không ăn nhập gì so với sự kiện Hố Lẩy năm 1913 cho lắm, bởi một tướng quân dạn dày kinh nghiệm chiến đấu như cụ Đề không thể bị hai kẻ cận vệ nửa đêm lẻn vào dùng cuốc đập chết được. Lời sấm truyền của cụ Đề Thám lúc sống lại càng trở nên bí hiểm hơn bao giờ hết. Và, tất nhiên cho đến nay, tìm được ngày tháng, địa điểm Hoàng Hoa Thám qua đời, yên nghỉ là việc khó như mò kim đáy biển.
Pháp đã mất hơn 2000 quân viễn chinh nhưng không tiêu diệt được Hoàng Hoa Thám. |
Cho đến nay, vẫn chưa có tài liệu, chứng cứ đủ thuyết phục để lý giải rằng Hoàng Hoa Thám (sinh năm 1858, mất năm 1913) đã rơi vào tay của giặc Pháp và bị chặt đầu, bêu tại chợ Nhã Nam. Đến nay, mọi nghiên cứu của các nhà sử học đều căn cứ vào những tài liệu của Pháp ghi lại. Một trong những tài liệu có lẽ đủ sức thuyết phục nhất, đó chính là các bản hỏi cung của chính quyền thực dân Pháp đối với hai tên gian tế - nhưng kẻ đã trực tiếp giết hại cụ Đề - sau khi đột nhập được vào hàng ngũ của cụ. Tuy nhiên, những lời khai này đều chứng tỏ mâu thuẫn, được giới nghiên cứu phân tích và bác bỏ giá trị lịch sử, cho rằng, đây là kịch bản dàn dựng của người Pháp.
Nhà nghiên cứu Tôn Quang Phiệt cho rằng, sau khi giết được cụ Đề, lẽ ra quân Pháp phải chụp ảnh thủ cấp đăng tải lên báo chí, vì việc đó rất có lợi cho chúng trong việc "khủng bố" tinh thần của nhân dân. Đằng này, chúng đã nhanh chóng cho tịch thu các bức ảnh lại và cho đến nay, người ta cũng không tài nào tìm thấy những bức ảnh đó. Chắc chắn rằng, thực dân Pháp đã phát hiện ra, đó không phải là thủ cấp của Hoàng Hoa Thám.
Cũng theo nhà nghiên cứu về Hoàng Hoa Thám, TS. Khổng Đức Khiêm trong cuốn sách của mình đề cập đến việc ông Lý Đào, một cận vệ cũ của Hoàng Hoa Thám sau khi đi xem về nói với con cháu rằng, ông thường cắt tóc cho thủ lĩnh nên biết đầu của thủ lĩnh có một đường gồ chạy từ trán lên đỉnh đầu, trên khuôn mặt có bộ râu ba chòm, nhưng cái đầu cắm ở Phủ đường không có đường gồ, cằm không có râu. Ông Giáp Văn Phúc, còn gọi là Cai Cờ, cũng xác nhận với con cháu hôm 29 tháng Chạp năm Duy Tân lục niên (4/12/1913), Hoàng Hoa Thám còn về làng Lục Giới bảo hộ một món tiền của mấy gia đình (ông Thiện 50 đồng, bà Tám và bà Lộc mỗi người 10 đồng), hẹn khi nào khôi phục xong sẽ trả. Do đó, thời gian xảy ra sự việc trên, thủ lĩnh không có mặt ở Yên Thế.
Câu chuyện từ làng Lèo đều cho rằng, cái đầu mà thực dân Pháp treo tại chợ Nhã Nam kia thực chất là của vị sư trụ trì ở chùa làng. Vị Sư này có dung mạo khá giống với Hoàng Hoa Thám, cùng với đó, tuy treo thưởng cho hai kẻ giết được Hoàng Hoa Thám nhưng không thấy thông tin gì. Nhiều tài liệu ghi, quan lại của chính quyền phong kiến lúc đó cũng cho rằng, Hoàng Hoa Thám không thể bị giết tại Hố Lẩy mà có thể đã qua đời trước đó, do bị thương hoặc ốm đau, bệnh tật. Đa số người dân cho rằng, Hoàng Hoa Thám vẫn còn sống trong vùng rừng núi Yên Thế, mãi sau này mới chết vì già yếu. Việc nhà cầm quyền Pháp chỉ cho bêu đầu tại Nhã Nam có hai ngày rồi vội vã cho tẩm dầu, đốt thành tro đem đổ xuống ao hay việc họ không cho công bố ảnh thủ cấp những người chống lại bị chém giết khiến cho mối ngờ vực ngày càng tăng thêm. Điều này, trái ngược hoàn toàn với việc thường lệ của thực dân Pháp khi bắt hay giết được bất kỳ thủ lĩnh nào của nghĩa quân Yên Thế, chúng đều cho phóng viên chụp lại ảnh để gửi về Pháp chứng minh cho sự thắng lợi của chúng trước "kẻ thù cứng cựa nhất" của mình.
Còn các tài liệu của Pháp đều cho rằng, sau khi giết được cụ Đề, chúng đã cắt thủ cấp của cụ và vùi xác ở Hố Lẩy, Tổ Cú, cách Nhã Nam 2km. Nếu đúng là như vậy thì tại sao, mãi đến tận ngày nay vẫn không ai có thể biết được xác cụ Đề ở đâu. Có lẽ chỉ có một sự thật duy nhất là cụ đã mất ở một nơi bí mật nào đó...
Tướng quân trung thành của nước Việt "Tôi ở đất nước tôi, đất của tổ tiên tôi. Chúng tôi đây, những thần dân trung thành của nước Việt. Chúng tôi vô cùng thiết tha với phong tục trong nước, không bao giờ chịu dời bỏ phong tục đó, cho dù đứng trước cái chết, vì chúng tôi hoàn toàn tin tưởng vào Trời Đất, thần linh phù hộ cho chúng tôi làm tròn sứ mệnh". (Thư cụ Đề gửi quân Pháp trong trận đánh Hố Chuối ngày 22/ 12/1890) |
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét