ĐỊNH HƯỚNG ĐI ĐÂU? 48
-NÓI NHƯ CON "KÉT", LÀM NHƯ CON "KẸT"!
-QUAN "NỔ" = MỴ DÂN
-Định hướng như ... cứt mà đòi lên "Thiên Đường".
-Rồi đây, lịch sử sẽ chỉ rõ công - tội!
-Không có KTNN sẽ không có CNXH! Nhưng KTNN phải hoạt động theo KTTT.
-Phí không khéo, sẽ làm cho "sưu cao thuế nặng", và như vậy, khác gì thời phong kiến!?
-Không thể chối cãi: xã hội yếu kém phổ biến, là sai lầm của thể chế!
- Thế nào là định hướng XHCN !? Phải chăng là (đối với VN), phải ưu tiên công nghiệp hóa nông nghiệp?
-Xây
dựng ồ ạt, mở rộng tràn lan phạm vi đô thị như Hà Nội, tp HCM...là một
định hướng nóng vội, sai lầm! Vì tác dụng làm cho dân giàu nước mạnh rất
ít, lợi bất cập hại!
-Bảo vệ đảng và bảo vệ dân, cái nào ưu tiên hơn cái nào?
--------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Việt Nam lấy tiền đâu để phát triển?
“Việt Nam sẽ lấy nguồn ở đâu để tài trợ cho chương trình phát triển đầy
tham vọng trong 5 năm tới”, đó là câu hỏi của bà Victoria Kwakwa, Giám
đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới.
Tại Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam 2015, bà Kwakwa đánh giá,
Việt Nam đã hoàn thành 5 năm đầu tiên trong Chiến lược Phát triển Kinh
tế - xã hội 2011- 2020, và đang chuẩn bị cho các quyết định mang tính
chiến lược và chính trị quan trọng.
Ghi nhận những kết quả mà Việt Nam đã đạt được trong 5 năm qua, nhưng
bà Kwakwa cũng tỏ ra lo ngại, trước hết là về năng suất lao động. Mức
tăng năng suất lao động của Việt Nam chưa đến 4% và đang có xu thế giảm.
Trong khi đó, mức tăng năng suất lao động tại Trung Quốc là trên 7%,
tại Hàn Quốc là trên 5% vào thời điểm các nước đó có cùng trình độ phát
triển như Việt Nam hiện nay.
Tốc độ tăng năng suất lao động hiện nay sẽ không đảm bảo tăng trưởng
nhanh và bền vững đủ mức để từ đó Việt Nam có thể đi theo quỹ đạo như
các nước Hàn Quốc hay Đài Loan (Trung Quốc).
Đặc biệt là hiện nay, khi các nguồn vốn ưu đãi đã thu hẹp dần, Việt
Nam sẽ phải dựa vào nguồn thu trong nước là chính. Nhưng tỷ lệ thu ngân
sách nhà nước trên GDP đã thể hiện xu thế giảm trong 5 năm qua, từ 27%
xuống còn 21%.
|
Bà Victoria Kwakwa, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới. |
“Việt Nam sẽ lấy nguồn ở đâu để tài trợ cho chương trình phát triển đầy tham vọng trong 5 năm tới”, bà Kwakwa đặt câu hỏi.
Tại Diễn đàn, điểm lại tình hình kinh tế Việt Nam, ông Jonathan
Durin, Đại diện Thường trú của IMF tại Việt Nam cũng đánh giá, thâm hụt
ngân sách vẫn còn lớn, do thu ngân sách giảm đáng kể trong khi chi
thường xuyên tăng lên. Chi xây dựng cơ bản đã giảm để kiềm chế thâm hụt
ngân sách, tuy nhiên điều này có nguy cơ làm suy yếu tiềm năng tăng
trưởng trung hạn.
Ông Jonathan Durin cho biết, với thâm hụt ngân sách lớn, nợ công và nợ
do chính phủ bảo lãnh (PPG) đã tăng mạnh trong những năm gần đây.
Ông Eric Sidgwick, Giám đốc quốc gia Ngân hàng Phát triển châu Á cũng
cho rằng trong những năm gần đây, Việt Nam đã đầu tư khoảng 9- 10% GDP
vào các lĩnh vực giao thông, năng lượng, truyền thông, nước sạch… theo
tiêu chuẩn quốc tế. Ngân sách này đã giúp nâng cao chất lượng và hiệu
quả của mạng lưới cơ sở hạ tầng quốc gia.
Tuy nhiên theo ông, vì nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục phát triển,
đất nước đang ngày càng giàu hơn, Việt Nam bắt đầu phải đổi mặt với
những thách thức mới về nguồn tài chính để xây dựng cơ sở hạ tầng.
Việt Nam đang tìm kiếm nguồn để đầu tư cho cơ sở hạ tầng đang tăng
lên, khi áp lực đi vay bắt đầu tăng lên và nợ công đang dần tiến tới
giới hạn của sự bền vững.
Theo ông, tất cả những thách thức này đòi hỏi môi trường tài chính
phải thay đổi để xây dựng cơ sở hạ tầng. Khi kinh tế phát triển ngày
càng mạnh mẽ hơn, Việt Nam tiếp tục bị mất đi các nguồn viện trợ không
hoàn lại và vay vốn ODA ưu đãi. Điều này đang làm giảm nguồn lực tài
chính vô cùng quan trọng mà thường được sử dụng cho các cơ sở hạ tầng
trọng yếu.
Theo ông Jonathan Durin, Việt Nam nên theo đuổi chính sách củng cố
tài khóa theo cách thúc đẩy tăng trưởng, và duy trì chi ngân sách cho
đầu tư và xã hội quan trọng. Để thực hiện điều này cần tăng cường nỗ
lực thu ngân sách, cải cách toàn diện bộ máy công chức, nhằm nâng cao
chất lượng dịch vụ công và tăng chi đầu tư công nhưng hiệu quả hơn.
Bà Victoria Kwakwa cho rằng, biện pháp là tăng cường huy động nguồn
thu nội địa, tiết kiệm chi tiêu sẽ là yếu tố quan trọng giúp hoàn thành
các mục tiêu phát triển mà không chịu rủi ro mất bền vững nợ. Ngoài ra,
vốn ODA cũng phải được sử dụng hiệu quả hơn nhằm thu hút vốn đầu tư.
“Việt Nam đang càng ít nguồn ODA, làm thế nào để chúng ta tận dụng
được nguồn lực ngày càng hạn chế này và làm thế nào để những lĩnh vực ở
Việt Nam không bị tụt hậu", bà Victoria Kwakwa nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, ông Eric Sidgwick cho rằng, để huy động nguồn vốn hỗ
trợ, Việt Nam cần phải tận dụng hiệu quả hơn nữa nguồn vốn ODA sẵn có,
ưu tiên cung cấp những thông tin rõ ràng hơn về việc sử dụng nguồn vốn
ODA cho các lĩnh vực xã hội.
10 năm, doanh nghiệp Việt teo còn một nửa
15/05/2015 09:06 GMT+7
–
Nghiên cứu của VCCI cho ra một sự thật giật mình: quy mô doanh nghiệp
VN đã teo lại còn một nửa so với cách đây 10 năm. Câu hỏi đặt ra là tại
sao họ không chịu lớn?
VietNamNet giới thiệu phần cuối
bàn tròn với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan và chuyên gia Đậu Anh Tuấn,
Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại Công nghiệp VN (VCCI).
DN Việt mới chỉ giỏi xoay sở để tồn tại
Nhà báo Việt Lâm:
Khi VN chuẩn bị gia nhập WTO, không ít nhà hoạch định chính sách nêu
quan điểm rằng, cứ đẩy DN xuống nước đi, họ sẽ tự biết cách bơi, chứ nếu
cứ bàn mãi về thách thức thì e rằng sẽ làm chùn khí thế hội nhập. Có
lẽ, quan niệm này vẫn còn tồn tại đâu đó cho đến giờ, nên thành ra chúng
ta hay nói về cơ hội nhiều hơn là thách thức. Theo hai chuyên gia thì
qua mấy lần hội nhập vừa rồi, chúng ta có thể an tâm là DN Việt sẽ sống
sót trước áp lực cạnh tranh ghê gớm tới đây không?
Ông Đậu Anh Tuấn: Cá
nhân tôi thì không đến nỗi bi quan lắm. Nếu nhìn theo chuỗi thời gian
vừa qua thì khả năng xoay xở của doanh nghiệp VN tương đối tốt. Chẳng
hạn như vừa qua có những lĩnh vực hoàn toàn mới đối với DN Việt như giá
trị gia tăng trên Internet, nhưng họ, nhất là các DN trẻ đã chứng tỏ
được khả năng thích nghi của mình. Tuy nhiên, nói một cách sòng phẳng
thì khả năng xoay sở đó chỉ đủ để tồn tại, sống lay lắt chứ chưa thể có
một kế hoạch chủ động, một chiến lược bài bản.
Thế nhưng, tư duy
để cho DN tự bơi rất đáng lo ngại. Vấn đề là để DN bơi nhưng phải cho họ
bơi trong một môi trường trong lành. Các DN thì phải cạnh tranh với
nhau, nhưng bản thân nhà nước cũng phải cạnh tranh. Tôi làm sao cạnh
tranh được khi thủ tục về thuế ở các nước chỉ có hơn 100 giờ mà tôi 870
giờ? Tôi làm sao cạnh tranh được khi thông quan ở các nước mất vài giờ
còn tôi mất vài ngày? Tôi làm sao cạnh tranh được khi chi phi không
chính thức của tôi gấp 3 -4 lần nước khác. Phải có một sự sòng phẳng ở
đây. Đồng ý là phải cạnh tranh nhưng trong môi trường giống nhau.
Cũng
may mắn là gần đây đã có những tín hiệu tích cực từ phía Chính phủ.
Nghị quyết 19 thể hiện một tư duy khác, chấp nhận cạnh tranh trong thủ
tục hành chính, lấy tiêu chí của các nước ASEAN6 (nhóm tiên tiến) để so
sánh. Đây là một điểm tiến bộ nếu so sánh với những nghị quyết chung
chung trước đây theo kiểu “nâng cao, thúc đẩy”… Nghị quyết 19 đặt ra
những con số rất cụ thể: số giờ về thuế, về hải quan, tiếp cận điện, ra
khỏi thị trường và gia nhập thị trường và có mốc thời gian VN cần đạt
được cuối năm 2016.
Cộng đồng kinh doanh đang trông chờ những
chuyển biến trên thực tế. Chúng tôi tin một khi nhà nước tạo lập được
môi trường trong sạch như vậy thì DN hoàn toàn có thể tự bơi được. Mà
nhà nước cũng không nên can thiệp.
Nói cách khách, sức ép hội nhập
không chỉ đặt lên DN mà bản thân hệ thống nhà nước cũng phải chịu sức
ép cải cách thể chế để trở nên cạnh tranh hơn.
|
Chuyên gia Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại Công nghiệp VN (VCCI). (Ảnh: Phạm Hải) |
10 năm, quy mô doanh nghiệp teo còn một nửa
Bà Phạm Chi Lan: Quẳng
người ta xuống nước người ta sẽ biết bơi chỉ là cách nói nguỵ biện. Bởi
vì nếu anh không cho người ta tập bơi trước khi quẳng họ xuống nước thì
rủi ro xảy ra ai là người hứng chịu?
Hai nữa đấy không phải là
cách nói của người có trách nhiệm. DN đóng thuế để nuôi anh làm việc thì
nghĩa vụ của anh là phải tạo điều kiện cho người ta làm việc.
Liệu
doanh nghiệp VN có đến nỗi xuống nước và đa số chết chìm hay không? Tôi
cũng có niềm tin là người VN mình giỏi xoay sở và bươn chải bằng nhiều
cách khác nhau để sống sót. Nhưng mặt khác, tôi cảm thấy lo lắng. Những
điều tra gần đây về doanh nghiệp trong khuôn khổ nghiên cứu Việt Nam đến
năm 2035 cho thấy một thực tế đáng báo động: đa số doanh nghiệp VN hiện
nay, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa chỉ nhằm mục tiêu mưu sinh qua
hoạt động kinh doanh này, tức là họ bám vào việc kinh doanh này để đủ
sống thôi, chứ không đủ để họ phát triển được. Như thế tức là doanh
nghiệp đó sẽ chỉ nhỏ chứ không thể lớn lên được.
Một nghiên cứu
khác của VCCI dựa trên thống kê doanh nghiệp đo lại 10 năm, 2012 so với
2002 cũng cho ra một sự thật giật mình khác: quy mô doanh nghiệp VN đã
teo lại còn một nửa so với cách đây 10 năm. Trong khi đáng lẽ theo quy
luật bình thường là doanh nghiệp đi từ siêu nhỏ lên nhỏ, từ nhỏ lên vừa,
từ vừa lên tương đối lớn rồi lên lớn. Về phần quy mô vốn có tăng lên
nhưng tính trừ đi lạm phát của 10 năm vừa qua rốt cuộc quy mô vốn cũng
lại nhỏ đi. Rất nhiều doanh nghiệp cũng cho biết những năm vừa qua họ có
báo cáo được doanh số nhưng thực sự họ không có doanh thu. Doanh số đó
còn nằm ở bạn hàng, chỗ này nợ chỗ kia, doanh thu thực sự của doanh
nghiệp không có, làm nhiều doanh nghiệp chết trong những năm vừa qua.
Hiện
tượng số DN ngưng hoạt động liên tục tăng lên thời gian qua không phải
là quy luật đào thải bình thường của thị trường. Khoảng 2-3 vạn DN ra
khỏi thị trường một năm là bình thường nhưng lên đến 6-7 vạn DN ngưng
hoạt động thì là bất thường rồi. Có thể các DN vẫn xoay sở được nhưng
chỉ để tồn tại lay lắt rồi teo tóp dần đến ngưỡng nào đó thì thành siêu
nhỏ. Rồi đây cơn bão của hội nhập với những DN rất lớn đổ bộ vào từng
hang cùng ngõ hẻm của chúng ta thì DN mình không còn chỗ đứng nữa. Số
nhỏ đó sẽ biến mất.
Tất nhiên cũng có những doanh nghiệp, nhất là
của khu vực tư nhân vượt lên và trở thành những doanh nghiệp lớn hơn.
Song phải nhìn nhận thực tế là hầu hết những DN lớn lên được, phát triển
mạnh thì lại là những anh gắn với đất đai, với lợi ích của khai thác
khoáng sản hay những ngành kinh doanh đặc thù mà họ giành được quyền
kinh doanh, chứ không phải trong ngành sản xuất. Đối với một quốc gia
muốn phát triển, muốn công nghiệp hoá thành công thì chìa khoá lại nằm ở
ngành công nghiệp chế tạo, sản xuất chứ không phải ở dịch vụ mua qua
bán lại mặt hàng này khác.
Có một số ít vượt lên bằng nhiều cách
kể cả bằng ứng dụng công nghệ nhưng số đó lại quá nhỏ trong cả cộng đồng
rộng lớn của doanh nghiệp VN. Không khéo chúng ta lại đi đến trạng thái
như ở một số nước là một nền kinh tế với hai khu vực: một khu vực đông
đảo nhưng lạc hậu không phát triển, một khu vực nhỏ thì tiên tiến. Đó
chắc chắn cũng không phải là đường hướng phát triển lâu dài cho nền kinh
tế.
Tôi lo ngại rằng giai đoạn hội nhập sắp tới sẽ còn khó khăn,
thách thức ghê gớm hơn nhiều so với lúc chúng ta vào ASEAN, WTO. Lúc vào
WTO thì chúng ta cũng gọi là ra biển lớn nhưng thực ra cũng đã bơi ra
nhiều đâu, chỉ mon men ở bên bờ thôi. Nhưng lần này thì hội nhập với
khuôn khổ rộng hơn rất nhiều. Cộng đồng Kinh tế ASEAN có độ mở cao hơn
nhiều, áp lực cạnh tranh khốc liệt hơn nhiều so với ASEAN hay AFTA cách
đây 20 năm. Trong khi lúc còn mon men ven bờ mà chúng ta còn chật vật,
ngụp lên ngụp xuống nhiều lần như vậy thì bây giờ thực sự ra biển lớn sẽ
thế nào? Tôi muốn nhấn mạnh một cách nghiêm túc rằng không chuẩn bị thì
đừng liều nhảy xuống nước bởi khả năng chết đuối rất cao.
|
Chuyên gia kinh tế kỳ cựu Phạm Chi Lan (Ảnh: Phạm Hải) |
Tinh thần kinh doanh xẹp đi
Ông Đậu Anh Tuấn: Doanh
nghiệp cũng như con người thôi, có sinh ra thì có mất đi. Các nước khác
cũng vậy, chỉ có một tỷ lệ nhất định các doanh nghiệp trụ lại trên thị
trường.
Nhưng điều đáng báo động là 2 năm qua, số lượng doanh
nghiệp ra khỏi thị trường bằng 10 năm trước gộp lại. Họ ra khỏi thị
trường vì yếu kém, vì không có cơ hội kinh doanh đã đành. Vấn đề là nếu
họ biến mất vì những cản trở từ hệ thống quy định thì rất đáng lo ngại.
Khi
doanh nghiệp biến mất quá nhiều thì hệ luỵ xã hội không hề nhỏ. Những
năm gần đây, tinh thần kinh doanh ở VN đã sa sút. Hiện chưa có ai lên
tiếng về việc này nhưng qua các khảo sát chúng tôi thấy rằng lúc ban
hành Luật doanh nghiệp năm 2000 hay thời điểm VN gia nhập WTO năm 2007,
tinh thần kinh doanh lên rất cao, nhưng hiện tại thì lại xẹp đi, không
còn hăm hở như trước. Nhìn toàn cục thì đây là tín hiệu đáng lo ngại bởi
vì những người trẻ, đáng lẽ phải có khao khát làm giàu, hay đóng góp
cho xã hội nhưng động cơ ấy lại nguội dần đi.
Tín hiệu nguy hiểm
thứ hai, như cô Phạm Chi Lan đã phân tích là việc quy mô doanh nghiệp
nhỏ đi theo chuỗi thời gian. Câu hỏi đặt ra là tại sao họ không chịu
lớn? Điều gì cản trở họ không lớn được? Liệu có phải do DN không có khả
năng quản trị nên đến quy mô nào đấy bị vỡ ra? Hay do những rào cản
khác, như khống chế sở hữu đất đai khiến người ta không thể có thêm đất
đai, hay rào cản về thủ tục hành chính? Có người nói với chúng tôi rằng
họ âm thầm không dám làm ăn lớn vì sợ rằng làm ăn to sẽ có nhiều cơ quan
đến thăm. Nhiều DN e ngại vấn đề an toàn kinh doanh. Nếu quan sát những
DN tư nhân đình đám sẽ thấy họ đang có kế hoạch bảo vệ tài sản bằng
cách chia tài sản ra, mua tài sản nước ngoài...
Vấn đề là nếu
chúng ta có một tầng lớp tư nhân xác định VN chỉ để kiếm tiền thôi, con
cái họ không gắn bó với VN này, tài sản của họ không gắn bó với VN này
thì đấy là một bi kịch cho đất nước. Khi doanh nhân sinh sống, làm ăn ở
đây, xác định DN gắn bó hàng chục, hàng trăm năm truyền đời thì mới là
điều lành mạnh. Còn nếu DN chỉ kinh doanh ở đây nhưng xác định cuộc sống
ở nước khác, thì không thể tạo ra một tầng lớp doanh nhân dân tộc, gắn
bó với sự phát triển quốc gia.
Phải nói rằng cộng đồng kinh doanh
những năm vừa qua chưa bao giờ trải qua một giai đoạn vất vả như vậy.
Theo ngành thuế công bố thì tỷ lệ DN tư nhân có lãi chỉ hơn 30%, còn lại
gần 70% lỗ. Thời gian qua cũng là một phép thử quan trọng đối với DN tư
nhân VN. Các bong bóng tài chính, bất động sản vỡ ra khiến nhiều người
mất tài sản, mất tinh thần nhưng đấy cũng là bước cảnh báo cần thiết cho
những DN tập trung vào lợi thế cốt lõi, vào sản xuất và đổi mới phương
thức dịch vụ.
Tôi cũng đồng ý với cô Phạm Chi Lan là trong bối
cảnh ấy có rất nhiều doanh nghiệp thành công. Họ nhìn thấy cơ hội. Tôi
có người bạn làm DN tâm sự rằng tối không ngủ được vì nhìn thấy rất
nhiều cơ hội kinh doanh mà chỉ trông mai sáng để bắt tay làm ngay, nhưng
mà tiếc rằng những người như vậy còn chưa nhiều. Vấn đề ở VN là làm sao
khơi dậy tinh thần kinh doanh, để người dân đem tiền trong két, trong
ngân hàng ra kinh doanh. Đấy là động lực lành mạnh để phát triển đất
nước. Suy cho cùng đất nước nào giàu mạnh hay không là do khu vực kinh
tế tư nhân năng động hiệu quả chứ nếu chỉ trông chờ vào các dự án lớn
của nước ngoài, những miếng bánh vẽ mà các tập đoàn lớn vẽ ra thì chắc
không thể có được nền kinh tế bền vững lành mạnh. Tôi luôn tin rằng khu
vực kinh tế tư nhân sẽ là động lực quan trọng nhất cho sự phát triển của
bất kỳ nền kinh tế nào.
Không thể mãi hô hào chung chung
Nhà báo Việt Lâm: Bức tranh chung còn nhiều ngổn ngang như vậy thì liệu có những việc gì có thể làm ngay để tạo ra những thay đổi tích cực?
Bà Phạm Chi Lan: Anh
Tuấn đã nhắc đến Nghị quyết 19 mà Chính phủ ban hành, thực ra là hai
nghị quyết cùng lấy số 19 vào 18/3/2014 và 8/3/2015, nhằm mục tiêu cải
thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp VN. Việc ban hành nghị quyết rất kịp thời, đúng lúc. Các năm
trước, thông điệp đầu năm của Thủ tướng thường nhấn mạnh tháo gỡ khó
khăn. Bây giờ, đã đi từ tinh thần tháo gỡ khó khăn chuyển sang tinh thần
cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho DN.
Vấn đề bây
giờ là làm sao thực hiện được. Chúng ta đã thực hiện được một phần nghị
quyết 19, như giảm được số giờ làm thủ tục thuế từ 872 giờ xuống còn
350 giờ và năm nay đang quyết tâm rút xuống nữa. Ngành hải quan, điện
lực đều có một số bước cải thiện. Nhưng Nghị quyết 19 đề cập đến những
vấn đề toàn diện về hỗ trợ cho DN như tiếp cận vốn, đất đai, quy cụ thể
đến từng gạch đầu dòng trách nhiệm của từng bộ ngành, chính quyền địa
phương.
Điều tôi lo lắng là liệu bây giờ chúng ta có đủ quyết tâm,
đủ công cụ mạnh để thực hiện hay không? Tôi rất mong Chính phủ ra những
chế tài mạnh để thực hiện bằng được những gì đã nêu ra trong hai nghị
quyết đó, bởi đây là những vấn đề sát sườn với năng lực cạnh tranh của
nền kinh tế VN, với môi trường kinh doanh để doanh nghiệp VN có thể phát
triển. Nếu thực hiện thành công hai nghị quyết đó, nhất là nghị quyết
của năm nay thì chúng ta thực sự có thể có cơ hội hội nhập vào AEC hiệu
quả hơn. Tuy nhiên, phải thẳng thắn thừa nhận rằng đến bây giờ các bước
tiến mới chỉ tập trung ở vài ngành thuế, hải quan, điện lực, xuất nhập
khẩu. Nếu nhìn vào tiêu chí về môi trường kinh doanh theo Doing Business
của WB đưa ra thì riêng trong AEC đã có 3 nước nằm trong top 20 nước
tốt nhất (Singapore, Malaysia, Thái Lan), trong khi VN mình vẫn loay
hoay mãi ở vị trí 70-80. Ngay cả mình có cải thiện được tiêu chí về số
giờ nộp thuế, làm thủ tục hải quan … thì cũng vẫn còn một khoảng cách xa
vời với với môi trường kinh doanh tốt, thuận lợi cho các doanh nghiệp
hoạt động. Cho nên còn nhiều việc phải làm và những việc phải làm thì
phải cụ thể, chứ không thể hô hào chung chung.
Nghị quyết 19 cũng
có nêu đến trách nhiệm của các hiệp hội doanh nghiệp, của tổ chức VCCI.
Bản thân các tổ chức này cũng phải làm mạnh hơn vai trò công việc chính
phủ đã giao là giám sát thực hiện, định kỳ báo cáo với Thủ tướng về thực
hiện công việc các bộ ngành, các địa phương đến đâu. Thời gian không
còn chờ đợi nữa bởi vì vấn đề năng lực cạnh tranh là chuyện của DN mà DN
lại phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh doanh do Nhà nước quyết
định. Nhà nước ở đây không phải chỉ những người đứng đầu nhà nước mà cả
các bộ, ngành, địa phương liên quan, thậm chí đến từng ông công chức.
Phải có người chịu trách nhiệm nếu không thực hiện được Nghị quyết này.
|
Nhà báo Việt Lâm, chuyên gia Phạm Chi Lan và chuyên gia Đậu Anh Tuấn tại bàn tròn. Ảnh: Phạm Hải |
Ông Đậu Anh Tuấn: Tôi
chỉ có 2 thông điệp cho cơ quan nhà nước. Một là, với cơ quan nhà nước
thì thay đổi trong thời gian vừa qua là đúng hướng, nhưng làm sao để
thay đổi ở các cấp phải thực sự chứ không phải là những cải cách trình
diễn. Cải cách làm sao để người dân và doanh nghiệp được thụ hưởng bởi
vì đôi khi cải cách xuất phát từ nhu cầu thể hiện tôi cải cách chứ không
phải để hướng tới những mục tiêu cụ thể là cải thiện cuộc sống cho
người dân. Cho nên, tư duy cải cách phải kiểm chứng được trên thực tiễn.
Đối
với các DN thì hội nhập AEC là một ví dụ cho thấy thách thức thì đến
ngay, khi mở cửa là cạnh tranh khốc liệt, trong khi cơ hội thì chỉ có
thể thấy được khi anh đáp ứng đủ điều kiện nhất định, tức là tôi phải có
năng lực cạnh tranh, đòi hỏi sự chuẩn bị trong thời gian dài, có đầu tư
bài bản, đúng hướng.
Tôi luôn tin là cộng đồng kinh tế VN sẽ phát triển nhưng vấn đề là đừng trả giá quá nhiều hay đi quá dài.
Doanh nghiệp lo sống đã đủ mệt
13/05/2015 01:00 GMT+7
– Báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thế giới và Diễn đàn Kinh tế
Thế giới cho biết năng lực cạnh tranh của DN Việt giờ đã tụt sau cả DN Lào và
Campuchia. Câu chuyện về tiếp cận thông tin và chuẩn bị cho Cộng đồng Kinh tế
ASEAN phần nào lý giải vì sao DN Việt tụt hậu.
VietNamNet giới thiệu phần đầu cuộc bàn tròn với chuyên gia
Phạm Chi Lan, nguyên Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp VN (VCCI), và
ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI.
DN lo sống chết đã đủ mệt
Nhà báo Việt Lâm: Chỉ còn 1-2 tháng nữa, cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC) sẽ có hiệu lực nhưng khi thử tìm kiếm trên google, tôi thấy
từ khóa này xuất hiện rải rác, cho thấy mức độ quan tâm của công chúng rất mờ
nhạt. Nếu nhìn vào số liệu cụ thể, gần đây cuộc điều tra của Đại học Kinh tế
Quốc dân cho biết 76 % doanh nghiệp hầu như không biết gì về AEC và 94% doanh
nghiệp không hiểu rõ về nội dung đàm phán trong AEC là gì; 63% doanh nghiệp thì
không hiểu rõ về những cơ hội và thách thức khi mà Việt Nam gia nhập AEC. Những
con số này phản ánh điều gì?
Bà Phạm Chi Lan: Những thông tin này phản ánh một thực
tế đáng buồn là chúng ta thường rất háo hức với những cuộc hội nhập mới mà Việt
Nam tham gia. Trên báo chí gần đây cũng nêu ý kiến của một số vị cho rằng VN rất
đáng tự hào là một trong những nước mạnh dạn tham gia nhiều đàm phán tự do
thương mại (FTAs) một lúc trong khi nhiều nước phát triển hơn ta còn ngần ngại.
Nghịch lý ở chỗ trong khi nhà nước hăng hái tham gia đàm phán
FTAs như vậy nhưng cả một cộng đồng rộng lớn trong xã hội, đặc biệt là doanh
nghiệp, những người được hưởng lợi nhiều nhất và cũng chịu tác động sâu sắc nhất
từ hội nhập thì lại gần như không biết gì. Thậm chí tôi có cảm giác họ hơi thờ ơ
đối với những cái đang gõ đến cửa nhà mình rồi.
Nghịch lý thứ hai là trong thời đại thông tin bùng nổ như hiện nay với muôn vàn
cách tiếp cận thông tin, trong khi hoạt động tuyên truyền ở nước ta cũng chưa
bao giờ sôi động như bây giờ mà một vấn đề thiết yếu như vậy lại không được
thông tin đầy đủ đến người dân, nhất là doanh nghiệp.
Câu chuyện ở đây cần được nhìn nhận từ hai phía. Một phía là
những người đang đàm phán hoặc đã đàm phán chuẩn bị cho bước hội nhập đến ngưỡng
cửa nhà mình phải có trách nhiệm phổ biến lại cho xã hội biết. Phổ biến chứ
không phải là chỉ tuyên truyền. Nếu chỉ tuyên truyền thì VN rất hoành tráng.
Nhưng nếu không phổ biến thông tin tường tận thì người ta không biết.
Mặt khác, các DN cũng có phần đáng trách khi không cố gắng
chủ động tìm kiếm thông tin. Không ai có thể cứu mình được nếu như tự mình không
biết tìm cách tự cứu lấy mình.
Những số liệu mà Việt Lâm vừa nói thực sự tôi cảm thấy lo lắng nhưng không ngạc
nhiên. Bởi lẽ, đối với rất nhiều DN thời gian qua, mối lo thường trực của họ là
chuyện tồn tại hay không tồn tại. 97% DN Việt Nam là nhỏ và vừa. Suốt thời gian
khó khăn về kinh tế vĩ mô vừa rồi, con số DN chết và ngưng hoạt động cứ tăng dần
lên từ 40 000 đến 53 000, 54000 lên đến 60,000 rồi 67,000 như năm ngoái. Do đó,
vấn đề hệ trọng số một của họ là liệu có tồn tại được hay không trong thời gian
tới. Còn Cộng đồng Kinh tế ASEAN, tuy cuối năm nay sẽ hình thành đầy đủ nhưng
vẫn còn xa hơn so với áp lực họ đang đối phó hàng ngày ở đây như vật giá leo
thang, đầu vào tăng lên, đầu ra không bán được, tắc nghẽn thị trường,…Có lẽ,
hiện thực này lý giải vì sao các DN còn thờ ơ với AEC.
Về phía cơ quan nhà nước thì thực tình tôi không hiểu vì sao
đội ngũ công chức đông đảo như vậy, được trang bị máy tính nối mạng đủ cả nhưng
việc kết nối, truyền đạt thông tin với DN, với người dân lại ra kết quả như vậy.
|
Chuyên gia kinh tế kỳ cựu Phạm Chi Lan. Ảnh: Phạm Hải |
Nước ngoài săn tìm, trong nước thờ ơ
Việt Lâm: Tôi được biết VCCI cũng đã tổ chức nhiều
hội thảo và tập huấn phổ biến kiến thức về hội nhập cho các DN. Theo quan sát
của ông Đậu Anh Tuấn, vì sao lần này phản ứng với AEC lại im ắng như vậy, trong
khi tôi nhớ cách đây gần chục năm khi VN chuẩn bị gia nhập WTO, không khí sôi
nổi hơn nhiều?
Ông Đậu Anh Tuấn: Trước hết, phải đính chính là AEC
không phải là một hiệp định thương mại có lộ trình đàm phán, có kết quả đàm phán
mà là một tập hợp trong đó có Hiệp định thương mại hàng hóa, rồi các cam kết về
đầu tư, dịch vụ, kết nối, hạ tầng… Trong AEC có một nội dung rất quan trọng là
Hiệp định thương mại hàng hóa thì đã thực hiện cách đây mấy năm rồi. Hàng hóa
của các nước ASEAN đã vào các siêu thị VN khá nhiều. Còn gần đây chúng ta hay
nói đến mốc 31/12/2015 là nói đến tuyên bố hình thành Cộng đồng kinh tế ASEAN
như một thị trường chung thống nhất như mong muốn của các nước ASEAN.
Trở lại vấn đề mà Việt Lâm nêu ra, tôi chia sẻ nhiều điều với
cô Phạm Chi Lan. Các DN Việt đa phần là nhỏ và mới nên kinh nghiệm về kinh doanh,
về kinh tế thị trường của thế hệ doanh nhân Việt Nam so với các nước ASEAN ít ỏi
hơn nhiều. Đồng thời, DN Việt còn đối mặt với nhiều khó khăn khác, đơn cử như
rào cản ngôn ngữ. Thử hỏi VN có bao nhiêu chủ DN đủ thời gian và khả năng tự tìm
đọc những thỏa thuận chung về ASEAN như các DN Singapore, Malaysia, Phillippine,
Thái Lan?
Thực tế những năm qua, các cơ quan nhà nước và tổ chức, hiệp
hội như VCCI cũng đã có một số nỗ lực mà chúng tôi hay nói vui là tổ chức các
“gánh hát rong” đi tuyên truyền về hội nhập khắp các tỉnh thành. Cô Phạm Chi Lan
cũng là một trong những chuyên gia đã phổ cập những khái niệm về hội nhập, tư
duy hội nhập đến đông đảo DN.
Vậy tại sao đã có những nỗ lực như vậy nhưng hiệu ứng thực tế
lại rất thấp? Có thể nói lỗi tại anh, tại ả, tại cả đôi bên. Về phía DN, phải
nói rằng phần đông chưa quan tâm đúng mức đến những kiến thức về hội nhập và
những vấn đề liên quan đến pháp luật trong nước. Khá nhiều các hội thảo, diễn
đàn chính sách về hội nhập được các cơ quan nhà nước, rồi VCCI tổ chức nhưng
chúng tôi quan sát thấy số lượng DN VN tham gia khá lèo tèo. Điều này thực sự
đáng buồn nếu so sánh với các DN có vốn đầu tư nước ngoài. Trong VCCI có bộ phận
chuyên vận động, hỗ trợ chính sách nhưng nói thực, nhiều lúc chúng tôi rất muốn
hỗ trợ DN nhỏ, DN tư nhân nhưng dường như chỉ có DN nước ngoài chủ động săn tìm
thông tin. Chẳng hạn như khi VN ký kết Hiệp định thương mại tự do với Hàn Quốc,
những email, điện thoại đầu tiên tôi nhận được là từ những doanh nghiệp FDI.
Nhiều DN vẫn kêu ca không có thông tin. Đành rằng thông tin chuyên sâu thì chưa
nói nhưng chí ít những thông tin căn bản đều có sẵn trên các website như của
VCCI chẳng hạn. Chúng tôi có những chuyên gia đi săn thông tin các nơi, dịch ra
tiếng Việt và đăng tải công khai nhưng khá nhiều DN không quan tâm.
Từ phía cơ quan nhà nước thì rõ ràng hiệu quả chưa được như
mong muốn. DN cần đầu mối thông tin. Ai là đầu mối cung cấp thông tin hội nhập,
thông tin sẵn có và thân thiện? Đa phần DN Việt là nhỏ và vừa, có trình độ nhận
thức, kiến thức pháp luật còn hạn chế nên cần phải có những sản phẩm phù hợp với
họ. Thế nhưng, ngay đến VCCI khi muốn tìm hiểu thông tin về một số hiệp định
thương mại tự do mà còn phải kiểm tra lòng vòng nhiều cơ quan mới ra.
|
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ảnh: Phạm Hải |
Mù thông tin là thứ mù chữ tệ hại nhất
Việt Lâm: Tôi nhớ cách đây chục năm khi tôi phỏng
vấn chuyên gia Phạm Chi Lan về hội nhập vào WTO, nội dung không khác gì mấy câu
chuyện chúng ta đang nói tới hôm nay. Cam kết WTO gần kề nhưng hầu hết DN vẫn
còn mơ hồ. Cái giá phải trả thời gian qua do tình trạng “nước đến cổ mới nhảy”
đã rõ rồi nhưng vì sao nhiều năm như vậy tình trạng này chưa được cải thiện?
Bà Phạm Chi Lan: Câu hỏi của Việt Lâm đúng với nhiều
mảng khác chứ không chỉ về thông tin hội nhập thôi đâu. Đó là các vấn đề về
chuẩn bị, về điều chỉnh chính sách, luật pháp rồi thực thi chính sách mới, chính
sách tốt cần thiết để chuẩn bị cho quá trình hội nhập…Những câu chuyện như vậy
kéo dài từ năm này sang năm khác mà sự cải thiện rất chậm chạp.
Thực ra bây giờ cũng khó so sánh với WTO. Đàm phán WTO lúc
bấy giờ được giữ kín, chỉ tập trung trong phạm vi những người đàm phán và có xin
ý kiến các cơ quan liên quan. Hồi đó, những thông tin ít ỏi mà chúng tôi có được
khi tôi còn ở VCCI phần nhiều là từ những nhà vận động hành lang của các nước
khác như Mỹ, EU. Khi họ đến trao đổi với mình để tìm hiểu về những vấn đề họ cần
biết thêm thì mình mới biết hóa ra đang đàm phán về vấn đề gì. Khi ấy, tôi cũng
có quay lại hỏi các cơ quan nhà nước xem liệu có thể cung cấp thêm thông tin để
các DN chuẩn bị hay không thì được trả lời là không vì có những quy định về bí
mật trong đàm phán.
Bây giờ sau 10 năm không phải cái gì cũng giữ bí mật như
trước nữa. Riêng đàm phán về Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP là một
ngoại lệ vì các nước tham gia đàm phán có thỏa thuận chỉ công bố khi đã đàm phán
xong và công bố đầy đủ nội dung. Nhưng câu chuyện của Cộng đồng Kinh tế ASEAN
thì vấn đề là những nội dung cam kết chúng ta đều đã biết cả. Như anh Tuấn vừa
nói, mấy năm gần đây người ta không đàm phán thêm gì. Cho nên một ông thứ trưởng
Bộ Công thương mới trấn an Quốc hội không cần phải lo lắng về AEC vì vẫn là
những cam kết cũ chứ không có gì mới hơn cả.
Nghịch lý chính là ở chỗ vẫn những cam kết đó mà đa số DN lại
không biết. Ngoài tỷ lệ 76% DN không biết thông tin chung, nếu đi sâu vào các
vấn đề chi tiết như các ngành hàng chẳng hạn, tôi tin tỷ lệ đó còn cao hơn. Bởi
chí ít người ta còn có thể biết những thông tin chung khơi khơi trên báo chí hay
từ các hội thảo nhưng đi vào cái cụ thể thì xã hội còn mù mờ.
Điều vô lý ở chỗ trong thời đại thông tin như hiện nay, VN
cũng tự hào là nước có tốc độ phát triển khá cao trong khu vực về số người sử
dụng Internet tới 35% dân số mà cộng đồng DN, cộng đồng vừa có nhu cầu vừa có
khả năng trang bị để tìm hiểu thông tin mà vẫn không biết gì thì có nghĩa là họ
chưa tìm thấy những thông tin mà họ cần.
Tất nhiên, cũng phải xem xét từ phía các DN là tại sao thiếu như vậy mà họ không
lên tiếng. Tôi nhớ, trong thời gian đàm phán WTO, tôi cũng chịu rất nhiều sức ép
từ các DN đòi hỏi cung cấp thông tin. Đến lượt tôi phải đi kêu với các cơ quan
nhà nước là chúng tôi cần thông tin để nghiên cứu. Lúc bấy giờ cũng có một số
nghiên cứu được công bố trước khi VN tham gia WTO. Tôi nhớ có cuộc hội thảo rất
lớn do Ngân hàng Thế giới tổ chức, công bố kết quả của 17 nghiên cứu khác nhau
dự báo tác động của Việt Nam tham gia WTO. Trong đó có một nghiên cứu của Viện
Quản lý Kinh tế TƯ do anh Võ Trí Thành chủ trì đưa ra những phân tích khá tường
tận về những kịch bản khách nhau khi VN tham gia WTO. Rất tiếc hiện nay, chúng
ta lại không có được một nghiên cứu nào như vậy cả.
Trong xã hội hiện nay, mù thông tin là thứ mù chữ tệ hại nhất.
Dù muốn hay không, các cơ quan nhà nước cũng cần xem lại trách nhiệm của mình.
Tôi không thích khái niệm tuyên truyền mà chúng ta hay nói tới. Bởi đã nói đến
tuyên truyền thì thường nhắc tới mặt tốt, mặt đẹp, để cho người ta vui lên, phấn
chấn lên chứ không đi được vào những thông tin người ta cần, thậm chí những cảnh
báo cần biết để phòng trước, tự trang bị, tự nâng cao năng lực cho mình để sẵn
sàng đón đầu kể cả cơ hội lẫn thách thức. Điều DN cần là thông tin chứ không
phải chỉ tuyên truyền suông.
|
Nhà báo Việt Lâm, chuyên gia Phạm Chi Lan và chuyên gia Đậu Anh Tuấn tại bàn tròn. Ảnh: Phạm Hải |
Ông Đậu Anh Tuấn: Thực ra, qua các cuộc tiếp xúc với
DN, tôi thấy mức độ quan tâm của họ khác với mức độ quan tâm của các nhà nghiên
cứu hay quan chức. DN ít quan tâm đến những thông tin nền hay các hứa hẹn chung
mà họ quan tâm đến các vấn đề cụ thể như mức thuế, điều kiện, hàng rào kỹ thuật,
yêu cầu về xuất xứ…
Nhiều DN cho biết rất lúng túng khi tìm kiếm thông tin về
biểu thuế. Hệ thống thông tin hiện tại chưa thực sự hỗ trợ DN nên nhiều khi họ
không biết phải tiếp cận ở đâu. Đơn cử một ví dụ, có DN muốn làm thủ tục hưởng
ưu đãi về thuế khi VN tham gia Hiệp định thương mại ASEAN – Trung Quốc. Họ hỏi
rất nhiều nơi, trong đó có VCCI. Chúng tôi bảo họ đến hỏi Bộ Công thương thì
người ta chỉ xuống Cục Hải quan và xuất khẩu tùy theo cửa khẩu nữa. Kết quả là
Hiệp định có hiệu lực nhưng DN đó phải chạy mất cả tháng mới tìm được thông tin
mình cần và cũng gặp nhiều trục trặc.
Chúng tôi cũng biết nhiều trường hợp dù hiệp định thương mại
đã ký kết giữa ASEAN và các nước nhưng mỗi cơ quan nhà nước lại hiểu và giải
thích cho DN một kiểu khiến DN lúng túng không biết đâu mà lần. Bởi vậy, tôi tán
thành ý kiến của cô Phạm Chi Lan là làm sao thông tin phải đầy đủ, sẵn có, thân
thiện và thuận tiện cho các DN.
Có một thực tế rất đáng buồn là theo báo cáo thống kê năm
2013, tỷ lệ hàng hóa xuất khẩu sang ASEAN mà hưởng ưu đãi xuất khẩu của những
hiệp định đã có hiệu lực thì chỉ chiếm 30%, có nghĩa là 70% hàng hóa còn lại
xuất sang ASEAN người ta không quan tâm đến hay không khai thác được những ưu
đãi giảm thuế. Trong khi đó, ngay tại sân nhà đã thấy sự hiện diện của rất nhiều
hàng hóa từ khu vực ASEAN. Có nhiều lý do nhưng tôi tin rằng có một phần do hạn
chế trong tiếp cận thông tin tới DN.
(còn nữa)
Sao lúc nào cũng trông chờ nhà nước?
14/05/2015 08:29 GMT+7
–
Thật đáng buồn và xấu hổ khi sau 20 năm gia nhập ASEAN, Việt Nam vẫn
nằm trong nhóm 4 nước kém hơn. Chúng ta không cần đi đâu xa, chỉ cần
sang Thái Lan mà học tập – bà Phạm Chi Lan.
VietNamNet
giới thiệu phần tiếp theo bàn tròn với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
và ông Đậu Anh Tuấn, trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp
VN (VCCI)
Không cần đi đâu xa, hãy học ngay Thái Lan
Nhà báo Việt Lâm: Tình
trạng thụ động của các DN Việt rất đáng báo động nếu so sánh với DN các
nước ASEAN. Một quan chức gần đây cho hay có khoảng gần 10 ngàn DN vừa
và nhỏ từ Thái Lan, Singapore…đã sang tìm hiểu thị trường VN. Họ không
chờ đến khi Cộng đồng Kinh tế ASEAN có hiệu lực mà đã chuẩn bị kỹ càng
để cạnh tranh với các DN Việt. Theo bà Phạm Chi Lan, liệu có phải trong
tiềm thức DN Việt vẫn có tâm lý trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước hay
không?
Bà Phạm Chi Lan: Tôi nghĩ trong tiềm thức
của DN Việt Nam cũng có một phần nào đó trông chờ vào nhà nước, hoặc họ
nghĩ những việc như vậy phải đợi nhà nước lo.
Nhưng vấn đề bắt
nguồn cũng từ thực tế mà anh Tuấn vừa nêu ra là rất nhiều DN muốn có
thông tin, kể cả thông tin từ các cơ quan nhà nước là phải mua, chứ
không như ở các nước khác, thông tin được cho không, được mang đến tận
nơi hoặc người ta chủ động nghiên cứu thông tin cho DN. Ông DN phải chạy
lòng vòng một tháng trời mới biết thông tin như anh Tuấn kể chắc chắn
cũng phải tiêu tốn một khoản chi phí nhất định. Bởi vậy, họ mới sinh ra
tâm lý nếu mình không có tiền hoặc mình không mua thì sẽ không có được
thông tin. Từ đó, dẫn đến chuyện thay vì chủ động tìm kiếm trên mạng hay
từ các hiệp hội, tổ chức khác thì DN chờ đến cơ hội khi nhà nước có
hoặc họ có thể tiếp cận được thông tin với giá nào đó hợp lý. Phải thẳng
thắn thừa nhận rằng tâm lý đó ở VN vẫn còn nhiều.
Tôi nghĩ truyền
thông cũng có một phần trách nhiệm ở đây. Nhiều khi, tôi đọc trên các
báo hay gặp câu kết luận cuối cùng kiểu như: vậy thì nhà nước phải làm
gì đây, nhà nước phải ra tay đi. Lúc nào cũng chỉ kêu gọi nhà nước chứ
không thấy trách nhiệm của xã hội. Tại sao không kêu gọi doanh nghiệp cố
gắng hay nông dân phải chủ động lên. Nó bơm vào cả xã hội tâm lý chờ
đợi nhà nước.
Về phía các doanh nghiệp nước ngoài, ví dụ cộng đồng
DN Thái Lan, phải nói thực rằng tôi thèm khát mình có được hệ thống tổ
chức, hậu thuẫn cho các DN hiệu quả như vậy. Họ có các tầng nấc khác
nhau nhưng các cơ quan nhà nước làm rất đúng trách nhiệm, không can
thiệp và công việc kinh doanh của DN. Trái lại, họ hướng dẫn, tìm tòi
thông tin, khuyến nghị chính sách hợp lý để DN của họ phát triển.
Có
lẽ những người làm chính sách VN không cần đi đâu xa, cứ nhìn vào các
cơ quan thương vụ Thái Lan ở Hà Nội và TP HCM mà học tập. Hiện ở Thái
Lan đang có chính sách bắt buộc các công chức Thái phải chia nhau ra học
tiếng của các nước khác trong ASEAN để có thể làm việc ngon lành với
các nước đó. Hầu hết những người làm ở Đại sứ quán Thái Lan, đặc biệt
những người làm mảng kinh tế đều thông thạo tiếng Việt để có thể đọc và
hiểu được chính sách của VN, từ đó tìm kiếm thị trường cho DN của họ.
Nhờ thế, những DN Thái muốn vào VN làm ăn đều có sẵn nền tảng thông tin
cơ bản thậm chí khá tường tận trong từng lĩnh vực của họ.
Hàng
năm, Thái Lan cũng tổ chức không biết bao nhiêu sự kiện ở VN để quảng bá
cho sản phẩm của họ một cách bài bản, đúng thị hiếu người Việt. Họ giúp
cho các công ty Thái thấy thị trường VN là tuyệt vời bởi tâm lý khách
hàng VN giống Thái. Đến nỗi, theo điều tra của công ty McKenzie về cách
tiếp cận của DN đối với Cộng đồng Kinh tế ASEAN, có tới 52% DN Thái Lan
cho rằng cơ hội số một của AEC là ở thị trường VN.
Mấy năm gần
đây, các DN Thái bắt đầu có những cuộc đổ bộ ào ạt vào VN. Mà nội bộ
cộng đồng DN của họ phối hợp với nhau rất bài bản. Những nhà phân phối
đi trước mở đường bằng cách mua lại chuỗi siêu thị này, chuỗi cửa hàng
tiện lợi kia, sau đó đưa hàng Thái vào. Chúng ta thấy các cửa hàng
chuyên bán hàng Thái xuất hiện ngày càng nhiều. Đấy là những bước đi
chuẩn bị cần thiết để những nhà sản xuất Thái đổ bộ vào VN. Ví dụ như
tập đoàn BJC mua lại tập đoàn Metro rõ ràng để chuẩn bị cho cuộc tấn
công ào ạt của hang Thái vào thị trường VN. Từ nhà nước đến các hiệp hội
DN hay bản thân cộng đồng DN làm việc một cách có tổ chức, biết liên
kết với nhau thành từng chuỗi từng nhóm để đi vào VN.
Trong khi
đó, ở VN phải nói rằng vai trò của các hiệp hội còn mờ nhạt, thường chỉ
lên tiếng khi chúng ta gặp phải vấn đề nào đó. Chẳng hạn, khi VN bị kiện
chống bán phá giá mặt hàng này khác mới thấy Hiệp hội xông vào, lên
tiếng rầm rộ. Thế nhưng, cả quá trình nghiên cứu, tìm hiểu để sản phẩm
của mình tránh được những chuyện đó thì không làm. Chúng ta có cả một
nền nông nghiệp lớn, từ chỗ đói ăn đến vị thế nước xuất khẩu gạo hàng
đầu thế giới nhưng thử hỏi đến giờ chúng ta đã có được một tổ chức xuất
khẩu gạo cho nên hồn hay chưa? Hay như năm nay lại tiếp tục than vãn giá
gạo xuống, bị thương lái Trung Quốc ép uổng, rồi chỗ này chỗ kia gặp
khó.
Điều đó lý giải tại sao khoảng cách giữa Thái Lan và VN cứ xa
vời vợi. Thật đáng buồn khi sau 20 năm tham gia ASEAN, đến giờ chúng ta
vẫn bị xếp trong nhóm 4 nước thấp kém hơn, cùng với Lào, Campuchia,
Myanmar. 20 năm trời, đến lúc bước vào giai đoạn quyết liệt của ASEAN để
nâng tầm lên thì mình vẫn chấp nhận ở tầng thấp như vậy. Đây không chỉ
là một điều đáng buồn mà còn đáng xấu hổ nữa. Cho nên, không cần đi đâu
xa, chúng ta cứ sang mà học người Thái thôi.
|
Chuyên gia kinh tế kỳ cựu Phạm Chi Lan (Ảnh: Phạm Hải) |
Ông Đậu Anh Tuấn:
Tôi chia sẻ với tâm tư của cô Phạm Chi Lan. Nếu nhìn các nước xung
quanh sẽ thấy họ đã phát triển đến một tư duy mới là hệ thống công quyền
phải tạo thuận lợi cho DN thúc đẩy hoạt động kinh doanh, đầu tư, chứ
không phải là tháo gỡ khó khăn nữa. Trong khi đó, ở VN vẫn chỉ trông chờ
rằng: ông đừng gây khó khăn cho tôi đã là điều may mắn lắm rồi.
Tôi
nhớ mãi chuyện một bà đại sứ của một nước ASEAN hẹn lịch gặp tôi, đại
diện của VCCI chỉ để tìm hiểu quy định lập hội ở VN như thế nào. Hỏi ra
đầu tư của nước ấy ở VN, cụ thể ở Hà Nội chưa đến 10 DN mà bà đại sứ đã
phải đến hỏi quy định thành lập hội để người ta thành lập hội DN nước họ
ở Hà Nội. Một vị đại sứ quyền cao chức trọng như vậy mà đến tận VCCI,
chứ không chỉ là các cơ quan nhà nước, chỉ để tìm hiểu thông tin cho DN.
Trở
lại vấn đề thông tin cho DN. Chưa nói đâu xa, chỉ nói tới thông tin
thống kê. VN có cả một hệ thống cơ quan thống kê nhưng thử hỏi các DN sử
dụng được bao nhiêu thống kê ấy. Tôi từng phải trả lời rất nhiều DN và
nhà đầu tư. Họ muốn biết thông tin về lượng hàng xuất nhập khẩu giữa VN
và Trung Quốc nhưng không biết tìm ở đâu ra. Cơ quan thống kê không có,
hải quan cũng không thể tiếp cận được. Thành thử một số công ty khi đầu
tư phải thuê những dịch vụ điều tra thị trường rất tốn kém. Giả sử cơ
quan nhà nước chỉ cần tập trung đầu tư nâng cao chất lượng thông tin
thống kê sẽ giúp ích rất nhiều cho DN.
Ngoài ra, như cô Phạm Chi
Lan vừa đề cập, một vướng mắc lớn khác là vai trò yếu kém của các hiệp
hội. Vừa qua, VCCI cũng làm một số khảo sát về các hiệp hội DN. Hầu hết
các hiệp hội DN ở VN đều hoạt động cầm chừng. Các hiệp hội rất khó khăn
về nguồn lực, thậm chí có hiệp hội không có nổi mặt bằng mà phải nay đây
mai đó. Họ không có tiền để tuyển nhân sự tốt, cung cấp dịch vụ chuyên
nghiệp cho các hội viên. Làm sao hiệp hội có thể tư vấn cho DN khi mà
cán bộ hội không có kiến thức. Kết quả là các DN thấy hiệp hội không có
ích, nên mối liên kết với hiệp hội càng lỏng lẻo và hiệp hội không thể
tìm kiếm được nguồn lực qua hoạt động đóng hội phí.
Để thoát ra
khỏi vòng luẩn quẩn này, không thể không có vai trò của nhà nước. Các cơ
quan nhà nước có thể không trợ cấp trực tiếp, nhưng có thể đặt hàng để
các hiệp hội lớn mạnh, có hoạt động, có nguồn lực để tuyển thêm nhân
lực, qua đấy hỗ trợ các doanh nghiệp hội viên và có những chương trình
thiết kế nâng cao năng lực cho các hiệp hội. Không thể trông chờ vào nhà
nước mãi được trong việc cung cấp thông tin bởi doanh nghiệp có nhu cầu
đa dạng. Cần có những thiết chế bổ sung bên cạnh nhà nước, mà hiệp hội
doanh nghiệp là một lựa chọn tốt.
|
Ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Ảnh: Phạm Hải |
Chia đều trách nhiệm tập thể
Nhà báo Việt Lâm: Từ
chia sẻ của hai chuyên gia thì có thể thấy rằng nếu như chỉ cần thay
đổi một chút trong tư duy của các cán bộ, công chức thực sự là công bộc,
là những người cung cấp dịch vụ công như các nước ASEAN đã làm được thì
họ sẽ phải quan tâm đến nhu cầu của khách hàng, từ đó mới đáp ứng đúng
cái người ta cần. Bởi vì không ít DN kêu ca là họ cũng được cung cấp
thông tin đấy, nhưng lại không phải cái người ta cần.
Ông Đậu Anh Tuấn: Liên
quan đến vấn đề này tôi cũng xin bình luận thêm là ở VN công khai chưa
hẳn là minh bạch. Các cơ quan nhà nước vẫn nói rằng tôi minh bạch đấy
chứ, anh cần gì thì cứ đến lấy. Nhưng nếu cứ theo cách tiếp cận ấy thì
nảy sinh một thực trạng là ai có lợi thế, có quen biết thì chỉ mất một
cú điện thoại là lấy được thông tin. Còn DN không có quan hệ thì lòng
vòng cả tháng trời mới ra như tôi vừa kể. Lâu dần, hình thành đội ngũ
“cò chính sách”.
Cách tiếp cận khác là phải xem các DN và xã hội
cần gì rồi hướng hoạt động vào đó. Chẳng hạn hoạt động cung cấp thông
tin thì tôi phải biết sắp tới anh cần gì và cung cấp thông tin một cách
hệ thống, đầy đủ và công khai. Ai cần cũng có thể đến lấy, bất kể DN lớn
hay nhỏ, quen thân hay không. Chỉ cần thay đổi cách tiếp cận, chuyển
sang tư duy phục vụ thôi thì việc cung cấp thông tin đã khác.
|
Nhà báo Việt Lâm, chuyên gia Phạm Chi Lan và chuyên gia Đậu Anh Tuấn tại bàn tròn. Ảnh: Phạm Hải |
Bà Phạm Chi Lan:
Bằng chứng rõ nhất về chuyện công khai nhưng không minh bạch là chúng
ta cứ thử vào các trang web chính thức. Tỉnh nào, bộ nào cũng có trang
web nhưng thử hỏi có thể khai thác được bao nhiêu thông tin trên đó.
Nhiều khi vào đến nơi là nghẽn mạng, hoặc những thông tin chung chung,
cũ kỹ, không giá trị. Những thông tin xã hội cần nhất không có. Có lẽ,
người ta muốn ém lại để ai cần thì đến gặp tôi.
Nói đến vấn đề
minh bạch thì không thể bỏ qua trách nhiệm giải trình. Lấy ngay kết quả
điều tra vừa công bố hơn 70% DN không biết gì về hội nhập thì tại sao
nhà nước không đặt câu hỏi là ai chịu trách nhiệm về việc này và có thái
độ thẳng thừng xử lý. Chúng ta thường chia đều trách nhiệm, mỗi một
việc đàm phán, mỗi lĩnh vực thì một số ngành liên quan, các đơn vị khác
nhau trong cùng một bộ chịu trách nhiệm nhưng rốt cục không ai chịu
trách nhiệm cả. Cả xã hội phát triển mà bao lâu nay cứ trong tình trạng
chia đều trách nhiệm tập thể, và không ai chịu trách nhiệm tới cùng.
Thủ
tướng đã nhiều lần nói tới việc quy trách nhiệm cho người đứng đầu
nhưng cho tới nay, hiếm khi chúng ta xử lý được một người đứng đầu nào
về những trách nhiệm xảy ra trong xã hội cả. Chưa nói tới người đứng đầu
ở tầm mà Thủ tướng phải kiểm soát là các bộ trưởng hay chủ tịch UBND
các tỉnh mà ở các cấp thấp hơn có lẽ cũng chưa có trường hợp người đứng
đầu một vụ, một cục nào phải chịu trách nhiệm về vấn đề gì rất nghiêm
trọng trong kinh tế trực thuộc trách nhiệm vụ đó.
(còn nữa)
Định nghĩa mới về kinh tế thị trường XHCN
02/04/2015 02:00 GMT+7
-
Khi định hướng XHCN không được giải thích rõ, người ta ngại ngần, không
dám làm vì sợ bị quy chụp là "chệch hướng" - TS Trần Đình Thiên lý giải.
Mời
bạn đọc theo dõi tiếp phần 2 bàn tròn về kinh tế thị trường định hướng
XHCN với TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển,
Bộ Kế hoạch Đầu tư và Ts Trần Đình Thiên, Viện trưởng Viện Kinh tế Việt
Nam.
Cải cách mà không ai phản đối là cải cách tồi
Nhà báo Việt Lâm:Trung
Quốc có kinh tế thị trường XHCN còn VN có nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN. Chúng ta đều hiểu đó là những mô hình mang đặc thù lịch sử
và khi đó phải chấp nhận vừa đi vừa dò đường. Nhưng tôi vẫn băn khoăn vì
sao quá trình đó kéo dài đến 30 năm, với bao nhiêu cuộc bàn thảo, hay
nghiên cứu. Chắc chắn trong hệ thống có nhiều nhà hoạch định chính sách
có tư duy đổi mới. Họ nhận ra những ràng buộc về mặt nguyên lý gây ra
những hệ lụy như thế nào đến sự phát triển của đất nước. Vậy tại sao
chưa có ai dám đột phá cái trần về nguyên tắc như TS Trần Đình Thiên vừa
đề cập?
TS. Lưu Bích Hồ: Nói thật, đây là vấn đề
phức tạp cần có sự mổ xẻ. Những gì chúng ta đang thảo luận ngày hôm nay
không phải từ 15 - 20 năm trước chúng ta không nghĩ tới. Có nhiều chuyên
gia trong và ngoài nước từng đề xuất rồi. Ví dụ như trong cuốn Theo
hướng rồng bay của Harvard viết cách đây 20 năm, họ đã phân tích và kiến
nghị tất cả những vấn đề mà hôm nay chúng ta đang tiếp nhận. Tuy nhiên,
có lẽ 20 năm trước chúng ta chưa thể tiếp nhận được vì chưa có trải
nghiệm. Cho nên, học phí mà chúng ta phải trả vừa qua chính là sự trải
nghiệm.
Trả lời sát hơn vào câu hỏi của nhà báo: vì sao không thể có được bứt
phá nhanh hơn? Tôi nghĩ có nhiều yếu tố nhưng tôi muốn nhấn mạnh hai
điểm. Thứ nhất, các chuyên gia, những người tham mưu còn chưa đủ mạnh
dạn để mổ xẻ vấn đề và thuyết phục lãnh đạo. Chúng ta vẫn còn dừng ở rất
nhiều đề tài nghiên cứu có tính chất lý thuyết chứ chưa làm được những
cuộc tổng kết, đúc kết từ thực tiễn để chứng minh.
Yếu tố thứ hai
quan trọng hơn là vì chúng ta muốn có sự đồng thuận trong lãnh đạo trong
khi sự thống nhất ấy ở nước ta hơi chậm. Lẽ ra, sự đồng thuận có thể
xuất hiện sớm hơn nhưng vì cơ chế lãnh đạo tập thể nên nếu còn ý kiến
chưa thống nhất, mà chúng ta hay gọi là “chưa chín” thì chúng ta chưa
làm.
Trong khi đó, đổi mới thường bắt đầu từ đề xuất của một thiểu
số. Không thể chờ đợi đa số đồng thuận rồi mới làm. Như công cuộc Đổi
mới cách đây 30 năm của chúng ta xuất phát từ những cuộc “xé rào” ở Vĩnh
Phúc, Hải Phòng rồi lan tỏa dần ra. Trong chuyến thăm VN vừa rồi, cựu
Thủ tướng Anh Tony Blair có đúc kết rằng một cuộc cải cách mà không có
nhiều người phản đối thì đó là một cuộc cải cách tồi. Bởi cải cách là
động chạm đến tư duy cũ của mình, đến lợi ích hiện tại của mình. Đó là
một bài học. Hi vọng rằng chúng ta sẽ thấm thía bài học này để không lặp
lại sai lầm nữa.
Vùng tranh tối tranh sáng
TS Trần Đình Thiên:
Tôi nghĩ hầu như tất cả đều có một niềm tin chắc chắn rằng không thể
nào quay lại hệ thống CNXH kiểu cũ nữa. Đảng cũng đã khẳng định đổi mới
sang nền kinh tế thị trường là đúng, không có cớ gì để quay lại nữa.
Tuy
nhiên, vấn đề của VN là chúng ta đang ở trong vùng tranh tối tranh
sáng, như khuyến cáo của cuốn Theo hướng rồng bay mà anh Lưu Bích Hồ vừa
nhắc đến. Nói cách khác, chúng ta đã lựa chọn con đường này rồi, không
trở lại được nữa nhưng vẫn đi một cách lọ mọ nên hậu quả rất nghiêm
trọng vì khi thế giới đang chuyển động tốc độ nhanh. Nói một cách hình
ảnh là mình đã quyết định bước ra khỏi vùng tối, không thể trở lại nhưng
cũng không dám chọn hẳn vùng sáng mà bước ra. Thành ra ta cứ ở quá lâu
trong vùng tranh tối tranh sáng trong cách tiếp cận đến sự phát triển
của thị trường.
Hơn nữa, có một điểm mâu thuẫn ở đây là tinh thần
hội nhập của VN rất mạnh trong khi những điều kiện để gia nhập vào nền
kinh tế thị trường thực sự thì chúng ta lại làm rất yếu. Chúng ta mở cửa
ngay từ khi đổi mới, từ bình thường hóa quan hệ với ASEAN – mở một nút
quan trọng với hệ thống thị trường thế giới, rồi sau đó bình thường hóa
quan hệ với Mỹ, ký kết Hiệp định thương mại song phương BTA. Ta cũng
quyết tâm vào WTO nên đàm phán rất tích cực. Tuy nhiên, sự vênh nhau
giữa tinh thần hội nhập và hệ thống nền tảng để hội nhập khiến cho nền
kinh tế tuy có đi lên nhưng tốc độ giảm xuống và nhiều bất ổn hơn.
Đến
giờ, chúng ta tiếp tục quyết liệt hội nhập, thậm chí ở đẳng cấp cao
nhưng vẫn tồn tại một mâu thuẫn nào đó trong cách tiếp cận thị trường.
Một mặt, nó là cản trở nhưng mặt khác cũng cho thấy nếu gỡ được nút thắt
này thì VN sẽ bứt lên nhanh chóng.
Tuy nhiên, nếu không gỡ được
cái trần về tư tưởng thì có thể khiến cho quá trình giải quyết những
trói buộc về cơ chế chính sách để tạo ra những kích thích tốt cho nền
kinh tế trong nước bị lệch sang phía nước ngoài trong khi những lực
lượng trong nước không được hưởng. Vì sao lại như vậy? Bởi vì khu vực
đầu tư nước ngoài đã phát triển tốt trong khi khu vực nội địa, từ kinh
tế nhà nước tới tư nhân vẫn còn chật vật do rào cản thể chế. Thể chế thị
trường của họ tốt hơn, còn thể chế thị trường của ta vừa yếu kém, lại
vừa chịu nhiều trói buộc. Nhà nước đang cố tháo gỡ, nhưng vì đã buộc
chặt rồi nên quá trình gỡ sẽ chậm.
Anh Hồ nhắc đến ý kiến rất hay
của ông Tony Blair: cải cách ở đâu cũng thế thôi, càng nhiều phản đối
thì chứng tỏ cải cách càng có chất lượng. Tôi hiểu cách nhìn của ông
Tony Blair có 2 ý: Một là, cải cách là đổi mới, là vượt qua những khuôn
khổ thể chế cũ, kể cả luật pháp để mở ra cái mới. Bởi thế, nó thường
xung đột với cái cũ, xung đột với đa số những con người, những lợi ích
của hệ thống cũ để lại, xung đột với thói quen cũ. Điều này là bình
thường. Tư tưởng đổi mới càng mạnh thì mức độ xung đột càng gay gắt. Đấy
là thước đó để tạo niềm tin. Còn nếu đổi mới mà không xung đột với ai
thì không có gì đổi mới cả.
Hai là, ông có tư tưởng đổi mới mà gặp
chống đối mạnh thì phải sợ chứ. Nên ông phải tập luyện võ nghệ mà chiến
đấu. Tức là, nếu ông muốn chương trình cải cách của ông thực hiện được
thì chương trình đấy phải được thiết kế rất tốt để thuyết phục những lực
lượng phản đối hoặc là những người không phản đối nhưng người ta chưa
hiểu. Theo nghĩa đó, càng vấp phải phản đối thì thiết kế chương trình
càng phải tốt.
Còn vì sao không ai dám đột phá cái trần tư tưởng
ấy? Anh Hồ lý giải là do giới nghiên cứu khoa học, hay giới gọi là tham
mưu, tư vấn cho lãnh đạo chưa đủ mạnh dạn. Tôi đồng ý với nhận xét này.
Nói chung, trong xã hội ta đa số còn thiếu can đảm để mà vượt qua cái
cũ, thậm chí “nước đến chân mới nhảy”. Nói một cách thẳng thắn, nhiều
khi mình cảm thấy mình hơi hèn khi nhìn thấy vấn đề mà không đủ can đảm
nói ra.
Khi khái niệm “định hướng XHCN” chưa được giải thích rõ,
khi đụng đến cuộc sống hàng ngày của con người, dễ bị dịch sang từ
“chệch hướng”. Hậu quả là người ta chùn lại, ngại ngần không dám nói,
dám làm. Chuyện ấy cũng là bình thường. Cho nên, cách đặt vấn đề để có
sự can đảm như vậy chính là tuyên ngôn đầu tiên phải rõ ràng: thế nào là
định hướng XHCN. Khi có nội hàm rõ ràng rồi thì không còn sợ cái gọi là
“chệch hướng” nữa. Cả dân tộc này có lẽ không kém đến mức không hiểu
định nghĩa định hướng XHCN trong khuôn khổ chấp nhận kinh tế thị trường
là như thế nào. Nó là ủng hộ thị trường chứ không phải cản trở thị
trường. Tôi tin rằng cách tiếp cận mới này của Thủ tướng có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng tại điểm chuyển của nền kinh tế.
|
TS Trần Đình Thiên và TS Lưu Bích Hồ. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Định nghĩa mới về kinh tế thị trường định hướng XHCN
Việt Lâm:Các
ông là những chuyên gia thường xuyên được Chính phủ tham vấn. Nếu được
tham khảo ý kiến về vấn đề này thì các ông sẽ đưa ra định nghĩa thế nào
về kinh tế thị trường XHCN?
TS Lưu Bích Hồ:
Chúng ta đã có nhiều nhà trí thức mạnh dạn phát biểu ý kiến về vấn đề
này rồi. Vừa qua, tôi được mời tham dự thảo luận của Hội đồng lý luận
TƯ. Các đồng chí cũng đã giới thiệu Dự thảo văn kiện ĐH XII đang lấy ý
kiến từ các chi bộ cơ sở. Tôi thấy dự thảo đã đưa ra được những câu chữ
khá chỉnh trang về định nghĩa kinh tế thị trường định hướng XHCN nhưng
vẫn còn dài quá. Định nghĩa chung mất 2/3 trang còn riêng cho 5 năm tới
mất thêm 1/3 trang nữa.
Hôm ấy, mọi người đều đóng góp ý kiến và
rất thiết tha là không nên nêu quá cụ thể để không bị ràng buộc bởi
những vấn đề còn phải được thực tiễn khảo nghiệm, trong đó có vấn đề nổi
lên cần được xem xét là chế độ sở hữu và vai trò của các thành phần
kinh tế. Chúng tôi đề nghị nêu nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình
thức sở hữu là đủ. Bởi nguyên tắc phổ quát của kinh tế thị trường là lấy
kinh tế tư nhân là nền tảng. Chúng ta chưa đến mức thừa nhận như vậy mà
muốn đi mô hình riêng, nên vẫn giữ kinh tế nhà nước là chủ đạo. Nhưng
thực tiễn vừa qua đã chứng minh kinh tế nhà nước chưa hoàn thành được
vai trò chủ đạo, hiệu quả hoạt động thấp.
Chưa kể, kinh tế nhà
nước bao gồm cả ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, tài nguyên thiên
nhiên, các kết cấu hạ tầng của nhà nước đầu tư trong khi các khu vực còn
lại chỉ nhắc đến doanh nghiệp. Như thế là không tương thích. Đương
nhiên, chúng ta có lý do để giữ DNNN nhưng vấn đề quan trọng nhất là đảm
bảo mọi thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo nguyên tắc thị
trường, bình đẳng với nhau.
Khi đàm phán với các định chế quốc tế,
người ta không quan tâm ông có bao nhiêu DNNN. Người ta cũng không quan
tâm kinh tế nhà nước là chủ đạo hay không. Người ta chỉ yêu cầu ông
công khai minh bạch và bình đẳng. Có vậy thôi.
Theo tôi, những vấn
đề còn chưa sáng tỏ thì chưa cần vội vàng đưa vào. Không phải vì không
có cái đó mà mất định hướng, mất đặc điểm của nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.
Bởi vì đặc điểm chính của kinh tế thị trường
định hướng XHCN, theo tôi là sự kết hợp giữa phát triển kinh tế, tiến bộ
và công bằng xã hội. Kinh tế thị trường phát triển là để đem lại hạnh
phúc cho con người, là sự bình đẳng hơn cho con người và sự tiến bộ của
xã hội. Tôi cũng mạnh dạn nói thêm rằng không phải chỉ có định hướng
XHCN ở nước ta mới đặt ra như vậy mà các nền kinh tế thị trường phát
triển khác như kinh tế thị trường xã hội ở Đức hay nền kinh tế thị
trường xã hội phúc lợi ở Bắc Âu cũng đã đặt ra như thế. Thậm chí họ còn
làm tốt hơn chúng ta bởi vì họ đã đạt đến trình độ phát triển cao hơn
chúng ta nhiều. Nói cách khác, về cơ bản, kinh tế thị trường định hướng
XHCN không có gì khác các nền kinh tế thị trường khác.
TS Trần Đình Thiên: Chúng ta hay sính dùng chữ nghĩa hay ho nhưng điều quan trọng là nội hàm. Tôi ủng hộ cách tiếp cận của anh Hồ.
Cách
đặt vấn đề của tôi là cái tên chỉ là cái tên mà thôi. Nội hàm của chủ
nghĩa xã hội mà chúng ta nói tới như là phần tốt đẹp nhất mà loài người
hướng tới chỉ có mấy về này thôi: một là, mở rộng cơ hội cho con người;
hai là, giúp con người tăng cường năng lực để chuyển hóa cơ hội thành
lợi ích và ba là làm sao xã hội giúp con người nhận được sự phân phối
công bằng. Công bằng ở đây có hai vế: công bằng về cơ hội và công bằng
về lợi ích, không có công bằng về cơ hội thì không thể có công bằng lợi
ích. Chiếu lý tưởng của chúng ta vào kinh tế thị trường định hướng XHCN
thì tôi hình dung: cho đến bây giờ, chính chúng ta cũng thừa nhận chuyển
sang kinh tế thị trường là phương thức tốt nhất để mở rộng cơ hội, cũng
là cách tốt nhất để phân phối cơ hội.
Câu chuyện ở đây là thị
trường là cạnh tranh, mà cạnh tranh sẽ giúp nâng cao năng lực và cũng
tạo ra sự công bằng về cơ hội. Ông có năng lực cao thì ông có nhiều cơ
hội hơn. Nhưng xét về góc độ nhân văn thì không phải cái gì cũng công
bằng do điều kiện, năng lực của mỗi cá nhân khác nhau. Do đó mới cần đến
những thiết chế xã hội và sự can dự của nhà nước, nhằm đảm bảo tính mục
đích tối cao chúng ta muốn đạt đến. Ta gọi đấy là chủ nghĩa xã hội còn
các nước khác gọi là kinh tế thị trường xã hội.
TS Lưu Bích Hồ: Tôi
nghĩ có thể chúng ta chỉ cần gọi là kinh tế thị trường xã hội là đủ vì
có khi thêm chữ chủ nghĩa vào lại trở nên nặng nề và phức tạp.
Nhà nước phải là lực lượng thúc đẩy thị trường
TS Trần Đình Thiên:
Trở lại câu hỏi định nghĩa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tôi
muốn nhấn mạnh thêm hai ý. Một là: những gì là nguyên tắc cơ bản của thị
trường thì phải tuyên bố rõ và thừa nhận. Ví dụ như: thừa nhận sở hữu
tư nhân chứ không phải chỉ có nhà nước, đảm bảo cơ chế cạnh tranh bình
đẳng. Ở đây, bình đẳng là công bằng về các điều kiện để tham gia cạnh
tranh, thể hiện qua cơ chế giá cả. Giá cả phải do thị trường quyết định.
Nhà nước cũng có thể tham gia vào quá trình định giá nhưng với tư cách
là một lực lượng thị trường chứ không phải tư cách áp đặt. Tóm lại, cơ
chế thị trường là: cạnh tranh, tự do giá cả và quyền sở hữu. Nếu đã thừa
nhận như vậy mà viết những luận đề làm méo mó ba nguyên tắc cơ bản ấy
thì kinh tế thị trường sẽ trở thành một trò cười.
Tôi muốn nhấn
mạnh bình đẳng ở đây là bình đẳng về tư cách, tư thế, còn chức năng của
các thành phần kinh tế có thể khác biệt. Nhưng ở ta lại không bình đẳng
về tư thế. DNNN được hưởng nhiều ưu đãi mà có khi nhiều ông nhà nước
cũng không thích cái ưu quyền ấy. Bởi gắn với ưu quyền thì ông cũng phải
gánh đủ thứ trách nhiệm.
Trong công thức cạnh tranh bình đẳng như
ta vẫn nói, nhưng kinh tế nhá nước lại được gán cho vai trò chủ đạo,
còn về kinh tế tư nhân thì mãi sau này chúng ta mới dám rón rén thêm vào
mấy chữ “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng”. Chỉ thế thôi mà là
một nỗ lực ghê gớm của giới lý luận và phải được nhiều nhà lãnh đạo cấp
cao ủng hộ mới đưa vào được. Những nguyên lý cơ bản của thị trường mà
phải khó khăn đến thế mới được chấp nhận thì làm sao được.
|
TS Lưu Bích Hồ. Ảnh: Lê Anh Dũng |
Về
vai trò của nhà nước là bảo vệ quyền tài sản. Đó chính là chủ nghĩa xã
hội. Ông phải đảm bảo cho cạnh tranh bình đẳng chứ không phải lại làm
cho môi trường cạnh tranh không bình đẳng.
Thứ ba, thị trường là
một lực lượng phân phối của cải làm ra lượt đầu nhưng nhà nước là lực
lượng duy nhất có quyền lực phân phối lại để tạo ra sự bình đẳng thật
sự, hỗ trợ người già, người nghèo, phòng ngừa rủi ro. Đây cũng là quan
điểm được hoan nghênh gần đây của Bộ trưởng Kế hoạch Đầu tư Bùi Quang
Vinh mà Thủ tướng cũng vừa khẳng định lại trong phiên họp Chính phủ, tức
là tính mục đích cuối cùng là đảm bảo bình đẳng ở khâu phân phối lại.
Tóm
lại, phải có một cách tiếp cận rõ ràng, một định nghĩa mang tính thực
chất. Quan trọng hơn cả là thấu suốt nguyên tắc: Nhà nước phải là lực
lượng thúc đẩy thị trường chứ không phải cứ canh cho thị trường không
làm loạn. Thị trường càng tốt thì nhà nước quản lý càng dễ, càng ít phải
định hướng.
Xem kỳ cuối:
"Lúc nào cũng sợ buông ra là chệch hướng"
(
còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét