Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016
TÁC PHẨM BẤT HỦ 3
N.V.GÔGÔN° VỚI NHỮNG LINH HỒN CHẾT
Thiên tài của Gôgôn là một thiên tài nhiều mặt, ít thấy ở một nhà văn. Mới hai mươi sáu tuổi, Gôgôn đã có những tác phẩm mẫu mực của năm loại văn rất khác nhau, tựa hồ của nhiều nhà văn khác nhau: truyện dân gian quái dị với Những đêm trong thôn gần Đikanka, tiểu thuyết sử thi hùng tráng với Tarax Bunba, truyện châm biếm hài hước với Câu chuyện về sự bất hòa giữa Ivan Ivanovits và Ivan Nikiforovits, tiểu thuyết hiện thực phê phán với Một đôi vợ chồng trang chủ kiểu xưa và Cái áo khoác, hài kịch đả kích xã hội với Quan thanh tra. Với cái thiên tài nhiều mặt, mà mặt nào cũng lớn và đang độ phát triển, dồi dào sinh lực ấy, Gôgôn bắt tay vào viết tác phẩm chủ yếu của đời mình, lớn hơn tất cả các tác phẩm kia: Những linh hồn chết.
Từ lúc ấy, cuộc đời của Gôgôn còn mười sáu năm nữa, nhưng chỉ còn có một mục đích, một công việc, một sứ mạng: hoàn thành Những linh hồn chết, phấn đấu gian lao, đau khổ khủng hoảng tinh thần, lịch sử mười sáu năm cuối của đời Gôgôn chính là lịch sử của Những linh hồn chết.
Ý định viết tác phẩm lớn ấy đến với Gôgôn, như trong Sám hối của một tác giả, văn hào viết: “Chính Puskin làm cho tôi quan niệm vấn đề một cách nghiêm túc. Từ lâu Puskin khuyến khích tôi bắt tay viết một tác phẩm lớn; Puskin bảo tôi: “-Tại sao có cái tài đoán ra chân tướng con người để chỉ phác vài nét là lẽ ra như nó sống thật, mà anh lại không bắt tay vào viết một tác phẩm lớn? Như thế thật quả là một tội lỗi!”. Để kết luận, Puskin cho tôi đề tài mà chính anh dự định viết thành một trường ca và, theo lời anh, thì không bao giờ nhường lại cho bất kỳ một ai. Đó là đề tài của Những linh hồn chết”.
Puskin từng khuyên Gôgôn sáng tác Những linh hồn chết thành một thiên “trường ca” – poema – Chữ “poema” đây không phải có nghĩa là một tập thơ, mà là một tiểu thuyết trường thiên có tính chất sử thi rộng lớn. Đến khi xuất bản tác phẩm, Gôgôn cho in lên bìa chữ “poema” to hơn tên sách.
Càng viết và càng nghĩ, Gôgôn càng thấy cái tầm rộng lớn của tác phẩm; vì vậy mà những cuộc phiêu lưu buồn cười của nhân vật chính Tsitsikôp họp thành tình tiết của thiên trường ca đã được khoác một ý nghĩa biểu tượng: Tsitsikôp không phải chỉ là một tên bịp bợm đi mua nông phu chết, mà còn là Gôgôn đi tìm những “linh hồn sống”, nhưng chỉ gặp toàn những “linh hồn chết” – trong tiếng Nga cái từ “đusi” có cả hai nghĩa “những linh hồn” và “những nông phu”. Năm 1843, trong một bức thư Gôgôn viết rõ ràng: – “Quả thật có thể tin được điều người ta nói là: tất cả đều chết hết rồi, rằng ở nước Nga, những linh hồn sống đã nhường chỗ cho những linh hồn chết”. Bởi vậy mà nhan đề của thiên trường ca trước dự định là Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp (Pôkhôjdênia Tsitsikôva) với phụ đề là Những linh hồn chết (miôrtvưe đusi) phải đổi lại là Những linh hồn chết với tiêu đề Những cuộc phiêu lưu của Tsitsikôp.
Mùa hè 1841 phần thứ nhất Những linh hồn chết được hoàn thành. Tháng chín Gôgôn mang về nước để xuất bản. Ngày 12 tháng 11 bản thảo nộp cho Ủy ban kiểm duyệt Mạc tư khoa và dĩ nhiên là gặp ngay phải vô số khó khăn. Nhờ phu nhân Xmirnôva và mấy bạn vương công thần thế bảo trợ văn học, Những linh hồn chết mới được phép in, chỉ phải chữa lại đoạn nói về đại úy Kôpêikin.
Ngày 23 tháng 5 năm 1842, Những linh hồn chết xuất bản lần thứ nhất. Tờ Người đương thời, trong bài phê bình, đã suy tôn tác giả cuốn sách là đệ nhất văn hào Nga; quả là một danh hiệu chính đáng; từ trước Biêlinxki vẫn nói rằng Puskin sớm chết thì Gôgôn đã thay vào chỗ mà Puskin để lại trong văn học Nga.
Với những điều hiểu biết của một nghệ sĩ thiên tài, Gôgôn đã “vẽ lại cuộc đời với bộ mặt thật của nó”, và cái bộ mặt của xã hội Nga với các tầng lớp thống trị của nó thời ấy là ghê tởm; thì Gôgôn đã bắt các đại diện của chúng ta, “giật bộ trang phục mỹ lệ và cái mặt nạ anh hùng” của chúng, bắt chúng “đem thân cho thiên hạ mua cười”.
Chỉ với Những linh hồn chết, sự nghiệp của Gôgôn cũng đã xứng đáng đặt ngang hàng với sự nghiệp của một nhà văn lớn khác của thế giới: Xervantex với bộ Đông Kisôt. Thuộc thể tiểu thuyết phê phán và châm biếm phong tục, – thể tiểu thuyết Picaret theo thuật ngữ văn học, do cái từ Tây Ban Nha picarô, chỉ tên bịp bợm, mà ra, – thì Những linh hồn chết của Gôgôn, Đông Kisôt của Xervantex và Những di văn của câu lạc bộ Pickuych của Dickenx là ba kiệt tác đứng hàng đầu trong văn học thế giới, và so với các tác phẩm cùng thể tài châm biếm ấy thì Những linh hồn chết đậm tính chất chân thực, gần với cuộc đời hơn cả.
NGƯỜI DỊCH
° Về thân thế, sự nghiệp và các tác phẩm khác của N.V.Gôgôn, xin xem lời giới thiệu trong hai cuốn: Tarax Bunba – Văn hóa 1959 và Quan thanh tra – Văn học 1963.
Những linh hồn chết
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Những linh hồn chết | |
---|---|
Мёртвые души | |
Trang đầu của tác phẩm (bản in năm 1842)
|
|
Thông tin sách | |
Tác giả | Nikolai Gogol |
Quốc gia | Nga |
Ngôn ngữ | Tiếng Nga |
Thể loại | Chính trị, Châm biếm |
Kiểu sách | Bìa cứng và bìa mềm |
Những độc giả Anh ngữ lúc đầu chỉ được biết tác phẩm này như là một tài liệu mang tính xã hội của một nước Nga đầu thế kỷ 19. Tới năm 1942, đúng một trăm năm sau khi tác phẩm được ra mắt lần đầu tiên, độc giả Anh ngữ mới được đọc một bản dịch tiếng Anh hoàn chỉnh của tác phẩm này qua bản dịch của Bernard Guibert Guerney, khi đó họ mới nhận ra tầm vóc khổng lồ của Gogol, sự sáng tạo về ngôn ngữ, và tính chất hư cấu đầy mộng mị của ông.
Nội dung
Tác phẩm thuật lại những chuyến phiêu lưu phi lý, đầy kỳ công của Chichikov, một người trẻ tuổi thuộc tầng lớp trung lưu của xã hội. Chichikov đi khắp nước Nga để mua những tá điền, những nô lệ đã chết nhưng chủ đất chưa khai báo, chưa xoá tên trong sổ với mục đích cầm cố, vay tiền nhà nước và bịp người khác. Tập truyện miêu tả đủ các loại địa chủ, nói chung đều nhàn rỗi, lười biếng, tham lam, bóc lột nông dân một cách hết sức dã man.Ý nghĩa
Tập đầu Những linh hồn chết dựng lên cả một bức tranh rộng lớn về nước Nga dưới chế độ nông nô. Các địa chủ do Gogol sáng tạo trong cuốn sách này đều trở nên những điển hình bất hủ. Những linh hồn chết là một sự cáo trạng lên án và chống lại các giai cấp bóc lột thống trị. Cùng với lòng căm thù đối với các địa chủ là nhiệt tình của tác giả đối với tổ quốc, lòng tin tưởng vào tương lai dân tộc, ước mong một đời sống tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Với một lối văn điêu luyện và cách sử dụng ngôn ngữ tài tình, Những linh hồn chết được xem là một bản trường ca mặc dầu viết bằng văn xuôi.Theo quan điểm mácxít, trên cuốn Từ điển Văn học:
Bản dịch tiếng Việt
Những linh hồn chết được dịch ra tiếng Việt với bản dịch của Hoàng Thiếu Sơn, in hai tập năm 1965 tại Nhà xuất bản Văn học, tái bản năm 1993 với tập 1 dày 278 trang, tập 2 378 trang khổ 19 cm.Chuyển thể
Cuốn tiểu thuyết được chuyển thể sang sân khấu kịch, opera, và phim, trong đó có bản phim năm 1960 (Leonid Trauberg đạo diễn) và năm 1984 (Mikhail Schweitzer đạo diễn)- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 07:28 ngày 2 tháng 4 năm 2015.
Puskin và Gogol - hai kiểu sáng tác trong văn học Nga
Trong
lịch sử văn học, các trường phái, các kiểu sáng tác thường chối bỏ cái
trước nó, miệt thị cái khác mình. Trường hợp Gogol không phải như vậy.
Bài báo nổi tiếng Đôi lời về Puskin[1] chứng
tỏ ông đã bị thiên tài của nhà thơ chinh phục. Gogol hiểu sâu sắc rằng,
với sự xuất hiện của Puskin, thơ ca Nga không còn là thứ cây bứng từ
Châu Âu, nó đã trở thành thứ cây trồng bản địa[2]. Giã từ những “trạng thái Châu Âu”, nguồn
cảm hứng cho các sáng tác đầu tay nhưng đã rất thành công của mình,
Puskin quay trở về với nước Nga, với nhân dân Nga. Sự quay trở lại này
thể hiện trong bài thơ Phục sinh, nơi nhà thơ nói về “tâm hồn bị đoạ đầy” của mình, những giác ngộ kì diệu của những ngày đầu trong trắng thần tiên. Với Puskin, tính nhân dân, tính dân tộc không chỉ là mộtphẩm chất, mà còn là một điều kiện bắt buộc đối với tác phẩm văn chương đích thực. Đọc những sáng tác của Puskin thời kì này, Gogol thừa nhận rằng “Khi
nhắc đến Puskin lập tức ta nghĩ đó là nhà thơ dân tộc. Trên thực tế
không một ai trong số các nhà thơ của chúng ta có thể xứng đáng hơn ông
mang danh hiệu đó. Tính dân tộc không phải ở chỗ miêu tả bộ xaraphan, mà
ở tâm hồn nhân dân. Nhà thơ mang tính dân tộc ngay cả những khi miêu tả
những sự vật bình thường nhất, nhưng ông nhìn sự vật ấy bằng con mắt
của đồng bào mình”[3].
Nếu như trước Puskin, Karamzin đã thành công trong việc “trang điểm cho
người Nga”, đặt trước họ tấm gương thần của bà hoàng hậu, mẹ ghẻ độc ác
của nàng Bạch Tuyết, để lúc nào họ cũng thấy mình đẹp nhất thiên hạ,
thì Puskin đã chỉ ra vẻ đẹp thật, không phải là hình thức, mà ở tâm hồn
họ. Ông đã đập vỡ chiếc gương thần của Karamdin, chỉ cho người Nga thấy
khuôn mặt thật của mình. Song điều đó không quan trọng bằng ông tìm đến
thế giới bên trong của họ, đã khám phá ra tâm hồn của họ. Đó là công lao
của ông. Cùng với công cuộc Cải Cách vĩ đại của Pietr Đại Đế, Puskin đã
làm cho nước Nga trở thành một dân tộc, hòa
nhập vào văn minh Châu Âu, bởi vì, nói theo Belinski, một đất nước
không sản sinh ra được các nhà thơ của mình, đất nước đó không đáng gọi
là dân tộc. Vinh dự lắm cũng chỉ được coi là bộ lạc mà thôi[4].
Đọc
bài báo sâu sắc về tư tưởng và đầy thi hứng của Gogol, chúng ta hiểu
thế nào là một thiên tài cảm nhận về sáng tác của một thiên tài. Gogol
thực sự bàng hoàng kinh ngạc trước tài năng nghệ thuật đa dạng của
Puskin, tìm thấy ở ông người đầu tiên làm cho nước Nga có thơ ca vĩnh
viễn, thơ ca-nghệ thuật, nhìn thấy ở ông tip nhà thơ-nghệ sĩ mà
trước đó ở nước Nga chưa từng xuất hiện, nhà thơ này được tự nhiên ban
phú, “trang bị cho tất cả những bùa mê phép lạ của thi ca nghệ thuật,
nói như người Hilạp, ông đã nắm được thắt lưng của nữ thần Afrodite”
(Belinski). Gogol nhìn thấy tâm hồn Puskin trước hết thuộc về thơ ca
không phải trong sách vở mà là ở thiên nhiên, cuộc sống, khả năng kì diệu của ông biến những những sự vật văn xuôi nhất thành thơ, khả năng “say
đắm tư tưởng như say đắm vật thể tuyệt diệu, sống động mà ông hòa nhập
vào một cách mãnh liệt, - và ông nhận biết nó không phải bằng đầu óc,
bằng lí trí, bằng tình cảm và cũng không phải bằng một khả năng nào đó
của tâm hồn, mà bằng tất cả bản thể đạo đức toàn vẹn nhất, đầy đủ nhất
của mình, - chính vì vậy tư tưởng trong tác phẩm của ông không phải là
những suy nghĩ trừu tượng, không phải là hình thức chết cứng, mà là vật
thể sống, trong đó không có sự chắp vá, hàn gắn, - không có ranh giới
giữa nội dung và hình thức, chúng đã tạo thành một cơ thể hoàn chỉnh, thống nhất. Tư tưởng được sinh ra từ trí tuệ; nhưng cơ thể sống được sinh ra không phải bằng lí trí, mà là tình yêu”[5]. Với Puskin, thơ ca không còn là một công cụ, không phải thứ “phấn màu dùng để trang điểm cho bộ mặt nhợt nhạt già nua của bà già chân lí” như trong loại thơ giáo huấn, minh hoạ. Thơ ca của ông là một cơ thể sống. Chất thơ, chất nghệ thuật, nghệ sĩ là
đặc điểm nổi bật trong thơ Puskin, bằng điều đó chúng ta có thể đoán
được bí mật bản chất sáng tác của ông, cảm hứng xuyên xuốt toàn bộ thơ
ca của ông. Gôgôn cũng đã nói “Thơ
của Puskin là những bức tranh tuyệt vời cảnh sắc thiên nhiên Nga... Ở
đây không có lời hùng biện. Chỉ có thơ: lời ít nhưng chính xác và nói
lên tất cả. Những bài thơ đó buộc ta phải đọc đi đọc lại, điều không thể
có được ở trong một tác phẩm lúc nào cũng chăm chắm độc mỗi việc là phô
ra tư tưởng chủ đạo của mình”[6].
Có
thể nói, ngoại trừ Belinski, Gogol là một trong số rất ít người đương
thời có thể hiểu thấu bản chất sáng tạo của Puskin, và cũng có thể chính
vì vậy mà ông đã không đi theo con đường Puskin đã khai phá, bởi vì ông
hiểu rằng “Puskin là một hiện tượng
đặc biệt, có thể nói, duy nhất của tinh thần Nga: đó là người Nga trong
sự phát triển của nó, người Nga này, có thể, chỉ xuất hiện sau hai trăm
năm nữa”[7],
một hiện tượng không thể với tới được, với tư cách là nhà thơ-nghệ sĩ.
Mặt khác, Gogol đã phải đau khổ thừa nhận rằng tip nhà thơ-nghệ sĩ mà
ông trời, trong cơn hào phóng hiếm hoi, đã ban tặng cho nước Nga, lại
chỉ có thể giành cho “nước Nga trong tương lai”. Nước Nga của Puskin vừa
mới biết đọc sách, nước Nga mà đám đông độc giả “chỉ
có thể hiểu được những đường nét dữ dội, to tát, giống như mấy vị
trưởng giả quê mùa quen ăn những món chém to kho mặn của đám đầu bếp
nông nô”[8]làm
sao có thể hiểu được những bài thơ tinh tế lời ít ý nhiều của Puskin.
Và cũng không chỉ đám đông, ngay cả phê bình đương thời cũng không với
tới được những tác phẩm của ông, nhất là những tác phẩm cuối đời và
Gogol cay đắng thừa nhận “một sự
thật không thể bác bỏ, rằng một khi nhà thơ càng trở thành nhà thơ, càng
thể hiện những cảm xúc chỉ có ở những nhà thơ thì đám đông người đọc
càng thu hẹp lại, tới một lúc nào đó, những người thực sự đánh giá được
nhà thơ chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay”[9].
Mà nước Nga, người đã chiến thắng Napoleong hùng mạnh, người dám đưa
những đứa con ưu tú nhất của mình, những chiến sĩ Tháng Chạp đương đầu
với thế lực tàn bạo của chuyên chế Sa hoàng để giành lấy Tự do và Dân
chủ, nước Nga của mugic và nông nô lúc này lại đang rất cần những nhà
thơ nói to, nói rõ, nói dễ hiểu về những vấn đề nóng bỏng của thời đại,
cần nhà văn bằng sáng tác của mình chỉ thẳng cho người Nga thấy được cái
thực trạng sống khủng khiếp của họ. Gogol hiểu rõ những mâu thuẫn và ảo
tưởng của Belinski, với tư cách là nhà khai sáng, nhà cách mạng dân chủ
và người đứng đầu trường phái phê bình mĩ học Nga, khi ông nhận xét rằng Puskin, với tư cách là nhà tư tưởng, yếu hơn Puskin, với tư cách là nghệ sĩ “vì
thơ ca của Puskin chủ yếu thể hiện sự chiêm ngưỡng thế giới bằng thi ca
và bởi nó thừa nhận thực trạng thế giơí này, nếu như không phải lúc nào
cũng dễ chịu, thì bao giờ cũng là sáng suốt và cần thiết - bởi vậy nó
được phân biệt bởi tính cảm quan, hơn là tính phản xạ (refletion - ND),
thể hiện trước hết là cảm quan hơn là tư tưởng... tác phẩm của Puskin
đau khổ một cách sâu sắc trước mâu thuẫn và nghịch lí của cuộc đời,
nhưng nó tiếp nhận chúng với sự tự phủ định nào đó (resignation - ND),
dường như nó công nhận sựkhông tránh khỏi của số phận và không tiếp nhận
vào tâm hồn mình lí tưởng của một thực tiễn tốt đẹp hơn và niềm tin vào
khả năng có thể thực hiện được lí tưởng đó”[10]. Bằng cảm quan tự nhiên của một nghệ sĩ thiên tài, Puskin đã nhận chân bản chất mâu thuẫn giữa thi ca và quyền lực.
Vẫn biết rằng Tượng đài thi ca vĩnh viễn vươn cao hơn trụ đài
Alecxander Đại đế, “Cái đẹp cứu vãn thế giới” (Dostoevki), nhưng thi ca
chỉ “buồn, cô đơn và đau trước cuộc đời bạo tàn, nhố nhăng, ồn ĩ”
(thơ Puskin). Belinski không muốn Puskin dừng lại ở đó, chấp nhận quy
luật tất yếu của xã hội. Ông muốn nhà thơ không chỉ “thừa nhận thế giới,
mà còn cải tạo nó”. Ông đòi hỏi nhà thơ vừa phải là Gớt của nước Nga,
vừa là nhà thơ-chiến sĩ theo tinh thần những người Tháng Chạp, vừa là kẻ
tuẫn đạo, tìm đường, hướng dẫn đạo đức tinh thần cho nước Nga, thơ của
ông phải là sự kết hợp giữa nghệ thuật chuyên nghiệp với tính tư tưởng
cao cả, tính chính luận sắc bén, tính khai sáng rõ ràng. Có nghĩa ông
phải viết được những tác phẩm giống như những “cú huých của thượng đế”
để thức tỉnh giấc ngủ mùa đông của con gấu Nga. Gogol hiểu rõ rằng, để
làm được điều này, bên cạnh tài năng vĩ đại của Puskin phải có kiểu sáng
tác khác, phù hợp hơn với yêu cầu của cuộc sống hiện tại. Về phía mình,
Puskin, một người gần gũi và mang tư tưởng của các nhà cách mạng tháng
Chạp, không thể không thấy được hạt nhân hợp lí trong nhận xét, đòi hỏi
của Belinski. Ông đã nghĩ đến những tác phẩm kiểu Quan thanh tra, Những linh hồn chết,
nhưng ngay lập tức hiểu rằng việc đó chỉ phù hợp với bản chất sáng tác
của Gogol, người mà ông sớm nhận ra sẽ đem lại vinh quang cho đất nước
Nga (Ông nói đùa với bạn bè: “Phải thận trọng với anh chàng tiểu Nga này: anh ta sẽ “trấn” tôi đến mức không kịp kêu”
(P. V. Anenkov) - đáng tiếc câu nói này nhiều nhà nghiên cứu, kể cả A.
Platonov hiểu chưa thật chính xác - xem bài báo của Platonov “Puskin và Goroki”, 1936). Ông đã gợi ý cốt truyện Những linh hồn chết cho
Gogol. Hiểu được tư tưởng của ông, Gogol đồng ý và cho ra đời một tác
phẩm, có thể nói, đã đảo lộn toàn bộ nước Nga. Bắt đầu từ đây nước Nga
đã có thêm một thiên tài, nói như Dostoievski, các nhà văn Nga sau này
đều chui ra từ chiếc Áo khoác của Gogol. Xin bổ sung thêm, không chỉ các nhà văn Nga, mà nhiều nhà văn thế giới như A. Camus, F. Kafka cũng vậy.
So
sánh Puskin và Gogol chúng ta có thể đi sâu hơn vào bản chất sáng tác
của họ, thấy được tính chất vĩ đại của thiên tài Puskin, vì chủ nghĩa
hiện thực “dưới dạng cuộc sống” của ông không chỉ sản sinh ra những kiểu
sáng tác giống mình (các nhà văn thuộc “trường phái tự nhiên”), mà còn
làm nảy sinh những cái khác mình, rất khác mình, làm nên bức tranh đa
dạng của nền văn học Nga tồn tại và phát triển trong gần hai thế kỉ qua,
một nền văn học đã chịu ơn văn minh châu Âu, đến lượt mình, đã trả ơn
Châu Âu và nhân loại một cách xứng đáng bằng những nhà văn thiên tài,
bằng nền văn học rực rỡ của mình.
Đặt
sáng tác của Puskin và Gogol bên cạnh nhau ta thấy chúng như hai thế
giới đối chọi nhau: một bên là thiên nhiên, cuộc sống, màu sắc, ánh
sáng, mùi vị, một bên lạnh lẽo, nhợt nhạt, xám xịt, chết chóc. Puskin
phong phú đa dạng, đầy tràn sức sống, tương phản với Gogol, người hoạt
động chỉ có hai hướng: trữ tình căng thẳng, phi cụ thể, không sự vật,
bay bổng lên cao, và sự châm biếm tất cả mọi thứ nằm ở phía dưới (trong Những linh hồn chết” đặc điểm này thể hiện rất rõ).
Sáng
tác của Puskin là dòng chảy của cuộc sống. Tất cả những gì sống động,
dù bình thường nhất, cũng đều hấp dẫn ông, là nguồn cảm hứng cho thơ
ông. Những bài thơ ngắn, những bản trường ca hay văn xuôi của ông như
những bức tranh của trường phái ấn tượng, trong đó ta cảm nhận được
chuyển động của mọi vật, thậm chí cả không khí và ánh sáng:
Thiên nhiên vàng úa bỗng tươi
Rừng thay áo mới, cả trời vàng au
Ồn ào hơi gió thổi mau
Bầu trời gợn sóng như mầu khói sương
Vài tia nắng hiếm nhớ thương
Sợ mùa đông sớm quen đường đến nhanh
(Thu vàng. Hồ Quốc Vĩ dịch)
Những vần thơ tuyệt đẹp khác nào cuốn phim màu đang quay trước mắt ta.
Sáng
tác của Gogol không phải là bức tranh, không phải cuốn phim, mà là tấm
khảm ghép các từ ngữ, những hình ảnh, cái này nối tiếp cái kia trong đó
không có sự chuyển động, không có sự sống. Tất cả đều được đưa lên cận
cảnh trong trạng thái chết cứng (Quan thanh tra),
những khuôn mặt, hình người được đặc tả bằng những tấm gương dị hình,
đã bị biến dạng, trở nên gớm ghiếc, nhưng sự gớm giếc không phải của tự
nhiên, mà là của những hình nộm (Những linh hồn chết), còn trong thế giới ma quái (Vi),
con người xấu xí như ma quỷ, còn ma qủy lại đội lốt cô gái trẻ đẹp đang
cố hết sức phá vòng phù phép để hòa nhập vào thế giới người sống. Cuối
cùng thế giới này chật ních những người và ma lẫn lộn với nhau.
Thế giới Puskin và thế giới Gôgôn có những tác động khác nhau lên tâm hồn người đọc. Chúng ta hãy so sánh những tác phẩm:Quan thanh tra, Những linh hồn chết, với Người con gái viên đại uý và Evgieni Onegin.
Muốn hay không chúng ta cũng phải thừa nhận rằng Rozanov đã đúng khi
đưa ra nhận xét: ấn tượng sau khi đọc Puskin không vững bền như chúng ta
vẫn tưởng. Từng từ của ông, từng cảnh ông miêu tả, giống như những đợt
sóng đập vào tâm hồn ta, làm cho nó trở nên trong sáng hơn, rồi lại rút
đi: đường nét mà nó đưa vào trong ta khép lại và lớn dần lên. Ngược lại,
đường nét mà những tác phẩm Gôgol tạo nên trong chúng ta không hề biến
đổi: nó như đóng đinh vào trí não ta, không lớn lên, không nhỏ đi, được
tạo ra như thế nào thì vĩnh viễn còn lại như vậy[11].
Cho dù chúng ta đọc chỉ một lần và đọc từ rất lâu nhưng chúng ta không
sao quên được khuôn mặt, cử chỉ, việc làm của Korobochka, Tsitsikov hay
Sobakevich, kẻ cố tình nhầm lẫn đưa ra danh sách những người chết. Nhưng
để nhớ được cái gì đã xảy ra với Gecman trong khi chơi bài hay Evgeni
“thất tình” ra sao, thì chúng ta lại phải giở Con đầm Pich và Evgeni Onegin ra xem lại. Điều lạ lùng đó có thể lí giải nếu so sánh tính trữ tình độc đáo, tính “sinh sôi”, tính chất “mở” cho sự liên tưởng, cho sự tưởng tượng, sự tiếp nối trong từng tác phẩm của Puskin và tính đơn điệu không dứt của Những linh hồn chết.
Yêu qúy Tachiana, bạn đọc mong muốn nàng có hạnh phúc, lấy được người
mình yêu, tưởng tượng tiếp cái kết cuối mà Puskin còn bỏ ngỏ, có thể để
Onegin lại lang thang đâu đó một thời gian, khi quay trở lại nàng đã trở
thành quả phụ (chẳng hạn), chàng lại quỳ xuống cầu xin tình yêu của
nàng. Lần này thì nàng ưng thuận, thế là họ tác thành đôi lứa (Nếu có
thế thật thì câu chuyện tình này sẽ giảm đến 50% chất thơ và hình ảnh
Tachiana sẽ không còn ở trong lòng mọi người như nàng vẫn hằng tồn tại.
Dostoevski đã giải thích rất hay về điều này, xin đọc bài báo nổi tiếng
của ông về Puskin, năm 1880). Còn chàng sĩ quan đáng yêu, tên kẻ cướp
đáng sợ và cao thượng Dubrovski sẽ sống ra sao cho đến hết cuộc đời nếu
thiếu nàng Masa xinh đẹp, dịu dàng, hiện thân của Tatiana trong cách
giải quyết sự việc. Liệu họ còn có thể gặp lại được nhau không? Và tại
sao, tại sao những con người trẻ trung đẹp đẽ cả về thể xác lẫn tâm hồn
này lại toàn gặp những kết cục bi thảm vậy? - mặc sức cho bạn đọc tưởng
tượng, nghĩ suy... Còn trong Những linh hồn chết -
bức khảm ghép - hoàn toàn không có một người sống nào. Một thế giới
đóng kín không có một kẽ hở cho sự liên tưởng, tiếp nối, trong đó chỉ có
những hình nhân bé tí nặn bằng sáp, nhưng chúng được nặn khéo tới mức
mà nhìn vào những nếp nhăn trên mặt chúng, ta có cảm giác như chúng đang
động đậy. Những hình người này hệt như những con rối, chúng chuyển động
chân tay được là nhờ sự điều khiển của tác giả đứng ở đằng sau. Tuy
nhiên, vấn đề không phải ở chỗ chúng là những con con rối vô nghĩa. Sự
vô nghĩa ở đây bắt nguồn từ sự chết chóc. Chúng ta hãy nhớ lại Pliuskin.
Nhân vật này rất độc đáo, một gã keo kiệt đê tiện, bỏ đói nông nô,
nhưng chính hắn cũng chẳng dám ăn uống gì. Tuy nhiên, tính độc đáo của
nhân vật này không phải ở chỗ nó được nghĩ ra, mà ở cái cách nó được tạo ra. Thử đặt bên cạnh nó Chàng hiệp sĩ keo kiệt của
Puskin, con người vô cùng keo bẩn, tham lam, tàn ác, nhưng đồng thời
lại cũng rất hiểu biết về thi ca, nghệ thuật, tội lỗi, và đối với tất cả
những cái đó hắn đều thể hiện khát vọng mãnh liệt của mình. Có thể sợ
hãi hắn, căm thù hắn, nhưng không thể không kính trọng hắn: hắn là một
con người. Còn Pliuskin, chả lẽ Y là một con người? Và cả những người
xung quanh Y nữa. Tất cả bọn họ, giống như Pliuskin, được tạo ra một
cách đặc biệt, chúng được làm từ một thứ ngôn ngữ sáp nặn, chứ không
phải bằng con đường tự nhiên. Chúng ta hãy lắng nghe chúng “đối thoại”
với nhau ngay khi mở trang đầu cuốn sách: “Này, nhìn kìa - gã đàn ông nói với người bên cạnh -, bánh xe ra bánh xe, liệu nó có lăn đến được Mactưkhoa không nhỉ? - Đến được - gã nọ trả lời - Thế có đến được Kazan không? - Không đến được Kazan” (...).
Trong
đêm tối huyện lỵ, hai cái giọng nhát gừng, tẻ nhạt và miễn cưỡng ấy nói
chuyện với nhau như những bóng ma. Và cho dù chúng ta mở bất cứ trang
sách nào, xem bất kì cảnh tượng buồn cười nào trong Những linh hồn chết chúng
ta cũng luôn bắt gặp cái lớp lang ngôn ngữ đã chết đó. Giống như tấm
vải liệm, nó cuộn tất cả những xác chết vào mình. Với cách được tạo ra
như vậy, những tip người mà Gogol tạo ra, gặp một lần là nhớ mãi.
Belinski
nói rằng, với sáng tác của Gogol, nghệ thuật phải được định nghĩa lại:
nó không phải là một thứ thiên nhiên “được trang trí “, đó là “sự tái
tạo thực tiễn với tất cả sự thật của nó. Tất cả vấn đề nằm ở trong các tip, còn tư tưởng thì được hiểu không phải như một thứ trang sức (tức là sự giả tạo), mà là các mối liên hệ, trong đó tác giả xếp đặt các tip do mình tạo ra sao cho phù hợp với ý đồmà ông muốn phát triển bằng tác phẩm của mình”[12].
Belinski không bao giờ nói như vậy về sáng tác của Puskin. Sáng tác của
Puskin là cơ sở để ông đưa ra quan điểm nổi tiếng, chưa ai vượt qua, về cảm hứng sáng tạo nghệ thuật (pathos), trong đó ông không một lần nhắc đến tip nhân vật hay tip tư tưởng của Puskin. Là người sáng lập ra trường phái tự nhiên,
Puskin luôn phản ánh chân thực bản chất con người, số phận của nó.
Không có sự ráo riết căng thẳng. Không có những tư tưởng thái qúa, bệnh
hoạn hay những xúc cảm lệch lạc. Chính vì thế mà cá tính các nhân vật
của ông không cho phép tạo thành các tip được. Tip trong
văn học, nói như Rozanov “là một khuyết tật. Đó là khái quát, tức là có
những biến đổi, cho dù rất khó nhận biết. Con người không xếp vào các
tip, họ sống trong thực tiễn và mỗi một con người có đời sống, mục đích,
ý nghĩa riêng của mình. Chính tính không hòa nhập, lẫn lộn với bất kì
người nào khác đã làm cho con người phân biệt với những cái khác trong
tự nhiên, nơi chúng được khái quát thành những giống, những dạng”[13].
Nghệ thuật đã không động chạm tới đặc tính qúy giá cơ bản đó của con
người trong sáng tác của Puskin. Thơ ca của ông soi rọi cuộc sống, làm
cho nó ấm áp, không làm biến dạng nó, không xuyên tạc nó, không đi chệch
ra khỏi con đường đã có sẵn trong bản chất sống động của con người. Ông
không tạo ra một thế giới khác cao hơn cuộc đời mà chúng ta đang sống.
Tìm hiểu về con người ông, đọc sách của ông, chúng ta cảm nhận trong
sạch hơn, sống tốt hơn, nhưng không hề bị ngột ngạt, căng thẳng bởi
những cái khác thường, dị dạng áp đặt lên mình. Yêu thích thơ ông, đọc
tác phẩm ông chúng ta vẫn còn là mình.
Tất cả những điều đó làm cho thơ của ông, như một thứ “thuốc nam” làm
từ tự nhiên, cây cỏ, có tác dụng ngấm dần, dài lâu, trở thành lí tưởng
của sự phát triển tự nhiên, bình thường, lành mạnh. Trong thơ ông chứa
đựng những khuynh hướng, mà theo nó, cuộc đời dù có thay đổi và trở nên
phức tạp đến thế nào thì thơ ca cũng không bị mất phương hướng, nếu
không nói trở nên đầy đủ hơn, đa dạng hơn và sâu sắc hơn.
Nhưng
nghệ thuật đã động chạm tới đặc tính đó của con người trong sáng tác
của Gogol. Các nhân vật (đúng ra nên gọi là các hình người) trong các
tác phẩm của ông được tạo thành các tip.
Chúng được phóng to ra, ngoa dụ lên, dị dạng và buồn cười. Chúng ta
kinh tởm, riễu cợt chúng, nhưng lập tức nhận ra rằng chúng ta đang sống
chung với chúng - những linh hồn chết,
và, có thể, trong mỗi chúng ta, đâu đó, mang những sắc thái, bóng hình
của chúng. Những nhân vật yêu qúy của Puskin, những người có tâm hồn, tư
tưởng, có nhiệt huyết muốn thay đổi một cái gì đó cho xã hội, cộng
đồng, đã phải buông xuôi, không biết chạy trốn vào đâu khỏi những xác
chết lang thang đó, ngoài việc nhập vào những Đoàn người Tsưgan,
tìm đến thiên nhiên hoang dã, tìm tới tình yêu lí tưởng. Nhưng đến khi
cái ảo tưởng giải thoát ấy bị vỡ tan, họ chỉ còn mỗi một cách là phải
đương đầu với cái thế giới Những linh hồn chết, thế giới Vi ma
quái đó, bắt đầu bằng sự đương đầu với chất Pliuskin, Sobakevich trong
chính bản thân mình. Những tác phẩm của Gogol là những liều thuốc tây
cực mạnh, đúng hơn, là cuộc đại phẫu thuật tài tình mà bác sĩ sát trùng,
mỗ sẻ không chỉ một bộ phận, mà là toàn cơ thể. Đau đớn khủng khiếp.
Nhưng người Nga chịu được. Họ là nòi giống khỏe mạnh về thể chất và tinh
thần. Và vì bên cạnh họ còn có Puskin, một người hiểu được tất cả, nên
yêu thương tất cả. Và “vì yêu thương tất cả nên chịu đựng được tất cả”[14].
Nhưng
bên cạnh Gogôn không có ai. Ông là thiên tài cô độc giữa thế giới này.
Cái thế giới mà ông nắm trong tay, lộn trái nó ra, chường ra ánh sáng
những mảng tối đen đầy mùi xác chết của nó. Nhưng cũng chính cái thế
giới đó đã làm thương tổn sâu sắc tới tâm hồn nghệ sĩ vốn thiên về cái
Đẹp, cái Cao Cả của ông. Nó làm ông phát điên, kinh hãi chính bản thân
mình. Ông đã đốt đi bản thảo những chương cuối của Những linh hồn chết -
thiên trường ca bất hủ và ghê gớm, tự hủy diệt tài năng của mình, tưởng
rằng bằng điều đó làm cho thế giới trở nên tốt đẹp hơn. Ông đã chết.
Không có ai, không còn cái gì có thể cứu nổi ông, kể cả những giòng trữ
tình bay bổng trên cao...
Những
người đọc và các nhà phê bình cực đoan hay đánh giá sáng tác của các
nhà văn, nhà thơ theo sở thích cá nhân của mình. Họ đối lập Puskin và
Gogol. Nhưng chúng ta sẽ không thể hình dung được văn học Nga có Puskin
mà lại thiếu Gogol, có L. Tolstoi, Tsekhov mà lại thiếu Dostoevski, có
Esenin, Pasternak mà lại thiếu Blok, Maiakovski, có Bunin, Kuprin,
Goroki mà lại thiếu Zamiatin, Bulgakov và Platonov... đó là muôn mặt của
thế giới rộng lớn, một cơ thể sống trẻ trung và phát triển, đó là nền
văn học vĩ đại Nga.
Đào Tuấn ẢnhTrường ca "NHỮNG LINH HỒN CHẾT" - Nhikolay Gogol
Trường ca 2 tập Những linh hồn chết do Nhà xuất bản Văn học Hà nội xuất bản năm 1965 - dịch giả Hoàng Thiếu Sơn.
Bìa Những linh hồn chết do chính nhà văn Gogol vẽ cho lần tái bản năm 1846.
Những linh hồn chết của Gogol là một cuốn sách kỳ diệu, một lời trách cứ với nước Nga đương thời, tuy chua cay mà không tuyệt vọng. Ở đâu mà tầm mắt có thể nhìn xuyên qua đám sương mù sặc mùi...là nhà văn nhận ra ngay trong đó tính dân tộc với một sức tin tưởng gan dạ, mãnh liệt. Những bức truyền thần của nhà văn thật hoàn mỹ tới mức kỳ diệu; sức sống được bảo tồn trong đó thật dồi dào; không có điển hình nào trừu tượng cả, chỉ có những con người chân chính xác thực mà mỗi người chúng ta đã từng gặp tới trăm lần.
Gertxen
Bìa Những linh hồn chết do chính nhà văn Gogol vẽ cho lần tái bản năm 1846.
Những linh hồn chết của Gogol là một cuốn sách kỳ diệu, một lời trách cứ với nước Nga đương thời, tuy chua cay mà không tuyệt vọng. Ở đâu mà tầm mắt có thể nhìn xuyên qua đám sương mù sặc mùi...là nhà văn nhận ra ngay trong đó tính dân tộc với một sức tin tưởng gan dạ, mãnh liệt. Những bức truyền thần của nhà văn thật hoàn mỹ tới mức kỳ diệu; sức sống được bảo tồn trong đó thật dồi dào; không có điển hình nào trừu tượng cả, chỉ có những con người chân chính xác thực mà mỗi người chúng ta đã từng gặp tới trăm lần.
Gertxen
__________________
Ласковый Май
Ласковый Май
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét