Chuyển đến nội dung chính

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH MỞ NƯỚC, DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT 9

 (ĐC sưu tầm trên NET)


Thời kì tự chủ Việt Nam (905 - 938)

Khúc Thừa Mỹ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Khúc Thừa Mỹ (chữ Hán: 曲承美; trị vì: 917-923 hoặc 917-930) là người làng Cúc Bồ đất Hồng Châu (nay là xã Kiến Quốc huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương), con của Khúc Hạo . Ông là vị Tiết độ sứ thứ ba trong thời kỳ tự chủ của họ Khúc trong lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ 10.

Làm "khuyến hiếu sứ"

Là người được chọn kế tục Khúc Hạo, khi Khúc Thừa Mỹ chưa lên ngôi, nguy cơ xâm lăng từ phương Bắc bắt đầu hình thành. Tháng 9 năm 917, Tiết độ sứ Quảng Châu là Lưu Nghiễm, người được nối chức anh là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ" từ năm 911 đã tỏ rõ tham vọng chiếm lĩnh Tĩnh Hải quân (tên lãnh thổ Việt Nam lúc đó) khi xưng làm hoàng đế nước Đại Việt tại Quảng Châu, dứt khỏi sự ràng buộc với nhà Hậu Lương, triều đại chính thống cai trị ở Trung nguyên (Trung Quốc) thay thế nhà Đường.
Nhận thấy nguy cơ này, Khúc Hạo đã sai Khúc Thừa Mỹ làm "khuyến hiếu sứ" sang Quảng Châu, bề ngoài là để ‘‘kết mối hoà hiếu’’, song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của địch. Cuối năm 917, khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Ông chính thức lên thay cha làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân.

Thất sách

Trước hành động ngoại giao mềm dẻo của Khúc Hạo, họ Lưu không gây hấn với Tĩnh Hải quân. Sang đầu năm 918, Lưu Nghiễm đổi tên nước là Nam Hán, một trong Mười nước thời Ngũ đại thập quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Theo các nhà nghiên cứu, trong thời gian cầm quyền, Khúc Thừa Mỹ đã sai lầm trong cả chính sách đối nội lẫn đối ngoại.
Về đối nội, theo sử sách, sau khi lên thay cha, Khúc Thừa Mỹ không tiếp tục chính sách "khoan thứ sức dân" mà Khúc Hạo đã áp dụng. Nhân dân tại Tĩnh Hải quân phải lao dịch nặng nề, do đó sự ủng hộ với họ Khúc không còn được như trước.
Về mặt đối ngoại, Khúc Thừa Mỹ chủ trương kết thân với nhà Hậu Lương ở trung nguyên mà gây hấn với nước Nam Hán liền kề. Năm 919, ông sai sứ sang Biện Kinh xin tiết việt của nhà Hậu Lương. Vua Lương là Mạt đế Chu Hữu Trinh, bấy giờ bận đối phó với các nước lớn ở Trung nguyên nên ban Tiết Việt cho Khúc Thừa Mỹ và phong ông làm Tiết độ sứ Giao châu.
Được sự hậu thuẫn của Hậu Lương, Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Lương rộng lớn ở Trung nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn ở Quảng Châu. Ông công khai gọi nước Nam Hán là "ngụy đình" (triều đình tiếm ngôi, không chính thống). Sử không chép rõ biểu hiện cụ thể của việc này ra sao, không rõ ông tuyên bố việc này với sứ giả Nam Hán sang Tĩnh Hải quân hay theo như một tài liệu nói rằng ông sai sứ sang Nam Hán tỏ thái độ bất phục và gọi vua Hán là "ngụy đình".
Chính sách đối ngoại đó của Khúc Thừa Mỹ khiến vua Nam Hán tức giận và quyết định sai Lý Khắc Chính cầm quân sang đánh chiếm Tĩnh Hải quân.
Do mất sự ủng hộ của nhân dân trong nước, nhà Hậu Lương thừa nhận ông cũng sắp bị diệt vong về tay nước Tấn (Lý Tồn Húc - Hậu Đường Trang Tông) lại ở quá xa càng không thể hỗ trợ được gì, Khúc Thừa Mỹ đơn độc và bị thua trận. Ông bị quân Nam Hán bắt đưa về Phiên Ngung. Vua Hán cử Lý Tiến làm thứ sử Giao Châu.
Dù ông không có đóng góp gì đáng kể nhưng đời sau nhớ ơn công lao của ôngcha Khúc Thừa Mỹ nên vẫn tôn ông là "Khúc Hậu chủ".

Thời gian và sự kiện

Nam Hán xâm lược

Sử sách chép không thống nhất về thời gian Nam Hán xâm lược Tĩnh Hải quân. Hai sách cổ sử Việt Nam là Đại Việt Sử ký Toàn thư và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục chép thời gian này là tháng 7 âm lịch năm 923, tức là 3 tháng trước khi nhà Hậu Lương mất. Sách Việt Nam sử lược cũng lấy năm 923.
Các sách sử Việt Nam hiện đại căn cứ vào các sách sử cổ của Trung Quốc như Tư trị Thông giám (ra đời thời nhà Tống) và Tân Ngũ Đại sử đều ghi năm 930. Hai cuốn sử cổ này của Trung Quốc đều ra đời trước các sách Đại Việt Sử ký Toàn thư và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục của Việt Nam nên được các nhà sử học Việt Nam coi là nguồn thông tin đáng tin cậy hơn. Trong các sách sử cổ của Việt Nam chỉ có Việt sử tiêu án cũng chép gián tiếp năm 930 là năm họ Khúc mất (Việt sử Tiêu án tính họ Khúc từ năm 880 tới năm 930 là 51 năm). Các nhà sử học hiện nay khi chú giải sách Đại Việt Sử ký Toàn thư cũng đưa ra câu hỏi không rõ sách này và Khâm định Việt sử Thông giám cương mục căn cứ vào đâu để ghi Nam Hán bắt Khúc Thừa Mỹ là năm 923.
Tính từ Khúc Thừa Dụ đến Khúc Thừa Mỹ, họ Khúc cầm quyền được 3 đời. Theo thuyết thứ nhất, họ Khúc cầm quyền 18 năm (905-923). Theo thuyết thứ hai, họ Khúc cầm quyền 26 năm (905-930). Sách Việt Sử tiêu án tính tổng thời gian họ Khúc là 51 năm (tính từ năm 880 khi Tăng Cổn bỏ thành Đại La) chưa chính xác vì sau Tăng Cổn còn một số Tiết độ sứ nữa ở phương bắc như Chu Toàn Dục, Độc Cô Tổn sang cầm quyền.

Kết cục của Khúc Thừa Mỹ

Kết cục của Khúc Thừa Mỹ cũng không được sử chép rõ. Sách Việt sử tiêu án ghi rằng:
Khi Thừa Mỹ bị bắt, vua Hán thân ra đình Nghi Phượng nhận tù binh, hỏi rằng: "Ngươi cho ta là nguỵ đình, nay lại bị trói đưa về đây là cớ sao?" Thừa Mỹ cúi đầu chịu phục, bèn được tha.
Sau đó, sử không nói rõ ông mất năm nào, tại đâu. Theo Thiên nam ngữ lục, bản diễn nôm bằng thơ lục bát về lịch sử Việt Nam thì sau này (năm 937), khi giết Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn viện cớ rằng chính Đình Nghệ là người gây ra cái chết của Khúc Thừa Mỹ, chúa cũ của Tĩnh Hải quân, do đó Công Tiễn trả thù cho chủ nên mới giết Đình Nghệ. Dù sao, lý do này của Tiễn bị mọi người coi là nguỵ biện nên Tiễn lập tức bị cô lập và nhanh chóng bị giết chết khi Ngô Quyền ra bắc. Thông tin từ Thiên nam ngữ lục có thể suy đoán về cái chết của Khúc Thừa Mỹ là do sự khởi binh đánh quân Nam Hán của Dương Đình Nghệ năm 931 khiến vua Nam Hán mang ông ra sát hại khi ông đang bị quản thúc ở Quảng Châu. Tuy nhiên, Thiên nam ngữ lục cũng chỉ là bản diễn ca, không được coi là chính sử.

Dương Đình Nghệ

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Dương Đình Nghệ (chữ Hán: 楊廷藝), có sách chép là Dương Diên Nghệ (楊延藝, ?-937), người Ái châu, làm tướng cho Khúc Hạo. Đời Hậu Lương, Lưu Nghiễm của nước Nam Hán tiếm hiệu vua ở đất Quảng Châu, lấy cớ Khúc Hạo chiếm cứ đất Giao Châu, sai Lý Khắc Chính và Lý Tri Thuận đánh chiếm Giao Châu. Con trai Khúc Hạo là Khúc Thừa Mĩ bị bắt. Dương Đình Nghệ dấy binh đánh bại Lý Khắc Chính. Vua Nam Hán cho Lý Tiến thay làm Thứ sử Giao Châu, Dương Đình Nghệ lại vây hãm. Vua Nam Hán sai Trần Bảo đem quân cứu Lý Tiến, Dương Đình Nghệ đón đánh chém Trần Bảo, giữ thành, xưng là Tiết độ sứ. Được 8 năm, Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn làm phản, giết chết lên thay.

Sự nghiệp

Bối cảnh

Phía Bắc nước Việt tồn tại 2 nước lớn là nhà Nam Hán và nhà Lương. Năm 919, Khúc Thừa Mĩ sai sứ sang nhà Lương xin được lĩnh tiết việt, nhà Lương trao cho. Vua Nam Hán cả giận.

Diễn biến

Mùa thu, tháng 7, năm 923 vua Hán sai tướng là Lý Khắc Chính đem quân sang đánh Giao Châu. Lý Khắc Chính bắt được Tiết độ sứ Khúc Thừa Mĩ đem về. Vua Hán phong tước cho Dương Đình Nghệ, cho Lý Tiến làm Thứ Sử Giao-Châu, cùng với Lý Khắc Chính giữ thành 
Năm 931, Dương Đình Nghệ tìm cách báo thù cho họ Khúc, ông nuôi nuôi 3.000 giả tử (con nuôi), đặt ra trường đánh vật, chiêu tập các hào kiệt, lấy đại nghĩa khuyến khích họ 
Lý Tiến lo sợ, sai người cấp báo cho vua Hán, cùng năm ấy, Dương Đình Nghệ đem quân vây Lý Tiến. Vua Hán sai Trần Bảo đem quân sang cứu, nhưng đến nơi thì Dương Đình Nghệ đã hạ được thành. Lý Tiến trốn về nước, Trần Bảo vây thành, Dương Đình Nghệ đem quân ra đánh giết chết Trần Bảo 
Dương Đình Nghệ giữ lấy thành, tự xưng là Tiết độ sứ nhận lĩnh việc châu 

Cái chết

Mùa xuân, tháng 3, năm 937, Dương Đình Nghệ bị nha tướng của mình là Kiều Công Tiễn giết chết. Một nha tướng khác của ông là Ngô Quyền kéo quân từ Ái Châu ra đánh Kiều Công Tiễn. 

Quê hương

Sách An Nam chí lược, Việt sử tiêu án, Đại Việt sử ký toàn thư đều chép Dương Đình Nghệ là người Ái châu. Theo soạn giả Lê Tắc, sách An Nam chí lược, quyển Đệ nhất, Ái châu là phần thuộc Thanh Hóa.
Nam-Giao đời xưa, nhà Chu gọi là Việt-Thường, nhà Tần gọi là Tượng-Quận, nhà Hán đặt làm ba quận: Giao-Châu, Cửu-Chân và Nhật-Nam. Nhà Đường lại cải Giao-Châu làm An-nam phủ, quận Cửu- Chân làm Ái-Châu, quận Nhật-Nam làm Hoan-Châu, tức là La-Thành, Thanh-Hoá và Nghệ-An ngày nay vậy.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú: Thanh Hoa   nguyên trước là đất Tượng Quận, đời Hán gọi là quận Cửu Chân, Lương đặt là châu Ái, Tùy gọi là Cửu Chân, Đường lại đổi là châu Ái. 

Nhận định

Sách An Nam chí lược, quyển Đệ thập cửu chép bài Đồ Chí Ca:
Cuối đời Hàm-Thông Trung-Quốc loạn,
Chuyển-vận đường xa bỏ bê trễ.
Ngô-Quyền, Khúc-Hạo, Kiểu và Dương ,
Soán đoạt giành nhau, dân kiệt quệ.
Họ Đinh, đời Tống mới phong vương,

Tham khảo

  • Việt sử tiêu án, Soạn giả Ngô Thì Sĩ, Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu, Nhà xuất bản: Văn Sử 1991
  • An Nam chí lược, soạn giả Lê Tắc, Nhà xuất bản Viện đại học Huế, 1961.
  • Đại Việt sử ký toàn thư; soạn giả Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên,...Dịch giả Viện sử học Việt Nam; Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà Nội, 1993.
  • Lịch triều hiến chương loại chí, soạn giả Phan Huy Chú, Dịch giả Viện sử học Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục, 2005.

Kiều Công Tiễn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Kiều Công Tiễn (chữ Hán: 矯公羨 hoặc 皎公羨; ?-938) là người Phong châu (Phú Thọ, Việt Nam), là Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ (một chức quan đời nhà Đường) cuối cùng cai trị lãnh thổ Việt Nam trong thời kỳ Tự chủ từ năm 937 đến năm 938. Hậu duệ của ông sau này trở thành 2 trong số 12 sứ quân ở khu vực Phong Châu là Kiều Công HãnKiều Thuận.

Theo họ Dương

Kiều Công Tiễn vốn là hào trưởng Phong Châu (Phú Thọ) từ thời họ Khúc tự chủ. Khi vua Nam Hán xâm chiếm Tĩnh Hải quân (tên gọi Việt Nam lúc đó), bắt Khúc Thừa Mỹ, tướng cũ của họ Khúc là Dương Đình Nghệ tập hợp lực lượng ở Ái châu để chống Hán.
Kiều Công Tiễn đến theo Dương Đình Nghệ và được Dương Đình Nghệ dùng làm gia tướng. Một số tài liệu nói rằng Dương Đình Nghệ nhận tất cả 3.000 tráng sĩ đến đầu quân làm "con nuôi" (nghĩa tử) và Kiều Công Tiễn cũng ở trong số đó.
Năm 931, Kiều Công Tiễn theo Dương Đình Nghệ tiến quân ra Bắc đánh đuổi quân Nam Hán về nước. Dương Đình Nghệ tự xưng là Tiết độ sứ, Tiễn được sai giữ Phong Châu.

Phản họ Dương

Năm 937, Kiều Công Tiễn giết chết Dương Đình Nghệ, nắm lấy quyền bính, tự xưng là Tiết độ sứ. Theo các thần phả, ngay trong hàng ngũ họ Kiều đã có chia rẽ. Con Kiều Công Tiễn là Kiều Công Chuẩn và cháu nội là Kiều Công Hãn không theo Tiễn. Kiều Công Chuẩn mang con nhỏ là Kiều Công Đĩnh về Phong châu, Kiều Công Hãn mang quân vào Ái châu theo Ngô Quyền. Chỉ có một người con khác của Kiều Công Chuẩn là Kiều Thuận theo giúp ông nội.

Bị giết

Một số tướng cũ của Dương Đình Nghệ mà tiêu biểu là Ngô Quyền - con rể Dương Đình Nghệ - quyết tâm tiêu diệt Kiều Công Tiễn. Ngô Quyền đang trấn thủ Ái châu, tập hợp lực lượng ở đó và phát lời kêu gọi mọi người chống Công Tiễn. Các hào trưởng, hào kiệt nhiều nơi như Dương Tam Kha, Đinh Công Trứ, Kiều Công Hãn, Đỗ Cảnh Thạc... về theo. Công Tiễn bị cô lập, sợ hãi cầu cứu vua Nam Hán.
Tháng 4 năm 938, Ngô Quyền mang quân ra Bắc. Theo thần phả thì đạo quân tiên phong do Dương Tam Kha và con trưởng Ngô Quyền là Ngô Xương Ngập chỉ huy. Đạo quân này nhanh chóng hạ thành Đại La, giết chết Kiều Công Tiễn. Khi đó quân Hán chưa kịp đến cứu giúp Tiễn. Công Tiễn xưng Tiết độ sứ chưa đầy 1 năm, không rõ bao nhiêu tuổi.
Theo thần phả, người cháu nội duy nhất ủng hộ ông là Kiều Thuận thoát chết khi thành Đại La bị hạ, bỏ trốn về ẩn náu ở Hồi Hồ (Phú Thọ). Ngô Quyền nể tình anh Kiều Thuận là Kiều Công Hãn có công theo giúp nên không hỏi tới. Sau này khi nhà Ngô suy yếu, Kiều Thuận lại nổi dậy trở thành một sứ quân trong loạn 12 sứ quân và bị Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan.

Ngô Quyền

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Ngô Quyền
Vua Việt Nam (chi tiết...)
Tượng Ngô Quyền.jpg
Tượng Ngô Quyền trong đền thờ ông ở thôn Cam Lâm
Trị vì 939 - 944
Kế nhiệm Dương Bình Vương
Thông tin chung
Vợ Dương hậu
Đỗ phi
Hậu duệ Ngô Xương Ngập
Ngô Xương Văn
Ngô Nam Hưng
Ngô Càn Hưng
Tên húy Ngô Quyền
Triều đại Nhà Ngô
Thân phụ Ngô Mân
Sinh 898
Đường Lâm
Mất 944
Việt Nam
Ngô Quyền (chữ Hán: 吳權, 898 - 944), còn được biết đến với tên gọi Tiền Ngô Vương (前吳王), là vị vua đầu tiên của nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam. Năm 938, ông là người lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức kết thúc hơn một thiên niên kỉ Bắc thuộc, mở ra một thời kì độc lập lâu dài của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì từ năm 939 đến năm 944.
Sinh năm 898 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô tả là bậc anh hùng tuấn kiệt, "có trí dũng" Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường tại Tĩnh Hải quân đang suy yếu và tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại La vào năm 905 và họ Dương vào năm 931. Sau khi trở thành con rể cho Dương Đình Nghệ, ông được tin cậy giao cai quản Ái Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong ChâuKiều Công Tiễn sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành vị Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ cuối cùng trong thời kì Tự chủ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng vào năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược Tĩnh Hải quân của nhà Nam Hán, đồng thời cũng kết thúc thời kì Bắc thuộc của Việt Nam. Năm 939, Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô. Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.
Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua" , là vị Tổ trung hưng  của Việt Nam.

Tiểu sử

Ngô Quyền vốn họ Ngô tên Quyền, sinh năm 898 , người Đường Lâm, đời đời là nhà quý tộc. Cha tên Mân làm chức châu mục ở bản châu.
Khi Ngô Quyền vừa mới sinh có ánh sáng lạ đầy nhà, trạng mạo khác thường, có 3 nốt ruồi ở lưng, thầy tướng cho là lạ, bảo có thể làm chủ một phương, nên mới đặt tên là Quyền. Ngô Quyền lớn lên, khôi ngô, mắt sáng như chớp, dáng đi thong thả như hổ, có trí dũng, sức có thể nâng được vạc.

Sự nghiệp

Bối cảnh

Năm 907, nhà Đường mất, Trung Quốc rối loạn, lúc ấy Lưu Ẩn chiếm cứ Phiên Ngung, Lưu Ẩn chết, con là Lưu Nghiễm kế lập, xưng quốc hiệu Nam Hán, vùng đất thuộc Quảng Đông ngày nay; phần trung tâm của Trung Quốc tồn tại nhà Hậu Lương.
Năm 907, thổ hào Giao Chỉ là Khúc Hạo nổi lên chiếm giữ, xưng là Tiết độ sứ. Khúc Hạo sai con là Khúc Thừa Mỹ làm Hoan hảo sứ sang dò xét nhà Nam Hán. Khúc Hạo chết, Khúc Thừa Mĩ lên thay, cho người sang nhà Lương lĩnh tiết việt, hành động này làm vua Nam Hán tức giận, xua quân chiếm cứ Giao Chỉ. Năm 930, tướng Nam Hán Lý Khắc Chính đem binh đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ, Lý Khắc Chính lưu lại Giao Chỉ.
Một hào trưởng người Ái châu là Dương Đình Nghệ nuôi 3000 con nuôi, mưu đồ khôi phục. Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh đuổi Lý Tiến và quân cứu viện do Trần Bảo chỉ huy, xưng là Tiết độ sứ 
Năm 937, nha tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để thay chức.

Nha tướng cho Dương Đình Nghệ

Ngô Quyền lớn lên làm nha tướng cho Dương Đình Nghệ, được Dương Đình Nghệ gả con gái cho và quyền cai quản Ái châu. 

Trận Bạch Đằng


Trận Bạch Đằng- 938
Năm 938, sau khi Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ; Ngô Quyền phát binh từ Ái châu ra đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn sai sứ sang đút lót để cầu cứu với nhà Nam Hán. Sách An Nam chí lược viết rằng: Công Tiễn bị Ngô Quyền vây, sức yếu bị thua mới cầu cứu nhà Nam Hán  Vua Nam Hán là Lưu Cung nhân Giao Chỉ có loạn muốn chiếm lấy. Lưu Cung phong con mình là Vạn Vương Hoằng Tháo làm Giao Vương, đem quân cứu Kiều Công Tiễn.
Lưu Cung tự làm tướng, đóng ở Hải Môn để làm thanh viện. Lưu Cung hỏi kế ở Sùng văn sứ là Tiêu Ích, Tiêu Ích nói:"Nay mưa dầm đã mấy tuần, đường biển thì xa xôi nguy hiểm, Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể khinh suất được. Đại quân phải nên thận trọng chắc chắn, dùng nhiều người hướng đạo rồi sau mới nên tiến. Vua Nam Hán không nghe, sai Hoằng Tháo đem chiến thuyền theo sông Bạch Đằng mà vào, muốn đánh Ngô Quyền; nhưng quân chưa đến, Ngô Quyền đã giết Kiều Công Tiễn rồi.[7]
Ngô Quyền nghe tin Hoằng Tháo sắp đến, bảo các tướng tá rằng: Hoằng Tháo là đứa trẻ khờ dại,đem quân từ xa đến, quân lính còn mỏi mệt, lại nghe Công Tiễn đã chết, không có người làm nội ứng, đã mất vía trước rồi. Quân ta lấy sức còn khỏe địch với quân mỏi mệt, tất phá được. Nhưng bọn chúng có lợi ở chiến thuyền, ta không phòng bị trước thì thế được thua chưa biết ra sao. Nếu sai người đem cọc lớn vạt nhọn đầu bịt sắt đóng ngầm ở trước cửa biển, thuyền của bọn chúng theo nước triều lên vào trong hàng cọc thì sau đó ta dễ bề chế ngự, không cho chiếc nào ra thoát.
Ngô Quyền định kế rồi, bèn cho đóng cọc ở hai bên cửa biển. Khi nước triều lên, Ngô Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra khiêu chiến, giả thua chạy để dụ quân Nam Hán đuổi theo. Hoằng Tháo quả nhiên tiến quân vào. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn tiếng quân ra đánh, ai nấy đều liều chết chiến đấu. Quân Nam Hán không kịp sửa thuyền mà nước triều rút xuống rất gấp, thuyền đều mắc vào cọc mà lật úp, rối loạn tan vỡ, quân lính chết đuối quá nữa. Ngô Quyền thừa thắng đuổi đánh, bắt được Hoằng Tháo giết đi. Vua Nam Hán đồn trú ở cửa biển để cứu trợ nhưng không làm gì được; thương khóc, thu nhặt quân lính còn sót rút về 
Sử gia Ngô Sỹ Liên nhận định trong sách Đại Việt sử ký toàn thư:

Ngô Thì Sĩ nhận định trong sách Việt sử tiêu án:


Hai trong số cọc gỗ do Ngô Quyền sai đóng dưới lòng sông Bạch Đằng để chống lại quân Nam Hán

Xưng vương và trị vì


Lăng Ngô Quyền, tôn tạo vào đầu thế kỷ 20 triều Thành Thái
Mùa xuân năm 939, Ngô Quyền xưng là vương, trở thành vị vua sáng lập ra nhà Ngô,sách Đại Việt sử ký toàn thư gọi Ngô Quyền là Tiền Ngô Vương. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng:Mùa xuân, vua bắt đầu xưng vương, lập Dương thị làm hoàng hậu, đặt trăm quan, chế định triều nghi phẩm phục. Sách Việt sử tiêu án chép:Vương giết Công Tiễn, phá Hoằng Tháo, tự lập làm vua, tôn Dương Thị làm Hoàng hậu, đặt đủ 100 quan, dựng ra nghi lễ triều đình, định các sắc áo mặc, đóng đô ở Cổ Loa thành, làm vua được 6 năm rồi mất.
Kinh đô của triều đại mới không nằm ở Đại La mà chuyển sang Cổ Loa, kinh đô của nước Âu Lạc từ thời An Dương Vương một nghìn năm trước. Lý giải cho việc Ngô Quyền không chọn Đại La sầm uất và có truyền thống nhiều thế kỷ là trung tâm chính trị trước đó, các sử gia cho rằng có 2 nguyên nhân: tâm lý tự tôn dân tộc và ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước từ kinh nghiệm cũ để lại:
  1. Ý thức dân tộc trỗi dậy, tiếp nối quốc thống xưa của An Dương Vương , quay về với kinh đô cũ thời Âu Lạc, biểu hiện ý chí đoạn tuyệt với Đại La do phương Bắc khai lập 
  2. Đại La trong nhiều năm là trung tâm cai trị của các triều đình Trung Quốc đô hộ Việt Nam, là trung tâm thương mại sầm uất nhiều đời chủ yếu của các thương nhân người Hoa nắm giữ. Đại La do đó là nơi tụ tập nhiều người phương Bắc, từ các quan lại cai trị nhiều đời, các nhân sĩ từ phương Bắc sang tránh loạn và các thương nhân. Đây là đô thị mang nhiều dấu vết cả về tự nhiên và xã hội của phương Bắc, và thế lực của họ ở Đại La không phải nhỏ. Do đó lực lượng này dễ thực hiện việc tiếp tay làm nội ứng khi quân phương Bắc trở lại, điển hình là việc Khúc Thừa Mỹ nhanh chóng thất bại và bị Nam Hán bắt về Phiên Ngung. Rút kinh nghiệm từ thất bại của Khúc Thừa Mỹ, Ngô Quyền không chọn Đại La 
Theo Tạ Đại Chí Trường: Chiếm giữ Đại La xong, Ngô Quyền không đóng đô nơi phủ trị cũ mà lại tìm một vị trí bên lề để canh chừng. Tại sao? Vì còn tự ti thấy mình chưa đủ sức thay thế chủ cũ? Vì cái thế Đại La trống trải trong tầm sông nước dễ dàng cho sự xâm lấn của Nam Hán so với Cổ Loa khuất lấp hơn một ít mà vẫn còn có ngôi thành Kén của Mã Viện làm thế đương cự? Dù sao thì sự từ chối Đại La cũng là một dấu vết co cụm để tính chất địa phương nổi lên không những chỉ trong gia đình ông mà còn thấy trong cách ứng xử của các tập đoàn quyền lực khác ở phủ Đô hộ cũ nữa..

Cái chết

Năm 944, Ngô Vương qua đời, hưởng dương 47 tuổi; trước khi chết ông di chúc giao cho Dương Tam Kha phò tá cho con của mình. Ông không có miếu hiệu và thụy hiệu, sử sách xưa nay chỉ gọi ông là Tiền Ngô Vương . Sách Thiền uyển tập anh, phần truyện Quốc sư Khuông Việt có nhắc Ngô Thuận Đế.

Nhận định

Các nhà sử học Việt Nam thời trung đại như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên đánh giá rất cao công trạng của Ngô Quyền. Lê Văn Hưu nhận định về ông rằng:
Ngô Sĩ Liên ca tụng ông là mưu tài đánh giỏi, làm nên công dựng lại cơ đồ, đứng đầu các vua đồng thời cho rằng cách thức cai trị của ông có quy mô của bậc đế vương . Phan Bội ChâuTrần Quốc Vượng đều tôn vinh ông là "vua Tổ phục hưng dân tộc" 

Tồn nghi về quê hương


Đền thờ Ngô Quyền tại thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm
Quê hương của Ngô Quyền từng là vấn đề gây tranh cãi và cho đến nay vẫn không thống nhất hoàn toàn. Bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn lại đến ngày nay, Đại Việt sử kí toàn thư, chỉ ghi rằng Ngô Quyền là người ở châu Đường Lâm  nhưng không chú thích gì thêm về địa danh này, khiến cho các sử gia đời sau rất lúng túng. Nó thể hiện sự cẩn trọng của các sử thần đời Hậu Lê đối với những thông tin họ chưa thể kiểm chứng, đối chiếu . Các sử gia đời sau đã đẩy mạnh tìm hiểu để xác định xem châu Đường Lâm nằm ở đâu . Hiện tồn tại 3 thuyết, với 3 địa điểm nằm ở các địa phương ngày nay cách nhau khá xa và với khoảng cách tương đối đều nhau trên trục Bắc-Nam, là
  1. Hà Nội
  2. Thanh Hóa
  3. Hà Tĩnh.
Trong đó một địa điểm đã được thừa nhận nhưng đang bị đặt nghi vấn, là xã Đường Lâmthị xã Sơn Tây, Hà Nội. Các ý kiến như sau:

Đường Lâm (Hà Nội)

Nguyễn Văn Siêu trong sách Đại Việt địa dư toàn biên viết "Nay xét sử cũ chép: Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng. Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ (xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền) có hai đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương. Còn có một bia khắc rằng: Bản xã đất ở rừng rậm, đời xưa gọi là Đường Lâm, đời đời có anh hào. Đời nhà Đường có Phùng Vương tên húy Hưng, đời Ngũ Đại có Ngô Vương tên húy Quyền. Hai vương cùng một làng, từ xưa không có. Uy đức còn mãi, miếu mạo như cũ. Niên hiệu đề là Quang Thái năm thứ ba mùa xuân tháng hai, ngày 18 làm bia này". Như vậy, Nguyễn Văn Siêu đã khẳng định châu Đường Lâm quê hương của Ngô Quyền nằm ở xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây tức nay là làng cổ Đường Lâm thuộc Hà Nội. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi tương tự . Ý kiến này tiếp tục được Trần Quốc Vượng khẳng định  mà theo như chính ông nhận xét thì nó được "tiếp thu ngay" , trở thành kiến thức lịch sử chính thống đưa vào giảng dạy trong nhà trường và phổ biến trên các phương tiện thông tin đại chúng. Làng cổ Đường Lâm cũng được mệnh danh là đất hai vua

Gian thờ chính bên trong đền thờ Ngô Quyền ở Đường Lâm. Hoành phi ghi bốn chữ Ngô Đường hưng quốc

Đường Lâm (Bắc Trung Bộ)

Người đầu tiên nghi ngờ ý kiến cho rằng quê hương Đường Lâm ở Sơn Tây là học giả Đào Duy Anh. Trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời xuất bản năm 1964, ông viết "Đại Việt sử ký toàn thư (Ngoại, q. 5) chép rằng Ngô Quyền là người Đường-lâm, con Ngô Mân là châu mục bản châu. Sách Cương mục (Tb, q. 5) chú rằng: Đường-lâm là tên xã xưa, theo sử cũ chú là huyện Phúc-lộc, huyện Phúc-lộc nay đổi làm huyện Phúc-thọ, thuộc tỉnh Sơn-tây. Xét Sơn-tây tỉnh chí thì thấy nói xã Cam-lâm huyện Phúc-thọ xưa gọi là Đường-lâm, Phùng Hưng và Ngô Quyền đều là người xã ấy, nay còn có đền thờ ở đó. Chúng tôi rất ngờ những lời ghi chú ấy và nghĩ rằng rất có thể người ta đã lầm Đường-lâm là tên huyện đời Đường thuộc châu Phúc-lộc (Phúc-lộc châu có huyện Đường-lâm) thành tên xã Đường-lâm ở huyện Phúc-thọ. Huyện Đường-lâm châu Phúc-lộc là ở miền nam Hà-tĩnh. An-nam kỷ lược thì lại chép rằng Ngô Quyền là người Ái-châu, cũng chưa biết có đúng không ".
Sau đó, khi phê bình Đại Việt sử ký toàn thư, Văn Tân nhận xét "Ý kiến bạn Đào-duy-Anh rất đáng cho chúng ta để ý.[...] Ngô Quyền là người huyện Đường-lâm thuộc Hoan-châu chứ không phải là người huyện Phúc-thọ tỉnh Hà-tây.[...] Ngô Quyền là quý tộc con Ngô Mân quê ở Hoan-châu (có chỗ nói Ái-châu) đã dấy quân từ Hoan-châu tiến ra bắc phá quân Nam Hán ở cửa Bạch-đằng. Như vậy Ngô Quyền phải là người huyện Đường-lâm châu Phúc-lộc (Hà-tĩnh) chứ không phải người xã Đường-lâm huyện Phúc-thọ (Sơn-tây). Có thế mới phù hợp với tình hình xã hội hồi thế kỷ VIII, IX và X ".
Năm 1967, với bài viết Về quê hương của Ngô Quyền, Trần Quốc Vượng đã phản bác lại ý kiến của Đào Duy Anh và Văn Tân, đồng thời khẳng định quê hương Ngô Quyền nằm ở làng cổ Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội hiện thời. Có thể coi đây là tiếng nói quan trọng nhất của giới sử học Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc bấy giờ để quyết định vấn đề quê hương Ngô Quyền 
Lê Tắc, người Ái Châu (Đông Sơn, Thanh Hóa), viết trong An Nam chí lược rằng: "Ngô Quyền, người châu Ái" , tuy nhiên ý kiến này của ông hầu như không được các sử gia Việt Nam trước thế kỉ XX quan tâm.
Trong tập kỷ yếu hội thảo "Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập" tổ chức vào tháng 3 năm 2011, các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vượng, Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với bài viết Đường Lâm là Đường Lâm nào  cùng nhiều luận cứ lịch sử, đã chứng minh tấm bia cổ Phụng tự bi 奉祀碑 (ký hiệu 36002 trong kho lưu trữ bản dập của viện Nghiên cứu Hán Nôm) được coi là có niên đại từ đời Trần mà Nguyễn Văn Siêu đề cập tới, hiện ở đền thờ Ngô Quyền tại xã Đường LâmSơn Tây, cứ liệu quan trọng mà Trần Quốc Vượng dựa vào trong bài viết Về quê hương của Ngô Quyền, kì thực chỉ được dựng vào đầu thời Nguyễn  Và cái tên Đường Lâm của xã Đường Lâm hiện thời mới chỉ xuất hiện từ năm 1964, năm mà Quốc hội Việt Nam chính thức ra quyết định đổi tên xã này thành xã Đường Lâm , trước đó, đất này có tên là xã Cam Lâm. Từ đó, các nhà nghiên cứu này khẳng định rằng "quê Ngô Quyền nằm loanh quanh giữa vùng Thanh HóaNghệ An ngày nay mà khó có thể ở vị trí Sơn Tây (khi đó là huyện Gia Ninh của Phong Châu) được".

Dương hậu là ai ?

Theo thông tin từ chính sử thì Ngô Quyền có người vợ là bà Dương hậu, con gái Tiết độ sứ Dương Đình Nghệ, em gái (hoặc chị) của Dương Bình vương Tam Kha . Tuy nhiên, lịch sử cũng đề cập tới Càn Lương phu nhân, một "người vợ khác" cũng mang họ Dương của Ngô Quyền, quê ở ven sông Đáy, qua mấy câu trong Thiên Nam ngữ lục:
Như ai đã hẹn ai đâu
Qua miền Thượng Phúc, tới cầu Ba Trăng
Qua thần tích đền An Nhân huyện Chương Mỹ (Hà Nội), bà họ Dương này có tên là Dương Phương Lan.
Cuốn Phả hệ họ Ngô Việt Nam do Ban liên lạc họ Ngô Việt Nam soạn cũng căn cứ vào những nguồn tài liệu này khẳng định về thân thế hai bà vợ Ngô vương[23]
  • Bà Dương hậu là con gái Dương Đình Nghệ, thân thế của bà xưa nay đã được khẳng định trong sử sách. Tên của bà là Dương Thị Như Ngọc.
  • Bà Dương Phương Lan, người con gái bên dòng sông Đáy, gặp Ngô Quyền ở cầu Ba Trăng.
Tuy nhiên, giả thuyết tồn tại "hai bà hoàng hậu cùng mang họ Dương" của Ngô Quyền không vững chắc, nếu cũng căn cứ đoạn sau của sách Thiên Nam ngữ lục. Đoạn sau cho thấy hai bà họ Dương này thực ra là một người.
Sau đoạn mô tả Ngô Quyền và bà họ Dương gặp nhau ở cầu Ba Trăng, tuyệt nhiên Thiên Nam ngữ lục không hề nhắc tới người phụ nữ nào khác của Ngô Quyền. Nhưng Thiên Nam ngữ lục lại chỉ để cho nàng Phương Lan nói với Ngô Quyền rằng "cha nàng họ Dương" mà không nói rõ người đó chính là ông Dương Đình Nghệ. Do đó người đọc vẫn có thể nghi hoặc: có thể ông họ Dương này không phải là Dương Đình Nghệ.
Đến câu 3340 – 3342, khi Ngô Quyền sắp mất, tin dùng Dương Tam Kha vào việc triều chính:
Việc chuyên bày đặt mặc dầu Tam Kha
Với Dương hậu cùng một cha
Ngoài dinh tướng tá, trong nhà anh em
Mấy câu này cho thấy Dương hậu là em Tam Kha, nhưng vẫn có thể khiến người đọc nghi hoặc: có thể đến đây tác giả Thiên Nam ngữ lục mới nhắc tới bà Dương hậu thứ hai ngoài bà Phương Lan, tức bà Như Ngọc con Dương Đình Nghệ.
Nhưng tới câu 3349 – 3352, đoạn Ngô Quyền lâm chung thì không còn phải bàn cãi:
Thôi bèn hồn phách phất phơ
Cầm tay Dương hậu u ơ dặn rằng:
"Thương vì thuở gặp Ba Trăng
Chi phiền cho bỏ đạo hằng nuôi nhau..."
Qua bốn câu này, có thể thấy chắc chắn bà Dương hậu được vua Ngô cầm tay này là bà Phương Lan, vì đây là người "gặp Ba Trăng". Và bà lại là người em của Tam Kha (qua ba câu phía trên). Như vậy bà Phương Lan và bà Như Ngọc phải là một người, chứ không thể là hai người. Cả chính sử (Đại Việt Sử ký Toàn thư, Việt sử thông giám cương mục...) lẫn Thiên Nam ngữ lục đều chỉ nói tới duy nhất một bà Dương hậu của Ngô Quyền chứ không hề nói có người phụ nữ họ Dương nào khác trong đời ông.
Do nổi lên thông tin về việc có tới hai bà hoàng hậu họ Dương của Ngô Quyền, một số tài liệu sách vở gần đây tỏ ra lúng túng trong vấn đề xử lý việc "đứng chung" giữa hai bà này trong cung đình triều Ngô, như hai bà hòa thuận với nhau không? Trong bốn người con trai của Ngô vương (Xương Ngập, Xương Văn, Nam Hưng, Càn Hưng), ai thuộc về từng bà? Sau này, khi Ngô vương đã mất, còn một dấu hỏi nữa đặt ra là: tại sao cả hai bà thái hậu cùng vốn là nữ tướng "vũ dũng" như vậy mà để cho Dương Tam Kha "hoành hành"? Bà Như Ngọc với Tam Kha là người nhà, nể anh đã đành, còn bà Phương Lan vì sao vẫn không có thái độ cứng rắn?
Khi đã xác định được rằng hai bà họ Dương chỉ là một người, mọi vấn đề trên hoàn toàn có thể được lý giải.
Vậy câu chuyện giữa Ngô Quyền và bà họ Dương có thể được diễn giải như sau: Sau khi cha mất, Ngô Quyền rời quê nhà Đường Lâm vào Ái châu theo Dương Đình Nghệ, giữa đường lại gặp chính con gái ông là nàng Dương thị, em gái Dương Tam Kha, tại cầu Ba Trăng. Hai người quen nhau và yêu nhau từ đó, sau được Dương Đình Nghệ chấp thuận cho lấy nhau. Việc bà Dương vợ Ngô Quyền được lập đền thờ ở vùng sông Đáy, nơi không phải quê hương bà không có gì là bất bình thường.
Sự khác nhau giữa những cái tên Phương Lan và Như Ngọc chỉ là sản phẩm "chế tác" của đời sau (trong đó có một cái tên được đặt tận thế kỷ 20), như trường hợp "tam sao thất bản" giữa những cái tên "Dương Ngọc Vân" và "Dương Vân Nga" của bà hoàng hậu hai triều Đinh, Tiền Lê sau này mà thôi. Nhà sử học Lê Văn Lan nhận xét rằng "tên các nhân vật lịch sử trong thần phả tại các đền thờ phần nhiều do các nhà nho soạn vào khoảng từ thế kỷ 17 trở đi và nhiều khả năng cũng chỉ là sản phẩm của sự chế tác từ các nhà nho này mà thôi, nhất là tên các nhân vật nữ"
Như vậy, việc tìm hiểu nguồn gốc những cái tên của các nhân vật lịch sử, xem tên đó được đặt trong hoàn cảnh nào và thời gian đặt, do ai đặt là điều cần thiết khi nghiên cứu lịch sử.
Tuy nhiên, bản thân Thiên Nam ngữ lục là một tập sách diễn ca lịch sử Việt Nam, ra đời vào khoảng cuối thế kỉ XVI, tập hợp nhiều dã sử, truyền thuyết, cổ tích nên có nhiều yếu tố hoang đường; mang nhiều giá trị văn học hơn là giá trị sử liệu . Do vậy, những chi tiết được ghi lại trong tác phẩm này chưa hẳn là những sự kiện lịch sử thực sự xảy ra.

Gia đình

Vợ

  • Dương hậu: Bà là con gái của Dương Đình Nghệ, kết duyên cùng với Ngô Quyền khi ông trở thành nha tướng của Dương Đình Nghệ, một cuộc hôn nhân mang nhiều ý nghĩa liên minh chính trị. Một số tài liệu ghi rằng bà tên là Dương Thị Như Ngọc, nhưng theo ông Lê Văn Lan thì đây chỉ là một cái tên do người đời sau "đặt", để "phân biệt" với bà Dương hậu khác là bà Dương Vân Nga, bản thân cái tên Dương Vân Nga cũng chỉ là cái tên do giới văn nghệ Việt Nam ở thế kỉ 20 "đặt" cho bà  Chính sử chỉ gọi bà là Dương thị 
  • Đỗ phi: Bà là người ở làng Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội hiện nay. Trước khi có đền thờ bà ở gần cầu Tây Dục Tú nhưng nay đã bị phá. Nhà thờ họ Đỗ ở thôn Hậu Dục Tú vẫn còn đôi câu đối nói về cuộc hôn phối giữa bà và Ngô mang ý nghĩa liên minh chính trị Ngô - Đỗ 

Con cái


Rặng duối cổ ở thôn Cam Lâm thuộc Đường Lâm. Tương truyền Ngô Quyền đã buộc voi chiến và ngựa chiến ở đây
  • Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập: Là con trai trưởng của Ngô Quyền, được phỏng đoán sinh ra vào khoảng thập niên thứ hai của thế kỉ 10. Tiền Ngô Vương truyền ngôi cho Ngô Xương Ngập nhưng bị Dương Tam Kha cướp ngôi, Xương Ngập phải bỏ trốn. Năm 950, Dương Tam Kha bị lật đổ, ông được em là Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn đón về, hai anh em cùng làm vua. Năm 954, ông mất.
  • Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn: Là con trai thứ hai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Ông đã làm đảo chính, phế truất Dương Bình Vương, trung hưng lại cơ nghiệp nhà Ngô. Trị vì cùng với anh là Thiên Sách Vương từ năm 950 đến năm 954, sau đó, ông một mình trị nước từ năm 955 đến năm 965 thì mất. Nhà Ngô sụp đổ.
  • Ngô Nam Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm
  • Ngô Càn Hưng: Là con trai của Ngô Quyền, mẹ là Dương hậu. Không được sử sách đề cập gì thêm

Tôn vinh


Mùa xuân Mậu Dần (1998) đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng đền thờ Ngô Quyền ở Đường Lâm một đĩa sứ vẽ cảnh thủy chiến Bạch Đằng và dòng chữ: Tổ quốc và nhân dân ta đời đời ghi công lớn của vị anh hùng dân tộc Ngô Quyền đã đánh tan quân xâm lược dựng nên nền độc lập của nước ta
Đền thờ và lăng Ngô Quyền ở thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây là một địa chỉ du lịch và tâm linh nổi tiếng của làng cổ này. Đền được xây dựng bằng gạch, lợp ngói mũi hài, quay về hướng đông, có tường bao quanh. Qua tam quan, hai bên có tả mạc, hữu mạc, mỗi dãy nhà gồm năm gian nhỏ. Đại bái có hoành phi khắc bốn chữ "Tiền Vương bất vọng". Ngày nay tòa đại bái được dùng làm phòng trưng bày về thân thế, sự nghiệp của Ngô Quyền và nhà triển lãm chiến thắng Bạch Đằng. Hậu cung kiến trúc theo kiểu chữ đinh (丁), có tượng Ngô Quyền, đã được tu tạo vào năm 1877. Lăng Ngô Quyền có mái che, cao 1,5 mét, bia đá được khắc thời Tự Đức, có ghi bốn chữ Hán "Tiền Ngô Vương lăng". Tiền Ngô vương lăng đã được trùng tu năm 2013 với vốn đầu tư trùng tu lăng là 29 tỉ đồng, trong đó gia tộc họ Ngô đóng góp 30%. 
Trước năm 1945, đền thờ Ngô Quyền có hai mẫu ruộng do ba xóm Đông, Tây, Nam của làng Cam Lâm thay nhau cấy lúa để sửa soạn tế lễ. Lễ vật gồm một con lợn nặng 50 kg, 30 đấu gạo nếp để thổi xôi, trầu cau, hương hoa… Trong hai ngày tế lớn (14 và 15 tháng 8 âm lịch), làng cử một thủ từ và tám tuần phiên để canh gác nhà thờ .
Phố Nguyễn Công Trứ ở thành phố Hải Phòng có đình Hàng Kênh cũng thờ Tiền Ngô Vương Ngô Quyền. Tương truyền trước khi đánh quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đóng quân, chiêu binh tập mã ở An Dương (nay thuộc Hải Phòng). Dân nhiều làng ở đây đã làm quân cận vệ và chuẩn bị những cọc gỗ đóng xuống lòng sông Bạch Đằng để chống quân Nam Hán. Hằng năm vào trung tuần tháng hai âm lịch, đình mở hội, cúng tế, có hát ả đào, hát chèo, múa hạc gỗ và nhiều trò dân gian khác . Quanh khu vực hạ lưu sông Bạch Đằng có đến hơn 30 đền miếu thờ Ngô Quyền và các tướng của ông.
Nhiều đường phố mang tên Ngô Quyền như tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, thành phố Thanh Hóa, thị xã Quảng Yên,...
Tên ông cũng là tên của một quận nội thành của Hải Phòng. Nhiều trường học ở Việt Nam cũng mang tên Ngô Quyền.

Ảnh

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGẬM SẦU (ĐL)

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH