CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 103
(ĐC sưu tầm trên NET)
Trong
lịch sử chiến tranh giữ nước và giải phóng dân tộc, người Việt đã xây
dựng riêng cho mình một nghệ thuật chiến tranh đặc biệt mà ở đó mỗi
người dân đều là lính, mỗi làng bản đều là pháo đài đánh giặc. Không chỉ
vậy, trong chiều dài lịch sử anh dũng đó đã xuất hiện những đội quân kỳ
lạ, cho thấy sự độc đáo, sức sáng tạo phi thường của dân tộc Việt Nam.
Đội quân lặn nước đục thuyền
Sử sách và giai thoại dân gian từ bao đời nay lưu truyền về một người có tài bơi lội, lặn giỏi đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông thời Trần, đó là Yết Kiêu, gia nô của Trần Hưng Đạo. Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, quê cha ở làng Hạ Bì, còn gọi là làng Quát (nay thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay) xuất thân trong gia đình làm nghề đánh cá, từ nhỏ đã phải lăn lộn trên sông nước, kiếm ăn nuôi gia đình.
Truyền thuyết kể rằng một lần thấy hai con trâu thần từ dưới sông lên bờ húc nhau, Yết Kiêu đã dùng đòn gánh đánh đuổi, sau đó nhặt được mấy chiếc lông trâu, khi cầm lên ngắm, tự nhiên thấy máu bừng lên mặt liền chạy ra ao, lao xuống nước, nước rẽ đôi, lên bờ thấy lông không ướt, Yết Kiêu liền nuốt vào bụng. Từ đó thân thể cường tráng, trí lực phi thường, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng (Nhập thủy như phúc bình địa). Sau này ông theo hầu Trần Hưng Đạo rồi cùng với Dã Tượng trở thành cận vệ trung thành, tài trí và mưu lược của vị quốc công Tiết chế triều Trần và được khen ngợi rằng: “Chim Hồng hộc bay được cao và xa là nhờ 6 cái trụ lông cánh, nếu không khác gì chim thường. Yết Kiêu, Dã Tượng là cánh chim hồng hộc của ta”.
Khi giặc Nguyên Mông kéo vào xâm lược nước ta, trên đường thủy chúng đã gặp phải những thiệt hại đáng kể, bằng tài sông nước của mình, Yết Kiêu đã được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng “đặc công nước” dùng tài lặn đánh đắm thuyền giặc. Họ không quản mùa đông giá rét, đêm đêm lặn xuống biển, nằm dưới đáy thuyền, lấy dùi sắt nhọn đục thủng thuyền, nước tràn vào làm thuyền giặc bị chìm ngay.
Quân giặc sợ lắm, lúc đầu chúng không hiểu vì lẽ gì sau giặc dùng lưới để ngăn chặn; một lần không may Yết Kiêu bị giặc bắt được, chúng hỏi ông: “Nước Nam bao nhiêu người có tài bơi lặn như mày?”. Ông đáp: “Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ một mình tôi vì kém cỏi chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt”. Bọn giặc hí hửng vì tưởng bở, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý và không nhìn thấy, ông nhảy tùm xuống biển, lặn trốn về doanh trại quân ta, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc cứu nước, gây cho chúng những kinh sợ trên đường thủy.
Thực ra từ thời Hùng Vương, do địa hình, điều kiện tự nhiên với hệ thống sông ngòi chằng chịt, hồ biển dài nên giao thông đường thủy ở nước ta đã phát triển. Trong các ký hiệu cổ cũng có nói đến việc người Việt khai thác sông ngòi, có đi dưới nước; các sách sử của Trung Quốc từng nhiều lần chép về việc “người Việt lặn giỏi, bơi tài thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền”, “có thể đi dưới nước”... Truyền thống thạo nghề sông nước qua lịch sử đấu tranh giữ nước và giành độc lập dân tộc đã được phát triển thành truyền thống thạo thủy chiến và liên tục được các thế hệ kế thừa, phát triển và hình thành nên một lực lượng với nghệ thuật đánh "đặc công nước” đã xuất hiện từ sớm dưới dạng những người lính thủy giỏi nghề bơi lặn, dùng dùi sắt nhọn đục thuyền đối phương, hoặc dùng thuyền đặc chủng bí mật bất ngờ đánh hỏa công.
Thời Lý, trong một tờ khải tâu lên vua Tống góp bàn về việc tiến binh xâm chiếm nước ta, một đại thần là Triệu Bổ Chi đã viết: “Vả lại người Giao Chỉ giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lội xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói chúng có kẻ đi chìm dưới đáy biển 50 dặm mà không thở. Hiện nay, thuyền buôn thường gặp giặc biển, bị chúng lặn dưới nước đục thuyền”.
Qua đoạn viết nói trên có thể thấy từ thời Trần trở về trước các triều đại của nước ta đã xây dựng được những đội quân quen nghề sông nước và cơ động chủ yếu bằng thuyền, ra đời một cách tự nhiên bên cạnh những đội quân bộ và trở thành hai bộ phận chủ yếu trong lực lượng vũ trang truyền thống của dân tộc ta. Tiếc rằng về những người lính “đặc công nước”, sử sách không ghi chép nhiều, ngoại trừ Yết Kiêu, một đại diện tiêu biểu trong đội quân đặc biệt đó.
Đội quân ăn mày do thám
Tình báo là hoạt động điều tra, thu thập, nghiên cứu, tổng hợp, xử lý những tin tức, tư liệu bí mật về quân sự, chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế... của đối phương. Hoạt động này xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, trên cơ sở các thông tin thu thập được sẽ có những đánh giá và xử lý để đưa ra những quyết định, đặc biệt là liên quan đến chính sách đối ngoại và quốc phòng.
Ở phương Đông, nhà quân sự nổi tiếng của Trung Quốc (thế kỷ VI-V TCN) là Tôn Tử, bằng tài trí của mình đã giúp vua Ngô cải cách chính trị ở trong nước và chỉ huy quân đội phá nước Sở hùng mạnh ở phía Tây, uy hiếp nước Tấn ở phía Bắc… Ông chuyên tâm nghiên cứu các vấn đề quân sự, đúc kết nhiều kinh nghiệm của chiến tranh ở trước và trong thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc rồi viết thành bộ binh pháp gồm mười ba thiên binh (thường được gọi là Binh pháp Tôn Tử).
Trong tác phẩm này, Tôn Tử đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để giành chiến thắng trong chiến tranh, xem xét sự phụ thuộc của binh thế vào sức mạnh của quốc gia, sự ảnh hưởng của Thời-Thiên-Địa và vai trò của người chỉ huy đối với tác chiến…; đặc biệt là ở thiên thứ 13 có đề cập đến hoạt động do thám, gián điệp với tiêu đề là “Phép dụng gián” (Dùng trinh thám).
Trong cuốn “Binh thư yếu lược”, ở phần Phép dùng gián điệp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng có đoạn nói về vai trò quan trọng của hoạt động do thám, gián điệp như sau: “Phàm dùng binh trước hết phải dụng gián để thăm dò mà tùy cơ ứng biến, hoặc thăm dò để biết bên địch có việc tranh trưởng, có sự không hòa... Công việc của gián làm, xem việc mà cử ra thì thấy có 8 thuật: lấy sứ giả làm gián điệp, lấy người của địch làm gián điệp, tung tin giả, phao tin tâm lý, mua chuộc đút lót, kích động, gièm pha... Dụng gián là việc linh hoạt, cơ mưu không thể lường”.
Hoạt động tình báo, gián điệp đã được các triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng và áp dụng khá hiệu quả trong chiến tranh giữ nước, đặc biệt là thời Lý, Trần và Hậu Lê. Thời kỳ Bình Định Vương Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược, có một người đã tổ chức đội quân thu thập tin tức dưới hình thức rất đặc biệt, đó là Phạm Ngũ Thư. Ông quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, lộ Hải Đông (nay thuộc xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), ông là cháu ba đời của danh tướng Phạm Ngũ Lão, bậc đại công thần tài kiêm văn võ nổi tiếng triều Trần. Khi Hồ Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần, Phạm Ngũ Thư từ quan về ở ẩn rồi xuất gia tu hành tại chùa Vân Yên trên dãy núi Yên Tử vùng Đông Bắc với pháp danh là Trí Lâm.
Tình hình xã hội nước ta bấy giờ có những diễn biến phức tạp, nhà Hồ sụp đổ, quân Minh kéo vào xâm lược, các cuộc khởi nghĩa chống giặc lần lượt bị đàn áp dã man, triều Hậu Trần cũng không tồn tại được lâu. Hoàn cảnh đó đã tác động nhiều đến tâm trí Phạm Ngũ Thư, ông quyết định hoàn tục, lấy vợ sinh con, muốn làm tròn nghĩa vụ của người trai thời loạn. Nghe tin cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ, ông tìm vào Thanh Hóa xin đầu quân, cùng nếm trải gian lao khó nhọc với nghĩa binh hơn 10 năm trời. Để thăm dò sự điều động binh lực cũng như nắm tình hình của giặc, Phạm Ngũ Thư đề nghị và được Bình Định Vương Lê Lợi chấp thuận cho thiết lập “hệ thống tình báo” với nhiều đối tượng cài vào hàng ngũ ngụy quan, ngụy quân cũng như trong xã hội dưới các vai nhà buôn, học trò….
Đội quân do thám
Trực tiếp điều hành mạng lưới thu thập thông tin, Phạm Ngũ Thư còn giả trang thành người ăn xin để đi lại khắp nơi mà giặc chẳng nghi ngờ, cũng nhờ đó mà ông nhận thấy lợi thế của những người hành khất vì càng dơ dáy, cùi hủi ghẻ lở thì lại càng được việc, họ có thể “một gậy, một bị khắp nơi tung hoành”, “liều mạng cùi” xông bừa vào chỗ đóng quân, kho lương của địch để quan sát và la cà khắp nơi để chuyển tin nhanh chóng mà an toàn, từ đó Phạm Ngũ Thư tạo dựng thêm nhiều tai mắt trong giới cái bang. “Hệ thống tình báo” này hoạt động đắc lực, góp phần quan trọng vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập.
Năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi vua, đặt niên hiệu Thuận Thiên, đến tháng 2, định công phong chức tước, ban thưởng cho các công thần chia làm 4 hạng, gồm 339 người có nhiều quân công nhất, trong đó có Phạm Ngũ Thư. Ông được phong làm Trung lượng tả phụng thần vệ quân, tước Đại trí tự nhưng ông viện cớ tàn tật để khước từ quan chức xin về quê sinh sống, chỉ nhận tước và phần thưởng là hai trăm mẫu ruộng rồi đem chia hết cho dân nghèo để trồng cấy.
Lại nghĩ đến cảnh nhiều người còn khổ cực, Phạm Ngũ Thư nói với vợ rằng: “Thời lang thang lo việc nước, ta đã chung sống với giới ăn xin, cảm thông được nỗi đau thương chua xót vô biên của những con người khốn khổ bị xã hội khinh khi ruồng rẫy. Ta hằng phát nguyện sẽ chia sẻ, cứu giúp xoa dịu thương đau cho họ”. Dặn vợ con làm nhiều hơn nữa việc thiện, phát tâm giúp đỡ kẻ khó, rồi ông ra đi. Tay chống gậy trúc, áo quần rách rưới, ăn xin sống qua ngày nay đây mai đó, để hiểu nỗi đau thương mà san sẻ, an ủi họ người cùng cảnh ngộ, lựa lời nhắc nhở họ về lý nghiệp báo, khuyên họ xả bỏ thù hằn, nghi kị, chán nản mà khơi nguồn cho niềm lạc quan và tình người tuôn chảy.
Thế là viên thủ lĩnh của “đội quân cái bang” hoạt động tình báo năm nào nay lại trở về với những con người cùng khổ cho đến lúc cuối đời. Trên bia mộ của ông chỉ khắc dòng chữ: “Phạm khất sĩ chi mộ” (mộ của người ăn mày họ Phạm). Ngày nay tại làng Thư Lang (nay thuộc xã Thư Lang, tỉnh Hà Nam) vẫn còn đền thờ Phạm Ngũ Thư, bao đời nay người dẫn vẫn hương khói để ghi ơn công lao và ân đức của vị thành hoàng làng mình, người có cuộc đời đặc biệt một như huyền thoại.
Đội quân khuyển đánh giặc
Cũng vào thời Lê, Nguyễn Xí đã chỉ huy một đạo quân là chó săn, có những đóng góp nhất định vào công cuộc đánh giặc cứu nước. Danh tướng Nguyễn Xí quê ở làng Thượng Xá, huyện Châu Phúc (nay là huyện Nghi Lộc, Nghệ An), sinh ra trong một gia đình làm nghề buôn bán muối. Tương truyền cha ông là Nguyễn Hội “bị một con cọp đã thành tinh cắp đi vùi xác ở một huyệt đất tốt tại xứ Đồng Lam. Cọp còn cắm cây xung quanh mộ. Hôm sau, người nhà đến tìm được và đem về chôn nơi khác. Nhưng rồi đến đêm hôm sau nữa con cọp lại tới gầm thét vang khắp núi non, bới tung lên, vất bỏ quan tài, đem xác đến vùi lại chỗ cũ. Bấy giờ người nhà mới biết là trời ban cho huyệt tốt” (Đại Việt thông sử).
Tuy còn nhỏ nhưng Nguyễn Xí rất thông minh, nhanh nhẹn, tỏ rõ là người có tài vì thế Lê Lợi rất quý, giao cho chăm sóc một đàn chó săn lớn. Sách Đại Việt thông sử cho biết: “Vua sai Nguyễn Xí nuôi một đàn chó săn gồm hơn 100 con. Sớm chiều chia cơm cho chó ăn ông đều dùng chuông làm hiệu. Bầy chó theo sự điều khiển của ông, tiến thoái răm rắp. Nhà vua rất quý ông, cho là người có tài làm đại tướng nên sai ông nắm quyền cai quản đội quân Thiết Độ thứ nhất".
Năm Mậu Tuất (1418) cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chính thức được phát động, lúc này Nguyễn Xí mới 21 tuổi đã được trao quyền tướng quân hầu cận bên Bình Định Vương Lê Lợi. Ông đã trải qua những ngày tháng khó khăn, gian nan trong những năm đầu khởi nghĩa ở vùng rừng núi Tây Thanh Hoá, Linh Sơn, Khôi Huyện… Trong bước đường chiến chinh đó, đàn chó của Nguyễn Xí trở thành một đội quân đặc biệt, do được huấn luyện chu đáo, điều khiển bằng tiếng nhạc nên từ ăn, ngủ, tấn công chúng đều theo hiệu lệnh phát ra. Những lúc bị vây hãm tuyệt lương thì đàn chó được lệnh đi săn thú, bắt chim về làm thức ăn cho nghĩa quân. Khi xung trận, Nguyễn Xí điều khiển bầy chó lăn xả vào cắn xé làm quân giặc rất hoảng sợ; tên tướng Minh là Mã Kỳ mỗi khi nghe đến đội quân khuyển của ông lại kinh hãi.
Có lần Nguyễn Xí cho buộc vào cổ đàn chó những chiếc đạc ngựa, khi chó chạy sẽ phát ra tiếng kêu như tiếng đoàn kị mã. Đến đêm ông dẫn quân đến vây trại giặc Minh rồi cho đánh trống reo hò ầm ĩ, lại xua chó chạy quanh trại. Quân Minh nghe tiếng đạc ngựa, lại thấy tiếng trống thúc, quân reo rất hốt hoảng tưởng bên ta đến cướp trại nhưng không rõ binh lực thế nào nên không dám ra đánh. Chúng đành dùng cung nỏ bắn ra như mưa, một chốc Nguyễn Xí lại cho dừng, bọn giặc thấy yên thì ngừng bắn, ông lại thả chó ra, trống lại đánh, quân lại reo, giặc lại bắn ra. Đến gần sáng, sau khi thu nhặt được hàng vạn mũi tên quân ta rút đi, còn bọn giặc cả đêm hoảng loạn, mất ngủ lại tổn thất rất nhiều tên. Nghĩa quân Lam Sơn và dân chúng hết lời ca ngợi Nguyễn Xí, xem việc lập kế lấy tên của giặc không kém gì mưu của Khổng Minh dùng người rơm “mượn tên” của quân Tào trên sông Xích Bích thời Tam Quốc.
Trong 10 năm kháng chiến gian khổ, Nguyễn Xí cùng đàn chó của mình tham gia nhiều trận đánh quan trọng như cuộc vây hãm thành Đông Quan, hạ thành Xương Giang, tiêu diệt và bắt sống gần 10 vạn quân Minh sang tăng viện năm Đinh Mùi (1427)… Khi sự nghiệp kháng chiến thành công, giặc Minh bị quét sạch khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế đã phong cho Nguyễn Xí làm Long Hổ tướng quân, Suy trung Bảo chính công thần, tước huyện hầu, là bậc khai quốc công thần của triều Hậu Lê và được ban quốc tính (họ vua). Ông làm quan trải qua 5 đời vua, công danh tột bậc, được phong làm Nhập nội đô đốc, hàm Thiếu bảo sau đó là Khai phủ nghi Đồng tam ti, Nhập nội kiểm hiệu, Thái phó Cương quốc công, Nhập nội hữu Tướng quốc… Năm Ất Dậu (1465), Nguyễn Xí bị bệnh mất, thọ 68 tuổi, triều đình truy tặng chức Thái sư.
Đội quân bồ câu đưa tin
Trong chiến tranh, việc truyền tin tức giữ vai trò cực kỳ quan trọng, do đó từ xa xưa, các triều đình đã tổ chức hệ thống thông tin với các dạng thức khác nhau như dùng cờ hiệu, đặt trạm dịch, dùng hỏa đài… và đặc biệt là dùng chim bồ câu để đưa tin. Không rõ việc sử dụng chim bồ câu đưa tin xuất hiện ở nước ta khi nào, nhưng đến giai đoạn kháng chiến chống quân Minh xâm lược, sử sách và giai thoại dân gian có nhắc đến hai nhân vật nổi tiếng là Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Chích. Đây là hai danh tướng của nghĩa quân Lam Sơn và sau này là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê.
Trần Nguyên Hãn là con cháu nhà Trần, cháu ruột của Trần Nguyên Đán, dòng dõi Thượng tướng Trần Quang Khải, anh em (con cô, con cậu) với Nguyễn Trãi. Ông quê ở xã Sơn Đông (nay thuộc huyện Lập Thạnh, Vĩnh Phúc), lập nhiều công nên khi xét công lao ông được đứng hàng đầu với chức Tả tướng quốc. Trong thời gian kháng chiến, Trần Nguyên Hãn đã dùng những chú chim bồ câu mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện để chuyển thư qua lại với chủ tướng Lê Lợi và các đầu mối quân sự khác. Có lần khi đang đóng quân trấn giữ thành Võ Ninh thì bị quân Minh kéo đến vây chặt, tình thế rất nguy khốn, Trần Nguyên Hãn đã viết thư cầu cứu rồi buộc vào chân chim. Nhờ thư do chim câu mang đến, Bình Định Vương Lê Lợi biết được tình hình liền lập tức cho quân tiếp viện đến Võ Ninh phá vỡ vòng vây giải cứu. Sau này Trần Nguyên Hãn với hình ảnh chú chim bồ câu được suy tôn là Thánh Tổ của lực lượng truyền tin nước ta.
Cùng về qui tụ dưới lá cờ nghĩa Lam Sơn còn có một vị tướng cũng có tài nuôi chim bồ câu, ông tên là Nguyễn Chích. Ông người thôn Vạn Lộc, xã Đông Ninh, phủ Đông Sơn (nay là huyện Đông Sơn, Thanh Hóa), trước khi tham gia lực lượng của Lê Lợi thì Nguyễn Chích đã dựng cờ khởi nghĩa ở núi Hoàng Sơn (nay thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hóa) lấy thành Yên Mỗ làm căn cứ. Chính ông đã đề xuất kế hoạch vào Nghệ An, tạo nên cục diện mới cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Bố Nguyễn Chích là người thích nuôi chim thả để dự thi nên truyền nghề này cho con, vì thế từ nhỏ ông đã có biệt tài nuôi chim bồ câu rất giỏi. Bồ câu được dạy một cách khéo léo để xem khả năng của mỗi con, người ta đặt một chậu nước giữa sân, rồi cho chim tung cánh lên trời, những con chim nào dạy khéo sẽ bay rất thẳng, đến nỗi, bay cao lên tít mây xanh mà bóng chim vẫn in trong chậu nước. Nguyễn Chích đã tập cho đàn chim của ông bay khéo như vậy và còn luyện cho chúng mang thư từ và đồ nhẹ đến nơi định sẵn và bay trở về.
Khi gia nhập cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Chích cùng vợ là Nguyễn Thị Bành đã mang cả bầy bồ câu đi theo, nhiều lần, chim câu đã giúp việc truyền tin cho nghĩa quân rất nhanh chóng. Một bận, căn cứ Lam Sơn bị đánh úp trong khi phần đông quân lính được chủ tướng Lê Lợi chia ra, sai các tướng tá dẫn đi các ngả mất rồi, ở doanh trại chỉ có Lê Lợi và Nguyễn Chích cùng mấy trăm quân túc vệ. Giặc Minh ở ngoài vây rất chặt, khó có thể phá được vòng vây hay cử người đi báo tin giải cứu.
Nguyễn Xí liền thả chim câu đi đưa thư gọi được các cánh quân về cứu viện, trong đánh ra, ngoài đánh vào làm cho vòng vây của giặc tan vỡ, Bình Định Vương Lê Lợi rất khen ngợi, ban thưởng cho Nguyễn Xí và lấy thóc tẩm mật cho chim ăn để bồi dưỡng. Cho đến nay người dân ở vùng đất xứ Thanh Nghệ vẫn lưu truyền bài thơ ca ngợi “đội quân” chim bồ câu của tướng Nguyễn Chích như sau: “Bồ câu bồ các/ Nó hát cúc cù/ Cu đi Quan Du/ Cu về Bù Rộc/ Thư này hỏa tốc/ Phải đợi cu về/ Ăn gạo vua Lê/ Đậu vai ông Chích/ Cu là cu thích/ Lại hát cúc cù!”.
Ngoài những “đội quân” đặc biệt nói trên, trong lịch sử ghi nhận nhiều nhất đến những đội quân voi trận, ngựa chiến đã được người Việt sử dụng từ lâu đời, tạo thành sức mạnh nhiều phen kiến quân thù kinh hồn táng đởm. Bên cạnh đó, trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định đã xuất hiện những “đội quân” động vật được sử dụng một lần như “đội quân” vịt, ngỗng có nhiệm vụ cảnh giới, mỗi khi có người sẽ kêu như một cách báo động; “đội quân” rắn độc, như chuyện nghĩa quân của Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười đã dụ quân Pháp vào nơi có hang rắn độc lớn khiến không ít tên giặc bị thiệt mạng, còn người dân thì hào hứng kể cho nhau rằng Thiên Hộ Dương có đạo binh “rắn thần” trợ chiến.
Hay như “đội quân” trâu lửa phá trận với những chú trâu sừng buộc gươm đao lao vào hàng ngũ của đối phương xung sát dữ dội, sách Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo cũng viết về cách sử dụng lực lượng này như sau: “Dùng con trâu già bỏ đi, buộc dao sắc vào sừng, hai bên mình cặp tre sát vào chân cho không thể quay được, trên lưng đội một ống pháo sắt lớn chứa một đấu thuốc, thuốc để quanh co ở trong pháo; pháo chứa những thuốc liệt hỏa, thần sa, thần hỏa. Phàm khi quân giặc rất nhiều quân ta rất ít, dùng trâu ấy xông vào người ngựa gặp phải tức thì tan nát. Khi xông vào trận giặc thì lửa phát pháo nổ, thế như sấm động, ầm một tiếng không kịp bịt tai. Dù khó nhọc mấy ở trong mấy trùng vây của giặc cũng phá tan được”.
Theo Cảnh sát toàn cầu
AK-47: khẩu súng thay đổi lịch sử chiến tranh
(Kienthuc.net.vn) - Sự ra đời của súng trường tiến công AK-47 của
nhà thiết kế lừng danh Mikhail Kalashnikov đã làm thay đổi lịch sử chiến
tranh thế giới cho đến tận hôm nay.
Súng trường tiến công cá nhân là một
vũ khí cực kỳ quan trọng góp phần tạo nên thắng lợi trên chiến trường.
Cho dù khoa học có phát triển đến đâu thì vũ khí công nghệ cao vẫn không
thể hoàn toàn thay thế khẩu súng trường trên vai người lính. Nó vừa là
vũ khí để tự vệ vừa là vũ khí để tấn công.
Trong suốt những năm chiến tranh thế
giới thứ nhất và thứ 2 việc chế tạo được một khẩu súng trường tiến công
cá nhân hiệu quả vẫn là một thách thức lớn đối với các nhà thiết kế vũ
khí. Đặc biệt, với Hồng quân Liên Xô, vũ khí cá nhân vẫn là một “tử
huyệt” của họ.
Anh lính xe tăng và khẩu súng làm thay đổi lịch sử quân sự thế giới
Giữa lúc bế tắc trong việc phát triển
một khẩu súng trường tiến công hiệu quả cho Hồng quân Liên Xô thì một
nhà thiết kế vũ khí tài ba đã xuất hiện. Điều đáng nói hơn cả là nhà
thiết kế này lại xuất thân từ một anh lính xe tăng đam mê vũ khí.
Mikhail Kalashnikov không hề được học
qua trường lớp nào về thiết kế súng trường. Trước khi gia nhập Hồng quân
vào năm 1938, Kalashnikov là một thợ cơ khí, sau khi gia nhập Hồng quân
ông được giao nhiệm vụ phụ trách cơ khí trên xe tăng T-34, rồi sau đó
trở thành chỉ huy xe tăng.
Nhà thiết kế Mikhail Kalashnikov bên "đứa con" AK-47. |
Trong quá trình huấn luyện chiến đấu
trên xe tăng, Kalashnikov bắt đầu tiến hành những cải tiến về vũ khí
trên xe tăng của mình. Niềm đam mê với vũ khí của ông tiếp tục được tích
lũy qua những năm tháng chinh chiến chứng kiến những cái hay, cái dở
của vũ khí Liên Xô thời đó.
Trong một lần bị thương và nhập viện
vào năm 1941, tại bệnh viện, ông đã nghe các đồng đội của mình đang điều
trị tại đây phàn nàn về chất lượng súng trường của Liên Xô. Từ những
phàn nàn của đồng đội cùng kinh nghiệm và niềm đam mê sẵn có, ông quyết
định chế tạo một mẫu súng trường tiến công mới cho Quân đội Liên Xô.
Bằng niềm đam mê, lòng nhiệt huyết với
súng trường cùng tài năng thiên bẩm, Kalashnikov đã dành chiến thắng
trong cuộc thi thiết kế súng trường tiến công vào năm 1946, thiết kế của
ông chính thức được công nhận vào năm 1947 với tên gọi Avtomat
Kalashnikova model 1947 thường được gọi là AK-47.
Người chiến sĩ Quân giải phóng miền Nam Việt Nam cùng khẩu AK. |
Chỉ 2 năm sau khi được cấp chứng nhận,
AK-47 đã trở thành vũ khí cá nhân tiêu chuẩn cho Hồng quân Liên Xô và
đến nay đã được phổ biến ở hơn 100 quốc gia khác trên thế giới. Sự ra
đời của AK-47 đã tạo ra những bước ngoặt với lịch sử quân sự thế giới
bằng những cuộc đấu tranh dành độc lập thoát khỏi ách đô hộ của chủ
nghĩa chế quốc phương Tây trên toàn thế giới mà tiêu biểu là cuộc chiến
tranh Việt Nam.
Người khai sáng phương châm “hiệu quả-chi phí”
Điều làm nên tên tuổi và sự thành công
của AK-47 chính là vấn đề “hiệu quả-chi phí”. Những súng trường tiến
công trước đó và cả những thiết kế hiện đại về sau đều khó lòng đáp ứng
được cả hai tiêu chí nói trên.
Súng trường tiến công AK-47 rất đơn
giản trong chế tạo không đòi hỏi những công nghệ quá cao, với những quốc
gia có trình độ cơ khí ở mức trung bình đều có thể chế tạo AK-47. Súng
trường này rất đơn giản trong sử dụng, bất kỳ người nào chỉ cần được
hướng dẫn sơ qua đều có thể sử dụng súng trường này.
Ưu điểm của AK-47 có hỏa lực mạnh, dễ sửa chữa, bảo trì, dễ sử dụng và giá rất rẻ. |
AK-47 rất đơn giản trong sửa chữa, bảo
trì ngay tại điều kiện chiến trường. Súng trường này đáp ứng hầu hết
các điều kiện khắc nghiệt trên chiến trường, ít hỏng hóc. Ưu điểm nữa
của AK-47 là hỏa lực mạnh, với cỡ đạn 7,62x39mm súng trường này tỏ ra
vượt trội về hỏa lực trên chiến trường.
Chính xuất phát điểm là một thợ cơ
khí, lính xe tăng nên Kalashnikov đã đưa thiết kế của mình đến sát với
thực tế chiến trường mà các nhà thiết kế đào tạo bài bản khác chưa làm
được. Sự ra đời của AK-47 đã làm thay đổi lịch sử quân sự thế giới.
Từ chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh
Việt Nam và rất nhiều cuộc chiến khác AK-47 đã chứng tỏ sự vượt trội
của mình trên chiến trường so với M16 và những súng trường tiến công
khác. Không chỉ là khẩu súng trường tiến công hiệu quả nhất từ trước đến
nay, AK-47 còn là biểu tượng cho tinh thần phản kháng, khát vọng đấu
tranh thoát khỏi áp bức nô lệ của các dân tộc trên thế giới.
Tuy nhiên, chính sự “hiệu quả-chi phí”
lại khiến AK-47 thay đổi thế giới theo một chiều hướng xấu. Khẩu súng
trường này đang trở thành vũ khí tiêu chuẩn cho những kẻ khủng bố trên
toàn thế giới. Trong tay những kẻ khủng bố AK-47 làm cho cuộc chiến
chống khủng bố trở nên khó khăn hơn. Đó cũng là điều khiến ông buồn
phiền về đứa con tinh thần của mình.
Những khẩu AK thậm chí
còn được in lên quốc kỳ một số nước trên thế giới, trong ảnh là biểu
tượng khẩu AK trên quốc kỳ Mozambique. |
Tạp chí khoa học uy tín Popularmechanics
đã bình chọn AK-47 là 1 trong 11 vũ khí cá nhân quan trọng nhất của
lịch sử quân sự thế giới. Nhưng vượt trên cả những danh hiệu AK-47 đi
vào lòng những người lính như những đứa con tinh thần luôn sát cánh bên
họ qua những cuộc chiến.
Mikhail Kalashnikov đã ra đi về cõi
vĩnh hằng nhưng đứa con tinh thần AK-47 của ông vẫn sống mãi với lịch sử
thế giới như là một huyền thoại, một vũ khí của tinh thần đấu tranh
không biết mệt mỏi vì khát vọng hòa bình, độc lập.
Bình Đức
Bộ Quốc phòng Việt Nam đã từ chối ký với
Rosoboronexport một hợp đồng triển khai sản xuất súng tiểu liên
Kalashnikov "seri 100" vì trị giá cao của đề xuất từ phía Nga. Theo báo
Kommersant, trích dẫn một nguồn tin trong Rosoboronexport, việc tổ chức
sản xuất súng Kalashnikov được ước tính khoảng 250 triệu USD. Kết quả,
Việt Nam đã quyết định ký thỏa thuận với Israel sản xuất súng Galil ACE;
giá thành hợp đồng với Israel - 170 triệu USD
Đọc tiếp: http://vietnamese.ruvr.ru/2014_02_11/128568145/
Tiết lộ nguyên nhân Việt Nam từ chối súng tiểu liên Kalashnikov
Đọc tiếp: http://vietnamese.ruvr.ru/2014_02_11/128568145/
|
||||
Những trận đánh nhỏ thay đổi lịch sử nhân loại
Chủ nhật, 2013-08-04 07:20:08 - Nguồn: News.zing.vn
Hải chiến Tsushima, trận
chiến Metaurus giữa đế chế La Mã và Carthage đều được ít người biết đến
nhưng có vai trò quyết định cả lịch sử nhân loại.Trận Tours (năm 732)
Theo Wikipedia, Tours là một trận chiến diễn ra ở điểm giữa thành phố Poitiers và Tours, phía bắc trung tâm nước Pháp.
Trận chiến là cuộc đọ sức giữa lực lượng liên quân của người Frank và Burgundy, dưới sự chỉ huy của tể tướng Charles Martel, chống lại một đội quân Hồi giáo, dưới sự chỉ huy của Abdul Rahman Al Ghafiqi.
Sau trận chiến lịch sử, người Frank chiến thắng và Abdul Rahman Al Ghafiqi bị giết. Đây cũng là bàn đạp để tướng Charles mở rộng quyền lực của mình về phía nam. Các nhà viết sử thế kỷ 9 đã giải thích kết quả của cuộc chiến như là một phán xử của Thiên Chúa mang lại ân huệ cho người Công giáo. Người châu Âu cũng hết sức ca ngợi trận đánh này. Hầu hết các sử gia đều công nhận rằng trận đánh này góp phần vào việc hình thành Đế chế Frank và sự thống trị của người Frank tại châu Âu trong thế kỷ tiếp theo.
Hải chiến Tsushima (1905)
Tsushima là một trận chiến trên
biển giữa hạm đội của Đế quốc Nga và hạm đội của Đế quốc Nhật Bản tại eo
biển Tsushima trong Chiến tranh Nga - Nhật từ ngày 27-28/5/1905.
Trong trận hải chiến, Hạm đội Nhật Bản dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Heihachiro Togo tiêu diệt hai phần ba hạm đội Nga. Trận chiến kết thúc với thắng lợi to lớn của hạm đội Nhật, buộc Nga phải ký Hiệp định Portsmouth, nhượng lại cho Nhật Bản các quyền lợi ở châu Á và khẳng định vai trò bá chủ của Nhật Bản ở Đông Á.
Được xem là một thắng lợi quyết định và toàn diện nhất trong chiến tranh trên biển, Tsushima là trận hải chiến đầu tiên trong lịch sử khi các thiết giáp hạm đóng vai trò quyết định kết cục trận đánh. Nhà sử học Edmund Morris cũng gọi đây là trận hải chiến lớn nhất kể từ sau trận Trafalgar.
Với chiến thắng vẻ vang này, Hải quân Nhật Bản đã làm nên một trong những thắng lợi hủy diệt trên biển trong suốt bề dày lịch sử nhân loại.
Trận chiến Metaurus (207 trước Công nguyên)
Chiến tranh Punic là 3 cuộc chiến
giữa La Mã cổ đại và đế chế Carthage. Trong đó, trận chiến Metaurus là
một cuộc chiến nhỏ nhưng có vai trò lớn trong Chiến tranh Punic thứ 2.
Cuộc chiến xảy ra vào năm 207 trước Công nguyên gần sông Metaurus, ngày
nay là vùng đất thuộc Italy.
Cuộc chiến này có sự tham gia của 30.000 quân Carthage và 47.000 quân La Mã. Kết cục, quân Carthage thua trận. Nhờ giành chiến thắng trong trận chiến có tính bước ngoặt này, quân La Mã sau đó đánh bại Hannibal và giúp đế chế La Mã giành chiến thắng chung cuộc trong cuộc đối đầu với đế quốc Carthage.
Trận Blenheim (1704)
Diễn ra vào ngày 13/8/1704 ở Bayern,
Đức, Blenheim là một trận đánh lớn trong cuộc chiến tranh Kế vị Tây Ban
Nha (1701 - 1714 ), khi một số cường quốc ở châu Âu liên minh với nhau
để ngăn không cho một thành viên của Hoàng gia Bourbon ở Pháp thừa kế
ngai vàng Đế quốc Tây Ban Nha.
Vua Pháp lúc đó là Louis XIV quyết định tung một đòn quyết định vào Hoàng đế Leopold I của Đế quốc La Mã Thần thánh bằng việc tiến công Vienna - kinh sư của triều đình nhà Habsburg.
Trận chiến này được quyết định bằng một đòn giáng sấm sét nhằm vào trung quân của Thống chế Tallard, tạo tiền đề cho quân Áo của Vương công Eugène thọc sâu vào hữu quân Pháp. Từ đó, quân Pháp tan vỡ và cuống cuồng tháo chạy lần đầu tiên dưới triều Louis XIV. Quân Pháp bị hủy diệt trong thảm bại này và thành Vienna được giải nguy.
Sau cuộc chiến, xứ Bayern trở thành "con mồi" cho hai nước Áo và Phổ, tạo tiền đề cho tương lai của nước Đức sau này. Trận Blenheim được xem là thắng lợi bảo tồn quyền tự do của các quốc gia châu Âu và mở đầu cho sự phát triển hùng mạnh của nước Anh. Ngoài ra, trận chiến này còn được xem là trận chiến định đoạt nhất của Anh Quốc tại châu Âu lục địa trước thế kỷ thứ XX.
Trận Hastings (1066)
Hastings là một trận đánh diễn ra vào
ngày 14/10/1066 giữa lực lượng Norman dưới sự lãnh đạo của Công tước
William II xứ Normandy và quân đội Anglo-Saxon do vua Harold II chỉ huy.
Đây là thắng lợi quyết định trong cuộc chinh phục nước Anh của người Norman. Sau trận chiến này, một hệ thống quyền lực Anh - Norman mới tại Anh đã được thiết lập.
Vua Harold II đã tử trận tại Hastings và theo một số nguồn tin, ông bị một mũi tên bắn trúng vào mắt. Mặc dù sau đó người Anh vẫn tiếp tục kháng cự nhưng trận này được xem là có ý nghĩa quyết định để William kiểm soát nước Anh và trở thành vị vua Norman đầu tiên dưới tên gọi William I của Anh. Cho đến nay, trận Hastings vẫn được xem là trận xâm lược cuối cùng vào nước Anh.
Bình An
Trận chiến là cuộc đọ sức giữa lực lượng liên quân của người Frank và Burgundy, dưới sự chỉ huy của tể tướng Charles Martel, chống lại một đội quân Hồi giáo, dưới sự chỉ huy của Abdul Rahman Al Ghafiqi.
Sau trận chiến lịch sử, người Frank chiến thắng và Abdul Rahman Al Ghafiqi bị giết. Đây cũng là bàn đạp để tướng Charles mở rộng quyền lực của mình về phía nam. Các nhà viết sử thế kỷ 9 đã giải thích kết quả của cuộc chiến như là một phán xử của Thiên Chúa mang lại ân huệ cho người Công giáo. Người châu Âu cũng hết sức ca ngợi trận đánh này. Hầu hết các sử gia đều công nhận rằng trận đánh này góp phần vào việc hình thành Đế chế Frank và sự thống trị của người Frank tại châu Âu trong thế kỷ tiếp theo.
Hải chiến Tsushima (1905)
Trong trận hải chiến, Hạm đội Nhật Bản dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Heihachiro Togo tiêu diệt hai phần ba hạm đội Nga. Trận chiến kết thúc với thắng lợi to lớn của hạm đội Nhật, buộc Nga phải ký Hiệp định Portsmouth, nhượng lại cho Nhật Bản các quyền lợi ở châu Á và khẳng định vai trò bá chủ của Nhật Bản ở Đông Á.
Được xem là một thắng lợi quyết định và toàn diện nhất trong chiến tranh trên biển, Tsushima là trận hải chiến đầu tiên trong lịch sử khi các thiết giáp hạm đóng vai trò quyết định kết cục trận đánh. Nhà sử học Edmund Morris cũng gọi đây là trận hải chiến lớn nhất kể từ sau trận Trafalgar.
Với chiến thắng vẻ vang này, Hải quân Nhật Bản đã làm nên một trong những thắng lợi hủy diệt trên biển trong suốt bề dày lịch sử nhân loại.
Trận chiến Metaurus (207 trước Công nguyên)
Cuộc chiến này có sự tham gia của 30.000 quân Carthage và 47.000 quân La Mã. Kết cục, quân Carthage thua trận. Nhờ giành chiến thắng trong trận chiến có tính bước ngoặt này, quân La Mã sau đó đánh bại Hannibal và giúp đế chế La Mã giành chiến thắng chung cuộc trong cuộc đối đầu với đế quốc Carthage.
Trận Blenheim (1704)
Vua Pháp lúc đó là Louis XIV quyết định tung một đòn quyết định vào Hoàng đế Leopold I của Đế quốc La Mã Thần thánh bằng việc tiến công Vienna - kinh sư của triều đình nhà Habsburg.
Trận chiến này được quyết định bằng một đòn giáng sấm sét nhằm vào trung quân của Thống chế Tallard, tạo tiền đề cho quân Áo của Vương công Eugène thọc sâu vào hữu quân Pháp. Từ đó, quân Pháp tan vỡ và cuống cuồng tháo chạy lần đầu tiên dưới triều Louis XIV. Quân Pháp bị hủy diệt trong thảm bại này và thành Vienna được giải nguy.
Sau cuộc chiến, xứ Bayern trở thành "con mồi" cho hai nước Áo và Phổ, tạo tiền đề cho tương lai của nước Đức sau này. Trận Blenheim được xem là thắng lợi bảo tồn quyền tự do của các quốc gia châu Âu và mở đầu cho sự phát triển hùng mạnh của nước Anh. Ngoài ra, trận chiến này còn được xem là trận chiến định đoạt nhất của Anh Quốc tại châu Âu lục địa trước thế kỷ thứ XX.
Trận Hastings (1066)
Đây là thắng lợi quyết định trong cuộc chinh phục nước Anh của người Norman. Sau trận chiến này, một hệ thống quyền lực Anh - Norman mới tại Anh đã được thiết lập.
Vua Harold II đã tử trận tại Hastings và theo một số nguồn tin, ông bị một mũi tên bắn trúng vào mắt. Mặc dù sau đó người Anh vẫn tiếp tục kháng cự nhưng trận này được xem là có ý nghĩa quyết định để William kiểm soát nước Anh và trở thành vị vua Norman đầu tiên dưới tên gọi William I của Anh. Cho đến nay, trận Hastings vẫn được xem là trận xâm lược cuối cùng vào nước Anh.
Bình An
Trận chiến cứu cả thế giới Hồi giáo "chấn động" lịch sử
Có nhiều người tin rằng, chiến thắng Ain Jalut này không chỉ cứu thế giới đạo Hồi mà còn thay đổi toàn bộ lịch sử thế giới...
Quân đội Mông Cổ được coi là một trong những đạo quân mạnh
nhất thế giới từng xuất hiện trong lịch sử. Trang bị kỹ càng tới tận "chân răng",
nguồn lương thực hậu cần cực tốt, khả năng cưỡi ngựa bắn cung siêu hạng, chiến
thuật hoàn hảo cùng tư chất dũng mãnh, không biết sợ chết đã khiến cho đội
quân Mông Cổ được coi là bất khả chiến bại vào thời điểm đó.
Họ tàn phá gần nửa triệu quân của Đế chế Hoa Lạc Tử Ngô, phá tan 8 vạn liên quân Nga bên bờ sông Kalka, chinh phục nhà Tống "nhẹ như trở bàn tay".
Ở cuộc viễn chinh Đại Việt, sức nóng khủng khiếp của miền Bắc vào dịp đầu hè, cộng thêm chiến thuật "vườn không nhà trống" của Đại tướng Trần Hưng Đạo khiến cho những chiến binh phương Bắc của Ngột Lương Hợp Thai hay Toa Đô không thể chịu nổi mà rút lui.
Sang
đến thời kỳ này, quân đội Mông Cổ đã "lai tạp" rất nhiều, không còn
giống như thời Thành Cát Tư Hãn vẫn còn làm Đại Hãn nữa và tất nhiên, họ
yếu hơn nhiều so với giai đoạn trước. Còn nếu Thần Phong không xuất
hiện
và hủy diệt đội quân viễn chinh Mông Cổ tại Nhật Bản thì biết đâu mọi
chuyện đã
rất khác.
Đội quân duy nhất đánh bại Mông Cổ “một đấu một”
Chỉ có duy nhất một đội quân chiến thắng người Mông Cổ ở địa hình bằng phẳng, đấu “1 đối 1”, ngay trong giai đoạn họ đạt "phong độ đỉnh cao" ngang tài ngang sức mà giành chiến thắng. Chiến thắng của họ không chỉ cứu một nước khỏi họa diệt vong và nô lệ mà còn cứu cả thế giới đạo Hồi vào thời điểm đó. Đó là trận Ain Jalut năm 1260.
Mông Kha lên ngôi Đại Hãn Mông Cổ năm 1251 và ngay lập tức chỉ định Húc Liệt Ngột, người anh em của mình làm thống lĩnh quân đội viễn chinh các nước Hồi giáo.
Tôn
chỉ của Mông Kha là hủy diệt tất cả những kẻ chống
đối, kẻ nào hàng thì tha. Thành Baghdad sụp đổ dưới chân quân Mông Cổ,
50.000 quân của vương quốc 500 tuổi Abbasid bị tàn sát không còn ai. Lúc
đó, cả
thế giới đạo Hồi "rung chuyển" trước vó ngựa
Mông Cổ.
Năm 1260, lần lượt Aleppo, Syria chịu số phận giống như Baghdad, còn Damascus, Nablus và Gaza mở cửa thành đầu hàng quân Mông Cổ. Duy chỉ có Quốc vương của Mamluk Sultanate (Ai Cập) Qutuz là trường hợp ngoại lệ…
“Từ Vua của các vị Vua phía Đông và Tây, Đại Hãn gửi tới Qutuz, kẻ bỏ chạy để thoát khỏi lưỡi gươm của chúng ta. Ngươi nên nghĩ về kết cục của những nước khác và đầu hàng chúng ta đi. Ngươi đã nghe cách mà chúng ta chinh phục một đế chế rộng mênh mông và thanh tẩy mặt đất khỏi những thứ ô uế rồi đó. Chúng ta đã chinh phục những vùng đất rộng lớn, tàn sát tất cả mọi người. Ngươi không thể thoát khỏi sự kinh hoàng của quân đội chúng ta đâu. Ngươi chạy đi đâu? Người sẽ chạy trên con đường nào để thoát? Ngựa của chúng ta nhanh, tên của chúng ta sắc bén, lưỡi gươm của chúng ta như sét đánh, trái tim chúng ta cứng như núi đá, quân của chúng ta đông như cát. Nước mắt hay sự ủy mị không lay động được chúng ta. Chỉ có những kẻ cầu xin chúng ta che chở mới được an toàn. Trả lời nhanh lên trước khi ngọn lửa chiến tranh bùng lên. Chống cự và ngươi sẽ chịu số phận thảm khốc nhất. Chúng ta sẽ đập bỏ những đền thờ, lôi ra sự yếu hèn từ Chúa của các người và sau đó, sẽ giết cả người già, trẻ nhỏ. Hiện tại, ngươi là kẻ thù duy nhất chúng ta sẽ phải chinh phục mà thôi”.
Qutuz gầm lên một tiếng, cho quân lính bắt giữ sứ thần Mông Cổ, ra lệnh chém ngang lưng, cắt đầu và treo lên cổng Zuwila tại Cairo. Với người Mông Cổ, sứ thần là nhân vật được tôn trọng và đối xử rất tốt cho dù 2 nước có đang chiến tranh, hành động này của Qutuz là không thể tha thứ được. Do đó, quyết định về cuộc chiến tranh giữa Mamluk Sultanate và Mông Cổ đã được định đoạt.
Cho dù không tận diệt được Hồi giáo thì những ảnh hưởng của người Mông Cổ khi cai trị vùng đất này khiến lịch sử thay đổi rất nhiều. Đế chế Mông Cổ thống trị tốt đến nỗi sử sách ghi lại rằng: “Một trinh nữ trần truồng đầu đội một hũ vàng có thể đi bộ từ Damascus tới Karakorum mà không bị làm hại”. Người Mông Cổ lúc đó chỉ coi thế giới bao gồm 2 phần “Những kẻ bị thống trị” và “Những kẻ chưa bị thống trị”.
Quân Mamluk bước vào trận chiến chỉ với duy nhất một suy nghĩ mà Qutuz đã nói trước khi giao chiến “Hoặc là các ngươi chiến thắng hoặc là các ngươi và gia đình ngươi sẽ chết thảm khốc”. Điều đó khiến cho quân Mamluk trở nên mạnh mẽ hơn vì họ biết, không còn đường lùi nữa trước kẻ thù chưa bao giờ biết tới thất bại trước mặt.
Khi đến vùng trũng, Qutuz ra lệnh cho đội kỵ binh Mamluk tấn công vào cánh của quân Mông Cổ. Đến lúc này, trận chiến mới thực sự bắt đầu. Khiếp Đích Bất Hoa là một tướng tài, ông không dễ dàng bị lung lay vì cuộc tấn công bất ngờ đó, ngay lập tức ông chỉ huy một đạo kỵ binh khác vòng sang tấn công cánh trái của quân Mamluk, gần như xé nát cánh này nếu như không có sự xuất hiện của Qutuz.
Vị quốc vương đáng kính vứt bỏ mũ xuống đất và hô lớn 3 tiếng “Ôi
đạo Hồi ơi”, điều kỳ diệu đã xảy ra, cánh trái của quân Mamluk bỗng dưng trở
nên sắt đá lạ thường. Ngay sau đó, Qutuz tự mình thống lĩnh đội kỵ binh phá tan
nát cánh quân Mông Cổ này.
Đối diện với thất bại khó tin ngay trên chiến trường trực diện - nơi chưa bao giờ Mông Cổ thất bại, Khiếp Đích Bất Hoa vẫn bình tĩnh lạ thường. Khi người hầu cận của ông khuyên bỏ chạy, vị tướng này đã nói: “Chúng ta sẽ chết ở đây và như thế là hết. Chúc Đại Hãn trường thọ an vui”.
Khiếp Đích Bất Hoa chiến đấu tới cùng cho đến khi bị một mũi tên bắn trúng ngựa và ngã xuống đất. Giữa trận chiến, người ta bắt sống ông và giải đến trước Qutuz.
Mất đi thủ lĩnh, quân Mông Cổ như rắn mất đầu và dần dần bị
đánh tan tác. Khiếp Đích Bất Hoa bị xử trảm và treo đầu lên cổng thành Cairo,
đánh dấu chiến thắng quân Mông Cổ của Ai Cập.
Vì đâu Mông Cổ bách chiến bách thắng thất bại?
Tại sao quân Mamluk có thể đánh ngang sức với quân Mông Cổ, tại sao các kỵ binh nặng Hồi giáo chưa bao giờ đánh tay đôi ngang với kỵ binh Mông Cổ chứ đừng nói chiến thắng lại có thể áp đảo tại Ain Jalut? Tại sao những mũi tên vô địch của Mông Cổ không thể đánh bại quân Mamluk? Đó có thể là bởi:
Ý chí chiến đấu: trận Bối Thủy của Hàn Tín từng cho thấy khi một người lính rơi vào tình cảnh không thể quay đầu, anh ta sẽ có sức 1 địch 10. Trong trường hợp này, người Mamluk không thể bỏ chạy, họ chỉ có thể chiến đấu hoặc là chết. Trong khi đó, quân Mông Cổ lại đang mang tư tưởng bất bại và là kẻ xâm lược.
Trang bị của Mông Cổ cực tốt nhưng quân Mamluk cũng không hề thua kém. Giáp Mông Cổ tốt, giáp Mamluk còn bền hơn thế. Người Mông Cổ cưỡi ngựa bắn tên xa cực tốt, quân Mamluk bắn tên không xa bằng nhưng họ bắn cực nhanh (sử sách ghi lại rằng một chiến binh Mamluk có thể bắn 3 mũi tên trong 1 giây rưỡi). Cả hai bên đều sống trên lưng ngựa từ bé. Khi còn là một đứa trẻ, các chiến binh đã học cách cưỡi ngựa và chiến đấu/bắn cung trên lưng ngựa.
Rõ ràng xét về binh lực đây là một trận chiến ngang tài ngang sức. Và bên có ý chí chiến đấu tốt hơn đã giành chiến thắng.
Chiến thắng của quân Ai Cập đã khiến cho Mông Cổ mãi bao
nhiêu năm sau đó vẫn không thể thâm nhập sâu hơn vào vùng đất Hồi giáo. Sau
sự kiện Đại Hãn Mông Kha chết, Đế chế Mông Cổ không còn là một khối thống nhất,
dẫn đến việc họ không thể tập trung vào sự nghiệp chinh phạt như trước.
Có thể nói, chiến thắng Ain Jalut đã thay đổi toàn bộ lịch sử thế giới, mà có thể, ảnh hưởng đến tận chiến sự Trung Đông ngày nay.
* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Strategy Page, Alternate History, Saudi Aramco World, Wikipedia...
Bạn có thể xem thêm:
Họ tàn phá gần nửa triệu quân của Đế chế Hoa Lạc Tử Ngô, phá tan 8 vạn liên quân Nga bên bờ sông Kalka, chinh phục nhà Tống "nhẹ như trở bàn tay".
Quân Mông Cổ nghiền nát liên quân Nga, đông gấp 4 lần tại trận Kalka năm 1223.
Thế nhưng trong lịch sử, người Mông Cổ cũng biết tới thất bại.
Tuy nhiên, thất bại trong 3 cuộc viễn chinh Đại Việt hay sự kiện Thần Phong hủy
diệt đội chiến thuyền của Hốt Tất Liệt đều không phải là những trận mà người ta dám đối đầu 1 đối 1 với quân Mông Cổ.Ở cuộc viễn chinh Đại Việt, sức nóng khủng khiếp của miền Bắc vào dịp đầu hè, cộng thêm chiến thuật "vườn không nhà trống" của Đại tướng Trần Hưng Đạo khiến cho những chiến binh phương Bắc của Ngột Lương Hợp Thai hay Toa Đô không thể chịu nổi mà rút lui.
Đội quân duy nhất đánh bại Mông Cổ “một đấu một”
Chỉ có duy nhất một đội quân chiến thắng người Mông Cổ ở địa hình bằng phẳng, đấu “1 đối 1”, ngay trong giai đoạn họ đạt "phong độ đỉnh cao" ngang tài ngang sức mà giành chiến thắng. Chiến thắng của họ không chỉ cứu một nước khỏi họa diệt vong và nô lệ mà còn cứu cả thế giới đạo Hồi vào thời điểm đó. Đó là trận Ain Jalut năm 1260.
Mông Kha lên ngôi Đại Hãn Mông Cổ năm 1251 và ngay lập tức chỉ định Húc Liệt Ngột, người anh em của mình làm thống lĩnh quân đội viễn chinh các nước Hồi giáo.
Năm 1260, lần lượt Aleppo, Syria chịu số phận giống như Baghdad, còn Damascus, Nablus và Gaza mở cửa thành đầu hàng quân Mông Cổ. Duy chỉ có Quốc vương của Mamluk Sultanate (Ai Cập) Qutuz là trường hợp ngoại lệ…
Mông Cổ chinh phục Tây Hạ.
Đầu năm 1260, Húc Liệt Ngột cho sứ giả đến gặp Qutuz gửi cho
Quốc vương một bức thư đầy mùi hăm dọa:“Từ Vua của các vị Vua phía Đông và Tây, Đại Hãn gửi tới Qutuz, kẻ bỏ chạy để thoát khỏi lưỡi gươm của chúng ta. Ngươi nên nghĩ về kết cục của những nước khác và đầu hàng chúng ta đi. Ngươi đã nghe cách mà chúng ta chinh phục một đế chế rộng mênh mông và thanh tẩy mặt đất khỏi những thứ ô uế rồi đó. Chúng ta đã chinh phục những vùng đất rộng lớn, tàn sát tất cả mọi người. Ngươi không thể thoát khỏi sự kinh hoàng của quân đội chúng ta đâu. Ngươi chạy đi đâu? Người sẽ chạy trên con đường nào để thoát? Ngựa của chúng ta nhanh, tên của chúng ta sắc bén, lưỡi gươm của chúng ta như sét đánh, trái tim chúng ta cứng như núi đá, quân của chúng ta đông như cát. Nước mắt hay sự ủy mị không lay động được chúng ta. Chỉ có những kẻ cầu xin chúng ta che chở mới được an toàn. Trả lời nhanh lên trước khi ngọn lửa chiến tranh bùng lên. Chống cự và ngươi sẽ chịu số phận thảm khốc nhất. Chúng ta sẽ đập bỏ những đền thờ, lôi ra sự yếu hèn từ Chúa của các người và sau đó, sẽ giết cả người già, trẻ nhỏ. Hiện tại, ngươi là kẻ thù duy nhất chúng ta sẽ phải chinh phục mà thôi”.
Một bức vẽ kể lại cuộc xâm lăng của người Mông Cổ tới các nước Hồi giáo.
Qutuz phân vân một lúc và bỏ vào trướng trong cùng các tướng
lĩnh Mamluk, để lại sứ giả Mông Cổ với nụ cười mỉm trên môi. Qutuz thừa
nhận rằng, quân đội của ông chẳng là gì so với Mông Cổ, các tướng lĩnh
cũng đồng tình như
vậy nhưng đột ngột, vị Quốc vương dũng cảm nói: “Ai Cập cần một chiến binh làm
vua. Nếu không ai theo, một mình ta sẽ đi và đương đầu với quân Tatars”.Qutuz gầm lên một tiếng, cho quân lính bắt giữ sứ thần Mông Cổ, ra lệnh chém ngang lưng, cắt đầu và treo lên cổng Zuwila tại Cairo. Với người Mông Cổ, sứ thần là nhân vật được tôn trọng và đối xử rất tốt cho dù 2 nước có đang chiến tranh, hành động này của Qutuz là không thể tha thứ được. Do đó, quyết định về cuộc chiến tranh giữa Mamluk Sultanate và Mông Cổ đã được định đoạt.
Cùng lúc đó, Đại Hãn Mông Kha qua đời trong khi đang tiến
hành chiến tranh với nhà Tống, theo quy định, tất cả phải quay về Mông
Cổ để bầu chọn Đại Hãn mới. Điều đó khiến cho Húc Liệt Ngột phải rút phần lớn
quân đội của mình (khoảng gần 30 vạn quân) trở về.
Ông chỉ để lại 20 nghìn quân do tướng lĩnh số 1 của ông lúc đó - Khiếp Đích Bất Hoa nắm giữ. Bởi theo ông, mảnh đất
Hồi giáo đã hoàn toàn bị khuất phục dưới vó ngựa Mông Cổ rồi.
Bức vẽ mô tả lại trận Ain Jalut.
Tuy nhiên đó lại là sai lầm lớn nhất cuộc đời của Húc Liệt
Ngột. Điều này để lại một vết nhơ trong lịch sử bất bại vô địch của người Mông Cổ, khiến
cho muôn đời sau, mảnh đất Hồi giáo được bình yên, hình thành nên những Đế chế
xưng bá cả châu Âu như nhà Ottoman của Thổ Nhĩ Kỳ.Cho dù không tận diệt được Hồi giáo thì những ảnh hưởng của người Mông Cổ khi cai trị vùng đất này khiến lịch sử thay đổi rất nhiều. Đế chế Mông Cổ thống trị tốt đến nỗi sử sách ghi lại rằng: “Một trinh nữ trần truồng đầu đội một hũ vàng có thể đi bộ từ Damascus tới Karakorum mà không bị làm hại”. Người Mông Cổ lúc đó chỉ coi thế giới bao gồm 2 phần “Những kẻ bị thống trị” và “Những kẻ chưa bị thống trị”.
Trận Ain Jalut - chiến
thắng của các kỵ binh Mamluk
Ngày 3/9/1260, Khiếp Đích Bất Hoa dẫn 20.000 quân Mông Cổ
về phía Tây, vượt qua Jordan tiến về ngọn đồi cao hướng xuống bình nguyên
Esdraelon. Cùng lúc đó, 20.000 quân Mamluk do Qutuz chỉ huy thiết lập thế trận
tại Ain Jalut (cái tên này có nghĩa là Dòng Suối của Goliath, ám chỉ sự thất bại
của gã khổng lồ Goliath trước chú bé David, cũng giống như Đế chế Mông Cổ trước
quân Mamluk).Quân Mamluk bước vào trận chiến chỉ với duy nhất một suy nghĩ mà Qutuz đã nói trước khi giao chiến “Hoặc là các ngươi chiến thắng hoặc là các ngươi và gia đình ngươi sẽ chết thảm khốc”. Điều đó khiến cho quân Mamluk trở nên mạnh mẽ hơn vì họ biết, không còn đường lùi nữa trước kẻ thù chưa bao giờ biết tới thất bại trước mặt.
Bức vẽ một chiến binh Mamluk.
Baibars - tướng lĩnh của Qutuz xua quân đánh trực diện với
quân của Khiếp Đích Bất Hoa ngay tại Ain Jalut. Tưởng rằng đó là toàn bộ quân
Mamluk, vị tướng Mông Cổ tự mình dẫn quân đánh thẳng. Baibars đột ngột rút lui
và quân Mông Cổ thừa thắng xông lên. Tiếc thay, người Mông Cổ lại rơi vào cái
cái bẫy mà chính họ rất hay sử dụng: Giả vờ thua trận.Khi đến vùng trũng, Qutuz ra lệnh cho đội kỵ binh Mamluk tấn công vào cánh của quân Mông Cổ. Đến lúc này, trận chiến mới thực sự bắt đầu. Khiếp Đích Bất Hoa là một tướng tài, ông không dễ dàng bị lung lay vì cuộc tấn công bất ngờ đó, ngay lập tức ông chỉ huy một đạo kỵ binh khác vòng sang tấn công cánh trái của quân Mamluk, gần như xé nát cánh này nếu như không có sự xuất hiện của Qutuz.
Đối diện với thất bại khó tin ngay trên chiến trường trực diện - nơi chưa bao giờ Mông Cổ thất bại, Khiếp Đích Bất Hoa vẫn bình tĩnh lạ thường. Khi người hầu cận của ông khuyên bỏ chạy, vị tướng này đã nói: “Chúng ta sẽ chết ở đây và như thế là hết. Chúc Đại Hãn trường thọ an vui”.
Khiếp Đích Bất Hoa chiến đấu tới cùng cho đến khi bị một mũi tên bắn trúng ngựa và ngã xuống đất. Giữa trận chiến, người ta bắt sống ông và giải đến trước Qutuz.
Vì đâu Mông Cổ bách chiến bách thắng thất bại?
Tại sao quân Mamluk có thể đánh ngang sức với quân Mông Cổ, tại sao các kỵ binh nặng Hồi giáo chưa bao giờ đánh tay đôi ngang với kỵ binh Mông Cổ chứ đừng nói chiến thắng lại có thể áp đảo tại Ain Jalut? Tại sao những mũi tên vô địch của Mông Cổ không thể đánh bại quân Mamluk? Đó có thể là bởi:
Ý chí chiến đấu: trận Bối Thủy của Hàn Tín từng cho thấy khi một người lính rơi vào tình cảnh không thể quay đầu, anh ta sẽ có sức 1 địch 10. Trong trường hợp này, người Mamluk không thể bỏ chạy, họ chỉ có thể chiến đấu hoặc là chết. Trong khi đó, quân Mông Cổ lại đang mang tư tưởng bất bại và là kẻ xâm lược.
Trang bị của Mông Cổ cực tốt nhưng quân Mamluk cũng không hề thua kém. Giáp Mông Cổ tốt, giáp Mamluk còn bền hơn thế. Người Mông Cổ cưỡi ngựa bắn tên xa cực tốt, quân Mamluk bắn tên không xa bằng nhưng họ bắn cực nhanh (sử sách ghi lại rằng một chiến binh Mamluk có thể bắn 3 mũi tên trong 1 giây rưỡi). Cả hai bên đều sống trên lưng ngựa từ bé. Khi còn là một đứa trẻ, các chiến binh đã học cách cưỡi ngựa và chiến đấu/bắn cung trên lưng ngựa.
Rõ ràng xét về binh lực đây là một trận chiến ngang tài ngang sức. Và bên có ý chí chiến đấu tốt hơn đã giành chiến thắng.
Có thể nói, chiến thắng Ain Jalut đã thay đổi toàn bộ lịch sử thế giới, mà có thể, ảnh hưởng đến tận chiến sự Trung Đông ngày nay.
* Bài viết có sử dụng tư liệu tham khảo từ các nguồn: Strategy Page, Alternate History, Saudi Aramco World, Wikipedia...
Bạn có thể xem thêm:
Bạn có thể xem thêm:
Tin liên quan
Những đội quân kỳ lạ trong lịch sử Việt Nam
Đội quân lặn nước đục thuyền
Sử sách và giai thoại dân gian từ bao đời nay lưu truyền về một người có tài bơi lội, lặn giỏi đã có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông thời Trần, đó là Yết Kiêu, gia nô của Trần Hưng Đạo. Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế, quê cha ở làng Hạ Bì, còn gọi là làng Quát (nay thuộc xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay) xuất thân trong gia đình làm nghề đánh cá, từ nhỏ đã phải lăn lộn trên sông nước, kiếm ăn nuôi gia đình.
Đội quân lặn nước đục thuyền |
Truyền thuyết kể rằng một lần thấy hai con trâu thần từ dưới sông lên bờ húc nhau, Yết Kiêu đã dùng đòn gánh đánh đuổi, sau đó nhặt được mấy chiếc lông trâu, khi cầm lên ngắm, tự nhiên thấy máu bừng lên mặt liền chạy ra ao, lao xuống nước, nước rẽ đôi, lên bờ thấy lông không ướt, Yết Kiêu liền nuốt vào bụng. Từ đó thân thể cường tráng, trí lực phi thường, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng (Nhập thủy như phúc bình địa). Sau này ông theo hầu Trần Hưng Đạo rồi cùng với Dã Tượng trở thành cận vệ trung thành, tài trí và mưu lược của vị quốc công Tiết chế triều Trần và được khen ngợi rằng: “Chim Hồng hộc bay được cao và xa là nhờ 6 cái trụ lông cánh, nếu không khác gì chim thường. Yết Kiêu, Dã Tượng là cánh chim hồng hộc của ta”.
Khi giặc Nguyên Mông kéo vào xâm lược nước ta, trên đường thủy chúng đã gặp phải những thiệt hại đáng kể, bằng tài sông nước của mình, Yết Kiêu đã được giao nhiệm vụ chỉ huy lực lượng “đặc công nước” dùng tài lặn đánh đắm thuyền giặc. Họ không quản mùa đông giá rét, đêm đêm lặn xuống biển, nằm dưới đáy thuyền, lấy dùi sắt nhọn đục thủng thuyền, nước tràn vào làm thuyền giặc bị chìm ngay.
Quân giặc sợ lắm, lúc đầu chúng không hiểu vì lẽ gì sau giặc dùng lưới để ngăn chặn; một lần không may Yết Kiêu bị giặc bắt được, chúng hỏi ông: “Nước Nam bao nhiêu người có tài bơi lặn như mày?”. Ông đáp: “Nước Nam có rất nhiều người có tài bơi lặn như tôi. Hiện nay họ vẫn ẩn nấp ở dưới biển để đục thuyền, chỉ một mình tôi vì kém cỏi chẳng may bị bắt. Nếu các ông tha tôi ra tôi sẽ dẫn các ông đến chỗ họ ẩn nấp, tha hồ cho các ông bắt”. Bọn giặc hí hửng vì tưởng bở, chúng lấy một chiếc thuyền nhẹ chở ông đi. Thừa lúc giặc sơ ý và không nhìn thấy, ông nhảy tùm xuống biển, lặn trốn về doanh trại quân ta, tiếp tục cùng quân dân ta đánh giặc cứu nước, gây cho chúng những kinh sợ trên đường thủy.
Thực ra từ thời Hùng Vương, do địa hình, điều kiện tự nhiên với hệ thống sông ngòi chằng chịt, hồ biển dài nên giao thông đường thủy ở nước ta đã phát triển. Trong các ký hiệu cổ cũng có nói đến việc người Việt khai thác sông ngòi, có đi dưới nước; các sách sử của Trung Quốc từng nhiều lần chép về việc “người Việt lặn giỏi, bơi tài thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền”, “có thể đi dưới nước”... Truyền thống thạo nghề sông nước qua lịch sử đấu tranh giữ nước và giành độc lập dân tộc đã được phát triển thành truyền thống thạo thủy chiến và liên tục được các thế hệ kế thừa, phát triển và hình thành nên một lực lượng với nghệ thuật đánh "đặc công nước” đã xuất hiện từ sớm dưới dạng những người lính thủy giỏi nghề bơi lặn, dùng dùi sắt nhọn đục thuyền đối phương, hoặc dùng thuyền đặc chủng bí mật bất ngờ đánh hỏa công.
Thời Lý, trong một tờ khải tâu lên vua Tống góp bàn về việc tiến binh xâm chiếm nước ta, một đại thần là Triệu Bổ Chi đã viết: “Vả lại người Giao Chỉ giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lội xuống nước đội thuyền địch để lật úp. Đỗ Mục nói chúng có kẻ đi chìm dưới đáy biển 50 dặm mà không thở. Hiện nay, thuyền buôn thường gặp giặc biển, bị chúng lặn dưới nước đục thuyền”.
Qua đoạn viết nói trên có thể thấy từ thời Trần trở về trước các triều đại của nước ta đã xây dựng được những đội quân quen nghề sông nước và cơ động chủ yếu bằng thuyền, ra đời một cách tự nhiên bên cạnh những đội quân bộ và trở thành hai bộ phận chủ yếu trong lực lượng vũ trang truyền thống của dân tộc ta. Tiếc rằng về những người lính “đặc công nước”, sử sách không ghi chép nhiều, ngoại trừ Yết Kiêu, một đại diện tiêu biểu trong đội quân đặc biệt đó.
Đội quân ăn mày do thám
Tình báo là hoạt động điều tra, thu thập, nghiên cứu, tổng hợp, xử lý những tin tức, tư liệu bí mật về quân sự, chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế... của đối phương. Hoạt động này xuất hiện cùng với sự ra đời của nhà nước, trên cơ sở các thông tin thu thập được sẽ có những đánh giá và xử lý để đưa ra những quyết định, đặc biệt là liên quan đến chính sách đối ngoại và quốc phòng.
Ở phương Đông, nhà quân sự nổi tiếng của Trung Quốc (thế kỷ VI-V TCN) là Tôn Tử, bằng tài trí của mình đã giúp vua Ngô cải cách chính trị ở trong nước và chỉ huy quân đội phá nước Sở hùng mạnh ở phía Tây, uy hiếp nước Tấn ở phía Bắc… Ông chuyên tâm nghiên cứu các vấn đề quân sự, đúc kết nhiều kinh nghiệm của chiến tranh ở trước và trong thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc rồi viết thành bộ binh pháp gồm mười ba thiên binh (thường được gọi là Binh pháp Tôn Tử).
Trong tác phẩm này, Tôn Tử đã nêu ra những nguyên tắc cơ bản để giành chiến thắng trong chiến tranh, xem xét sự phụ thuộc của binh thế vào sức mạnh của quốc gia, sự ảnh hưởng của Thời-Thiên-Địa và vai trò của người chỉ huy đối với tác chiến…; đặc biệt là ở thiên thứ 13 có đề cập đến hoạt động do thám, gián điệp với tiêu đề là “Phép dụng gián” (Dùng trinh thám).
Đội quân ăn mày do thám |
Trong cuốn “Binh thư yếu lược”, ở phần Phép dùng gián điệp của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn cũng có đoạn nói về vai trò quan trọng của hoạt động do thám, gián điệp như sau: “Phàm dùng binh trước hết phải dụng gián để thăm dò mà tùy cơ ứng biến, hoặc thăm dò để biết bên địch có việc tranh trưởng, có sự không hòa... Công việc của gián làm, xem việc mà cử ra thì thấy có 8 thuật: lấy sứ giả làm gián điệp, lấy người của địch làm gián điệp, tung tin giả, phao tin tâm lý, mua chuộc đút lót, kích động, gièm pha... Dụng gián là việc linh hoạt, cơ mưu không thể lường”.
Hoạt động tình báo, gián điệp đã được các triều đại phong kiến Việt Nam coi trọng và áp dụng khá hiệu quả trong chiến tranh giữ nước, đặc biệt là thời Lý, Trần và Hậu Lê. Thời kỳ Bình Định Vương Lê Lợi khởi nghĩa chống giặc Minh xâm lược, có một người đã tổ chức đội quân thu thập tin tức dưới hình thức rất đặc biệt, đó là Phạm Ngũ Thư. Ông quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, lộ Hải Đông (nay thuộc xã Phù Ủng, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên), ông là cháu ba đời của danh tướng Phạm Ngũ Lão, bậc đại công thần tài kiêm văn võ nổi tiếng triều Trần. Khi Hồ Qúy Ly cướp ngôi nhà Trần, Phạm Ngũ Thư từ quan về ở ẩn rồi xuất gia tu hành tại chùa Vân Yên trên dãy núi Yên Tử vùng Đông Bắc với pháp danh là Trí Lâm.
Tình hình xã hội nước ta bấy giờ có những diễn biến phức tạp, nhà Hồ sụp đổ, quân Minh kéo vào xâm lược, các cuộc khởi nghĩa chống giặc lần lượt bị đàn áp dã man, triều Hậu Trần cũng không tồn tại được lâu. Hoàn cảnh đó đã tác động nhiều đến tâm trí Phạm Ngũ Thư, ông quyết định hoàn tục, lấy vợ sinh con, muốn làm tròn nghĩa vụ của người trai thời loạn. Nghe tin cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bùng nổ, ông tìm vào Thanh Hóa xin đầu quân, cùng nếm trải gian lao khó nhọc với nghĩa binh hơn 10 năm trời. Để thăm dò sự điều động binh lực cũng như nắm tình hình của giặc, Phạm Ngũ Thư đề nghị và được Bình Định Vương Lê Lợi chấp thuận cho thiết lập “hệ thống tình báo” với nhiều đối tượng cài vào hàng ngũ ngụy quan, ngụy quân cũng như trong xã hội dưới các vai nhà buôn, học trò….
Đội quân do thám
Trực tiếp điều hành mạng lưới thu thập thông tin, Phạm Ngũ Thư còn giả trang thành người ăn xin để đi lại khắp nơi mà giặc chẳng nghi ngờ, cũng nhờ đó mà ông nhận thấy lợi thế của những người hành khất vì càng dơ dáy, cùi hủi ghẻ lở thì lại càng được việc, họ có thể “một gậy, một bị khắp nơi tung hoành”, “liều mạng cùi” xông bừa vào chỗ đóng quân, kho lương của địch để quan sát và la cà khắp nơi để chuyển tin nhanh chóng mà an toàn, từ đó Phạm Ngũ Thư tạo dựng thêm nhiều tai mắt trong giới cái bang. “Hệ thống tình báo” này hoạt động đắc lực, góp phần quan trọng vào thắng lợi của nghĩa quân Lam Sơn, quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập.
Năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi lên ngôi vua, đặt niên hiệu Thuận Thiên, đến tháng 2, định công phong chức tước, ban thưởng cho các công thần chia làm 4 hạng, gồm 339 người có nhiều quân công nhất, trong đó có Phạm Ngũ Thư. Ông được phong làm Trung lượng tả phụng thần vệ quân, tước Đại trí tự nhưng ông viện cớ tàn tật để khước từ quan chức xin về quê sinh sống, chỉ nhận tước và phần thưởng là hai trăm mẫu ruộng rồi đem chia hết cho dân nghèo để trồng cấy.
Lại nghĩ đến cảnh nhiều người còn khổ cực, Phạm Ngũ Thư nói với vợ rằng: “Thời lang thang lo việc nước, ta đã chung sống với giới ăn xin, cảm thông được nỗi đau thương chua xót vô biên của những con người khốn khổ bị xã hội khinh khi ruồng rẫy. Ta hằng phát nguyện sẽ chia sẻ, cứu giúp xoa dịu thương đau cho họ”. Dặn vợ con làm nhiều hơn nữa việc thiện, phát tâm giúp đỡ kẻ khó, rồi ông ra đi. Tay chống gậy trúc, áo quần rách rưới, ăn xin sống qua ngày nay đây mai đó, để hiểu nỗi đau thương mà san sẻ, an ủi họ người cùng cảnh ngộ, lựa lời nhắc nhở họ về lý nghiệp báo, khuyên họ xả bỏ thù hằn, nghi kị, chán nản mà khơi nguồn cho niềm lạc quan và tình người tuôn chảy.
Thế là viên thủ lĩnh của “đội quân cái bang” hoạt động tình báo năm nào nay lại trở về với những con người cùng khổ cho đến lúc cuối đời. Trên bia mộ của ông chỉ khắc dòng chữ: “Phạm khất sĩ chi mộ” (mộ của người ăn mày họ Phạm). Ngày nay tại làng Thư Lang (nay thuộc xã Thư Lang, tỉnh Hà Nam) vẫn còn đền thờ Phạm Ngũ Thư, bao đời nay người dẫn vẫn hương khói để ghi ơn công lao và ân đức của vị thành hoàng làng mình, người có cuộc đời đặc biệt một như huyền thoại.
Đội quân khuyển đánh giặc
Cũng vào thời Lê, Nguyễn Xí đã chỉ huy một đạo quân là chó săn, có những đóng góp nhất định vào công cuộc đánh giặc cứu nước. Danh tướng Nguyễn Xí quê ở làng Thượng Xá, huyện Châu Phúc (nay là huyện Nghi Lộc, Nghệ An), sinh ra trong một gia đình làm nghề buôn bán muối. Tương truyền cha ông là Nguyễn Hội “bị một con cọp đã thành tinh cắp đi vùi xác ở một huyệt đất tốt tại xứ Đồng Lam. Cọp còn cắm cây xung quanh mộ. Hôm sau, người nhà đến tìm được và đem về chôn nơi khác. Nhưng rồi đến đêm hôm sau nữa con cọp lại tới gầm thét vang khắp núi non, bới tung lên, vất bỏ quan tài, đem xác đến vùi lại chỗ cũ. Bấy giờ người nhà mới biết là trời ban cho huyệt tốt” (Đại Việt thông sử).
Tuy còn nhỏ nhưng Nguyễn Xí rất thông minh, nhanh nhẹn, tỏ rõ là người có tài vì thế Lê Lợi rất quý, giao cho chăm sóc một đàn chó săn lớn. Sách Đại Việt thông sử cho biết: “Vua sai Nguyễn Xí nuôi một đàn chó săn gồm hơn 100 con. Sớm chiều chia cơm cho chó ăn ông đều dùng chuông làm hiệu. Bầy chó theo sự điều khiển của ông, tiến thoái răm rắp. Nhà vua rất quý ông, cho là người có tài làm đại tướng nên sai ông nắm quyền cai quản đội quân Thiết Độ thứ nhất".
Năm Mậu Tuất (1418) cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chính thức được phát động, lúc này Nguyễn Xí mới 21 tuổi đã được trao quyền tướng quân hầu cận bên Bình Định Vương Lê Lợi. Ông đã trải qua những ngày tháng khó khăn, gian nan trong những năm đầu khởi nghĩa ở vùng rừng núi Tây Thanh Hoá, Linh Sơn, Khôi Huyện… Trong bước đường chiến chinh đó, đàn chó của Nguyễn Xí trở thành một đội quân đặc biệt, do được huấn luyện chu đáo, điều khiển bằng tiếng nhạc nên từ ăn, ngủ, tấn công chúng đều theo hiệu lệnh phát ra. Những lúc bị vây hãm tuyệt lương thì đàn chó được lệnh đi săn thú, bắt chim về làm thức ăn cho nghĩa quân. Khi xung trận, Nguyễn Xí điều khiển bầy chó lăn xả vào cắn xé làm quân giặc rất hoảng sợ; tên tướng Minh là Mã Kỳ mỗi khi nghe đến đội quân khuyển của ông lại kinh hãi.
Có lần Nguyễn Xí cho buộc vào cổ đàn chó những chiếc đạc ngựa, khi chó chạy sẽ phát ra tiếng kêu như tiếng đoàn kị mã. Đến đêm ông dẫn quân đến vây trại giặc Minh rồi cho đánh trống reo hò ầm ĩ, lại xua chó chạy quanh trại. Quân Minh nghe tiếng đạc ngựa, lại thấy tiếng trống thúc, quân reo rất hốt hoảng tưởng bên ta đến cướp trại nhưng không rõ binh lực thế nào nên không dám ra đánh. Chúng đành dùng cung nỏ bắn ra như mưa, một chốc Nguyễn Xí lại cho dừng, bọn giặc thấy yên thì ngừng bắn, ông lại thả chó ra, trống lại đánh, quân lại reo, giặc lại bắn ra. Đến gần sáng, sau khi thu nhặt được hàng vạn mũi tên quân ta rút đi, còn bọn giặc cả đêm hoảng loạn, mất ngủ lại tổn thất rất nhiều tên. Nghĩa quân Lam Sơn và dân chúng hết lời ca ngợi Nguyễn Xí, xem việc lập kế lấy tên của giặc không kém gì mưu của Khổng Minh dùng người rơm “mượn tên” của quân Tào trên sông Xích Bích thời Tam Quốc.
Trong 10 năm kháng chiến gian khổ, Nguyễn Xí cùng đàn chó của mình tham gia nhiều trận đánh quan trọng như cuộc vây hãm thành Đông Quan, hạ thành Xương Giang, tiêu diệt và bắt sống gần 10 vạn quân Minh sang tăng viện năm Đinh Mùi (1427)… Khi sự nghiệp kháng chiến thành công, giặc Minh bị quét sạch khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi hoàng đế đã phong cho Nguyễn Xí làm Long Hổ tướng quân, Suy trung Bảo chính công thần, tước huyện hầu, là bậc khai quốc công thần của triều Hậu Lê và được ban quốc tính (họ vua). Ông làm quan trải qua 5 đời vua, công danh tột bậc, được phong làm Nhập nội đô đốc, hàm Thiếu bảo sau đó là Khai phủ nghi Đồng tam ti, Nhập nội kiểm hiệu, Thái phó Cương quốc công, Nhập nội hữu Tướng quốc… Năm Ất Dậu (1465), Nguyễn Xí bị bệnh mất, thọ 68 tuổi, triều đình truy tặng chức Thái sư.
Đội quân bồ câu đưa tin
Trong chiến tranh, việc truyền tin tức giữ vai trò cực kỳ quan trọng, do đó từ xa xưa, các triều đình đã tổ chức hệ thống thông tin với các dạng thức khác nhau như dùng cờ hiệu, đặt trạm dịch, dùng hỏa đài… và đặc biệt là dùng chim bồ câu để đưa tin. Không rõ việc sử dụng chim bồ câu đưa tin xuất hiện ở nước ta khi nào, nhưng đến giai đoạn kháng chiến chống quân Minh xâm lược, sử sách và giai thoại dân gian có nhắc đến hai nhân vật nổi tiếng là Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Chích. Đây là hai danh tướng của nghĩa quân Lam Sơn và sau này là khai quốc công thần của nhà Hậu Lê.
Trần Nguyên Hãn là con cháu nhà Trần, cháu ruột của Trần Nguyên Đán, dòng dõi Thượng tướng Trần Quang Khải, anh em (con cô, con cậu) với Nguyễn Trãi. Ông quê ở xã Sơn Đông (nay thuộc huyện Lập Thạnh, Vĩnh Phúc), lập nhiều công nên khi xét công lao ông được đứng hàng đầu với chức Tả tướng quốc. Trong thời gian kháng chiến, Trần Nguyên Hãn đã dùng những chú chim bồ câu mà ông nuôi dưỡng, huấn luyện để chuyển thư qua lại với chủ tướng Lê Lợi và các đầu mối quân sự khác. Có lần khi đang đóng quân trấn giữ thành Võ Ninh thì bị quân Minh kéo đến vây chặt, tình thế rất nguy khốn, Trần Nguyên Hãn đã viết thư cầu cứu rồi buộc vào chân chim. Nhờ thư do chim câu mang đến, Bình Định Vương Lê Lợi biết được tình hình liền lập tức cho quân tiếp viện đến Võ Ninh phá vỡ vòng vây giải cứu. Sau này Trần Nguyên Hãn với hình ảnh chú chim bồ câu được suy tôn là Thánh Tổ của lực lượng truyền tin nước ta.
Cùng về qui tụ dưới lá cờ nghĩa Lam Sơn còn có một vị tướng cũng có tài nuôi chim bồ câu, ông tên là Nguyễn Chích. Ông người thôn Vạn Lộc, xã Đông Ninh, phủ Đông Sơn (nay là huyện Đông Sơn, Thanh Hóa), trước khi tham gia lực lượng của Lê Lợi thì Nguyễn Chích đã dựng cờ khởi nghĩa ở núi Hoàng Sơn (nay thuộc huyện Nông Cống, Thanh Hóa) lấy thành Yên Mỗ làm căn cứ. Chính ông đã đề xuất kế hoạch vào Nghệ An, tạo nên cục diện mới cho cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Bố Nguyễn Chích là người thích nuôi chim thả để dự thi nên truyền nghề này cho con, vì thế từ nhỏ ông đã có biệt tài nuôi chim bồ câu rất giỏi. Bồ câu được dạy một cách khéo léo để xem khả năng của mỗi con, người ta đặt một chậu nước giữa sân, rồi cho chim tung cánh lên trời, những con chim nào dạy khéo sẽ bay rất thẳng, đến nỗi, bay cao lên tít mây xanh mà bóng chim vẫn in trong chậu nước. Nguyễn Chích đã tập cho đàn chim của ông bay khéo như vậy và còn luyện cho chúng mang thư từ và đồ nhẹ đến nơi định sẵn và bay trở về.
Khi gia nhập cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Chích cùng vợ là Nguyễn Thị Bành đã mang cả bầy bồ câu đi theo, nhiều lần, chim câu đã giúp việc truyền tin cho nghĩa quân rất nhanh chóng. Một bận, căn cứ Lam Sơn bị đánh úp trong khi phần đông quân lính được chủ tướng Lê Lợi chia ra, sai các tướng tá dẫn đi các ngả mất rồi, ở doanh trại chỉ có Lê Lợi và Nguyễn Chích cùng mấy trăm quân túc vệ. Giặc Minh ở ngoài vây rất chặt, khó có thể phá được vòng vây hay cử người đi báo tin giải cứu.
Nguyễn Xí liền thả chim câu đi đưa thư gọi được các cánh quân về cứu viện, trong đánh ra, ngoài đánh vào làm cho vòng vây của giặc tan vỡ, Bình Định Vương Lê Lợi rất khen ngợi, ban thưởng cho Nguyễn Xí và lấy thóc tẩm mật cho chim ăn để bồi dưỡng. Cho đến nay người dân ở vùng đất xứ Thanh Nghệ vẫn lưu truyền bài thơ ca ngợi “đội quân” chim bồ câu của tướng Nguyễn Chích như sau: “Bồ câu bồ các/ Nó hát cúc cù/ Cu đi Quan Du/ Cu về Bù Rộc/ Thư này hỏa tốc/ Phải đợi cu về/ Ăn gạo vua Lê/ Đậu vai ông Chích/ Cu là cu thích/ Lại hát cúc cù!”.
Ngoài những “đội quân” đặc biệt nói trên, trong lịch sử ghi nhận nhiều nhất đến những đội quân voi trận, ngựa chiến đã được người Việt sử dụng từ lâu đời, tạo thành sức mạnh nhiều phen kiến quân thù kinh hồn táng đởm. Bên cạnh đó, trong những tình huống, hoàn cảnh nhất định đã xuất hiện những “đội quân” động vật được sử dụng một lần như “đội quân” vịt, ngỗng có nhiệm vụ cảnh giới, mỗi khi có người sẽ kêu như một cách báo động; “đội quân” rắn độc, như chuyện nghĩa quân của Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười đã dụ quân Pháp vào nơi có hang rắn độc lớn khiến không ít tên giặc bị thiệt mạng, còn người dân thì hào hứng kể cho nhau rằng Thiên Hộ Dương có đạo binh “rắn thần” trợ chiến.
Hay như “đội quân” trâu lửa phá trận với những chú trâu sừng buộc gươm đao lao vào hàng ngũ của đối phương xung sát dữ dội, sách Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo cũng viết về cách sử dụng lực lượng này như sau: “Dùng con trâu già bỏ đi, buộc dao sắc vào sừng, hai bên mình cặp tre sát vào chân cho không thể quay được, trên lưng đội một ống pháo sắt lớn chứa một đấu thuốc, thuốc để quanh co ở trong pháo; pháo chứa những thuốc liệt hỏa, thần sa, thần hỏa. Phàm khi quân giặc rất nhiều quân ta rất ít, dùng trâu ấy xông vào người ngựa gặp phải tức thì tan nát. Khi xông vào trận giặc thì lửa phát pháo nổ, thế như sấm động, ầm một tiếng không kịp bịt tai. Dù khó nhọc mấy ở trong mấy trùng vây của giặc cũng phá tan được”.
Theo Cảnh sát toàn cầu
Nhận xét
Đăng nhận xét