-Chiến
dịch Mậu Thân nếu là một chiến thắng thì là một chiến thắng tốn quá
nhiều sinh mạng. Do
hoang tưởng mà chỉ có tổng tấn công chứ không có nổi dậy, và khi thấy
vấn đề thì thành chuyện đã rồi!Mới thấy danh vọng cá nhân, một khi phát
tác, dù ở bất cứ lĩnh vực nào, cũng gây tác hại ghê gớm! -Dù vậy, xét về thành quả chính trị đạt được sau đó, nó vẫn có thể được ca ngợi! -Nếu
gọi cuộc chiến thắng phát xít Hittle của Liên Xô là "Cuộc chiến tranh vệ
quốc vĩ đại", thì phải gọi cuộc chiến thắng Mỹ-ngụy của Dân Tộc ta là
"Cuộc chiến tranh cứu nước thần thánh"! Còn nếu gọi
cuộc chiến thắng phát xít Hittle của Liên Xô là "Cuộc chiến tranh vệ
quốc thần thánh", thì phải gọi cuộc chiến thắng Mỹ-ngụy của Dân Tộc ta
là
"Cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại"! Đó là hai cuộc chiến cứu mình đồng
thời cũng cứu người, tưởng thua mà thắng vẻ vang, mang nét thần kỳ. -Lời Võ Văn Kiệt: "Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn". -Có
hai luồng ý kiến khen và chê câu nói trên. Riêng phần tôi, luôn đứng về
bên luồng khen! Tôi cho rằng, câu nói đó không những chính xác theo
nghĩa đen, mà còn thỏa mãn về mặt tình cảm ghét chiến tranh của con
người. Ngày 30/4 là ngày Giải Phóng khỏi ách nô dịch của Dân Tộc, không
lẽ không vui? Nhưng để có ngày đó, Dân Tộc Việt đã phải đổi bằng khoảng 5
triệu sinh mạng con em mình (nếu kể cả chiến tranh với Pháp thì hơn thế
nữa!) ở cả hai phía chính nghĩa lẫn phi nghĩa. Ngày Chiến Thắng, trong
niềm vui chung, tất nhiên cũng có nỗi buồn riêng của từng gia đình về
những người thân đã nằm xuống vĩnh viễn, không về. Có thể nói, chiến
tranh Việt Nam là cần thiết nhưng quá đắt, ai coi ngày 30/4 là ngày vui
trọn vẹn thì rõ ràng là người vô cảm, cuồng tín, và ai coi ngày đó là
ngày "quốc hận"thì chính là kẻ ác tâm, cố tình mù quáng lịch sử Việt Nam!
4.000- 10.000 chết , bị thương chưa có số liệu.
3 xe tăng bị phá hủy
Tính riêng thủy quân lục chiến: 3.658 chết trên tổng số hơn 5.000 chết và bị thươngTổng số: 7.756 chết, hàng nghìn bị thương
9 máy bay, 25 xe tăng - xe bọc thép, 4 ôtô bị phá hủy
Năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức tổng tấn công trên 3
chiến trường chính: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ (Bình
Long), trong đó hướng chủ yếu là Quảng Trị. Sau khi mở Chiến dịch Trị Thiên
từ tháng 3 năm 1972, sau 2 đợt tấn công, đến tháng 5 thì Quân đội Nhân
dân Việt Nam đã chiếm được toàn bộ Quảng Trị. Giữa tháng 6, Quân lực
Việt Nam Cộng hòa dồn lực lượng phản công với sự tham gia chiến lược của
không quân, hải quân Hoa Kỳ và bắt đầu lấy lại ưu thế trên chiến trường
(chiến dịch Lam Sơn 72).
Đây cũng là thời điểm mà Quân đội Nhân dân Việt Nam đang bổ sung lực
lượng chuẩn bị cho đợt tấn công thứ 3 vào Thừa Thiên. Chiến sự trong
"mùa hè đỏ lửa" diễn ra cực kì ác liệt, ác liệt nhất kể từ khi có cuộc
chiến tranh tại Việt Nam. Quân lực Việt Nam Cộng hòa bắt đầu mở các cuộc
phản công và đến đầu tháng 7 đã tiến đến thị xã Quảng Trị. Cuộc chiến
81 ngày ở thị xã và thành cổ Quảng Trị bắt đầu.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa: Các Lữ đoàn dù 1, 2, 3; Liên đoàn 81/Biết
cách nhảy dù; Thiết đoàn 7, 18 kị binh; 3 lữ đoàn thuỷ quân lục chiến
và các tiểu đoàn pháo, công binh…
Quân đội Hoa Kỳ: B-52 ném bom chiến lược của không quân Hoa Kỳ, pháo hạm yểm trợ từ Hạm đội 7. Thống kê cho biết trong 81 ngày đêm, Hoa Kỳ đã sử dụng:
4.958 lần/chiếc B-52
(trung bình 60 lần/ngày đêm). 9.048 lần/chiếc máy bay phản lực các loại
(trung bình hơn 100 lần/ngày đêm), ném tổng cộng hơn 120 nghìn tấn bom
đạn (bằng 7 lần quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima), nếu tính trung bình thì các chiến sĩ QĐNDVN tham gia trận đánh phải hứng chịu 4 tấn bom mỗi người.
Hơn 950 nghìn viên đạn pháo 105mm, 55 nghìn viên đạn pháo 155 mm,
8.164 viên đạn pháo 175mm, hơn 615 nghìn viên đạn hải pháo oanh kích
(trung bình mỗi chiến sĩ QĐNDVN phải hứng chịu khoảng 50 viên đạn pháo).
Tính riêng từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, chỉ trong 1
tuần quân Mỹ đã sử dụng: 95.570 viên đạn pháo 105 ly; 11.002 viên đạn
pháo 155 ly; 2.630 viên đạn pháo 175 ly; 14.223 viên đạn pháo từ hạm đội
7 và 163 lần/chiếc máy bay phản lực Mỹ.
Riêng ở khu vực thị xã Quảng Trị, tổng số bom đạn mà Mỹ sử dụng trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử
Mỹ ném xuống Nhật bản. Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom
Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày
25/7, thị xã phải chịu 35.000 quả đạn pháo chưa kể bom từ máy bay. Thành
cổ Quảng Trị chỉ rộng 3 km vuông và vùng ven có ngày phải chịu hơn hai
vạn quả đạn đại bác cỡ lớn. Với việc huy động một số lượng bom đạn không
lồ, quân Mỹ hoàn toàn có ưu thế áp đảo về hỏa lực.
Quân đội Nhân dân Việt Nam: Lực lượng phòng thủ trên toàn thị xã
Quảng Trị bao gồm Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B), Trung đoàn Triệu Hải,
tức E27 sư đoàn 320B (sau này là F390) Trung đoàn 95 (sư đoàn 325), 2 tiểu đoàn địa phương đóng ở Quảng Trị. Chi viện trực tiếp cho lực lượng này là các đơn vị còn lại của Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312.[6] Ngoài ra, sườn phía tây thị xã do trung đoàn 88 (thiếu) của sư 308 chốt giữ.
Để chống lại cuộc bắn phá dữ dội chưa từng có, QĐNDVN chỉ có trong tay một vài xe tăng và một số đơn vị pháo phòng không,
lực lượng tác chiến chủ yếu là bộ binh. Với mật độ hỏa lực hạng nặng
dày đặc của đối phương, ước tính có tới hơn 80% thương vong của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong trận đánh là bởi các đợt oanh tạc và pháo kích, chỉ có một phần nhỏ là trong các cuộc đọ súng bộ binh.
Ngày 28 tháng 6 năm 1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh chiến dịch Lam Sơn 179 trên hai hướng. Chiều 28 tháng 6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đã cô lập được một bộ phận của các sư đoàn 304
và 308 QĐNDVN ở nam Sông Mỹ Chánh. Hướng Đông, ngày 29 tháng 6, các lữ
TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao
(thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với Lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy
đánh ra. Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của
QĐNDVN trên khoảng cách từng hecta một, chịu thương vong hơn 300 quân,
Lữ dù 1 và Liên đoàn 1 Biệt động quân đã có mặt ở ngoại vi thị xã Quảng
Trị nhưng không lọt vào được.
Ngày 7 tháng 7, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48) QĐNDVN sử dụng Đại đội 9,
tăng cường 1 trung đội của Đại đội 10, với một trung đội địa phương và 3
xe tăng,
được Trung đoàn pháo 45 chi viện trực tiếp, thực hành phản kích đối
phương ở phía Đông La Vang Hữu. Quân VNCH thấy xe tăng bất ngờ xuất
hiện, nên đội hình rối loạn. QLVNCH bị thương vong hàng trăm binh lính,
bị bắn cháy hai xe tăng và bị đánh bật ra khỏi khu vực La Vang Hữu.
QĐNDVN bị hỏng hai xe tăng, một chiếc do bắn nhầm và một chiếc bị phá do bom.
Đến lúc này, thời hạn chiếm lại Thành Cổ mà Mỹ hoạch định đã sắp hết,
nhưng đà tiến vẫn bị chặn đứng. Quân Mỹ liền tăng cường hỏa lực, nâng
tổng số đạn pháo đánh phá thị xã từ 8.000 viên/ngày lên 15.000
viên/ngày, cao điểm có ngày lên tới 30.000 viên/ngày, sử dụng 40 đến 60
lần/chiếc máy bay phản lực một ngày, dùng bom khoan đánh phá hầm hào
tường thành, tăng số phi vụ máy bay B-52 ném bom dọc bờ tả ngạn sông
Thạch Hãn và hậu phương để ngăn chặn QĐNDVN tăng cường quân số, vận
chuyển tiếp tế.
Ngày 13 tháng 7, một máy bay trực thăng chở đại tá Nguyễn Trọng Bảo,
tham mưu phó sư dù và 8 sĩ quan tham mưu đi đốc thúc việc cắm cờ hòng
gây thanh thế tại bàn đàm phán ở Paris. Chiếc trực thăng bị một trận địa
súng máy 12,7 mm của QĐNDVN do Bùi Trung Thành
chỉ huy tiêu diệt ngay tại thị xã Quảng Trị cùng tất cả số sĩ quan
trong trực thăng. Rạng sáng 14 tháng 7, một đội biệt kích đột nhập vào
phía đông Thành cổ, định cắm cờ và chụp ảnh để có lý do tuyên truyền,
nhưng chưa kịp cắm thì bị đại đội 14 trung đoàn 48 phát hiện và tiêu
diệt một số, số còn lại phải rút chạy bỏ lại lá cờ.Mũi đột kích sâu của sư dù và thiết đoàn 20 cũng bị đẩy lùi.
Ý định của QLVNCH chiếm thị xã trước ngày 13 tháng 7 để mặc cả tại
Hội nghị Paris đã không thực hiện được. Thương vong mỗi bên lên đến hàng
nghìn người. Sau mười ngày liên tục tiến công Thị xã, sư đoàn dù chịu
tổn thất khá lớn. QLVNCH bị thương vong 1.071 binh lính, tiểu đoàn dù 1
và 5 bị tổn thất nặng, bị cháy 3 xe tăng, rơi 2 máy bay (1 phản lực, 1 trực thăng) và bị phá hủy nhiều vũ khí phương tiện kỹ thuật khác
Ngày 14 tháng 7, Sư dù và Sư TQLC QLVNCH tổ chức tấn công đợt 2 nhằm
chiếm thị xã trước ngày 18 tháng 7 và cùng lắm phải trước ngày 27 tháng
7. Lữ dù 1 đánh Quy Thiện, Trì Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các
lữ TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và
Bích La Đông. Trong trận này, Lữ 369 TQLC tổn thất 2 đại đội và 11 trực thăng
ở Nại Cửu. Đến ngày 16 tháng 7, Lữ dù 1 đã chiếm được các làng Trì Bưu,
Cổ Thành; Trung đoàn 18 (Sư 325) bị tổn thất nặng phải rút ra Ái Tử -
Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 95 (Sư 325) vào thay. QLVNCH đã
hình thành thế bao vây ba mặt quanh thị xã Quảng Trị nhưng chưa vào được
nội đô.
Từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 7, tướng Lê Quang Lưỡng
tung lực lượng dự bị cuối cùng (Liên đoàn biệt kích dù 81) vào chiến
đấu, chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ Thành. Tiểu đoàn biệt kích dù 27
tiến sát góc Đông Nam Thành cổ nhiều lần lao lên định cắm cờ lên tường
thành nhưng đều bị Trung đoàn 48 đẩy lùi. Hai bên tổn thất lớn về sinh
mạng.
Ngày 28 tháng 7, thời hạn đánh chiếm thị xã Quảng Trị và thành cổ đã
hết, tướng Ngô Quang Trưởng quyết định dừng cuộc tấn công của Sư đoàn
dù, chuyển giao nhiệm vụ đánh chiếm thị xã Quảng Trị cho Sư đoàn thủy
quân lục chiến. Trong tháng 7, mỗi ngày Không lực Hoa Kỳ huy động từ 40
đến 60 phi vụ B-52, 130 đến 150 phi vụ máy bay cường kích yểm hộ mặt đất cho QLVNCH.
Ngày 5 tháng 8, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 QĐNDVN cùng đơn vị bạn đã
tập kích diệt 1 đại đội quân đối phương ở Hạnh Hoa, đánh thiệt hại 3 đại
đội khác, bắn cháy 5 xe tăng. Đơn vị được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Từ hạ tuần tháng 7 đến 15 tháng 9, Trung đoàn 88 sư đoàn 308
bảo vệ khu vực Tây nam Thành cổ, giữ vững trận địa từ khu vực trường Bồ
Đề, khu Đệ Ngũ, ngã ba Bãi Đá, khu Cầu Sắt, khu Long Hưng đến La Vang
và đồn Gia Long. Trung đoàn đã đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, trong đó có 50
trận cấp đại đội đến trung đoàn, tiêu diệt 1.670 binh lính đối phương,
bắn cháy 16 xe tăng, thu nhiều vũ khí đạn dược.
Trung tuần tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh B5 QĐNDVN quyết định giao nhiệm vụ cho sư đoàn 325 chỉ huy lực lượng phòng thủ Thành cổ Quảng Trị. Tiêu biểu như trận đêm 24 tháng 8, một phân đội đặc công Sư đoàn 325 đã luồn sâu đánh sở chỉ huy tiểu đoàn thủy quân lục chiến ở An Lưu, diệt 80 lính đối phương, bắn cháy 2 xe tăng, 2 nhà bạt, phá 1 trận địa súng cối.
Lúc này, Sở chỉ huy cơ bản của sư đoàn đóng ở khu vực Cao Hy - Tây Ðông Hà độ 15 km trên một bãi bom B-52
đã đánh nát. Sư đoàn chọn địa điểm này là để tạo bất ngờ đối với VNCH,
cho là bộ đội không thể đóng một cơ quan chỉ huy cỡ sư đoàn tại một vùng
Hoa Kỳ đã ném bom tơi bời. Sở chỉ huy Thành cổ (QĐNDVN) ở ngay sát mép
sông, dưới một căn hầm rượu của dinh tỉnh trưởng Quảng Trị đã bị bom đạn
làm đổ nát, gạch đá gỗ sắt đổ ngổn ngang bao phủ cả khu hầm dày tới 4-5
mét, bom ném bên cạnh cũng chẳng hề gì.
QĐNDVN đã cải tạo khu hầm, chia thành ba ngăn có giao thông hào chạy
ra bên ngoài. Một ngăn làm khu phẫu thuật, ngăn cho thông tin trinh sát
và một ngăn chỉ huy và trực ban tác chiến. Cửa hầm được thiết bị chiến
đấu chu đáo, có trung liên và B-41 bảo vệ. Không lực VNCH và Hoa Kỳ hàng
ngày soi tìm, nhưng do họ ngụy trang kín đáo, kỷ luật, khói lửa và đi
lại ban ngày được duy trì nghiêm mật, nên vẫn chưa phát hiện được mục
tiêu sở chỉ huy, tuy có nghi ngờ, thường xuyên tìm kiếm.
Trận chiến trong thị xã
"Nụ cười bên thành cổ Quảng Trị" (bộ đội), tác giả Đoàn Công Tính
Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 năm 1972, các chốt trong thị xã đều
được Quân đội Nhân dân Việt Nam giữ vững. Đêm đêm, họ tập kích ở Tri
Bưu, ở Thạch Hãn, chùa Bà năm, diệt một số đối phương khiến quân Việt
Nam cộng hòa không tiến được.[cần dẫn nguồn]
Quân số của họ bổ sung vào Thành đều đặn theo kế hoạch. Mỗi đêm vào
trung bình được 40-50 người (đã trừ số người đào ngũ, lạc ngũ hoặc bị
thương từ bên kia bờ sông, chiếm khoảng 30-40%). Hàng ngày thuyền gắn
máy hậu cần từ Tả Kiên vào thành đều tiếp tế lương thực, đạn dược,
thuốc men, kể cả quà Quốc khánh từ hậu phương tới. Dù vậy, do áp lực
liên tục từ đối phương, giao thông hào chiến đấu bị bom đạn bắn phá liên
tục, nên hệ thống phòng thủ ngày càng lỏng lẻo. Tân binh được tăng
cường cho các đơn vị phòng thủ chỉ đủ để bù đắp số thương vong trong
chiến đấu.
Ðợt từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 9 năm 1972, trời mưa to, nước sông Thạch Hãn
lên nhanh, chảy xiết, ảnh hưởng đến tăng cường cung cấp và quân số. Có
đêm trôi dạt hàng chục chiến sĩ vượt sông. Công sự chốt bị sụt lở nhiều.
Bộ đội tiếp tục giữ các chốt trên các hướng. Tiểu đoàn 4 E95 tập kích
khu tam giác Thạch Hãn, chiếm một số công sự của VNCH, cải thiện thế
phòng thủ ở đó. Tiểu đoànđặc công mặt trận phối hợp với đại đội đặc công sư đoàn 325 chuẩn bị đánh khu quận lỵ Mai Lĩnh nhưng thất bại.
Ngày 4 tháng 9 năm 1972, E88 F308
Quân đội Nhân dân Việt Nam rút khỏi khu Thạch Hãn tây và khu giáp sông ở
thôn Ðệ Ngũ-trường Bồ Đề làm sườn phía nam bị hở. Một số thành viên
trung đoàn 88 trong đó có trung đoàn phó Phan bị thương tạt vào sở chỉ huy Thành cổ.
Bộ chỉ huy quyết định tổ chức đưa số này vượt sông lũ ra hậu phương. Để
đối phó với tình hình quan trọng này, họ sử dụng một bộ phận tiểu đoàn
7, trung đoàn 18 và tiểu đoàn 4, trung đoàn 95 ra chiến đấu thay thế
trung đoàn 88 ở khu vực đó để giữ sườn phía nam thị xã.
Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến công đợt 6, mở đầu bằng đòn tập kích hỏa lực "Phong lôi 2". Không quân, hải quân Hoa Kỳ,
pháo binh Việt Nam Cộng hòa bắn suốt 48 giờ liền vào tất cả các trận
địa của Quân đội Nhân dân Việt Nam, tập trung đánh vào khu Thành cổ, các
bến vượt sông, đường cơ động lực lượng và vận chuyển. Oanh tạc cơ B-52
rải thảm tả ngạn sông Thạch Hãn, tập trung vào khu Nhan Biều-Ai Tử và
các trận địa pháo của đối phương. Tính toàn bộ trong 81 ngày đêm của
trận Thành cổ, các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã dội xuống địa
điểm thị xã (rộng chưa đầy 3 km²) và vùng lân cận tổng cộng 120.000 tấn
bom đạn, trong đó mỗi ngày có từ 70 đến 90 lượt máy bay ném bom B52 tham chiến. "Đây là kế hoạch chi viện hỏa lực cao nhất của Mỹ trong một trận đánh. Tính từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9,
Mỹ sử dụng pháo hạm bắn 123.725 viên đại bác vào thị xã (trong đó có
52.573 viên vào Thành cổ); sử dụng 2.244 lần chiếc máy bay ném bom,
trong đó có ngày huy động tới 100 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52."
Đêm 7 tháng 9, tiểu đoàn K2 E48 Quân đội Nhân dân Việt Nam tập kích
khu Hành Hoa, chiếm một số công sự, cải thiện thế phòng thủ ở Tri Bưu.
Tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 tập kích khu nhà thờ Tin Lành, thương vong một
số (tiểu đoàn trưởng đơn vị này cũng chết) nhưng đã chiếm được
Sáng ngày 9 tháng 9 năm 1972, lữ đoàn 147 và 259 Thủy quân Lục chiến
(TQLC) của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã khởi động cuộc tấn công lớn.
Quân VNCH sử dụng gồm hai lữ đoàn TQLC với năm mũi, tiến công từ ba hướng vào thị xã. Họ tập trung xe tăng, xe thiết giáp, súng phun lửa để tái chiếm thành cổ. Đồng thời với việc Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến công khu La Vang-Tích Tường-Như Lệ để chặn sư đoàn 308 phản kích từ hướng này, liên đoàn biệt động 1 VNCH cũng tiến công Bích Khê-Nại Cửu để chặn sư đoàn 320 QĐNDVN hoạt động từ bắc sông Vĩnh Ðịnh.
Tiểu đoàn địa phương đang K8 củng cố đội hình và ém quân bên ngoài.
Nhiều trận phản kích ác liệt của bộ đội ở ngay sát chân Thành cổ đã đánh
bật nhiều mũi tiến công. 9 tháng 9, một trung đội VNCH lọt vào thành
cổ, bị K3 Tam Đảo phản kích dữ dội phải tháo chạy, để lại 11 xác chết.
Cũng ngày hôm đó tại khu Hạnh Hoa, QĐNDVN diệt một đại đội, đánh thiệt
hại nặng một đại đội khác thuộc lữ đoàn thủy quân lục chiến 147, bắn
cháy 5 xe bọc thép. QĐNDVN mất 13 người, bị thương một số. Sau trận này, K3 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Tiểu đoàn 4 E95 QĐNDVN chặn đánh 3 tiểu đoàn đối phương ở khu Tin
Lành, quyết liệt giành đi giật lại từng công sự. Quân lực Việt Nam Cộng
hòa thiệt hại một đại đội, nhưng chiếm được khu Mỹ Tây. QĐNDVN bị thương
vong 30 người, hỏng một cối 82 ly, một súng 12 ly 7, một đại liên, một
B-40, một B-41.
Đến đêm 9 tháng 9, tiểu đoàn 4 cùng tiểu đoàn 5 E95 QĐNDVN tập kích
chiếm lại khu Mỹ Tây, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng hòa chạy về nam sông
con. Đêm 9 tháng 9, sau khi được củng cố, K8 vào thành.
Ngày 10, 11, 12 tháng 9 năm 1972, QLVNCH tiếp tục lấn dũi mạnh từ
hướng nam-đông-nam. Nhiều toán nhảy vào thành nhưng đều bị tiêu diệt.
Quanh Thành cổ, dưới hào nước, xác chết trương phềnh, mùi hôi thối xông
lên nồng nặc.
Ngày 10 tháng 9, QLVNCH lấn dũi có xe tăng chi viện khu Mỹ Tây,
Trường Nữ, Trại giam. Tiểu đoàn 4 E95 QĐNDVN đánh trả ác liệt, giữ vững
chốt bắn hỏng một xe tăng, hai đại liên, thu một M79 và nhiều lựu đạn,
nhưng cũng bị chết 6, bị thương 49. Đêm 10 tháng 9, QĐNDVN cho tiểu
đoàn 4 ra ngoài củng cố, dùng tiểu đoàn 5 E95 thay thế, chiến đấu ở
tây-nam Thành cổ.
Tính chung trong ngày 10-9, cả ở hướng Nam-Đông Nam, Bắc-Đông Bắc,
trên toàn khu vực Thị xã, QĐNDVN diệt hơn 200 binh lính đối phương, bắn
cháy 1 xe tăng, nhưng cũng bị thương vong 126 người và để mất khu trại
giam và Mỹ Tây. Trong 2 ngày 11 và 12, QĐNDVN diệt hơn 518 binh lính đối
phương, nhưng cũng bị thương vong 216 người. Đêm 12, QĐNDVN tăng cường
vào thành tiểu đoàn 3 E48 (201 người) và 70 tân binh.
Ngày 13-9-1972, trời mưa to, lũ lớn, hạn chế nhiều đến việc tăng
cường lực lượng (quân số, vật chất kỹ thuật cho Thị xã). QLVNCH sau 4
ngày liên tục tiến công lấn dũi, vẫn chưa chiếm được Thành, nhưng 6 tiểu
đoàn thuộc 2 lữ đoàn Thủy quân lục chiến đã áp sát ba góc Thành cổ:
Nam, Đông Nam, Đông Bắc.
Tiểu đoàn 5 E95 và Tiểu đoàn 7 E18 chiến đấu quyết liệt, giằng co với
đối phương từng khu vực, góc tường, mảnh vườn. Kết quả trong ngày,
QĐNDVN diệt 123 lính, bắn cháy 1 xe tăng, bị thương vong 34 chiến sỹ.
23 giờ ngày 13 tháng 9, Bộ Tư lệnh B5 (QĐNDVN) lệnh cho trung đoàn
phó trung đoàn 48, và tiếp sau đó vài giờ, vào 1 giờ sáng 14 tháng 9
lệnh cho Đại tá Nguyễn Việt chỉ huy trưởng Thành ra ngay Nhan Biều để
cùng sư phó sư đoàn 325 tổ chức lực lượng còn lại của trung đoàn bộ binh
18 vào phản kích trong thành. Tiểu đoàn 7 E18 đã vào thành chiến đấu.
Ngày 14 tháng 9 năm 1972, từ hướng đông-nam, QLVNCH tiến sát khu chùa
Bà Năm, khu trại giam, chợ. Từ hướng nam, họ vào khu Mỹ Tây, Trường Nữ.
QĐNDVN chống trả quyết liệt, vẫn giữ vững các chốt, nhưng bị thương
vong nhiều. Mặt trận B5 điều một đại đội xe tăng đến Nhan Biều để làm
công sự cố định bắn chi viện sang Thành nhưng sau đó do khó khăn địa
hình nên chưa bố trí được ngay.
4 ngày dùng bộ binh liên tục từ ba hướng tấn công vào, nhưng QLVNCH
vẫn không chiếm được thành, họ quay ra củng cố công sự và bao vây thành
từ ba phía, đồng thời điều cả xe tăng phun lửa liên tục tấn công vào các
chốt của QĐNDVN. Chốt chiến đấu của QĐNDVN có điểm chỉ cách địch 50 m.
Ngày 14-9-1972, sau khi dùng xe tăng phun lửa dữ dội vào các chốt phòng
thủ, quân VNCH tấn công vào thành. Tiểu đoàn phòng thủ lúc này chỉ còn
gần 20 tay súng, quyết tâm thực hiện lời thề danh dự: "K3-Tam Đảo còn, Thành cổ Quảng Trị còn", với B-40, B-41,
lựu đạn, nổ súng đánh trả quyết liệt vào đội hình của TQLC và khiến họ
phải rút chạy. 2 giờ chiều, một toán khác vào thành từ góc đông nam liền
bị các tay súng của đại đội 9 QĐNDVN đánh bật ra. Đến 18 giờ, lợi dụng
lúc trời chạng vạng tối, từ ba góc, TQLC lại tiếp tục mở đợt tấn công dữ
dội vào thành. Được sự chi viện của K8 và các tay súng của E48 Sư đoàn 320, tiểu đoàn đã ngoan cường chiến đấu, đánh bật quân VNCH ra khỏi thành.
Sau khi đánh bật đối phương tại khu vực bệnh viện Quân Dân Y Quảng Trị và trường Bồ Đề, Tiểu đoàn 1 Quái Điểu
QLVNCH khai triển lực lượng tiến về phía vào khu trung tâm thị xã Quảng
Trị. Để tiến vào khu vực này, tiểu đoàn Trâu Điên QLVNCH phải triệt hạ
cụm kháng cự của đối phương ở Ty Cảnh Sát Quốc gia. Tiểu đoàn 1 Quái
Điểu đã phải vượt qua con suối với cây cầu bắc ngang đường Trần Hưng
Đạo. Binh sĩ VNCH dùng mìn Claymore cột vào những cây tre dài vượt qua suối lúc nửa đêm và bấm nút đã làm bật tung những ổ thượng liên và DKZ của QĐNDVN đặt trong những lô cốt phòng thủ. Tiếp theo đó là những đợt xung phong ồ ạt của TQLC, từng trung đội tràn lên ném lựu đạn vào các cụm công sự chiến đấu
của QĐNDVN và chỉ trong thời gian ngắn đã chọc thủng phòng tuyến của
đối phương tại đây. Chiếm được khu vực Ty Cảnh Sát Quốc gia, tiểu đoàn
Quái Điểu tiến chiếm các vị trí ở quanh Nhà máy điện, trường Nữ Tiểu
học, doanh trại Cảnh sát Dã chiến.
Rạng sáng ngày 13 tháng 9/1972, đại đội 5 tiểu đoàn 2 QLVNCH từ ngã tưQuang Trung-Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị.
Trận chiến đã diễn ra quanh khu vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo
ra đến bờ sông. Hai bên đã quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát
mà QĐNDVN đã biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn TQLC này
đã chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội hình tiến chiếm khu hành
chánh gồm Ty Bưu Điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh trưởng - nơi 1 đại đội của QĐNDVN đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ.
Một mũi nhọn khác của tiểu đoàn 2 QLVNCH với đại đội 4 làm nỗ lực
chính thanh toán các chốt địch dọc hai bên đường Phan Đình Phùng, sau đó
tiến đánh và triệt hạ các chốt bố trí tại cơ quan USOM và Tòa án tỉnh
Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại đội 5
của tiểu đoàn 2 QLVNCH đã tấn công vào khu vực tòa Hành chánh tỉnh và
Ty Tiểu học vụ Quảng Trị nơi 1 trung đoàn QĐNDVN đặt bộ chỉ huy. Do các
chốt bảo vệ xung quanh đã bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy QĐNDVN tại
đây đã phải dời ra hướng sông.
4 giờ sáng ngày 15 tháng 9, Lữ đoàn thủy quân lục chiến 258 và 147
tập trung lực lượng tổng công kích từ ba hướng, được chi viện tối đa hỏa
lực của không quân, pháo binh, xe tăng, súng phun lửa
các loại. Ở hướng Đông của thành cổ, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu
đoàn 6 TQLC đã dàn hàng ngang đồng loạt xung phong tiến về hướng Tây,
tập kích sở chỉ huy K1 E48 QĐNDVN và chiếm một góc khu đông bắc Thành
cổ. Các chốt của QĐNDVN còn lại tiếp tục chiến đấu trong ngày, mặc dù
sức chiến đấu đã giảm, quân số bị thương vong nhiều. Lực lượng K8, tiểu
đoàn 3 E48 mới vào cũng đã bị tổn thất nặng. Lực lượng trung đoàn bộ
binh 18 vẫn chưa đến được nơi quy định để vượt sông vào Thành cổ.
Trong đêm 15 tháng 9 năm 1972, QĐNDVN đã pháo kích dữ dội vào đội
hình của hai tiểu đoàn 3 và 6 TQLC để yểm trợ cho lực lượng đang cố thủ ở
đây. Gần rạng sáng, các đơn vị TQLC đồng loạt xung phong, những tổ
kháng cự của QĐNDVN đã chống trả mạnh nhưng chỉ được nửa giờ sau đó đã
bị đánh bật khỏi phòng tuyến.
Cũng trong đêm 15 tháng 9 các chỉ huy của QĐNDVN trong thành nắm lại
tình hình, thấy QLVNCH đã chiếm một số góc thành cổ, quân số chiến đấu
của họ còn lại chẳng bao nhiêu nên thống nhất ra lệnh rút khỏi thị xã và
thành cổ từ 22 giờ ngày 15 tháng 9.
QĐNDVN rút khỏi thành cổ
Thứ tự rút: ưu tiên thương binh đi trước, tiếp đến các lực lượng tiểu
đoàn ở xe, rồi đến các đơn vị trực thuộc, cuối cùng là sở chỉ huy
Thành. K2 E48, K8, vệ binh - trinh sát bảo vệ đội hình rút. Ban chỉ huy
Trung đoàn hỗn hợp cùng đội vệ binh rút cuối cùng vào nửa đêm 15 rạng
ngày 16. Trung đoàn 18 Sư đoàn 325 được lệnh dừng lại, không vượt sông sang phản kích nữa, mà nhanh chóng triển khai lực lượng phòng thủ tả ngạn sông Thạch Hãn, khu vực Nhan Biều - Ái Tử.
Sau 4 tháng 16 ngày (81 ngày đêm) chiếm giữ Cổ Thành và thị xã Quảng
Trị, QĐNDVN rút lui khỏi Thành cổ. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung
đoàn 27 QĐNDVN-trung đoàn trưởng sau này là thượng tướng nguyễn Huy
Hiệu) với 1.500 quân đưa vào thành cố thủ là đơn vị tổn thất nặng nhất.
Các chốt chiến đấu vòng ngoài đều bị xóa sổ, trung đoàn 48B thuộc sư
đoàn 390 QĐNDVN - đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt
hại hơn 80% quân số. Trong một hồi ký phổ biến vào năm 1997, trung tướng
Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại mặt trận tỉnh Quảng Trị, ghi nhận là các sư đoàn và trung đoàn tham chiến đã bị tổn thất quá nửa quân số.
Về phía QLVNCH, tuy chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá đắt. Kế hoạch chiếm thị xã trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris
không thực hiện được mà còn phải mất gấp 5 lần thời gian định trước. Để
chiếm lại thành cổ, chỉ riêng sư đoàn Thủy quân Lục chiến có 3.658 binh
sĩ tử trận, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.000 chiếm
38% quân số), các đơn vị Dù cũng chịu thiệt hại nặng tương đương. Tổng
quân số tử trận của các đơn vị lên tới 7.756 người, hàng ngàn lính khác
bị thương.
Thiệt hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến QLVNCH cũng không đủ
sức tấn công tiếp lên phía bắc, các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc
hành quân "Sóng thần" để tái chiếm bờ bắc Thạch Hãn nhanh chóng bị
QĐNDVN đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định
Paris được ký kết vào tháng 1 năm 1973.
Kết quả
Đài tưởng niệm trong thành cổ Quảng Trị
Sau 12 tuần lễ liên tục tổng công kích với sự hỗ trợ hỏa lực tối đa
của Hoa Kỳ, đến giữa đêm ngày 15 rạng ngày 16 tháng 9 năm 1972, lực
lượng Thủy quân Lục chiến đã tiến vào thị xã Quảng Trị
và kiểm soát toàn bộ khu vực Cổ Thành. Rạng sáng ngày 16 tháng 9 năm
1972, hai tiểu đoàn 3 và 6 Thủy quân Lục chiến từ các vị trí vừa chiếm
được trong Cổ Thành, đã bung ra lục soát và đánh các chốt còn lại của
QĐNDVN. Đến 8 giờ sáng ngày 16 tháng 9 năm 1972, một toán Cọp Biển của
tiểu đoàn 6 Thủy quân Lục chiến đã dựng quốc kỳ Việt Nam Cộng hòa trên cổng tường phía Tây Cổ Thành Quảng Trị, biểu tượng cho việc Quân lực VNCH đã hoàn tất cuộc tái chiếm Cổ Thành Quảng Trị.
Vài phút sau đó, chuẩn tướngBùi Thế Lân - tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đã báo tin chiến thắng đến trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn 1 kiêm tư lệnh chiến dịch tái chiếm Quảng Trị. Ông này đã gọi máy về Sài Gòn để tường trình lên Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu và đại tướng Tổng tham mưu trưởng, sau đó tướng Ngô Quang Trưởng đã gửi bưu điệp tuyên dương công trạng Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến với nội dung như sau:
“
Tôi
đã nhìn Quốc kỳ tung bay trên nền trời Quảng Trị chỉ ít lâu sau khi
những bàn tay kiêu dũng của anh em kéo lên từ trong Cổ Thành. Tôi đã
muốn thấy tại chỗ chiến thắng của anh em, để ngay tại chiến trường, tự
cảm thấy hãnh diện được chỉ huy Sư đoàn Thủy quân Lục chiến trong một
chiến dịch quy mô nhất của quân đội...
”
Ghi lại cuộc chiến đấu của sư đoàn Thủy quân Lục chiến tại mặt trận
trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành từ khi thay thế lực lượng Nhảy Dù
vào ngày 27/7/1972, trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng phòng 3 bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đã viết như sau:
“
Trong
suốt 7 tuần lễ chiến đấu đầy máu xương và nước mắt của chiến hữu đồng
ngũ, dưới những làn mưa đạn pháo nặng nề của đối phương, tính trung bình
cứ 4 người lính Thủy quân Lục chiến có 1 người hy sinh. Tính từ tháng 6
năm 1972 đến ngày toàn thắng, về quân số, Thủy quân Lục chiến bị tổn
thất trên 5 ngàn, trong đó có 3.658 chiến sĩ hy sinh... Hình ảnh người
lính Thủy quân Lục chiến Việt Nam dựng cờ, tuy vóc dáng gầy ốm bị chiến
trận, nhưng chất chứa đầy lòng can đảm, cương quyết và hy sinh…
”
Theo ghi nhận của trung tướngNgô Quang Trưởng, trong 10 ngày cuối của trận chiến tại trung tâm thị xã Quảng Trị
và Cổ Thành, có 2.767 binh sĩ QĐNDVN đã chết, 43 bị bắt sống. Về phía
Thủy quân Lục chiến của Quân lực VNCH, trung bình mỗi ngày có 150 binh
sĩ Cọp Biển chết trận, chưa tính tổn thất của các đơn vị khác. Chiều
ngày 16 tháng 9 năm 1972, sau khi đánh bật QĐNDVN ra khỏi trung tâm thị
xã và tái chiếm toàn khu vực Cổ Thành, 6 tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến
đã bung rộng để triệt hạ các chốt kháng cự cuối cùng trong Cổ Thành và
nới rộng vùng kiểm soát.[cần dẫn nguồn]
Tướng Lê Phi Long năm 2008 có nói: "Chiến dịch Quảng Trị kéo dài,
thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch
trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Mãi đến
bây giờ (2008), tôi và nhiều đồng nghiệp vẫn chưa hiểu vì sao ta phải cố
thủ thành cổ với một giá đắt như vậy, ai chủ trương, ai chịu trách
nhiệm trước lịch sử? Có cán bộ cấp trên giải tích rằng do yêu cầu của
đấu tranh ngoại giao, cần giữ vững thành cổ để phối hợp với cuộc đàm
phán tại hội nghị Paris. Nhưng quyết định chiến trường phải là người
lính". Theo cuốn Một thời hoa lửa của NXB Trẻ
thì từ mồng 10 tháng 9, Quân đội Nhân dân Việt Nam bị thương vong
nhiều. Như hai tiểu đoàn mới vào thành (K3 và K8) cũng đã tổn thất nặng.
Riêng Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 95 vào thành chiến đấu ngày 13 tháng 7 có
quân số gần đủ, với 67 đảng viên và nhiều vũ khí, khí tài mạnh; đến ngày
10 tháng 9 đã chết trên 100 người, bị thương trên 700 (tính cả số bổ
sung từng ngày) và lúc rút ra chỉ còn 12 đảng viên chưa bị thương vong.
Do đó hành động của tư lệnh chiến dịch vào buổi giao ban sáng 16
tháng 9 và tiếp sau đó lệnh phòng ngự tả ngạn sông Thạch Hãn vào chiều
16 tháng 9 là thích hợp với tình hình thực tế. Cũng theo sách này thì:
“
:Các
lực lượng trực tiếp phòng thủ thị xã đã cùng một ý chí sắt đá là kiên
quyết giữ vững Thành cổ bằng mọi giá nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh
ngoại giao ở Hội nghị Paris.
Rất nhiều gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu vô cùng anh dũng của cán
bộ chiến sĩ, của các đoàn dân công hỏa tuyến, của nhân dân trong khu
vực.
Trong hơn 80 ngày đêm chiến đấu, chúng ta đã biết phát huy sức
mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng bộ đội và nhân dân, tạo nên sức chiến
đấu kiên cường, dẻo dai. Bên cạnh lực lượng bám trụ thị xã, phải tính
đến sức mạnh của các sư đoàn chủ lực 308, 304, 320 đứng bên sườn địch từ
hướng đường 1 và hướng ven biển, mở nhiều đợt tiến công vào sườn đội
hình tiến công của địch; gây cho địch nhiều thiệt hại, làm chậm bước
tiến của chúng, buộc chúng phải đối phó bị động.
Ngoài ra phải nói đến nhiều đoàn tân binh từ nhiều tỉnh miền Bắc
đã lần lượt vào thị xã để bổ sung kịp thời cho các đơn vị chiến đấu.
Nhiều lực lượng dân quân du kích và nhân dân địa phương đã đấu tranh
kiên cường bằng nhiều hình thức phong phú đa dạng ở vùng địch hậu Triệu
Phong, Hải Lăng. Nhiều lực lượng dân công hỏa tuyến tại khu vực Tả Kiên,
Ba Gơ, Đại Ang, Tân Vinh đã tận tình phục vụ cho Quảng Trị chiến đấu.
”
Kết thúc trận đánh, chỉ riêng Thủy quân Lục chiến VNCH đã có 3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% quân số toàn binh chủng
tổng số thiệt mạng của tất cả các đơn vị VNCH là 7.756, cùng với nhiều
ngàn lính khác bị thương. Phía QĐNDVN tử trận khoảng 4.000 đến một vạn
người Cả 2 bên đều bị tổn thất lớn sau trận đánh này.
Tuy để thị xã Quảng Trị và Thành cổ nhưng QĐNDVN vẫn giữ được hai căn
cứ bàn đạp Tích Tường, Như Lệ, Phước Môn, Tân Téo phía Tây và Bích La,
An Lộng, Chợ Sãi, Nại Cửu, Long Quang ở phía Đông trên hữu ngạn sông Thạch Hãn.
Ngoài ra, sư đoàn 324 vẫn chiếm giữ các vị trí cực tây Quảng Trị. Đây
là những mục tiêu mà quân đội VNCH đã tiếp tục tìm cách giành lại bằng
các chiến dịch trong giai đoạn sau, nhưng các chiến dịch này đều bị
QĐNDVN bẻ gãy cho tới khi Hiệp định Paris được ký kết.
Sau chiến tranh
Hiện nay khu thành cổ Quảng Trị rộng 16 ha
là một phần của Khu di tích Thành cổ Quảng Trị, được xếp hạng di tích
lịch sử cấp quốc gia của Việt Nam. Do mật độ bom đạn rất cao và kéo dài
nên hầu hết bộ đội Quân đội Nhân dân Việt Nam
tử trận trong Thành cổ Quảng Trị đều bị vùi lấp. Nơi đây được xây dựng
thành nơi yên nghỉ chung cho những người đang nằm trong lòng đất với
nhiều cây xanh, đài tưởng niệm, bảo tàng... Hiện đang có dự án đầu tư xây dựng khu di tích trở thành một công viên văn hóa, tưởng niệm
với các hạng mục như đài tưởng niệm trung tâm, bảo tàng, đài chứng tích
sinh viên, vườn hoa cảnh.
Đã có nhiều bài thơ, bài hát nói về sự khốc liệt và mất mát của trận
Thành cổ Quảng Trị, trong đó người ta thường nhắc tới bốn câu thơ trong
bài Lời gọi bên sông của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam từng tham gia trận đánh này:
“
Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ.
Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm
”
Ngoaì ra khi chuẩn bị vào sâu trong mặt trận phía Nam ở Bắc Quảng
Trị, Lê Bá Dương cũng có 2 câu thơ rất hay, được xem như là tuyên ngôn
hay nhất bằng thơ của quân giải phóng Bắc Quảng trị:
“
Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc,
Một dấu chân in màu đất hai miền.
”
Sau ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam, cựu chiến binh Lê Bá Dương và một số đồng đội của ông hàng năm đều về Quảng Trị ít nhất một lần để tưởng niệm những đồng đội Quân đội Nhân dân Việt Nam đã hy sinh và thả hoa xuống dòng sông Thạch Hãn. Xuất phát từ đó, những năm gần đây, hàng năm cứ vào ngày 27 tháng 7 (Ngày thương binh liệt sĩ Việt Nam)
cũng là gần dịp rằm tháng bảy có lễ Vu Lan báo hiếu, chính quyền tổ
chức lễ thả đèn, thả hoa trên sông Thạch Hãn để tưởng niệm những người
đã nằm lại tại Thành cổ trong 81 ngày đêm của trận đánh.
Từ sau kỷ niệm 40 năm chiến đấu bảo vệ Thành cổ, ngoài những lễ thả hoa
của các đoàn về thăm. Chính quyền- Nhân dân thị xã thường xuyên tổ chức
Chương trình "Đêm hoa đăng" vào ngày 14 âm lịch hàng tháng để tưởng
niệm và tri ân những Anh hùng Liệt sỹ đã hy sinh trên dòng sông huyền
thoại này. Chương trình đó đã trở thành nét Văn hóa mới của thị xã Quảng
trị trong thời kỳ đổi mới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét