HỌC THẦY KHÔNG TÀY HỌC BẠN 6
Vì sao ngành nông nghiệp Mỹ đứng hàng đầu thế giới?
Tiến
trình hiện đại hoá ngành nông nghiệp Mỹ
Đoàn Ngọc Đông MA,MS
1 Sơ lược về
ngành nông nghiệp Mỹ
Nước Mỹ có ngành nông nghiệp
tân tiến, hiện đại nhất thế giới. Lao đông nông nghiệp chiếm khoảng
1% trong tổng dân số 322 triệu người Tính đến tháng 4-2014, lực lượng
lao đông Mỹ, ( labor force ), gồm có tổng số 155 triệu ,421 nghìn người,
trong đó, lao động nông nghiệp có 1 triệu,879 nghìn người, chiếm tỷ lệ
khoảng 0,7%. Đất đai Mỹ có diện tích 9,161,923 km2, trong đó,
đất khả canh chiếm 18,1%. Theo thống kê nông nghiệp, công
bố trong tháng 2 năm 2014 , thì năm 2012, tổng số nông trại ở Mỹ có
2,109,363 cái, trung bình mỗi trại có diện tích 434 acres, ( 1 acre =
0.4015 ha ). Năm 2012, tổng giá trị nông phẩm đạt $394.6 tỷ, tăng 33%
so với năm 2007, trong đó thu về các sản phẩm trồng trọt $219.6 tỷ, sản
phẩm chăn nuôi đạt $171.7 tỷ.
Mỹ là nước dẫn đầu thế giới
về xuất cảng nông phẩm, xuất cảng đậu nành đạt $24.7 tỷ, chiếm 50.5%, bắp,
đạt kim ngạch $9.3 %, luá mi $8.2 tỷ, chiếm 18% thị phần xuất cảng nông
phẩm của toàn thế giới.Từ năm 1960 đến năm 2014, Mỹ luôn luôn có thặng dư
về mậu dịch nông nghiệp, xuất khẩu nông nghiêp năm 2012 đạt $141.3 tỷ, và
ước tính năm 2014 đạt $149.5 tỷ, chiếm hơn 10% tổng số kim ngạch xuất khẩu
của toàn ngành và thặng dư mậu dịch nông nghiệp lên đến trên $ 38.5 tỷ.
Sau đây xin thử tìm hiểu, vì
đâu nước Mỹ có một tỷ lệ nông dân rất nhỏ, lại có một nền nông nghiệp vĩ
đại, sản xuất nông phẩm dồi dào, chất lượng an toàn, không những nuôi sống
cho toàn dân Mỹ mà còn xuất cảng với số lượng lớn, đứng đầu so với các nước
trên toàn thế giới.
Diện
tích canh tác từ 1982 đến 2012
Cơ
giới hoá nông nghiệp Mỹ
2
Những yếu tố hổ trợ ngành
nông nghiệp
a/ Đức tinh tự chủ và sáng kiến của nông dân
Ngay từ thời kỳ đầu lập quốc,
nông dân đã được xem như mẫu người có tính tự chủ rất cao. Họ làm việc cần
cù, sáng tạo, kiên nhẫn và đầy nhiệt huyết. Họ đến Mỹ với bàn tay trắng,
làm việc trên những mảnh đất tự chiếm giữ, không có giấy tờ sở hữu. Năm
1790 nông dân chiếm 90% dân sô. Năm 1870, lao động nông nghiệp chiếm đến
49% dân số. Năm 1920, số nông dân gần 32 triệu chiếm 30.8% trong tổng
dân số 107.5 triệu người. Số lượng nông dân giảm dần theo đà phát triển
kinh tế của xứ sở. Năm 1930, chiếm 21%, năm 1960, chiếm 8,3%, năm
1990, chiếm 2.6%, trong tổng dân số của Mỹ. Ngày nay, nông dân Mỹ, hoạt
động toàn thời gian, chiếm khoảng 1% trong tổng số toàn dân Mỹ, tính đến
tháng 6-2014 là gần 322 triêu người.
Một ưu điểm là các nông trại
nhỏ và vừa được quản trị bởi gia đình, tổ hợp, công ty do nông dân nắm giữ,
tỷ lệ do nông dân làm chủ đạt con số rất cao, trên 95%. Nông trại lớn, diện
tích trên 2086 acres, do các đại công ty nắm giữ chỉ chiếm 4.6%.
Đời sống nông dân càng ngày
càng cải thiện. Vì tự quản trị nông trại của mình, nên công việc kinh doanh
nông nghiệp rất có kết quả. Hình ảnh người nông dân Mỹ ngày nay, là hình
ảnh của người công nhân nông nghiệp, họ lao động trong một xí nghiệp nông
nghiệp. Họ ăn mặc như hình ảnh người công nhân, mậc quần jean, áo carô
màu , họ sống trong những khu nông thôn, đầy đủ tiện nghi, có trường
trung học, có siêu thị, tiệm ăn, ngân hàng, với nhà cửa khang trang.
trông rất đẹp mắt. Chỉ khác là nhà họ cách xa nhà người khác, nhà cửa
ngăn nắp, có thảm cò xanh mướt, có vườn hoa quả xanh tươi. Tôi có dịp sống
với họ hàng tuần, họ chất phát, chân thật , rất hiếu khách. Có lần tôi ở trong
nhà của một nông dân trong tiểu bang Michigan,
họ canh tác với diện tích 100 ha, chuyên trồng bắp, đậu nành và trồng cỏ.
Gia đình họ có 5 người, người cha và người con trưởng là lao đông
chính, vào mùa bận rộn mới thuê 1 công nhân mà họ có thể nuôi đến hơn 100
con bò sữa. Họ xử dụng máy móc rất thành thạo, hiểu biết về nông nghiệp và
kinh tế rất cao, nhiều người có bằng đại học, thật đáng khâm phục.
Nông dân càng ngày càng có
trình độ học vấn cao, nên lợi tức thu nhập của họ cũng không thấp nếu so
với các ngành khác. Lương trung bình của một công nhân nông nghiệp Mỹ là
$61,000 một năm. Lợi tức của 10% người có lương cao nhất là $107,000/năm.
Lợi tức của 10% những người có lương thấp nhát là $30,000/năm. Nông dân
kiếm được nhiều tiền như ở tiểu bang Kansas
$95,000/năm, tiểu bang Washington
$87,000/năm, California $84,000/năm, Iowa $82,000/ năm và Minnesota $78,000/năm.
Thu nhập trung bình của một
gia đình nông dân năm 1960 là $4,654 so với thu nhập trung bình năm 2012
là $108,814, tăng 25 lần.trong thời gian 54 năm.
Năm 2012, số người làm trưởng
nông traị vào khoảng 2.1 triệu người. Trong số nầy , người da trắng chiếm
92%, người thiểu số chiếm 8%.Tuổi trung bình của trại chủ là 58.3.tuồi. Các
trại chủ tự cho mình là nông dân, chiếm 48%, số còn lại làm việc nông trại
bán thời gian, họ tự xem mình như người có nghề nghiệp khác.Tuổi của những
trại chủ càng ngày càng già, chỉ 6% có tuổi dưới 35, số trại chủ có
tuổi từ 65 trở lên, chiếm đến 33%.
Nông dân Mỹ đang lái máy kéo
b/ Đất đai canh tác
rộng lớn, thiên nhiên ưu đãi
Nông dân Mỹ làm việc trong
những điều kiện thiên nhiên vô cùng thuận lợi. Vùng Trung tây nước Mỹ có
đất đai canh tác màu mỡ nhất thê giới. Các vùng canh tác có lượng nước mưa
tương đối đầy đủ, lượng nước sông và nước ngầm cho phép tưới tiêu cho
các tiểu bang thiếu nước .Mức sản xuất nông nghiệp và loại hoa màu thay đổi
từng tiểu bang, chẳng hạn như bang Texas với 229,000 nông trại, trồng bông,
bắp, lúa mì, bang Missouri với 104,500 trại, trồng bắp, đậu nành, lúa gạo
và cỏ, bang Iowa với 88,400 trại, trồng bắp và đậu nành, bang Illinois với
72,500 trại, trồng bắp, đậu nành, bang California với 75,000 trại, trồng
nho, hạnh nhân, rau quả,bang Florida với 40,000 trại, chuyên trồng
cam. Nếu ai đã từng đi xe trên xa lộ, đi hàng giờ, dọc theo các tiểu bang
vừa kể, họ sẽ thấy những cánh đồng băp, đậu nành, lúa mì, cam, cánh đồng
cỏ, rộng mênh mông, xanh tươi, bao la, bát ngát, rộng đến nỗi, so với cánh
đồng lúa miền Nam Việt nam, một thời có tiếng là cò bay thẳng cánh, nhưng
so với các cánh đồng ở Mỹ thì không thấm thía vào đâu. .
Diện tích canh tác và tổng số
nông trại giảm dần , nhưng sản lượng nông nghiệp lại gia tăng Năm 2007,
tổng số nông trại là 2,204,792 cái với tổng diện tích canh tác 922,095,840
acres. Năm 2012, tổng số nông trại là 2,109,363 cái với tổng diện tích canh
tác 914,603,026 acres. Doanh thu nông nghiệp trong năm 2007 đạt
$297.2 tỷ, so với doanh thu nông nghiệp năm 2012 là $394.6 tỷ, tăng
32.8%. Nước Mỹ có 10 tiểu bang, sản xuất khoảng 50% tổng sản lượng nông
phẩm của cả nước, nhiều nhất là California, $45 tỷ , Texas $20 tỷ,
Iowa $19 tỷ.
. .
Cánh
đồng bao la bát ngát
Nông
dân đang phun thuốc trừ sâu
c/ Cơ giới hoá các nông
trại
Cơ giới hoá giúp tăng gia
hiệu quả sản xuất, mở rộng nông trại, và cải thiện chất lượng sản phẩm. Nhờ
cơ giới hoá mà năng suất của nông dân được tăng cao, nâng cao thu
nhập, giúp nông dân có thể canh tác tại những vùng mà trước đây sức ngừơi
không thể làm được. Ngày nay, người nông dân lái máy kéo, ngồì trong buồng
lái có máy điều hoà không khí và mọi hoạt đông đều thực hiện bằng cơ giới,
từ làm đất, gieo trồng , bón phân, tưới tiêu, gặt hái, tất cả
đều thực hiện bằng máy. Nông
dân còn dùng máy bay đề phun thuốc trừ sâu, dùng máy điện toán đề theo dõi
két quả thu hoạch. Ngoài ra nông dân còn dùng máy tính kết hợp với vệ
tinh
và dùng GPS để xác định vùng
đất thích hợp cho loại cây trông, tất cả với mục tích tăng gia năng suất
lao động.nông nghiệp.
Vào đầu thế kỷ 20, phải
có 4 nông dân mới sản xuất nông phẩm đủ nuôi cho 10 người, ngày nay, một
nông dâm Mỹ có thể cung cấp đủ lương thực nuôi 100 người Mỹ và 32 người
đang sống tại các nước trên thế giới.
Cơ giới hoá nông nghiệp được
thực hiện rất sớm tại Hoa kỳ, nhưng phát triển manh nhất là vào những thập
niên 1940 đến thập niên 1970, thời kỳ kết hợp cơ giới với việc xử dụng phân
hoá học, cải tiến hạt giông và là giai đoạn thực hiện cách mạng xanh. Năm
1907, cả nước chỉ có 600 máy kéo, đến năm 1950 , số máy kéo lên đến
3,400,000 cái. Chi phí máy móc chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tồng chi phí
đầu tư vào sản xuất nông nghiệp. Có những máy liên hoàn , kết hợp máy kéo
với máy cày, máy gieo trồng, máy gặt, rất hiện đại giá mỗi cái
giá $100,000. Cơ giới hoá gần như thay thế sức người, sức vật
tại Mỹ. Sự kết hợp cơ giới với cải tiến trong kỹ thuật canh tác và chế biến
nông sản đang làm thay đổi phương pháp sản xuất và phân phối lương
thực tại Mỹ và tại các nước trên toàn thế giới.
Nhờ cơ giới hoá và cải thiện
kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc, sản lượng nông nghiệp tăng
lên đến 75% mỗi năm, giải quyết được nạn thiếu hụt thực phẩm trên thế giới.
Cơ giới hoá là một bước tiến rất lớn trong ngành nông nghiêp Mỹ và các
nước trên toàn thế giới.
Máy
bay không người lái trong nông nghiệp
Bắp
chuyển gen
d/ Áp dụng kỹ thuật sinh học
trong ngành nông nghiêp Mỹ
Cánh tác trong giai
đoạn cơ giới hoá và cách mạng xanh của những năm cuối thế kỹ 20
là một bước nhảy vọt
cho ngành nông nghiệp Mỹ. Ban đầu năng suất nông nghiệp tăng trưởng
đáng kể, nhưng rồi năng suất giảm dần, chỉ còn tăng trưởng vào khoảng 0.5%
mỗi năm.Đứng trước tình trạng đó, các khoa học gia Mỹ lại nghĩ ra cách
áp dụng kỹ thuật sinh học để gia tăng năng suát nông nghiệp.
Kỹ thuật chuyển đổi gen GMCs
, GM Crops ( Genetically modified crops ), là phương pháp làm thay
đổi DNA của các loại cây trồng, bằng cách thêm vao 1 hoặc nhiều gen
chọn lọc nhờ kỹ thuật sinh học hiện đại, để tạo ra loại cây trồng có những
đặc tính mới theo ý muốn của con người. Điểm khác biệt ờ đây là quá trình
hình thành đặc tính mới trong cây trồng theo tự nhiên phải mất thời
gian dài, có khi hàng trăm năm, trong lúc tạo một đặc tình mới trong
cây trồng , nhờ kỹ thuật chuyển đổi gen hiện đại, chỉ mất vài năm, đây là
ưu điểm của kỹ thuật sinh học, được áp dụng mạnh trong thế kỹ 21 và
nước Mỹ đi tiên phong trong kỹ thuật trồng cây chuyển đổi gen.
Trên thế giới, kỹ thuật trông
cây GMC đã áp dụng từ năm 1996 trên diện tích 17 triêu ha, đến năm 2013
diện tích trông cây GMC tăng lên 100 lần với diện tích 175 triêu ha. Năm
2012 , nước Mỹ có 69.5 triệu ha cây trồng biến đổi gen, bao gồm đâu nành,
bắp, bông vài, củ cải đường, đu đù và vài loại hoa màu khác. Hiện nay, tỷ
lệ đất trồng cây biến đổi gen chiếm một tỷ lệ rất lớn, 98% với củ cải
đường, 91% với đậu nành, 88% với bông vải, và 85% đối với bắp.
Nhờ tạo được cây trồng
chuyển đổi gen, có đặc tính mới, như chiu được khí hậu lạnh hoặc
nóng, trồng đưọc trên đất mặn, có đậc tính chống được sâu bệnh, chống cỏ
dại, kéo dài thời gian bảo quản, nông sản thu hoạch nhiều và lâu hư thối
Điểm nổi bật là loại cây trông GMC cải thiện được môi
trường vì ít dùng thuốc trừ sâu, ít dùng thuốc diệt cỏ, khí hậu bớt ô
nhiễm, giảm bớt lượng CO2 .Nông dân ít tiếp xúc hoá chất, người tiêu thụ
được hưởng thức ăn bổ dưỡng hơn, thực phảm ít chứa chất độc hại.
Theo ước tính từ giai đoạn
1996 đến 2012 , nhờ áp dụng trồng cây GMC, thu nhâp đã gia tăng $117 tỷ,
trong đó 58% do giảm chi phí sản xuất, 42% do tăng năng suất.
Việc áp dụng kỹ thuật sinh
học trong nông nghiệp có nhiểu mặt tích cực, tuy nhiên cũng có một số
tiêu cực đang bàn cãi như làm thay đổi đặc tính thiên nhiên, làm gia
tăng dị ứng do cây trồng mới mang lại, một số vi trùng gây bệnh sẽ
kháng lại thuốc chữa trị. Mặt khác, kỹ thuật trồng cây GMC theo diện
đại trà, đã làm cho các công ty chuyên cung cấp giống, như Monsanto,
Syngenta, thu được một số tiền lời quá lớn, lợi tức phân bổ không cân
đối giữa các công ty cung cấp hạt giống và nông dân sản xuất.
e/ Chính sách hổ trợ nông
nghiệp của chính phủ
Chính sách nông nghiệp của
chính phủ đã đóng góp rất nhiều trong quá trình hiện đại hoá nông nghiệp
Mỹ. Từ giai đoạn đầu, đất đai canh tác thuộc quyên sở hữu của liên bang.
Đạo luật về đất đai năm 1862, cho phep chính phủ phát không cho những người
chịu sống và làm việc trên mảnh đất được ban phát. Vùng đất đai rộng lớn
miền Tây, tạo cho một số nông dân được định cư, lập nghiệp dễ dàng. Đạo
luật Morrill tạo ra những cơ hội mới về việc thành lập các trường đại học
chuyên đào tạo trong các lĩnh vực kỹ thuật thực hành trong đó có kỹ thuật
canh tác.
Năm 1929, tổng thống Herbert
Hoover thành lập ban nông nghiệp liên bang nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế
cho nông dân..Năm 1933, Tổng thống Franklin D. Roosevelt tuyên bố chấp nhận
và thực hiện một hệ thống trợ giá, bảo đảm cho nông dân một mức giá gần
bằng giá lúc thị trường không gặp trắc trở. Trong những năm sản xuất
nhiều, chính phủ bằng lòng mua sản lượng dư thừa. Năm 1954, chính phủ lập
chương trình “Lương thực vì hoà bình”, xuất khẩu nông sản qua các
nước nghèo. Năm 1960, TT Lyndon Johnson lập chương trình Food Stamp giúp đỡ
cho những gia đình có lợi tức thấp.Tiếp theo là chương trình bữa ăn miễn
phí, dành cho học sinh nghèo tại các trường học.
Trong khoảng thời gian từ
1933 đến 1996, chính phủ cho nông dân vay tiền canh tác, nông
dân có quyền trả nợ theo giá
quy định trong hợp đồng. Lúc sản xuất dư thừa, nông dân bán sản
phẩm cho chính phủ, lúc giá nông phẩm cao, nông dân có quyền bán sản phẩm
cho các công ty kinh doanh lương thực để tăng lợi tức.
Trước tình trạng sản xuất dư
thừa , khiến giá cả mất ổn định, chính phủ lại đề ra chính sách bảo tồn,
dưỡng đất dự trữ, với mục đích khuyến khích nông dân bỏ trống, không
canh tác trên những diện tích đất cho năng suất thấp trong thời gian 10
năm. Chính sách hổ trợ giá đã làm chính phủ chi tiêu quá nhiều ngân
sách, nên từ từ bị cắt giảm.
Từ năm 1990 trở đi, chính
sách bảo trợ nông nghiệp chỉ duy trì ở mức thấp, chính phủ tập trung
vào chương trình dự trữ chiến lược, chống thiên tai, bảo vệ môi
trường, nghiên cứu khoa học, để phục vụ hiệu quả cho ngành nông
nghiệp Mỹ.
Hiện nay, chính phủ
đang chú trọng đến xuất khẩu nông sản, và đặc biệt quan tâm đến tính vững
bền của lực lượng lao đông nông nghiệp.Thượng viện vừa thông qua dự luật di
dân (S.744) , bảo đảm có đủ số công nhân cần thiết cho nền nông nghiệp, đặc
biệt là vào mùa gặt hái, chăn nuôi gia súc, và sản xuất nông phẩm cần thiết
cho xuất cảng. Đạo luật cũng mở đường để nhập quốc tịch Mỹ cho những người
nằm trong 11 triệu người đang sống ở Mỹ, .không co giấy tờ hợp lệ, phần
đông những người nầy đang làm việc trong lãnh vực nông nghiệp.
Các chính sách hỗ trợ, nhân
đạo, đứng đắn, phục vụ nông dân của chính phủ đã mang lại cho ngành nông
nghiệp Mỹ một kết quả tốt đẹp như ngày hôm nay. .
Bộ nông nghiệp Mỹ
3
Kết luận
Nước Mỹ giàu đẹp, nước Mỹ
hùng mạnh, nước Mỹ tiến bộ vế mọi mặt. Người nông dân Mỹ hãnh diện,
là những người đi tiên phong, có công đưa ngành nông nghiệp đến chỗ thịnh
vượng, tạo nền tảng, xây dựng cơ sở, bắt một nhịp cầu đưa nền kinh tế
Mỹ đến chỗ hiện đại, tân tiến nhất thế giới.
Ngành nông nghiệp đang đóng
một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Mỹ, sản xuất thực phẩm
dồi dào với giá rẻ, tạo thêm nhiên liệu sinh học, giảm bớt việc lệ thuộc
dầu hoả nhập cảng, tạo thêm công ăn, việc làm cho các ngành chế biến ,
sản xuất máy móc, và đặc biệt dịch vụ xuất cảng nông phẩm đi khắp các
nước trên thế giới.
Tính đến 6-2014
dân số thế giới có khoảng 7 tỷ 237 triệu người và hiện có 1 tỷ người
đang nghèo đói Theo dự đoán của các cơ quan quốc tế, dân số thế giới sẽ
tăng lên 7.7 tỷ vào năm 2020, 8 tỷ vào năm 2024 vả 9 tỷ rưởi
vào năm 2050. Đất đai trồng trọt của các nước, không những không gia
tăng, mà con bị thu hẹp, do ảnh hưởng khí hậu tăng cao, do ảnh hưởng hiệu
ứng nhà kính, làm mực nước dâng cao, đất đai trồng trọt bị mặn, xói
mòn, làm thiếu đất canh tác
Nước Mỹ có một lợi thế, với
diện tích rộng lớn hơn 9 triệu km2, diện tích đất nông nghiệp chiếm đến
18.1%, trong đó diện tích canh tác thường xuyên chỉ mới xử dụng ít
hơn 0.4%.Tiềm năng ngành nông nghiệp Mỹ quá to lớn. Hiện nay
xuất cảng nông phẩm đứng đầu thế giới và là thế mạnh của kinh tế Mỹ. Với đà
dân số thế giới đang gia tăng, nhất là những nước đang phat triển. Câu hỏi,
là nước nào sẽ sản xuất đủ lương thực để nuôi sống dân số tăng thêm
hàng tỷ người
trên thế giới..
Nước Mỹ sẽ là vựa lượng thực,
cung cấp, nuôi sống dân sô của toàn thế giới. Với sức mạnh
cuả nông nghiệp Mỹ,
trong tương lai, ngành nông nghiệp Mỹ sẽ là một khí giới bảo vệ nước Mỹ.
Sức mạnh của nông nghiệp Mỹ, một ngày nào, có thể là khí giới mạnh
hơn bất kỳ loại khí giới nào hiện có trên thế giới.
Tháng
6-2014
[Infographic] Những điều thú vị khó tin về ngành nông nghiệp Mỹ
1 nông dân Mỹ có khả năng sản xuất đủ lương thực nuôi sống 155
người... là một trong số những điều thú vị khó tin về ngành nông nghiệp
của cường quốc kinh tế số 1 thế giới.
>> Đại sứ Hoa Kỳ: Nông nghiệp có tầm quan trọng "sống còn" với Việt Nam
>> Ngành nông nghiệp Việt Nam đang đối mặt với nhiều thách thức
Mặc dù Mỹ là một cường quốc công nghiệp hàng đầu thế giới nhưng
ngành nông nghiệp nước này cũng rất quan trọng. Dưới đây là 10 điều thú
vị khó tin về ngành nông nghiệp của siêu cường số một thế giới.
Theo Lục An
Dân Việt
Dân Việt
Nhận xét
Đăng nhận xét