Thứ Hai, 14 tháng 3, 2016

BÍ ẨN LỊCH SỬ 123

(ĐC sưu tầm trên NET)

Câu chuyện ly kỳ về Ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng

Ngọc tỷ của vua Càn Long triều nhà Thanh. (Ảnh: Internet)
Ngọc tỷ của vua Càn Long triều nhà Thanh. (Ảnh: Internet)
Ngọc tỷ truyền quốc của Tần Thủy Hoàng hiện nay ở đâu? Chúng ta đều biết, Ngọc tỷ là bảo ấn của vua chúa thời phong kiến Trung Quốc xưa, còn Ngọc tỷ truyền quốc không nghi ngờ gì là vật quý giá nhất trong tất cả các loại bảo ấn, hàng ngàn năm qua chuyện kể liên quan đến nó mang đầy màu sắc huyền bí.
Sở dĩ gọi Ngọc tỷ là Ngọc tỷ truyền quốc vì lịch sử hiển hách của nó có liên quan đến Tần Thủy Hoàng. Chúng ta thử nhìn lại toàn bộ câu chuyện này.
Biện Hòa người nước Sở thời Xuân Thu nhặt được một tảng đá ngọc ở trong núi và biết đây là vật báu hiếm thấy nên đã tặng cho Sở Lệ Vương (757 – 741 TCN). Sở Lệ Vương không biết là vật gì, liền cho mời ngọc công (chuyên gia về ngọc) đến để phân biệt. Không ngờ vì đá ngọc này thuộc loại không lộ nên người ngọc công này không nhận ra được chỗ quý của ngọc, cho rằng đây là đá bình thường. Kết quả là Biện Hòa mắc tội lừa vua, bị xử chặt chân trái, thành người tàn phế. Sau này Sở Võ Vương lên ngôi, Biện Hòa lại tiếp tục dâng đá ngọc lên tặng vua, nhưng lại thêm một lần nữa hàm oan và bị chặt tiếp chân phải. Sau khi Sở Văn Vương lên ngôi, Biện Hòa tuổi già ngồi ôm hòn đá quý dưới chân ngọn Kinh Sơn gào khóc thảm thiết. Sở Văn Vương thấy lạ liền cho người tới hỏi. Biện Hòa trả lời: “Tôi không than thở cho số phận của mình, tôi than khi thấy đau xót vì vật báu lại bị người đời xem là thứ bình thường. Mong ngày nào đó có người chứng minh tôi không lừa dối.” Sở Văn Vương liền cho người tới tìm hiểu thật kỹ lại hòn đá của Biện Hòa, lần này mới phát hiện ra đây là đá quý hiếm thấy. Từ đó mới có tên ngọc bích họ Hòa.
Sau khi ngọc bích họ Hòa ra đời, những sự tích xung quanh nó liên tục lưu truyền. Đến đời Sở Thành Vương (? – 626 TCN), Chiêu Dương diệt nước Việt và lập công to với nước Sở, được ban thưởng ngọc bích họ Hòa, và từ đây ngọc tỷ bắt đầu “con đường bôn ba.” Sau này khi Chiêu Dương đi du ngoạn Xích Sơn. Ngay dưới chân Xích Sơn có cái đầm nước rất sâu. Chiêu Dương là người thích khoe khoang, ông ta liền mở tiệc ở cái cao lâu bên đầm nước và lấy ngọc bích họ Hòa ra cho mọi người thưởng thức. Theo kể lại, khi đó bất ngờ có con cá to nhảy từ dưới đầm lên và kéo theo một đám cá nhỏ đủ loại. Mọi người thấy lạ liền chạy tới bờ đầm xem cá. Nhưng sau khi mọi người xem xong và quay trở lại thì không thấy ngọc bích họ Hòa đâu nữa! Dĩ nhiên Chiêu Dương là người chán nản nhất. Ông ta nghi người học trò Trương Nghĩa đã ăn trộm nên tra tấn vô cùng độc ác, hy vọng có thể tìm thấy ngọc bích. Kết quả là Trương Nghĩa sau khi bị hành hạ thì quay lưng lại với nước Sở, vào nước Ngụy, cuối cùng lại làm quan nước Tần và chống lại nước Sở. Ngọc họ Hòa thì vẫn không tìm thấy được, còn nước Sở ngày càng có nhiều kẻ thù không đội trời chung.
Thực ra là có người đã cố tình ăn trộm ngọc bích họ Hòa. Chiêu Dương nhân thời nước Sở đang có thế lực, sau khi bị mất trộm đã treo thưởng ngàn vàng để tìm lại ngọc bị mất. Trong tình hình căng thẳng, kẻ ăn trộm càng phải cất giữ vật báu cẩn thận. Sau đến thời Triệu Huệ Văn Vương, ngọc bích họ Hòa bất ngờ xuất hiện tại Hàm Đan, thủ phủ nước Triệu. Quan Nội thị là Mậu Hiền chỉ dùng năm trăm đồng vàng để mua lại vật báu này. Sau khi Triệu Huệ Văn Vương biết tin đã nhiều lần ám chỉ muốn Mậu Hiền mang ngọc tặng lại cho mình, nhưng Mậu Hiền tiếc vật báu nên không đưa ra. Triệu Vương tức tối sai lính đến nhà Mậu Hiền cướp ngọc. Tiếng dữ đồn xa, câu chuyện đến tai Tần Chiêu Tương Vương. Tần Vương viết phong thư cho Triệu Vương, yêu cầu dùng mười lăm tòa thành để đổi lấy ngọc bích họ Hòa. Thời đó nước Tần đang mạnh, nước Triệu đang yếu, Triệu Huệ Văn Vương tiếc báu vật, không biết phải xử trí như thế nào. Trong cảnh nguy nan, viên quan Lận Tương Như đã hiến kế “hoàn ngọc về Triệu.” Sau đó ngọc họ Hòa đã được cất trong cung đình nước Triệu một thời gian dài. Năm 228 TCN, nước Tần đánh nước Triệu và cướp được ngọc họ Hòa.
Sau khi lấy được ngọc họ Hòa, Tần Thủy Hoàng xướng danh ngọc bích họ Hòa là Quốc tỷ, lệnh cho Thừa tướng Lý Tư khắc trên Ngọc tỷ chữ: “Thụ mệnh vu thiên, ký thọ vĩnh ca” (受命于天,既寿永昌). Lời khắc mong muốn ngọc được truyền lại đời đời, nhưng không ngờ đến đời Tần Nhị Thế thì nước Tần sụp đổ. Sau khi Lưu Bang vào Hàm Dương, Tần Tử Anh (240 – 206 TCN) đã giao lại ngọc bích họ Hòa cho Lưu Bang. Đến cuối thời Tây Hán, khi ngoại thích Vương Mãng cướp ngôi trong lúc Hoàng đế Nhũ Tử Anh mới hai tuổi, Quốc tỷ lại rơi vào tay Thái hậu Hán Hiếu Nguyên.
Tranh vẽ Tần Thủy Hoàng
Tranh vẽ Tần Thủy Hoàng
Theo «Hán thư – Nguyên Hậu truyện», khi Vương Mãng cho người em Vương Thuấn đến Thái hậu Hán Hiếu Nguyên đòi ngọc, bà Thái hậu quá tức giận đã mang ngọc tỷ ném mạnh xuống thềm làm ngọc tỷ bị bể một góc. Cho dù sau này chỗ bể được dùng vàng khảm lại nhưng cũng từ đó mà nó có tì vết.
Được biết, vào cuối thời Đông Hán, Quốc tỷ lại bị mất tích. Thời đó cục diện chính trị hỗn loạn, Hán Thiếu Đế (176 – 190 TCN) khi chạy trốn đã mang giấu Ngọc tỷ truyền quốc vào cung, nhưng khi trở về thì không thấy đâu nữa. Không lâu sau, khi Thái thú Tôn Hiền đánh dẹp được Đổng Trác đã tìm lại được Ngọc tỷ truyền quốc ở phía nam thành Lạc Dương.
Từ đó cho đến thời nhà Đường, cùng những biến động chính trị, Ngọc tỷ truyền quốc không ngừng đổi chủ. Từ thời Tống Thái Tổ thì không còn ai được thấy nó nữa.
Nhưng những ghi chép về Ngọc tỷ truyền quốc vẫn không ngừng xuất hiện trong các thư tịch. Vào năm thứ 3 Triệu Thánh thời Bắc Tống, một người tên Đoàn Nghĩa ở Hà Nam khi đào móng nhà đã đào được một cái Ngọc ấn. Qua hơn mười vị học sĩ hàn lâm giám định, mọi người đã cho là Ngọc tỷ truyền quốc thời đế chế nhà Tần. Năm thứ 13 Minh Hoằng Trị lại có người phát hiện được Ngọc tỷ, nhưng Hoàng đế cho rằng không phải đồ thật, nghe nói vào đầu triều Thanh, trong cung có giấu một Ngọc tỷ có khắc chữ “Thụ mệnh vu thiên, Ký thọ vĩnh xương.”
Nhưng theo ghi chép lại, Hoàng đế Càn Long không mấy quan tâm đến Ngọc tỷ truyền quốc này vì cho là đồ giả. Vậy thì Ngọc tỷ truyền quốc thật hiện đang ở đâu? Câu hỏi này cho đến nay vẫn chưa có lời giải.
Theo Secretchina
Tinh Vệ biên dịch
                  hình ảnh lưu bang                       

                                              HÒA THỊ BÍCH 
                 (Trích "THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (IV), CHƯƠNG II: Ngọc Bích")
Nhớ lại chuyện người Việt Thường dâng tặng vua Nghiêu con rùa đá trên đó có chữ giống con nòng nọc nói về Trời - Đất mà chúng ta cho rằng đó là bộ sách đá tượng rùa giảng giải về Hà Đồ - Lạc Thư. Rất có thể từ đây mà quan niệm về một thế giới tương phản đối ứng, lưỡng phân lưỡng hợp của người Việt Thường đã chuyển hóa thành âm - dương, lưỡng nghi, tứ tượng, bát quái, ngũ hành có tính đặc thù của người Hoa Hạ, để rồi sau này quay trở lại (do tính tương tự, gần gũi của chúng) mà cũng trở thành quan niệm (theo cách gọi mới) của người Việt xưa. Và Bát Môn Kim Tỏa cũng từ đó mà ra chăng?
Như đã kể, bộ sách đá “Qui Thư” (Lạc Thư) đó đã được vua Nghiêu nhận làm báu vật vừa vì sự quí giá vật chất của nó (ngọc thạch), vừa vì sự uyên thâm của nó về nhận thức Vũ Trụ cũng như vì công dụng tính toán “hay ho” của nó nữa.
Nếu Qui Thư đã là một báu vật quí giá như thế thì sao không thấy lưu truyền cho đời sau? Trong sử cổ Trung Hoa tuyệt nhiên không thấy nhắc đến nó một lần. Hay Qui Thư chẳng là cái quái gì cả, chẳng quí báu đến độ phải nâng niu, gìn giữ, chỉ là một con rùa sống hẳn hoi và tầm thường? Nếu thế thì người Việt Thường phải cất công lặn lội gặp vua Nghiêu chỉ để tặng một thứ “chả ra gì” để rồi sự kiện đó trở nên đặc biệt đến độ được lưu vào sử xanh? Hay sự kiện đó đơn giản là sự bịa đặt ra cho “oai” chứ không có thực và chúng ta đã như một kẻ ngố, dựa vào đó mà bịa thêm lung tung? Không, chúng ta vẫn bảo thủ, tin sự kiện đó là sự thật và Qui Thư là quí giá, trở thành một báu vật thiêng liêng, dù nhiều người sẽ chửi chúng ta là lũ gàn rở, vơ vào. Chúng ta tin như thế vì có một câu chuyện làm chúng ta suy ngẫm rất nhiều. Đó là câu chuyện “Hòa thị bích”.
Vào thời Xuân Thu, Biện Hòa, người nước Sở đi chặt củi trên núi Kinh (nay thuộc phía tây huyện Nam Chương, tỉnh Hồ Bắc), tình cờ thấy một con chim phượng hoàng đậu trên một hòn đá xanh. Quan niệm người Trung Hoa xưa rất đề cao ngọc bích (ngọc thạch). Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Người ta có thể đánh giá vàng nhưng ngọc bích thì vô giá”. Ngọc bích được xem như sự hòa quyện các tinh túy của Trời - Đất nên nó rất thiêng liêng. Dưới thời nhà Thương, nhà Chu, gươm và giáo bằng ngọc thạch được xem như biểu tượng tối thượng của quyền lực và “Phượng hoàng chỉ đậu xuống nơi có ngọc thạch”. Biện Hòa nghĩ rằng hòn đá xanh này là một bảo bối bèn ôm về, mang vào dâng cho Sở Lệ Vương. Thợ làm ngọc trong cung nói đó chỉ là một hòn đá thường. Lệ Vương nổi giận, ghép Biện Hòa vào tội lừa vua, ra lệnh cho võ sĩ chặt chân trái Biện Hòa. Sau khi con trai Lệ Vương là Võ Vương lên nối ngôi cha, Biện Hòa lại dâng hòn đá lên cho Võ Vương và bị chặt nốt chân phải. Cuối năm Nhược Can, con Võ Vương là Văn Vương lên kế vị. Biện Hòa vẫn muốn dâng hòn đá lên nhưng chân không còn, đành ôm hòn đá mà ông cho là quí, ngồi dưới núi Kinh khóc suốt 7 ngày 7 đêm, khóc đến cạn nước mắt, chảy ra máu tươi. Có người đem chuyện này bẩm báo với Văn Vương. Văn Vương sai người đi hỏi Biện Hòa:
- Người trong thiên hạ phải chịu hình phạt chặt cả hai chân rất nhiều, tại sao nhà ngươi lại đau buồn ghê gớm đến vậy?
Biện Hòa đáp:
- Tôi đau đớn không phải vì mất đôi chân mà là vì vật quí hiếm này bị người ta coi là hòn đá thường!
Văn Vương liền cho người đón Biện Hòa vào cung và ra lệnh cho thợ ngọc xem xét kỹ rồi thận trọng đẽo, gọt hòn đá ra. Quả nhiên hòn đá là một ngọc bích sáng óng ánh không một vết nứt. Về sau, người đời, để ghi nhớ sự kiện này đã gọi hòn ngọc bích đó là “Hòa thị bích” (ngọc bích họ Hòa).
Mấy trăm năm sau, tướng quốc Chiêu Dương nước Sở vì lập được công lớn nên được Sở Uy Vương thưởng cho “Hòa thị bích”. Thế rồi “Hòa thị bích” bị mất trộm, không tìm ra thủ phạm. Hơn 50 năm tiếp theo, thái giám Anh Hiền nước Triệu đã bỏ ra 500 lượng vàng mua một viên ngọc bích tuyệt đẹp của một người lạ từ nơi khác đến. Một người thợ ngọc xem xét kỹ thì phát hiện được đó chính là “Hòa thị bích” lừng danh một thời. Nghe được tin này, vua Triệu Huệ Văn lập tức đoạt lấy “Hòa thị bích” từ tay thái giám An Hiền. Từ đó viên ngọc bích do Triệu Huệ Văn chiếm giữ.
Lúc bấy giờ “Hòa thị bích” đã nổi tiếng khắp nơi là “vật báu vô giá đệ nhất thiên hạ”. Các chư hầu thiên tử đều sùng bái nó, muốn sở hữu nó làm bảo bối, dùng trong những cuộc cầu đảo, tế lễ. Vì thế mà đã có nhiều mưu mô, thủ đoạn để chiếm đoạt nó. Về điều này có câu chuyện lịch sử “Hòa bích qui Triệu” (ngọc bích họ Hòa trở về nước Triệu) được chép trong “Sử ký” của Tư Mã Thiên. Chúng ta lược thuật:
Vào thời Chiến Quốc, lúc nước Tần đã trở nên hùng mạnh, vua nước Tần nghe tin “Hòa thị bích” đang ở nước Triệu, bèn sai người sang đưa thư cho vua Triệu xin đem 15 thành trì để đổi lấy viên ngọc bích có một không hai. Vua Triệu cùng đại tướng quân Liêm Pha và các vị đại thần bàn: Nếu cho Tần ngọc bích thì sợ Tần lừa dối, không trao lại thành, nhưng nếu không cho thì lo Tần có cớ kéo binh tới đánh. Đang phân vân, dùng giằng chưa biết làm sao thì viên hoạn quan Mục Hiền nói:
- Môn hạ của thần là Lạn Tương Như có thể sang Tần thương thuyết được.
Vua liền cho vời Lạn Tương Như đến, hỏi:
- Vua Tần đem 15 thành đổi lấy viên ngọc bích của quả nhân, nên cho hay không?
Tương Như thưa:
- Tần mạnh, Triệu yếu, không cho không được.
Vua Triệu nói:
- Họ lấy ngọc ta mà không cho ta thành thì làm sao?
Lạn Tương Như nói:
- Tần đem thành đổi ngọc mà Triệu không cho, thì điều trái là ở Triệu. Triệu cho ngọc mà Tần chẳng cho thành, thì điều trái là ở Tần. Xét lại kế đó thì thà cho ngọc để Tần chịu phần trái.
Nhà vua hỏi:
- Ai có thể sai đi sứ?
Lạn Tương Như nói:
- Nếu nhà vua thiếu người, thần xin mang ngọc bích đi sứ. Thành có về tay nước Triệu thì ngọc mới ở lại đất Tần. Nếu thành không về, thần sẽ giữ nguyên vẹn viên ngọc đem về Triệu.
Thế là Tương Như mang ngọc sang Tần.
Khi Tương Như dâng ngọc, vua Tần mừng rỡ trao cho các mỹ nhân và quan hầu cùng xem, các quan hầu đều hô:
- Vạn tuế!
Thấy vua Tần không đả động gì đến việc trao thành cho Triệu, Tương Như, liền tiến lên nói:
- Ngọc bích có vết, tôi xin chỉ cho bệ hạ xem.
Nhận lại viên ngọc, Tương Như lập tức lùi lại, tìm đến một cái cột, nói:
- Nay thần đến, đại vương tiếp thần ở một nơi tầm thường, lễ tiết rất khinh mạn. Được ngọc, đại vương đưa cho các mỹ nhân để đùa bỡn thần. Thần xem đại vương không có ý trả thành ấp như đã hứa cho vua Triệu. Vậy thần lấy ngọc về. Nếu đại vương có muốn bức bách thần thì đầu thần và viên ngọc bích đều vỡ ở cái cột này.
Vua Tần sợ vỡ ngọc, vội gọi quan đương sự cầm địa đồ đến, chỉ cắt 15 thành cho Triệu. Tương Như đoán vua Tần làm thế cũng chỉ lừa dối thôi nên đòi vua Tần muốn nhận ngọc phải trai giới 5 ngày, đặt lễ Cửu Tân ở sân (Cửu Tân là một nghi lễ ngoại giao rất long trọng). Vua Tần không còn cách nào khác, đành ưng thuận.
Tương Như ở lại chờ tại quán tân khách Quảng Thành, nghĩ rằng Vua Tần thế nào rồi cũng lại bội ước, bèn sai kẻ tâm phúc theo mình, cải trang, đi theo đường tắt, mang viên ngọc bích về trả cho vua Triệu.
Đến ngày lễ Cửu Tân, Tương Như đến, nói với vua Tần:
- Nước Tần từ đời Mục Công đến nay, hơn 20 đời vua, chưa từng có ai giữ trọn lời hứa. Quả thực, thần sợ bị nhà vua lừa, lại phụ lòng nước Triệu, nên đã sai người cầm ngọc lẻn về nước Triệu rồi. Vả lại Tần mạnh mà Triệu yếu, đại vương sai một sứ giả đến Triệu thì Triệu lập tức đem ngọc sang dâng. Nay mạnh như nước Tần mà lại cắt trước 15 thành cho Triệu thì Triệu đâu dám giữ ngọc bích để mắc tội với đại vương. Thần biết rằng lừa dối đại vương tội đáng chết. Thần xin vào vạc nước sôi.
Vua Tần nghĩ có giết Lạn Tương Như cũng không lấy được ngọc và cũng chưa đến lúc phải tuyệt tình giao hảo Tần - Triệu, nên vẫn tiếp Tương Như ở triều đình, lễ xong cho về.
Rốt cuộc, Tần không đổi thành cho Triệu, Triệu cũng không đem ngọc bích cho Tần. Vua Triệu khen Tương Như, phong cho làm đại trượng phu.
“Hòa bích qui Triệu” là vậy.
Năm 228 TCN, nước Tần thôn tính nước Triệu, “Hòa thị bích” rơi vào tay Tần Thủy Hoàng. Đến năm 211 TCN, Tần Thủy Hoàng thống nhất thiên hạ, lập tức lệnh cho thừa tướng Lý Tư soạn 8 chữ : “Thu mệnh vu thiên, kỳ thọ vĩnh xương” (Nhận mệnh trời, được thịnh vượng mãi mãi), rồi sai thợ ngọc chạm trổ 8 chữ trên lên ngọc bích. Ngọc bích trở thành bảo ấn của Hoàng Đế và từ đó “Hòa thị bích” mang thêm tên mới là “Quốc ấn”.
Năm 206 TCN, Lưu Bang chiếm Lạc Dương, lật đổ nhà Tần, buộc vua Tần Tử Anh phải giao “Hòa thị bích”. Năm 202 TCN, sau khi đánh bại Hạng Vũ, Lưu Bang lập nên nhà Hán, đặt lại tên cho “Hòa thị bích” là “Ấn nhà Hán”, coi là quốc túy, và lệnh truyền nó từ đời này sang đời khác. Vì vậy mà ngọc bích còn thường được gọi là “Truyền quốc ấn”.
Cuối thời Tây Hán, ngoại thích Vương Mãng âm mưu soán ngôi nhà Hán, đã đầu độc vua Bình Đế, lập cháu họ vua là Tử Anh lên làm Hoàng thái tử. Lúc đó, thái hậu Hiếu Nguyên đang giữ “Hòa thị bích”. Vương Mãng sai người em họ là Vương Thuấn đến cung “Trường Lạc” tìm vật báu. Biết không thể giấu được, thái hậu đem ngọc bích ra ném mạnh xuống đất và mắng Vương Thuấn rằng: “Quốc ấn bị diệt, anh em nhà ngươi cũng chẳng có kết cục tốt đẹp gì!”. Vương Thuấn vội nhặt lên, thấy “Hòa thị bích” bị mẻ mất một góc.
Vương Mãng sau đó tự mình lên làm vua, đặt tên triều đại mới là Tân, lệnh cho thợ ngọc lấy vàng nạm vào góc bị vỡ của “Hòa thị bích”.
Sau khi Vương Mãng bị diệt, “Hòa thị bích” được Quang Vũ đế Lưu Tú cất giữ. Nhà Đông Hán truyền từ đời này sang đời khác, đến đời Hán Hiếu Đế, cuối thời Đông Hán, “Hòa thị bích” lại bị mất bặt tung tích.
Năm 192, quân đồng minh đánh dẹp Đổng Trác. Một hôm, nửa đêm, thái thú Tôn Kiên đi thị sát trong thành Lạc Dương, tình cờ phát hiện thấy một giếng nước phía nam thành phát ra ánh hào quang. Lập tức Tôn Kiên cho quân lính xuống mò thì vớt lên một thi thể phụ nữ mặc trang phục trong cung, cổ đeo một túi gấm bên trong đựng một cái tráp màu đỏ tươi có khóa bằng vàng. Mở tráp ra, Tôn Kiên thấy một hòn ngọc tỷ trong suốt, sáng lấp lánh. Trên hòn ngọc tỷ này chạm trổ hình 5 con rồng cuốn lấy nhau, một góc bị vỡ được nạm vàng. Biết đây chính là vật báu vô giá từng bị mất tích: Truyền quốc ấn - “Hòa thị bích”, Tôn Kiên liền đem cất giữ ngay.
Sau khi Tôn Kiên chết trong trận Hiện Sơn, “Hòa thị bích” rơi vào tay Viên Thuật. Thuật chết, thái thú trông coi lăng mộ Từ Cú giữ nó rồi dâng lên cho Tào Tháo. Sau Tào Tháo, “Hòa thị bích” tiếp tục đường truyền qua tay các vị vua nhà Tùy, nhà Đường. Người cuối cùng giữ hòn ngọc bích này là Lý Tòng Khê đời Hậu Đường. Bị thất bại trước quân rợ Khiết Đan, Lý Tòng Khê mang theo “Hòa thị bích” chạy lên một ngọn tháp rồi châm lửa đốt. Cả ngọn tháp cháy rừng rực và ông này cũng chết thiêu trong đó. “Hòa thị bích” cũng vĩnh viễn biến mất cho đến ngày nay.
                                                          Vương Mãng 
                                       Vương Mãng.jpg
Trong hơn 1000 năm sau thời kỳ Ngũ đại thập quốc, mỗi triều đại đều có chuyện truyền quốc ấn nhưng thật ra đó không phải là “Hòa thị bích” thật, mà chỉ là đồ ngụy tạo.
Ngày nay, nhiều người vẫn cố công dò la “Hòa thị bích” và giải mã điều bí ẩn là “Hòa thị bích” đẹp đến cỡ nào, quí giá đến cỡ nào mà vua chúa ngày xưa thèm khát, nâng niu đến thế?
“Hòa thị bích” được lưu truyền qua các triều đại, từ Xuân Thu - Chiến quốc đến Ngũ đại thập quốc, tính ra cũng khoảng 1.650 năm. Trên thế giới, kể ra cũng hiếm có báu vật nào mà được lưu truyền liên tục lâu đến vậy. Đó là chưa kể thời gian tồn tại của hòn ngọc bích trước khi được Biện Hòa phát hiện ra.
Nhưng trước khi được Biện Hòa phát hiện thì hòn ngọc bích đó đã là báu vật chưa? Điều không thể phủ nhận là hòn ngọc bích không phải tự nhiên có ở núi Kinh để Biện Hòa vô tình “nhặt lên” được, mà nó đã “lưu lạc” đến đó, ai đó đã mang nó đến đó, hoặc đi qua đó và làm rơi nó. Điều không thể phủ nhận nữa là “Hòa thị bích” đã nằm ở núi kinh từ rất lâu rồi, “rêu phong” phủ kín đến độ nhiều thợ làm ngọc lành nghề (ở triều đình) cũng tưởng là đá thường, và điều đặc biệt đáng chú ý là nó đã được tạo tác tinh xảo qua bàn tay con người để mà “sáng óng ánh không một vết nứt”. Với quan niệm hết sức sùng bái ngọc thạch của người Hoa Hạ thì trước thời Xuân Thu, có thể là vào thời nhà Thương hoặc thậm chí là lâu hơn nữa, “Hòa thị bích” cũng đã từng là báu vật mang tính thiêng liêng, vô giá.
Nếu quả thực “Hòa thị bích”, trước thời Xuân Thu, đã từng là một báu vật có tính thiêng thì chắc chắn nó phải là biểu tượng nào đó về thần thánh, hoặc hơn nữa, nó hàm chứa điều gì đó nói về trời - đất, về sự hòa quyện nhau của trời và đất. Vậy thì ở hòn ngọc bích báu vật đó, chắc rằng phải có những dấu tích khắc họa của thời xưa hơn, tạo cho người đời sau cái ý niệm về sự thiêng liêng, vô giá. Những khắc họa đó như thế nào? Chẳng thể nào biết được một khi còn chưa tìm lại được “Hòa thị bích”!
Thế kích cỡ và hình dáng “Hòa thị bích” ra sao? Về kích cỡ thì chúng ta cho rằng nó không quá to, quá nặng đến nỗi không thể mang theo người được; cũng không quá nhỏ để mà có thể đóng vai trò “quốc ấn”, để ngoài những khắc họa có trước (năm con rồng cuốn lấy nhau có thể thuộc về loại này), Tần Thủy Hoàng có thể cho người khắc thêm 8 chữ triện nữa. Về hình dáng thì nó không thể là hình tròn được vì nếu thế, khi thái hậu Hiếu Nguyên ném mạnh nó xuống đất thì nó chỉ có thể vỡ ra chứ không thể mẻ “mất một góc” được. Có thể nó có hình dạng vừa vặn với cái tráp (chắc là tương đối lớn) mà Tôn Kiên đã nhặt được? Cuối cùng, về vấn đề hình dáng, kích cỡ và sự tạo tác, chúng ta hỏi: có mối liên quan nào không giữa hòn đá mà Biện Hòa nhặt được ở núi Kinh và con rùa đá mà người Việt Thường tặng vua Nghiêu? Hòn đá của họ Hòa phải chăng là phiên bản hoặc chính là bộ sách đá Lạc Thư?
Chúng ta tưởng tượng thế này, hòn đá họ Hòa là một cái hộp bằng ngọc thạch mang hình tượng con rùa, trên mai và yếm có những lõm tròn (mà trước đó là những vị trí của những viên ngọc được nạm vào) xắp theo dạng Hà Đồ và Lạc Thư (như Khổng An Quốc đã thấy, có ý nghĩa là công thức lập và biến của Bát Trận Đồ, về quân sự hơn là ý nghĩa về triết lý), còn bên trong hộp, ngay ở giữa là một viên ngọc tròn, khá lớn, có khắc họa 5 hình tượng (uốn lượn giống con rồng) để biểu thị cho Ngũ Hành, Thái Cực. Số phận đã làm cho con rùa đã bị “sứt tai, gãy gọng” biến dạng không ra hình rùa nữa, bị ai đó “móc” hết những viên ngọc trên mai và yếm nó (nhưng may mắn viên ngọc bích lớn nhất và ở trong lòng nó thì vẫn còn), cuối cùng bị “đày đọa” lên núi Kinh dãi dầu mưa nắng và trở nên tầm thường.
Biện Hòa đã là kẻ không may khi tìm thấy con rùa đá (đã biến dạng thành xấu xí!). Nhặt được hòn ngọc thạch quí giá như thế, sao Biện Hòa không bán đi để trang trải cuộc sống, thậm chí là làm cho mình trở nên giàu có, mà cứ nằng nặc đòi dâng lên hết đời vua này tới đời vua khác để rồi bị chặt cả hai chân, chỉ đến khi khóc trào máu thì ông vua thứ ba mới thấu tỏ? Không, không phải Biện Hòa dâng vua vì tính quí giá của ngọc mà vì ông đã hiểu biết được cái nội dung cực kỳ thâm sâu và thiêng liêng, hàm chứa trong hòn đá đó. Ông đã cố giảng giải (để tiến thân?) nhưng vua không nghe ra, còn cho là lếu láo nên đã bị chặt chân. Chỉ có thể là như thế mới lý giải được hành động có vẻ gàn dở, kỳ quặc và lãng nhách của Biên Hòa.
Lúc ban đầu, có thể cả hòn đá cùng viên ngọc bích trong lòng nó được gọi là “Hòa thị bích”, về sau (lúc Tôn Kiên tìm thấy?) chỉ còn viên ngọc bích được gọi là “Hòa thị bích”? Nếu đúng là thế thì có thể tưởng tượng thêm rằng: viên “Hòa thị bích” là Thái Cực “bằng xương băng thịt” ở ngoài đời, khi mất đi, linh hồn của nó đã bay vào thấp thoáng ẩn hiện trong Kinh Dịch.
                                                           hình ảnh Tôn Kiên
Trong nhận thức về thế giới của người Ấn Độ xưa, Cái Ấy hay Cái Một là yếu tố nhỏ nhất làm nên vạn vật và cũng là Vũ Trụ. Trong nhận thức của người Trung Hoa xưa, Cái Một được thay bằng Thái Cực, cái vừa nhỏ nhất vừa lớn nhất làm nên hình tượng thế giới vạn vật. Tuy nhiên quan niệm Trung Hoa xưa còn đưa ra một ý niệm nữa là Vô Cực. Vô Cực làm ra Thái Cực, có Thái Cực mới xuất hiện Lưỡng Nghi, Vạn Vật và Hiện Tượng. Kế thừa xuất sắc những tư tưởng có cốt lõi đúng đắn đó và cùng với những chiêm nghiệm, suy tư trác tuyệt của mình, Lão Tử đã xây dựng được một học thuyết triết học soi rọi rất đúng về thực tại. Trên nền tảng học thuyết đó, ông cũng đã giảng giải có phần súc tích nhưng rất hay, rất tài, một cách chung nhất mà lại gần chân lý nhất về các hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội, hơn nữa còn có những lời khuyên chí lý, chí tình về lối sống cũng như cách đối nhân xử thế hồn nhiên, bình dị và lành mạnh của một con người có đạo đức trong xã hội.
                                                                  hình ảnh Lão Tử
                                                                           

Thanh kiếm mộ vua Càn Long với những ẩn đố bí mật

Thanh kiếm được khai quật từ ngôi mộ cổ của Hoàng đế Càn Long .(Ảnh: Headlines)
Thanh kiếm được khai quật từ ngôi mộ cổ của Hoàng đế Càn Long .(Ảnh: Headlines)
Bốn người đầu tiên tiếp xúc với thanh Cửu long bảo kiếm trộm được từ mộ vua Càn Long đều không có kết cục tốt đẹp. Câu chuyện càng tô vẽ thêm những bí ẩn trong các lăng mộ vua chúa thời xưa.
Tôn Điện Anh là một nhân vật được biết đến rất có tiếng trong nghề đào trộm mộ. Ngôi mộ của vua Càn Long và Từ Hy Thái hậu đều đã bị đánh cắp bởi người đàn ông này. Người ta nói rằng vào thời điểm cuối đời, Hoàng đế nhà Thanh – Phụ Nghi đã thề rằng nếu không chính tay bắt được Tôn Điện Anh thì nhất định sẽ không bỏ cuộc.
Những tên trộm thường nhắm vào các ngôi mộ có chứa những vật phẩm quý giá để trộm đi. Nếu đào được một kho báu có giá trị, thì sẽ đủ cho họ ăn tiêu cả một đời. Tuy nhiên, không phải lần trộm nào cũng tìm thấy những đồ quý giá, có nhiều lúc những tên trộm mộ cũng đào phải những vật phẩm đáng sợ.
Không một người nào sống sót khi chạm vào thanh kiếm được khai quật từ ngôi mộ cổ của vua Càn Long .(Ảnh: Headlines)
Không một người nào sống sót khi chạm vào thanh kiếm được khai quật từ ngôi mộ cổ của Hoàng đế Càn Long .(Ảnh: Headlines)
Cửu long bảo kiếm chính là một vật phẩm như vậy. Người ta nói rằng thanh kiếm này là đồ vật tà môn đáng sợ nhất trong lịch sử đào trộm mộ ở Trung Quốc. Cho đến nay tất cả những ai chạm vào thanh kiếm này đều bị chết mà không rõ nguyên nhân, không có trường hợp nào ngoại lệ.
Cửu long bảo kiếm bị đào trộm từ ngôi mộ cổ của vua Càn Long. Bởi vì trên thân của thanh bảo kiếm có khắc 9 con thần long (rồng). Về lịch sử của thanh bảo kiếm này, cho đến nay vẫn không có ai biết được nguồn gốc của nó. Người ta chỉ biết rằng đây là một vũ khí rất đáng sợ, những ai mà tiếp xúc với nó gần như đều có kết cục bi thảm.
Khi những binh sĩ của Tôn Điện Anh mở nắp quan tài của Từ Hy Thái Hậu, được biết toàn cơ thể của bà vẫn không hề bị thối nát. (Ảnh: Headlines)
Khi những binh sĩ của Tôn Điện Anh mở nắp quan tài của Từ Hy Thái Hậu, được biết toàn cơ thể của bà vẫn không hề bị thối nát. (Ảnh: Headlines)
Lúc đó, Tôn Điện Anh nhằm kiếm rào chắn để hòng thoát tội, đã lần lượt đem các báu vật mà đánh cắp được từ các ngôi mộ để tặng cho các “chức sắc quốc đảng”. Trong đó thanh kiếm này đã được coi là chiếc gươm báu đem tặng cho Tưởng Giới Thạch. Một người tên Đái Lạp đã được cử mang đi tặng.
Đái Lạp khi mang thanh bảo kiếm này theo trên máy bay, chiếc máy bay này liền bị rơi mà không hề có nguyên do. (Ảnh: Headlines)
Đái Lạp khi mang thanh bảo kiếm này theo trên máy bay, chiếc máy bay này liền bị rơi mà không hề có nguyên do. (Ảnh: Headlines)
Tuy nhiên, khi Đái Lạp mang thanh kiếm này trên máy bay, máy bay đã bị rơi mà không có bất cứ lý do gì. Do đó, thanh bảo kiếm đã không được đưa đến tận tay Tưởng Giới Thạch. Dựa vào cái chết của cá nhân này không thể nói lên điều gì. Nhưng tại thời điểm đó, Đái Lạp nhận được thanh kiếm này cũng rất lo sợ, khiếp vía. Ông ta đã gọi cho Mã Hán Tam, chủ nhiệm văn phòng Bình Tân thuộc văn phòng Quốc Dân Đảng nhờ bảo quản hộ.
Mã Hán Tam sau khi nhìn thấy bảo vật đã khởi tư tâm, nghĩ cách chiếm dụng. Nhưng sau đó vì để bảo vệ tính mạng của mình, ông ta đã đem bảo kiếm hiến tặng cho thủ lĩnh cơ quan đặc vụ của Nhật Bản. Cuối cùng đã rơi vào tay một điệp viên nữ Kawashima nổi tiếng. Mã Hán Tam sau đó cũng không thoát khỏi số phận bị bắn chết.
Điệp viên Kawashima cũng tương tự, không thoát khỏi định mệnh bị tử hình. Một cái nhìn khác, Tôn Điện Anh kể từ khi đem thanh bảo kiếm đáng sợ tà môn này ra, cũng đã trở thành một tù nhân và chết trong tay Quân đội Giải phóng Nhân dân.
Ảnh Tôn Điện Anh. (Ảnh: Headlines) thanh kiem mộ vua Càn Long
Tôn Điện Anh. (Ảnh: Headlines)
Thanh kiếm này từ khi ra khỏi ngôi mộ của vua Càn Long đã tiếp xúc với tổng cộng 4 người: Tôn Điện Anh – đã chết trong nhà tù; Đái Lạp – chết do máy bay đâm vào một ngọn núi mà không có lý do; Mã Hán Tam – bị bắn chết; Kawashima – hình phạt tử hình. Không thể không thừa nhận, đây quả là một thanh kiếm đáng sợ!
Biên dịch My My
Theo Meirihaowen
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét