CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 171/b
(ĐC sưu tầm trên NET)
Bẵng
đi mấy năm, khi những bình luận của công chúng về vị anh hùng tình báo
huyền thoại, viên tướng tình báo hai vợ, Thiếu tướng Đặng Trần Đức (tự
Ba Quốc) có phần lắng xuống theo thời gian thì vào những ngày tháng 4
lịch sử này, bao kỷ niệm trong tôi về ông bùng lên khiến tôi phải cầm
bút hầu mong được bổ sung những chi tiết về cuộc đời, sự nghiệp, tình
cảm của ông với gia đình, đồng đội, đồng chí… mà các tác giả đi trước
chưa đề cập tới.
Chuyến công tác đặc biệt
Sau hơn 8 năm hoạt động ở vùng giáp ranh với địch ở miền Đông Nam Bộ tới chiến trường sông nước Bến Tre thuộc Trung Nam Bộ, giữa năm 1974, tôi nhận được quyết định về công tác tại "tổng hành dinh" Đoàn Tình báo chiến lược J22 - căn cứ đóng tại khu vực Lộc Ninh (thị trấn duy nhất trong vùng giải phóng) thực hiện chính sách "thay quân" đối với những trường hợp hoạt động quá lâu ở vùng yếu. Tôi được bố trí làm Trưởng một bộ môn nghiệp vụ tại A44 do anh Võ Hoàng Vân làm Trưởng ban.
Chưa được nửa năm, đầu tháng 1/1975, anh Võ Hoàng Vân thông báo cho tôi: "Bộ phận A10 (Văn phòng đoàn J22) truyền đạt ý kiến của anh Tư (tức đồng chí Tư Bốn, Trưởng đoàn J22) đầu giờ chiều đồng chí sang gặp anh Tư có việc gấp. Thời đó, cán bộ cỡ như tôi - thăm thẳm nhiều năm ở chiến trường vùng yếu rồi trở thành "lính tò te" ở chiến khu mà được Trưởng đoàn triệu lên gặp riêng, quả là điều đặc biệt. Cả buổi trưa hôm đó tôi sống trong tâm trạng thắc thỏm đợi chờ cuộc gặp gỡ bất ngờ với một nhân vật đặc biệt - Vị Anh hùng đầu tiên của lực lượng Tình báo quân sự trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ, có tên gọi là Tư Bốn.
Đúng giờ hẹn, tôi có mặt tại lán làm việc của Đoàn trưởng ở khu vực căn cứ A10. Ông tiếp khách bằng chè Thanh Hương, thuốc lá Điện Biên bao bạc và kẹo Hải Hà (chắc là có đoàn từ Bắc mới vào). Sau khi thăm hỏi chuyện chiến trường Bến Tre, gia đình, quê quán xong, ông vào nội dung chính ngay.
- Có một việc rất quan trọng tôi cho kêu đồng chí sang để thông báo ý kiến của lãnh đạo sẽ giao cho đồng chí một nhiệm vụ quan trọng...
Tôi như nín thở, chờ nghe tiếp ý kiến của ông - "Theo yêu cầu của Trung ương, đơn vị sẽ cử một cán bộ mới ở trong thành về căn cứ, ra Hà Nội báo cáo gấp. Đi theo đường giao liên, trong khi xưa nay đồng chí ấy chỉ sống trong thành, sức khỏe yếu. Nhiệm vụ của đồng chí là sẽ tháp tùng đưa cán bộ ra Trung ương, đảm bảo tuyệt đối an toàn, với thời gian nhanh nhất. Trung ương rất cần những thông tin của đồng chí này. Kết hợp chuyến đi, đơn vị sẽ có văn bản xin thêm người và tài liệu để khi đồng chí vô sẽ đem theo luôn. Đánh nhau với Mỹ, luôn phải tính tới phương án lâu dài, dẫu rằng ngày toàn thắng đã tới rất gần.
Ông mới nói được chừng đó thì có khách đột xuất. Trưởng đoàn khẽ reo lên:
- Cha!... Sao mà linh vậy. Đang tính nói anh em sang kêu... vô đi anh Ba. Tôi đã tìm được "trợ thủ" cho anh rồi đây.
Vị khách chừng trên năm chục tuổi. Dong dỏng cao, gầy. Có lẽ vì thế mà trông ông càng cao hơn. Gương mặt hiền từ, phúc hậu. Khách vừa ngồi xuống bàn, Đoàn trưởng Tư Bốn quay sang tôi giới thiệu.
- Đây là anh Ba Quốc như tôi vừa nói với đồng chí. Có thể chiều nay hai người sẽ bàn kỹ một số việc. Những thứ cần thiết phục vụ chuyến đi, tôi đã giao cho A10 chuẩn bị. Đồng chí đã nhiều năm sống trong căn cứ, đã từng vượt Trường Sơn rồi coi cần thêm thứ gì thì đề xuất. Chuẩn bị sẵn sàng, khi có lệnh là lên đường ngay. Đoàn sẽ bố trí giao liên sử dụng 2 xe máy chở các đồng chí tới trạm giao liên nào có ôtô thì anh em quay lại. Đồng chí Dương cần lưu ý sức khỏe anh Ba. Nhớ đem theo đầy đủ các loại thuốc thông dụng...
Nghe thủ trưởng giới thiệu khách là Ba Quốc, tôi trố mắt nhìn, tưởng như vị khách mới vào kia là người từ hành tinh khác vừa rơi xuống, bởi cái tên anh nghe có vẻ quen quen, nhưng người thì bây giờ mới gặp. Tôi nhớ mấy tuần trước được nghe anh em đơn vị nói nhỏ với nhau "có một điệp viên cực kỳ quan trọng thuộc một cụm tình báo chiến lược tên là Ba Quốc, quê miền Bắc, vào Sài Gòn từ đầu thập niên 50. Chui rất sâu, leo rất cao, tồn tại qua mấy đời tổng thống. Thời Nguyễn Văn Thiệu trở thành cán bộ cao cấp trong USAID (Cơ quan Viện trợ của Mỹ). Ông bị lộ từ khâu giao thông liên lạc. Một nữ giao thông viên (GTV) đem báo cáo của ông từ Sài Gòn về căn cứ của cụm ở Đồng bằng sông Cửu Long, về tới Tân Châu - Hồng Ngự thì bị bắt. Đơn vị thông báo khẩn cấp nên khi cảnh sát đặc biệt tới bao vây thì ông đã chuồn khỏi nhà trước đó hơn 30 phút và được cơ sở bí mật đưa về căn cứ luôn...".
Những thông tin liên quan tới kế hoạch giải thoát GTV bị bắt cũng rất ly kỳ, giật gân. Nghe nói khi trinh sát địa bàn đi đón, phát hiện GTV bị bọn cảnh sát Hồng Ngự bắt, đã nhanh chóng trở về căn cứ báo cáo. Lãnh đạo Cụm, một mặt báo cáo khẩn cấp về J22, mặt khác bàn gấp kế hoạch giải thoát bằng cách điều cơ sở bí mật tiếp cận đơn vị thụ lý là cảnh sát Hồng Ngự.
Ngã giá bằng nửa triệu (500.000đ) tiền Sài Gòn lúc đó tương đương 14 chiếc xe môtô hiệu Honda Nhật. Cái bệnh ăn hối lộ đối với chế độ Sài Gòn đã trở thành chuyện "hàng ngày nơi phố huyện". Với số tiền trên quả là quá lớn so với một cụm tình báo lúc đó. Vì vậy phải báo cáo gấp về trên. Hình như cũng chỉ trong 1 ngày đã có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo J22. "Dù có phải chi tới một triệu đổi lấy GTV và tài liệu đem về cũng phải thực hiện ngay". Đơn vị tức tốc thực hiện thì "hàng" đã chuyển về "nhập kho" Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn, vì đã hết hạn tạm giữ ở cấp quận, huyện theo quy định của luật pháp.
Tôi giật mình trở về thực tại sau câu hỏi của ông Tư Bốn:
- Nhiệm vụ là như vậy, đồng chí Thái Dương thấy sao?
- Dạ... Không sao! Việc này tôi hứa đảm bảo hoàn thành tốt. Xin hai đồng chí cứ yên tâm.
Ngày hôm sau tôi trở lại A10, chuyển cho chị em ở bộ phận hậu cần bản thống kê những thứ cần chuẩn bị cho anh Ba Quốc: Những tăng, võng, thuốc tây, thức ăn khô, áo mưa, giày, dép, balô... và hướng dẫn anh Ba Quốc việc tập luyện trước khi lên đường. Tất nhiên chỉ tập có mức độ, đề phòng trường hợp có những đoạn đường phải đi bộ không thể đeo nặng như thời chúng tôi tập hành quân.--PageBreak--
Khoảng cuối tháng 3/1975, khi căn cứ của J22 đã chuyển xuống khu vực rừng le ở sông Tha La (phía đông núi Bà Đen) thì chúng tôi có lệnh lên đường. Hai chiếc Honda 67 đã đưa tôi và anh Ba Quốc ngược trở lại căn cứ Lộc Ninh và hôm sau đi tới trạm D4A chính thức nhập vào tuyến giao liên của Miền, để từ đó qua Bù Đăng, Bù Đốp, qua các Trạm T10, T9, T8 rồi đi Buôn Ma Thuột...
Thời điểm đó đã thuận lợi hơn cả trăm lần thời chúng tôi cuốc bộ đi vào. Bởi đã có ôtô. Song, ngặt mỗi xe ưu tiên cho đoàn vào nên đoàn đi ra đều phải chờ đợi ở các trạm. Mỗi nơi vài ba ngày. Thời gian chờ đợi lâu nhất đó là cung đường từ trạm có bí số là T10 ra T9 thuộc địa bàn Khu 6. Phải "ăn dầm nằm dề" ở T9 tới 8 ngày (từ ngày 5/4 đến 12/4). Vì là đoàn ưu tiên nên chúng tôi được bố trí trong một chiếc lán nhỏ, đủ căng võng cho 2 người. Hai anh em căng võng sát nhau để tiện tâm sự. Biết anh buồn, sốt ruột vì bị giam chân ở T9 quá lâu nên tôi lôi ra đủ thứ chuyện nhằm giúp anh khuây khỏa.
Từ chuyện quê hương miền Bắc sau ngày giải phóng, chuyện chúng tôi tập luyện trước khi đi "B" và quá trình hành quân vượt Trường Sơn... Nhiều tối, tôi "thay đổi món ăn tinh thần" bằng việc kể chuyện phim, tiểu thuyết, kể cả của ta và nước ngoài như: "Chiếc khuy đồng", "Lửa trung tuyến", "Con chim vành khuyên", "Đất vỡ hoang", "Sông Đông êm đềm", "Rừng thẳm tuyết dày" v.v... Tôi biết anh rất chăm chú nghe, vì với anh, đó đều là những chuyện mới vì sống trong lòng địch làm sao có được mà xem, mà đọc.
Để thể hiện tinh thần "có đi có lại", anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện ở Sài Gòn - Từ những hộp đêm, vũ trường, những sinh hoạt của dân "anh chị"', tâm trạng các giai tầng xã hội... tới đặc điểm tâm lý, cá tính, sinh hoạt, thái độ chính trị của nhiều nhân vật chóp bu trong chính quyền Sài Gòn qua từng giai đoạn. Thấy anh vui vẻ, nhiều hôm tôi mạnh dạn hỏi anh về chuyện gia đình, vợ con, quá trình hoạt động ở miền Bắc, thời gian vào Nam, Sài Gòn thời đó và bây giờ, thực chất các đảng phái chính trị của chế độ Sài Gòn... Tất nhiên phải tránh những gì thuộc về nguyên tắc nghiệp vụ để gây khó cho anh.
Càng
nghe, càng thêm ngỡ ngàng về một con người tưởng như mộc mạc, lành hiền,
ít nói ấy lại chứa đựng tầng tầng lớp lớp kiến thức đa dạng, uyên thâm,
như một từ điển sống của cả chế độ miền Nam thời đó. Có lẽ Trung ương cần gặp ông gấp là vậy. Chắc chắn có liên quan tới kế hoạch hậu chiến của địch.
Chứng cứ từ những vết thương
Một buổi tối, đợi anh nghe xong bản tin tiếng Anh của Đài BBC, tôi hỏi: "Anh Ba ơi! Thời kháng chiến chống Pháp, tụi em còn bé tý. Năm 1954 giải phóng miền Bắc mới đang học lớp nhất ở quê, nghe người lớn nói có rất nhiều người di cư vào Nam. Chắc có anh trong số đó?...". Anh khẽ cười, lắc đầu - "Không! Tôi đã "di cư" từ hơn một năm trước đó". Tôi há hốc miệng nhìn anh, đầy nỗi ngạc nhiên, rồi nằm xuống, đung đưa cánh võng, mơ hồ thả hồn trôi theo dòng ký ức của anh.
Hoạt động trong lực lượng Tình báo quân sự, địa bàn của Đặng Trần Đức lúc đó là Thành Hà Nội (chỉ đạo một số cơ sở bí mật trong thành). Tất nhiên có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, để khi cần có thể vào nội thành. Một đêm cuối năm 1952, từ vùng căn cứ bí mật, anh đột về Gia Lâm gặp cơ sở để nắm tình hình tại hộp thư quy định. Khi trở ra chưa được bao xa thì bị thương do một trái moóc-chê bắn cầm canh từ một bót nào đó. Anh trở lại điểm hẹn, nhờ gia đình cơ sở đưa vào nhà thương trong nội thành, với nguyên nhân ngụy trang là bị ngã xe đạp. Vết thương chưa lành anh đã bị đưa về phòng thẩm vấn của lực lượng cảnh sát.
Được tin này, tổ chức đã cử ngay cơ sở bí mật (một nữ GTV hợp pháp của Đặng Trần Đức) tiếp cận ông chú làm việc tại Sở Liêm Phóng. Trước tình hình đó, cô gái phải “thú thực” đó là "người yêu" của mình, đúng là bị thương do ngã xe đạp. Người chú nghiêm mặt, nói nhỏ: "Đừng có lôi thôi! Những vết thương trên người nó đã trở thành chứng cứ. Đó là mảnh moóc-chê chứ không phải ngã xe...". Cô gái lặng người, tay vân vê tà áo, trấn tĩnh lòng mình để mãi lâu sau mới nhỏ nhẹ: "Chú ơi! Vậy bây giờ phải làm sao?". "Chú có thể tìm mọi cách cho nó không bị bắt, nhưng rồi thì phải rủ nhau đi khỏi xứ này ngay. Đi càng xa càng tốt. Không qua mắt bọn "Phòng nhì" được đâu!...".
Nỗi lòng người đi và kỷ vật để lại
Mạch chuyện được tiếp nối, đó là sự việc diễn ra sau khi Đặng Trần Đức ra viện, trở về báo cáo lại toàn bộ tình hình trên với lãnh đạo...
Theo anh Đức, rất có thể cấp trên (các nhà lãnh đạo tình báo lúc đó - K.M.D.) đã có những dự định quan trọng mang ý nghĩa chiến lược, nên sau khi nghe Đặng Trần Đức báo cáo, lãnh đạo đã cho ý kiến chỉ đạo luôn - "Để đảm bảo an toàn, dứt khoát đồng chí phải chuyển địa bàn hoạt động vào Sài Gòn. Hai người cùng đi. Nếu không, sẽ khó giải thích với chú cô ấy và dễ bị lộ".
Mới nghe vậy, anh đã vã mồ hôi, chưa biết định trả lời sao thì cấp trên đã tiếp: "Chúng tôi biết đồng chí định nói gì. Nhưng cứ yên tâm, việc này tổ chức sẽ có kế hoạch giải tỏa giúp đồng chí. Cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc còn đầy cam go thử thách, đòi hỏi mỗi chúng ta, kể cả quần chúng nhân dân tiếp tục phải chấp nhận hy sinh, kể cả tình riêng vì sự nghiệp lớn. Hai người cứ yên tâm ra đi, còn gia đình, chị và 2 cháu (Lúc đó Đặng Trần Đức đã có vợ, 2 con. Cháu gái đầu lòng 5 tuổi và cháu trai 2 tuổi) sẽ có tổ chức chăm lo".
Họ bí mật chuẩn bị, rồi xuống Hải Phòng, lên một tàu buôn thẳng hướng trời Nam. Tôi đang định hỏi trước khi đi 2 người phụ nữ có gặp nhau không, thì anh đã tiếp - Trước lúc lên đường, cô ấy có viết một bức thư ngắn với nội dung: "Do yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức, em xin phép được thay chị vào trong đó để chăm sóc anh, giúp anh hoàn thành nhiệm vụ. Hẹn ngày đất nước thanh bình, chị em ta sẽ gặp nhau...". Phần tái bút có ghi - "Em xin gửi chị một chút quà làm kỷ niệm với tất cả tấm lòng của người đi. Chúc chị khỏe, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vững lòng tin vào ngày anh trở về". Cô ấy tháo đôi hoa tai cẩm thạch, bỏ chung vào phong thư, cẩn thận dán lại, nhờ người thân chuyển tới nhà tôi.
Hôm đó là đêm 11/4/1975. Đêm cuối cùng chúng tôi "bám trụ" Trạm T9 để sáng hôm sau có ôtô đưa ra Trạm T8. Tôi trằn trọc cả đêm không sao ngủ được, bởi cảm động trước tình cảm của hai người thân yêu nhất của huynh trưởng tôi. Chuyện thật mà cứ như là trên phim ảnh.
Bình phong chức nghiệp
Đáp lại thịnh tình của "đại ca" sau bao đêm kể cho tôi nghe cuộc đời hoạt động của anh trong kháng chiến chống Pháp. Cả ngày và đêm 13/4 nghỉ tại Trạm T8, tôi kể với anh đôi nét về bản thân mình những ngày mới vào chiến trường. Thực ra những chuyện đó nói với anh có khác gì một sĩ quan tập sự đứng trước vị tư lệnh tài danh - Thời đó đơn vị cũng chuẩn bị tư thế cho tôi vào hoạt động hợp pháp tại Sài Gòn. Tôi được mang họ tên khác, quê quán tại Gia Lộc, Hải Dương (chứ không phải Quảng Oai - Xứ Đoài quê tôi).
Về năm sinh, trong căn cước tăng lên 7 tuổi so với tuổi thực của tôi. Đi lính Sư đoàn 7. Năm 1954 tập kết vào Trà Vinh. Do bệnh yếu tim nên được giải ngũ, về cư ngụ tại Lai Khê, Bến Cát, tỉnh Bình Dương, làm giáo sư bậc trung học. Nghe tới đây, anh khẽ gật gật đầu - "À! Thế là đồng chí bình phong chức nghiệp nghề giáo dục. Chắc là phải tìm hiểu kỹ ngành này và binh chủng pháo binh?". "Dạ có. Em đã có thâm niên 4 năm lính pháo binh 105 ly và qua Trường Hạ sĩ quan Pháo binh Quân khu Tây Bắc, đồng thời làm giáo viên kiêm chức ở đơn vị...". "Thế thì bình phong chắc lắm. Nhưng sao không bố trí vô thành?".
"Thời đó tụi nó bắt lính như điên. Dù đã làm giấy tờ tăng hơn tới 7 tuổi nhưng trẻ quá, khỏe như vâm. Nó mà kiểm tra lại sức khỏe thì "xôi hỏng bỏng không". Vì vậy, đơn vị chưa dám đưa vào. Phải chờ thời...". Nhắc tới những chuyện này, tôi như đã đưa anh trở về với những tháng năm tung hoành ngay giữa sào huyệt của địch. Anh hồ hởi, phấn chấn xen vào mạch chuyện của tôi.
"Nghề của chúng ta, bình phong chức nghiệp là cực kỳ quan trọng. Bình phong tốt là đảm bảo bảy, tám mươi phần trăm thắng lợi. Ngoài ra, câu chuyện ngụy trang trong tiếp xúc cũng rất quan trọng. Đôi khi nhờ nó mà rất được việc, rút ngắn thời gian vòng vo tìm hiểu. Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, tôi đi sâu tìm hiểu về đảng "Cần lao nhân vị" tìm cách tiếp cận một số tên tai to mặt lớn trong tổ chức này. Khi đã "vào cạ", có tên thân mật hỏi - "Nè!... anh Ba (gọi theo thứ bậc anh em trong gia đình. Còn tên thường gọi của anh ở Sài Gòn cho tới nay tôi vẫn chưa biết - K.M.D.) dân ngoải (ngoài ấy) vô, hiền khô, coi mòi chơi được, không như mấy cha nội kia, dựa hơi Tổng thống làm phách lắm. Vô khi nào vậy?...". "Thì... Tổng thống vô khi nào thì mình vô khi đó...".
Thế là từ đó đi công cán hoặc thị sát địa phương nào là họ đều mời đi cùng "về miệt vườn ít bữa cho khuây khỏa. Bám hoài đất đô thành chán thấy mồ". Có lần về An Giang, không hiểu họ giới thiệu về mình ra sao mà mấy tay chóp bu bản xứ lại lầm tưởng mình là phái viên Trung ương đảng "Cần lao nhân vị" về kiểm tra nên tất cả đều chạy rối giò, đón tiếp linh đình. Hơn 20 năm sống giữa Sài Gòn với bao điều trắc ẩn bủa vây, phải bình phong nhiều vai diễn, tiếp xúc với mọi giai tầng xã hội, phải chứng kiến bao nỗi xót xa của những phận đời đau khổ; phải tiếp xúc với những tên trùm tội phạm, tội ác tày trời, dẫu lửa căm thù ngùn ngụt trong lòng mà vẫn phải thản nhiên như không.
Sống trong khu cán bộ cao cấp của ngụy quyền Sài Gòn, sống giữa đô thành hoa lệ... mà quá cô đơn. Đôi khi tôi nghĩ, cái nghề của ta nó nghiệt ngã quá đồng chí Thái Dương ạ! Mấy chục năm hoạt động an toàn, các cơ sở bí mật đang phát huy tác dụng tốt phục vụ cho giai đoạn quyết liệt này thì tai họa ập tới, hoàn toàn do yếu tố khách quan, để bây giờ rơi vào cảnh này... không hiểu vợ con tôi trong ấy bây giờ ra sao? Kẻ thù của chúng ta thâm hiểm lắm...
Thông cảm với tâm trạng anh, tôi lựa lời động viên, rồi pha vui "Các cụ ta đã chẳng từng đúc kết - sinh nghề tử nghiệp là gì".
Hơn 2 tuần hành quân, vạ vật ở mấy binh trạm, mưa nắng thất thường, lại chưa thích nghi với thời tiết, sức khỏe của anh sút giảm, kém ăn, ít ngủ, rồi cảm sốt. Tôi bỗng trở thành y tá, hộ lý chăm sóc anh, bắt uống thuốc, ép ăn cơm. Cơm ở binh trạm chẳng có gì ngoài bí ngô và cá khô. Nhờ có kinh nghiệm của những ngày vượt Trường Sơn, tôi mò vào rừng hái lá chua về nấu canh cho anh. Một mớ lá bứa non bỏ vào ăng-gô nấu sôi lên, bỏ vào vài thìa ruốc thịt (thịt chà bông), thêm tý mì chính là có một món canh chua tuyệt vời. Ngày có xe rời trạm T8, dẫu vừa dứt sốt nhưng thấy anh khỏe ngay.
Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải miền Trung đã giải phóng, xe chạy ra Buôn Ma Thuột, rồi từ đó theo Quốc lộ 19 về Bình Định, theo Quốc lộ 1 ngược lên phía bắc, về Trạm Z7. Nghe lái xe nói vậy chứ cũng không biết Z7 đặt ở tỉnh nào. Thời đó Quốc lộ 1 xấu lắm, nhiều cầu, nhiều phà, phải dừng nghỉ thêm 2 chặng đường Quảng Ngãi và Đông Hà. Ngày 24/4 tới Z7, mới biết đó là thị xã Quảng Bình rồi xe quay trở vào phía Nam. Chúng tôi phải nằm lại Quảng Bình chờ chuyến xe ra. Ngày nào cũng ngóng xe mà không có. Với tính chất của đoàn ưu tiên đặc biệt, tôi khẩn khoản trình bày với trạm trưởng, nên tới ngày 29 ông phải xuất chiếc xe dự phòng của trạm đưa đoàn ra Hà Nội.--PageBreak--
"Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt"
Tôi xin mượn một câu trong bài "Đất nước" - bài thơ nổi tiếng của Đại tá, nhà văn Nam Hà để đặt cái tít phụ cho phần cuối của bài viết này, nó liên quan tới anh, phụ thân và các em của anh.
Xe về tới Hà Nội đúng 15h ngày 30/4. Vì lái xe không biết đường nên lạc tới Nhà hát Lớn. Đường phố tắc nghẽn vì nhân dân thủ đô tràn xuống đường reo mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam. Luẩn quẩn tới 4 giờ chúng tôi mới về được Trạm 66 của Bộ Quốc phòng trên đường Hoàng Diệu. Nơi mà 10 năm trước tôi xuất phát từ đó vô Nam. May còn nhớ số máy trực của Cục II, tôi điện vào thành, chỉ 15 phút sau đã có 2 sĩ quan một cấp úy và một cấp tá ra đón.
Sau khi sắp xếp cho lái xe ăn nghỉ ở trạm, các anh lại yêu cầu chúng tôi lên xe, tất nhiên bây giờ là xe của Cục. Tôi đoán mò và nói với anh Ba Quốc: "Đây là trạm của Bộ, chắc là các anh ấy đưa về "nhà nghỉ của Cục". Xe chạy ra đường Cột Cờ "nay là Điện Biên Phủ) rồi rẽ vào đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn) chạy về phía nam, qua Công viên Thống Nhất rồi rẽ phải vào khu tập thể Kim Liên, dừng lại trước dãy nhà 5 tầng, đánh số B13. Đồng chí Trung tá đỡ anh Ba Quốc xuống xe rồi chỉ vào những người đang đứng trước cửa vào cầu thang nhà B13: "Anh Ba nhìn xem trong số bà con đứng kia có ai là người thân của anh không".
Ba Quốc đứng lặng như trời trồng, bỗng dưng anh lao tới, ôm chầm lấy ông già râu tóc bạc phơ - "Bố! Bố ơi!...". Hai cha con nghẹn ngào, nức nở, khiến chúng tôi đều rơi nước mắt. Một thanh niên chừng gần 30 tuổi, đứng kế bên, nắm chặt tay anh, nghẹn ngào - "Em là Đặng Dung - em ruột của anh đây. Ngày anh đi em chưa đầy 10 tuổi. Còn đây, (chỉ sang cô gái đứng bên hai mắt đỏ hoe) là Bình - vợ em, em dâu của anh...". Ba Quốc đi bắt tay tất cả bà con có mặt. Rồi tất cả chúng tôi kéo lên tầng tư, phòng số 43 căn hộ của gia đình được Nhà nước phân phối.
Sau giây phút hàn huyên, tôi được biết Đặng Dung công tác ở Bộ Văn hóa, lĩnh vực xuất bản. Làm việc ở số 10 phố Đường Thành. Anh thông báo với anh trai mình và cũng là để cho mọi người đều biết: "Vì đột xuất nên chưa thông báo kịp cho chị và các cháu. Chị công tác trên Vĩnh Phúc. Cháu gái lớn, ngày anh đi nó mới 5 tuổi, giờ đã lấy chồng và anh đã trở thành ông ngoại rồi. Còn cháu trai đã học xong và đi công tác...".
Thế là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo Đoàn J22 giao phó. Chia tay anh và gia đình theo xe của đơn vị về Trạm 66, cả đêm đó không sao ngủ được, lòng rạo rực bởi cái không khí tưng bừng reo vui của cả nước. Song, hình ảnh khắc ghi mãi trong tôi buổi chiều hôm ấy chính là giây phút huynh trưởng của tôi, nhà tình báo huyền thoại Đặng Trần Đức gặp gỡ gia đình sau hơn 20 năm xa cách. Cảm xúc hóa thành thơ, tôi xin trích mấy câu trong một bài thơ dài sáng tác đêm hôm đó để nói nên tâm trạng của mình: "...Ta ngợp trong rừng cờ, rừng hoa/ Lạc giữa phố phường Hà Nội chiều Ba mươi tháng Tư/ Ta như đi trong mơ/ Giấc mơ của bao năm chinh chiến/ Nước mắt rơi rơi sau bao nhiêu hò hẹn/ Để chiều nay khóc nghẹn buổi tao phùng...".
Vĩ thanh
Kết thúc chiến tranh, tôi chuyển ngành, công tác trong Lực lượng An ninh thuộc Bộ Công an. Người lính hậu chiến với bao vất vả, lo toan, bươn chải vì cuộc sống, lầm lũi tối ngày vì miếng cơm manh áo, vì chỗ đứng, chỗ ngồi... làm gì có thời gian nghỉ ngơi, xả hơi, chơi bời, thăm thú. Nhưng chẳng có ai nỡ trách cứ nhau là bạc tình, bạc nghĩa; chẳng mấy ai than nghèo, than khổ... cho rằng thực tế đã cực khổ, cực nghèo... quá khứ hào hùng đã khỏa lấp tất cả.
Phải nhiều năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi mới có dịp tới thăm thủ trưởng cũ của mình ở khu nhà công vụ của Tổng cục Tình báo trong thành Hoàng Diệu. Thời chiến tranh chống Mỹ ông giữ cương vị Phó cục trưởng Cục Nghiên cứu (nay là Tổng cục II) phụ trách tình báo miền Nam. Không ngờ hôm đó lại có cả anh Đặng Trần Đức. Thật là duyên kỳ ngộ. Chính ông Nguyễn Như Văn (Thủ trưởng cũ của tôi), hồi ở căn cứ Lộc Ninh cuối năm 1974 đã giới thiệu với ông Tư Bốn, Đoàn trưởng J22 cử tôi đưa anh Ba Quốc ra Hà Nội. Bấy lâu gặp lại, xiết bao vui mừng. Thủ trưởng cũ của tôi trở thành người đứng đầu Lực lượng Tình báo quân sự với quân hàm Trung tướng, Tổng cục trưởng; huynh trưởng của tôi - nhà Tình báo Đặng Trần Đức (Ba Quốc) đã được Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng, giữ cương vị Cục trưởng một Cục nghiệp vụ.
Cuộc hội ngộ ấy đã làm sống dậy trong tôi bao kỷ niệm xưa, bao điều day dứt cũ. Có những thực tế đến đắng lòng. Đó là cái hôm ở Trạm giao liên T9 (ngày 12/4/1975). Hôm ấy, sau khi nghe bản tin chiến sự trên radio xong, anh Ba Quốc dè dặt hỏi tôi - "Ngày còn ở Sài Gòn... tôi nghe đài Gươm Thiên... nó bôi nhọ cán bộ Hợp tác xã của mình tệ quá. Tỷ như... "Mỗi người làm việc bằng hai/ Để cho Chủ nhiệm mua đài mua xe/ Mỗi người làm việc bằng ba/ Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân". Bậy! Bậy bạ quá!... Nghe tức lộn ruột mà không dám phản ứng! Đã làm tới chủ nhiệm, hẳn phải là đảng viên! Mà đảng viên nào lại ăn cắp mồ hôi nước mắt của quần chúng?...".
Ôi! Trước niềm tin thánh thiện ấy, tôi không thể nói gì khác hơn bằng việc lên án những luận điệu trên (đành rằng trong thủ đoạn tuyên truyền kẻ địch có thể dựa vào hiện tượng có thật; cũng có thể xuyên tạc bịa đặt hoàn toàn để chống phá ta) - "Nó nói bậy đó anh Ba ạ! Đây là đài "Gươm Thiên Ái quốc", đài chiến tranh tâm lý do ngụy quyền Sài Gòn dựng lên để tuyên truyền tác động tư tưởng người nghe...".
Bây giờ ngẫm lại, đất nước sau đổi mới, có biết bao điều người ta đã nói, đã công khai phê phán cái bệnh chủ quan, duy ý chí thiếu dân chủ; cái bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... đã trở thành vấn đề nhức nhối trong đời sống xã hội. Tôi càng thêm cảm phục huynh trưởng của tôi. Nếu không có niềm tin tuyệt đối về bản chất tốt đẹp của chế độ Cộng sản chủ nghĩa thì nhà Tình báo Đặng Trần Đức không thể có bản lĩnh để vượt qua mọi gian nguy thử thách, góp phần vào chiến thắng lịch sử huy hoàng của toàn dân tộc.
Chuyện chưa biết về vị tướng tình báo hai vợ
09:45 28/04/2010Lẽ ra bài viết này ra đời từ dăm bảy năm trước. Song, có cái kẹt cho người viết: Lúc cao hứng định viết thì bị "cái bệnh nghề nghiệp" cản lại - "coi chừng vi phạm nguyên tắc bí mật"; tới khi phương tiện truyền thông đại chúng có nhiều bài viết về ông, rồi cả một tác phẩm điện ảnh công bố trên truyền hình nói về cuộc đời hoạt động của "viên tướng tình báo hai vợ", tôi thối chí luôn. Thiên hạ nói cả rồi, toàn những cây viết cự phách, chớ dại mà "múa rìu qua mắt thợ...".
Thiếu tướng tình báo Ba Quốc (tức Đặng Trần Đức). |
Chuyến công tác đặc biệt
Sau hơn 8 năm hoạt động ở vùng giáp ranh với địch ở miền Đông Nam Bộ tới chiến trường sông nước Bến Tre thuộc Trung Nam Bộ, giữa năm 1974, tôi nhận được quyết định về công tác tại "tổng hành dinh" Đoàn Tình báo chiến lược J22 - căn cứ đóng tại khu vực Lộc Ninh (thị trấn duy nhất trong vùng giải phóng) thực hiện chính sách "thay quân" đối với những trường hợp hoạt động quá lâu ở vùng yếu. Tôi được bố trí làm Trưởng một bộ môn nghiệp vụ tại A44 do anh Võ Hoàng Vân làm Trưởng ban.
Chưa được nửa năm, đầu tháng 1/1975, anh Võ Hoàng Vân thông báo cho tôi: "Bộ phận A10 (Văn phòng đoàn J22) truyền đạt ý kiến của anh Tư (tức đồng chí Tư Bốn, Trưởng đoàn J22) đầu giờ chiều đồng chí sang gặp anh Tư có việc gấp. Thời đó, cán bộ cỡ như tôi - thăm thẳm nhiều năm ở chiến trường vùng yếu rồi trở thành "lính tò te" ở chiến khu mà được Trưởng đoàn triệu lên gặp riêng, quả là điều đặc biệt. Cả buổi trưa hôm đó tôi sống trong tâm trạng thắc thỏm đợi chờ cuộc gặp gỡ bất ngờ với một nhân vật đặc biệt - Vị Anh hùng đầu tiên của lực lượng Tình báo quân sự trong giai đoạn chiến tranh chống Mỹ, có tên gọi là Tư Bốn.
Đúng giờ hẹn, tôi có mặt tại lán làm việc của Đoàn trưởng ở khu vực căn cứ A10. Ông tiếp khách bằng chè Thanh Hương, thuốc lá Điện Biên bao bạc và kẹo Hải Hà (chắc là có đoàn từ Bắc mới vào). Sau khi thăm hỏi chuyện chiến trường Bến Tre, gia đình, quê quán xong, ông vào nội dung chính ngay.
- Có một việc rất quan trọng tôi cho kêu đồng chí sang để thông báo ý kiến của lãnh đạo sẽ giao cho đồng chí một nhiệm vụ quan trọng...
Tôi như nín thở, chờ nghe tiếp ý kiến của ông - "Theo yêu cầu của Trung ương, đơn vị sẽ cử một cán bộ mới ở trong thành về căn cứ, ra Hà Nội báo cáo gấp. Đi theo đường giao liên, trong khi xưa nay đồng chí ấy chỉ sống trong thành, sức khỏe yếu. Nhiệm vụ của đồng chí là sẽ tháp tùng đưa cán bộ ra Trung ương, đảm bảo tuyệt đối an toàn, với thời gian nhanh nhất. Trung ương rất cần những thông tin của đồng chí này. Kết hợp chuyến đi, đơn vị sẽ có văn bản xin thêm người và tài liệu để khi đồng chí vô sẽ đem theo luôn. Đánh nhau với Mỹ, luôn phải tính tới phương án lâu dài, dẫu rằng ngày toàn thắng đã tới rất gần.
Ông mới nói được chừng đó thì có khách đột xuất. Trưởng đoàn khẽ reo lên:
- Cha!... Sao mà linh vậy. Đang tính nói anh em sang kêu... vô đi anh Ba. Tôi đã tìm được "trợ thủ" cho anh rồi đây.
Vị khách chừng trên năm chục tuổi. Dong dỏng cao, gầy. Có lẽ vì thế mà trông ông càng cao hơn. Gương mặt hiền từ, phúc hậu. Khách vừa ngồi xuống bàn, Đoàn trưởng Tư Bốn quay sang tôi giới thiệu.
- Đây là anh Ba Quốc như tôi vừa nói với đồng chí. Có thể chiều nay hai người sẽ bàn kỹ một số việc. Những thứ cần thiết phục vụ chuyến đi, tôi đã giao cho A10 chuẩn bị. Đồng chí đã nhiều năm sống trong căn cứ, đã từng vượt Trường Sơn rồi coi cần thêm thứ gì thì đề xuất. Chuẩn bị sẵn sàng, khi có lệnh là lên đường ngay. Đoàn sẽ bố trí giao liên sử dụng 2 xe máy chở các đồng chí tới trạm giao liên nào có ôtô thì anh em quay lại. Đồng chí Dương cần lưu ý sức khỏe anh Ba. Nhớ đem theo đầy đủ các loại thuốc thông dụng...
Nghe thủ trưởng giới thiệu khách là Ba Quốc, tôi trố mắt nhìn, tưởng như vị khách mới vào kia là người từ hành tinh khác vừa rơi xuống, bởi cái tên anh nghe có vẻ quen quen, nhưng người thì bây giờ mới gặp. Tôi nhớ mấy tuần trước được nghe anh em đơn vị nói nhỏ với nhau "có một điệp viên cực kỳ quan trọng thuộc một cụm tình báo chiến lược tên là Ba Quốc, quê miền Bắc, vào Sài Gòn từ đầu thập niên 50. Chui rất sâu, leo rất cao, tồn tại qua mấy đời tổng thống. Thời Nguyễn Văn Thiệu trở thành cán bộ cao cấp trong USAID (Cơ quan Viện trợ của Mỹ). Ông bị lộ từ khâu giao thông liên lạc. Một nữ giao thông viên (GTV) đem báo cáo của ông từ Sài Gòn về căn cứ của cụm ở Đồng bằng sông Cửu Long, về tới Tân Châu - Hồng Ngự thì bị bắt. Đơn vị thông báo khẩn cấp nên khi cảnh sát đặc biệt tới bao vây thì ông đã chuồn khỏi nhà trước đó hơn 30 phút và được cơ sở bí mật đưa về căn cứ luôn...".
Những thông tin liên quan tới kế hoạch giải thoát GTV bị bắt cũng rất ly kỳ, giật gân. Nghe nói khi trinh sát địa bàn đi đón, phát hiện GTV bị bọn cảnh sát Hồng Ngự bắt, đã nhanh chóng trở về căn cứ báo cáo. Lãnh đạo Cụm, một mặt báo cáo khẩn cấp về J22, mặt khác bàn gấp kế hoạch giải thoát bằng cách điều cơ sở bí mật tiếp cận đơn vị thụ lý là cảnh sát Hồng Ngự.
Ngã giá bằng nửa triệu (500.000đ) tiền Sài Gòn lúc đó tương đương 14 chiếc xe môtô hiệu Honda Nhật. Cái bệnh ăn hối lộ đối với chế độ Sài Gòn đã trở thành chuyện "hàng ngày nơi phố huyện". Với số tiền trên quả là quá lớn so với một cụm tình báo lúc đó. Vì vậy phải báo cáo gấp về trên. Hình như cũng chỉ trong 1 ngày đã có ý kiến chỉ đạo của lãnh đạo J22. "Dù có phải chi tới một triệu đổi lấy GTV và tài liệu đem về cũng phải thực hiện ngay". Đơn vị tức tốc thực hiện thì "hàng" đã chuyển về "nhập kho" Tổng nha Cảnh sát Sài Gòn, vì đã hết hạn tạm giữ ở cấp quận, huyện theo quy định của luật pháp.
Tôi giật mình trở về thực tại sau câu hỏi của ông Tư Bốn:
- Nhiệm vụ là như vậy, đồng chí Thái Dương thấy sao?
- Dạ... Không sao! Việc này tôi hứa đảm bảo hoàn thành tốt. Xin hai đồng chí cứ yên tâm.
Ngày hôm sau tôi trở lại A10, chuyển cho chị em ở bộ phận hậu cần bản thống kê những thứ cần chuẩn bị cho anh Ba Quốc: Những tăng, võng, thuốc tây, thức ăn khô, áo mưa, giày, dép, balô... và hướng dẫn anh Ba Quốc việc tập luyện trước khi lên đường. Tất nhiên chỉ tập có mức độ, đề phòng trường hợp có những đoạn đường phải đi bộ không thể đeo nặng như thời chúng tôi tập hành quân.--PageBreak--
Khoảng cuối tháng 3/1975, khi căn cứ của J22 đã chuyển xuống khu vực rừng le ở sông Tha La (phía đông núi Bà Đen) thì chúng tôi có lệnh lên đường. Hai chiếc Honda 67 đã đưa tôi và anh Ba Quốc ngược trở lại căn cứ Lộc Ninh và hôm sau đi tới trạm D4A chính thức nhập vào tuyến giao liên của Miền, để từ đó qua Bù Đăng, Bù Đốp, qua các Trạm T10, T9, T8 rồi đi Buôn Ma Thuột...
Thời điểm đó đã thuận lợi hơn cả trăm lần thời chúng tôi cuốc bộ đi vào. Bởi đã có ôtô. Song, ngặt mỗi xe ưu tiên cho đoàn vào nên đoàn đi ra đều phải chờ đợi ở các trạm. Mỗi nơi vài ba ngày. Thời gian chờ đợi lâu nhất đó là cung đường từ trạm có bí số là T10 ra T9 thuộc địa bàn Khu 6. Phải "ăn dầm nằm dề" ở T9 tới 8 ngày (từ ngày 5/4 đến 12/4). Vì là đoàn ưu tiên nên chúng tôi được bố trí trong một chiếc lán nhỏ, đủ căng võng cho 2 người. Hai anh em căng võng sát nhau để tiện tâm sự. Biết anh buồn, sốt ruột vì bị giam chân ở T9 quá lâu nên tôi lôi ra đủ thứ chuyện nhằm giúp anh khuây khỏa.
Từ chuyện quê hương miền Bắc sau ngày giải phóng, chuyện chúng tôi tập luyện trước khi đi "B" và quá trình hành quân vượt Trường Sơn... Nhiều tối, tôi "thay đổi món ăn tinh thần" bằng việc kể chuyện phim, tiểu thuyết, kể cả của ta và nước ngoài như: "Chiếc khuy đồng", "Lửa trung tuyến", "Con chim vành khuyên", "Đất vỡ hoang", "Sông Đông êm đềm", "Rừng thẳm tuyết dày" v.v... Tôi biết anh rất chăm chú nghe, vì với anh, đó đều là những chuyện mới vì sống trong lòng địch làm sao có được mà xem, mà đọc.
Để thể hiện tinh thần "có đi có lại", anh kể cho tôi nghe nhiều chuyện ở Sài Gòn - Từ những hộp đêm, vũ trường, những sinh hoạt của dân "anh chị"', tâm trạng các giai tầng xã hội... tới đặc điểm tâm lý, cá tính, sinh hoạt, thái độ chính trị của nhiều nhân vật chóp bu trong chính quyền Sài Gòn qua từng giai đoạn. Thấy anh vui vẻ, nhiều hôm tôi mạnh dạn hỏi anh về chuyện gia đình, vợ con, quá trình hoạt động ở miền Bắc, thời gian vào Nam, Sài Gòn thời đó và bây giờ, thực chất các đảng phái chính trị của chế độ Sài Gòn... Tất nhiên phải tránh những gì thuộc về nguyên tắc nghiệp vụ để gây khó cho anh.
Chứng cứ từ những vết thương
Một buổi tối, đợi anh nghe xong bản tin tiếng Anh của Đài BBC, tôi hỏi: "Anh Ba ơi! Thời kháng chiến chống Pháp, tụi em còn bé tý. Năm 1954 giải phóng miền Bắc mới đang học lớp nhất ở quê, nghe người lớn nói có rất nhiều người di cư vào Nam. Chắc có anh trong số đó?...". Anh khẽ cười, lắc đầu - "Không! Tôi đã "di cư" từ hơn một năm trước đó". Tôi há hốc miệng nhìn anh, đầy nỗi ngạc nhiên, rồi nằm xuống, đung đưa cánh võng, mơ hồ thả hồn trôi theo dòng ký ức của anh.
Hoạt động trong lực lượng Tình báo quân sự, địa bàn của Đặng Trần Đức lúc đó là Thành Hà Nội (chỉ đạo một số cơ sở bí mật trong thành). Tất nhiên có đầy đủ giấy tờ hợp pháp, để khi cần có thể vào nội thành. Một đêm cuối năm 1952, từ vùng căn cứ bí mật, anh đột về Gia Lâm gặp cơ sở để nắm tình hình tại hộp thư quy định. Khi trở ra chưa được bao xa thì bị thương do một trái moóc-chê bắn cầm canh từ một bót nào đó. Anh trở lại điểm hẹn, nhờ gia đình cơ sở đưa vào nhà thương trong nội thành, với nguyên nhân ngụy trang là bị ngã xe đạp. Vết thương chưa lành anh đã bị đưa về phòng thẩm vấn của lực lượng cảnh sát.
Được tin này, tổ chức đã cử ngay cơ sở bí mật (một nữ GTV hợp pháp của Đặng Trần Đức) tiếp cận ông chú làm việc tại Sở Liêm Phóng. Trước tình hình đó, cô gái phải “thú thực” đó là "người yêu" của mình, đúng là bị thương do ngã xe đạp. Người chú nghiêm mặt, nói nhỏ: "Đừng có lôi thôi! Những vết thương trên người nó đã trở thành chứng cứ. Đó là mảnh moóc-chê chứ không phải ngã xe...". Cô gái lặng người, tay vân vê tà áo, trấn tĩnh lòng mình để mãi lâu sau mới nhỏ nhẹ: "Chú ơi! Vậy bây giờ phải làm sao?". "Chú có thể tìm mọi cách cho nó không bị bắt, nhưng rồi thì phải rủ nhau đi khỏi xứ này ngay. Đi càng xa càng tốt. Không qua mắt bọn "Phòng nhì" được đâu!...".
(Còn nữa)
K.M.DChuyện chưa biết về vị tướng tình báo hai vợ (tiếp theo và hết)
22:10 02/05/2010Sau khi nghe Đặng Trần Đức báo cáo, lãnh đạo đã cho ý kiến chỉ đạo luôn - "Để đảm bảo an toàn, dứt khoát đồng chí phải chuyển địa bàn hoạt động vào Sài Gòn. Hai người cùng đi. Nếu không, sẽ khó giải thích với chú cô ấy và dễ bị lộ".
Thiếu tướng tình báo Vũ Ngọc Nhạ (bên phải) và đồng chí Ba Quốc. |
Mạch chuyện được tiếp nối, đó là sự việc diễn ra sau khi Đặng Trần Đức ra viện, trở về báo cáo lại toàn bộ tình hình trên với lãnh đạo...
Theo anh Đức, rất có thể cấp trên (các nhà lãnh đạo tình báo lúc đó - K.M.D.) đã có những dự định quan trọng mang ý nghĩa chiến lược, nên sau khi nghe Đặng Trần Đức báo cáo, lãnh đạo đã cho ý kiến chỉ đạo luôn - "Để đảm bảo an toàn, dứt khoát đồng chí phải chuyển địa bàn hoạt động vào Sài Gòn. Hai người cùng đi. Nếu không, sẽ khó giải thích với chú cô ấy và dễ bị lộ".
Mới nghe vậy, anh đã vã mồ hôi, chưa biết định trả lời sao thì cấp trên đã tiếp: "Chúng tôi biết đồng chí định nói gì. Nhưng cứ yên tâm, việc này tổ chức sẽ có kế hoạch giải tỏa giúp đồng chí. Cuộc chiến đấu giải phóng dân tộc còn đầy cam go thử thách, đòi hỏi mỗi chúng ta, kể cả quần chúng nhân dân tiếp tục phải chấp nhận hy sinh, kể cả tình riêng vì sự nghiệp lớn. Hai người cứ yên tâm ra đi, còn gia đình, chị và 2 cháu (Lúc đó Đặng Trần Đức đã có vợ, 2 con. Cháu gái đầu lòng 5 tuổi và cháu trai 2 tuổi) sẽ có tổ chức chăm lo".
Họ bí mật chuẩn bị, rồi xuống Hải Phòng, lên một tàu buôn thẳng hướng trời Nam. Tôi đang định hỏi trước khi đi 2 người phụ nữ có gặp nhau không, thì anh đã tiếp - Trước lúc lên đường, cô ấy có viết một bức thư ngắn với nội dung: "Do yêu cầu nhiệm vụ của tổ chức, em xin phép được thay chị vào trong đó để chăm sóc anh, giúp anh hoàn thành nhiệm vụ. Hẹn ngày đất nước thanh bình, chị em ta sẽ gặp nhau...". Phần tái bút có ghi - "Em xin gửi chị một chút quà làm kỷ niệm với tất cả tấm lòng của người đi. Chúc chị khỏe, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, vững lòng tin vào ngày anh trở về". Cô ấy tháo đôi hoa tai cẩm thạch, bỏ chung vào phong thư, cẩn thận dán lại, nhờ người thân chuyển tới nhà tôi.
Hôm đó là đêm 11/4/1975. Đêm cuối cùng chúng tôi "bám trụ" Trạm T9 để sáng hôm sau có ôtô đưa ra Trạm T8. Tôi trằn trọc cả đêm không sao ngủ được, bởi cảm động trước tình cảm của hai người thân yêu nhất của huynh trưởng tôi. Chuyện thật mà cứ như là trên phim ảnh.
Bình phong chức nghiệp
Đáp lại thịnh tình của "đại ca" sau bao đêm kể cho tôi nghe cuộc đời hoạt động của anh trong kháng chiến chống Pháp. Cả ngày và đêm 13/4 nghỉ tại Trạm T8, tôi kể với anh đôi nét về bản thân mình những ngày mới vào chiến trường. Thực ra những chuyện đó nói với anh có khác gì một sĩ quan tập sự đứng trước vị tư lệnh tài danh - Thời đó đơn vị cũng chuẩn bị tư thế cho tôi vào hoạt động hợp pháp tại Sài Gòn. Tôi được mang họ tên khác, quê quán tại Gia Lộc, Hải Dương (chứ không phải Quảng Oai - Xứ Đoài quê tôi).
Về năm sinh, trong căn cước tăng lên 7 tuổi so với tuổi thực của tôi. Đi lính Sư đoàn 7. Năm 1954 tập kết vào Trà Vinh. Do bệnh yếu tim nên được giải ngũ, về cư ngụ tại Lai Khê, Bến Cát, tỉnh Bình Dương, làm giáo sư bậc trung học. Nghe tới đây, anh khẽ gật gật đầu - "À! Thế là đồng chí bình phong chức nghiệp nghề giáo dục. Chắc là phải tìm hiểu kỹ ngành này và binh chủng pháo binh?". "Dạ có. Em đã có thâm niên 4 năm lính pháo binh 105 ly và qua Trường Hạ sĩ quan Pháo binh Quân khu Tây Bắc, đồng thời làm giáo viên kiêm chức ở đơn vị...". "Thế thì bình phong chắc lắm. Nhưng sao không bố trí vô thành?".
"Thời đó tụi nó bắt lính như điên. Dù đã làm giấy tờ tăng hơn tới 7 tuổi nhưng trẻ quá, khỏe như vâm. Nó mà kiểm tra lại sức khỏe thì "xôi hỏng bỏng không". Vì vậy, đơn vị chưa dám đưa vào. Phải chờ thời...". Nhắc tới những chuyện này, tôi như đã đưa anh trở về với những tháng năm tung hoành ngay giữa sào huyệt của địch. Anh hồ hởi, phấn chấn xen vào mạch chuyện của tôi.
"Nghề của chúng ta, bình phong chức nghiệp là cực kỳ quan trọng. Bình phong tốt là đảm bảo bảy, tám mươi phần trăm thắng lợi. Ngoài ra, câu chuyện ngụy trang trong tiếp xúc cũng rất quan trọng. Đôi khi nhờ nó mà rất được việc, rút ngắn thời gian vòng vo tìm hiểu. Thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, tôi đi sâu tìm hiểu về đảng "Cần lao nhân vị" tìm cách tiếp cận một số tên tai to mặt lớn trong tổ chức này. Khi đã "vào cạ", có tên thân mật hỏi - "Nè!... anh Ba (gọi theo thứ bậc anh em trong gia đình. Còn tên thường gọi của anh ở Sài Gòn cho tới nay tôi vẫn chưa biết - K.M.D.) dân ngoải (ngoài ấy) vô, hiền khô, coi mòi chơi được, không như mấy cha nội kia, dựa hơi Tổng thống làm phách lắm. Vô khi nào vậy?...". "Thì... Tổng thống vô khi nào thì mình vô khi đó...".
Thế là từ đó đi công cán hoặc thị sát địa phương nào là họ đều mời đi cùng "về miệt vườn ít bữa cho khuây khỏa. Bám hoài đất đô thành chán thấy mồ". Có lần về An Giang, không hiểu họ giới thiệu về mình ra sao mà mấy tay chóp bu bản xứ lại lầm tưởng mình là phái viên Trung ương đảng "Cần lao nhân vị" về kiểm tra nên tất cả đều chạy rối giò, đón tiếp linh đình. Hơn 20 năm sống giữa Sài Gòn với bao điều trắc ẩn bủa vây, phải bình phong nhiều vai diễn, tiếp xúc với mọi giai tầng xã hội, phải chứng kiến bao nỗi xót xa của những phận đời đau khổ; phải tiếp xúc với những tên trùm tội phạm, tội ác tày trời, dẫu lửa căm thù ngùn ngụt trong lòng mà vẫn phải thản nhiên như không.
Sống trong khu cán bộ cao cấp của ngụy quyền Sài Gòn, sống giữa đô thành hoa lệ... mà quá cô đơn. Đôi khi tôi nghĩ, cái nghề của ta nó nghiệt ngã quá đồng chí Thái Dương ạ! Mấy chục năm hoạt động an toàn, các cơ sở bí mật đang phát huy tác dụng tốt phục vụ cho giai đoạn quyết liệt này thì tai họa ập tới, hoàn toàn do yếu tố khách quan, để bây giờ rơi vào cảnh này... không hiểu vợ con tôi trong ấy bây giờ ra sao? Kẻ thù của chúng ta thâm hiểm lắm...
Thông cảm với tâm trạng anh, tôi lựa lời động viên, rồi pha vui "Các cụ ta đã chẳng từng đúc kết - sinh nghề tử nghiệp là gì".
Hơn 2 tuần hành quân, vạ vật ở mấy binh trạm, mưa nắng thất thường, lại chưa thích nghi với thời tiết, sức khỏe của anh sút giảm, kém ăn, ít ngủ, rồi cảm sốt. Tôi bỗng trở thành y tá, hộ lý chăm sóc anh, bắt uống thuốc, ép ăn cơm. Cơm ở binh trạm chẳng có gì ngoài bí ngô và cá khô. Nhờ có kinh nghiệm của những ngày vượt Trường Sơn, tôi mò vào rừng hái lá chua về nấu canh cho anh. Một mớ lá bứa non bỏ vào ăng-gô nấu sôi lên, bỏ vào vài thìa ruốc thịt (thịt chà bông), thêm tý mì chính là có một món canh chua tuyệt vời. Ngày có xe rời trạm T8, dẫu vừa dứt sốt nhưng thấy anh khỏe ngay.
Tây Nguyên và các tỉnh duyên hải miền Trung đã giải phóng, xe chạy ra Buôn Ma Thuột, rồi từ đó theo Quốc lộ 19 về Bình Định, theo Quốc lộ 1 ngược lên phía bắc, về Trạm Z7. Nghe lái xe nói vậy chứ cũng không biết Z7 đặt ở tỉnh nào. Thời đó Quốc lộ 1 xấu lắm, nhiều cầu, nhiều phà, phải dừng nghỉ thêm 2 chặng đường Quảng Ngãi và Đông Hà. Ngày 24/4 tới Z7, mới biết đó là thị xã Quảng Bình rồi xe quay trở vào phía Nam. Chúng tôi phải nằm lại Quảng Bình chờ chuyến xe ra. Ngày nào cũng ngóng xe mà không có. Với tính chất của đoàn ưu tiên đặc biệt, tôi khẩn khoản trình bày với trạm trưởng, nên tới ngày 29 ông phải xuất chiếc xe dự phòng của trạm đưa đoàn ra Hà Nội.--PageBreak--
"Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt"
Tôi xin mượn một câu trong bài "Đất nước" - bài thơ nổi tiếng của Đại tá, nhà văn Nam Hà để đặt cái tít phụ cho phần cuối của bài viết này, nó liên quan tới anh, phụ thân và các em của anh.
Xe về tới Hà Nội đúng 15h ngày 30/4. Vì lái xe không biết đường nên lạc tới Nhà hát Lớn. Đường phố tắc nghẽn vì nhân dân thủ đô tràn xuống đường reo mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam. Luẩn quẩn tới 4 giờ chúng tôi mới về được Trạm 66 của Bộ Quốc phòng trên đường Hoàng Diệu. Nơi mà 10 năm trước tôi xuất phát từ đó vô Nam. May còn nhớ số máy trực của Cục II, tôi điện vào thành, chỉ 15 phút sau đã có 2 sĩ quan một cấp úy và một cấp tá ra đón.
Sau khi sắp xếp cho lái xe ăn nghỉ ở trạm, các anh lại yêu cầu chúng tôi lên xe, tất nhiên bây giờ là xe của Cục. Tôi đoán mò và nói với anh Ba Quốc: "Đây là trạm của Bộ, chắc là các anh ấy đưa về "nhà nghỉ của Cục". Xe chạy ra đường Cột Cờ "nay là Điện Biên Phủ) rồi rẽ vào đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn) chạy về phía nam, qua Công viên Thống Nhất rồi rẽ phải vào khu tập thể Kim Liên, dừng lại trước dãy nhà 5 tầng, đánh số B13. Đồng chí Trung tá đỡ anh Ba Quốc xuống xe rồi chỉ vào những người đang đứng trước cửa vào cầu thang nhà B13: "Anh Ba nhìn xem trong số bà con đứng kia có ai là người thân của anh không".
Ba Quốc đứng lặng như trời trồng, bỗng dưng anh lao tới, ôm chầm lấy ông già râu tóc bạc phơ - "Bố! Bố ơi!...". Hai cha con nghẹn ngào, nức nở, khiến chúng tôi đều rơi nước mắt. Một thanh niên chừng gần 30 tuổi, đứng kế bên, nắm chặt tay anh, nghẹn ngào - "Em là Đặng Dung - em ruột của anh đây. Ngày anh đi em chưa đầy 10 tuổi. Còn đây, (chỉ sang cô gái đứng bên hai mắt đỏ hoe) là Bình - vợ em, em dâu của anh...". Ba Quốc đi bắt tay tất cả bà con có mặt. Rồi tất cả chúng tôi kéo lên tầng tư, phòng số 43 căn hộ của gia đình được Nhà nước phân phối.
Sau giây phút hàn huyên, tôi được biết Đặng Dung công tác ở Bộ Văn hóa, lĩnh vực xuất bản. Làm việc ở số 10 phố Đường Thành. Anh thông báo với anh trai mình và cũng là để cho mọi người đều biết: "Vì đột xuất nên chưa thông báo kịp cho chị và các cháu. Chị công tác trên Vĩnh Phúc. Cháu gái lớn, ngày anh đi nó mới 5 tuổi, giờ đã lấy chồng và anh đã trở thành ông ngoại rồi. Còn cháu trai đã học xong và đi công tác...".
Thế là tôi đã hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo Đoàn J22 giao phó. Chia tay anh và gia đình theo xe của đơn vị về Trạm 66, cả đêm đó không sao ngủ được, lòng rạo rực bởi cái không khí tưng bừng reo vui của cả nước. Song, hình ảnh khắc ghi mãi trong tôi buổi chiều hôm ấy chính là giây phút huynh trưởng của tôi, nhà tình báo huyền thoại Đặng Trần Đức gặp gỡ gia đình sau hơn 20 năm xa cách. Cảm xúc hóa thành thơ, tôi xin trích mấy câu trong một bài thơ dài sáng tác đêm hôm đó để nói nên tâm trạng của mình: "...Ta ngợp trong rừng cờ, rừng hoa/ Lạc giữa phố phường Hà Nội chiều Ba mươi tháng Tư/ Ta như đi trong mơ/ Giấc mơ của bao năm chinh chiến/ Nước mắt rơi rơi sau bao nhiêu hò hẹn/ Để chiều nay khóc nghẹn buổi tao phùng...".
Vĩ thanh
Kết thúc chiến tranh, tôi chuyển ngành, công tác trong Lực lượng An ninh thuộc Bộ Công an. Người lính hậu chiến với bao vất vả, lo toan, bươn chải vì cuộc sống, lầm lũi tối ngày vì miếng cơm manh áo, vì chỗ đứng, chỗ ngồi... làm gì có thời gian nghỉ ngơi, xả hơi, chơi bời, thăm thú. Nhưng chẳng có ai nỡ trách cứ nhau là bạc tình, bạc nghĩa; chẳng mấy ai than nghèo, than khổ... cho rằng thực tế đã cực khổ, cực nghèo... quá khứ hào hùng đã khỏa lấp tất cả.
Phải nhiều năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tôi mới có dịp tới thăm thủ trưởng cũ của mình ở khu nhà công vụ của Tổng cục Tình báo trong thành Hoàng Diệu. Thời chiến tranh chống Mỹ ông giữ cương vị Phó cục trưởng Cục Nghiên cứu (nay là Tổng cục II) phụ trách tình báo miền Nam. Không ngờ hôm đó lại có cả anh Đặng Trần Đức. Thật là duyên kỳ ngộ. Chính ông Nguyễn Như Văn (Thủ trưởng cũ của tôi), hồi ở căn cứ Lộc Ninh cuối năm 1974 đã giới thiệu với ông Tư Bốn, Đoàn trưởng J22 cử tôi đưa anh Ba Quốc ra Hà Nội. Bấy lâu gặp lại, xiết bao vui mừng. Thủ trưởng cũ của tôi trở thành người đứng đầu Lực lượng Tình báo quân sự với quân hàm Trung tướng, Tổng cục trưởng; huynh trưởng của tôi - nhà Tình báo Đặng Trần Đức (Ba Quốc) đã được Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng, giữ cương vị Cục trưởng một Cục nghiệp vụ.
Cuộc hội ngộ ấy đã làm sống dậy trong tôi bao kỷ niệm xưa, bao điều day dứt cũ. Có những thực tế đến đắng lòng. Đó là cái hôm ở Trạm giao liên T9 (ngày 12/4/1975). Hôm ấy, sau khi nghe bản tin chiến sự trên radio xong, anh Ba Quốc dè dặt hỏi tôi - "Ngày còn ở Sài Gòn... tôi nghe đài Gươm Thiên... nó bôi nhọ cán bộ Hợp tác xã của mình tệ quá. Tỷ như... "Mỗi người làm việc bằng hai/ Để cho Chủ nhiệm mua đài mua xe/ Mỗi người làm việc bằng ba/ Để cho chủ nhiệm xây nhà xây sân". Bậy! Bậy bạ quá!... Nghe tức lộn ruột mà không dám phản ứng! Đã làm tới chủ nhiệm, hẳn phải là đảng viên! Mà đảng viên nào lại ăn cắp mồ hôi nước mắt của quần chúng?...".
Ôi! Trước niềm tin thánh thiện ấy, tôi không thể nói gì khác hơn bằng việc lên án những luận điệu trên (đành rằng trong thủ đoạn tuyên truyền kẻ địch có thể dựa vào hiện tượng có thật; cũng có thể xuyên tạc bịa đặt hoàn toàn để chống phá ta) - "Nó nói bậy đó anh Ba ạ! Đây là đài "Gươm Thiên Ái quốc", đài chiến tranh tâm lý do ngụy quyền Sài Gòn dựng lên để tuyên truyền tác động tư tưởng người nghe...".
Bây giờ ngẫm lại, đất nước sau đổi mới, có biết bao điều người ta đã nói, đã công khai phê phán cái bệnh chủ quan, duy ý chí thiếu dân chủ; cái bệnh tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... đã trở thành vấn đề nhức nhối trong đời sống xã hội. Tôi càng thêm cảm phục huynh trưởng của tôi. Nếu không có niềm tin tuyệt đối về bản chất tốt đẹp của chế độ Cộng sản chủ nghĩa thì nhà Tình báo Đặng Trần Đức không thể có bản lĩnh để vượt qua mọi gian nguy thử thách, góp phần vào chiến thắng lịch sử huy hoàng của toàn dân tộc.
Hà Nội, tháng 4/2010
K.M.D.
Nhận xét
Đăng nhận xét