Thứ Sáu, 18 tháng 3, 2016

QUÁ TRÌNH ĐẤU TRANH MỞ NƯỚC, DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC CỦA DÂN TỘC VIỆT1.

 (ĐC sưu tầm trên NET)

“Dân ta phải biết sử ta”

7:21
31/01/2015

BP - Mỗi người con Lạc cháu Hồng phải có trách nhiệm tìm hiểu về cội nguồn, lịch sử dân tộc, qua đó gìn giữ, phát triển, giáo dục và khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho thế hệ mai sau. Là đoàn viên, thanh thiếu nhi, chúng ta không chỉ học, tìm hiểu mà phải có trách nhiệm duy trì, phát triển, viết tiếp trang sử của dân tộc ngày một vẻ vang, hào hùng hơn.


Đoàn viên thanh niên Bình Phước tham quan Bảo tàng Hồ Chí Minh (Tp. Hồ Chí Minh)
Ngẫm câu nói của người
Cha ông xưa đã dạy: “Con người có tổ, có tông/Như cây có cội như sông có nguồn”. Vậy nên, đã là người Việt Nam, dù ở địa vị nào, ở bất kỳ nơi đâu, hoàn cảnh nào cũng đừng quên cội nguồn dân tộc, phải nhớ đến quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn, gốc rễ tổ tiên và xa hơn nữa là lịch sử nước nhà. Tiếp nối truyền thống, đạo lý uống nước nhớ nguồn của dân tộc, Bác Hồ đã nói: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Câu nói ấy được Bác viết trong cuốn “Lịch sử nước ta” (1942) với tổng thể 208 câu thơ lục bát dễ hiểu, dễ thuộc, đã tóm lược trên 30 mốc quan trọng trong suốt chiều dài hàng ngàn năm lịch sử của dân tộc.
Câu nói của Bác như một lời hiệu triệu, nhắc nhở mỗi công dân Việt Nam, mỗi con Lạc cháu Hồng phải có trách nhiệm tìm hiểu về cội nguồn, lịch sử dân tộc, qua đó gìn giữ, phát triển, giáo dục và khơi dậy lòng yêu nước, tự hào dân tộc cho thế hệ mai sau. Bởi lẽ lịch sử là những gì thuộc về quá khứ, nếu không có quá khứ sẽ không có hiện tại và tương lai. Biết quá khứ để rút kinh nghiệm, học tập, bảo lưu những giá trị tinh hoa, bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc... để vận dụng, xây dựng và phát triển một nước Việt Nam ngày càng phồn thịnh, đời đời bền vững.
Biết sử ta không chỉ đơn thuần là ghi nhớ một vài mốc sự kiện, một vài chiến công hiển hách, một vài tên vị tướng anh hùng mà phải biết tìm hiểu “cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Có nghĩa là phải biết đến tận “chân tơ kẽ tóc”, càng biết nhiều càng thấu hiểu nhiều, càng thấu hiểu nhiều mới càng trân trọng giá trị lịch sử của dân tộc, nhớ ơn những bậc tiền nhân khai sinh nền móng nước nhà, nhớ ơn các anh hùng, liệt sĩ không tiếc máu xương đổi lấy nền độc lập của dân tộc. Khi thấu hiểu được những điều đó và thấu hiểu được giá trị lịch sử, ngọn lửa yêu nước mới bùng cháy trong mỗi người con đất Việt, lòng tự hào, tự tôn dân tộc tự khắc lớn mạnh và càng có ý thức, trách nhiệm dựng xây quê hương, đất nước nhiều hơn. Câu nói của Người không chỉ có giá trị ở thời điểm đó mà có giá trị mãi mãi cho các thế hệ mai sau.
Và trách nhiệm của chúng ta
Tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử nước nhà không chỉ để biết mà còn có giá trị tri thức, khoa học, bảo lưu truyền lại cho con cháu. Lịch sử là những bài học tổng kết từ thực tiễn, không tự dưng mà có và không có một quốc gia nào lại không có lịch sử. Do đó, biết lịch sử nước nhà cũng là cách thể hiện lòng yêu nước, biết “tường gốc tích” là thể hiện trách nhiệm cao với tổ tiên, với nòi giống, với quốc gia. Vậy tuổi trẻ chúng ta phải làm gì?
Đối với đoàn viên, thanh thiếu nhi còn ngồi trên ghế nhà trường phải có thái độ nghiêm túc, tích cực trong việc học và tìm hiểu lịch sử nước nhà. Hiện nay, tình trạng dạy và học lịch sử ở trường phổ thông nói chung còn nhiều thiếu sót về nhận thức bộ môn, về nội dung và phương pháp dạy học, về những phương tiện cần thiết cho việc giảng dạy. Do đó, chất lượng dạy học và thi đại học môn Lịch sử giảm sút đến mức báo động. Tình trạng “mù lịch sử” khá phổ biến: Nhiều bạn trẻ tỏ ra thờ ơ với môn Lịch sử, dẫn đến không biết lịch sử, không hiểu lịch sử, nhớ sai các dấu mốc, sự kiện; từ đó không ham thích, hứng thú với môn học này...

Tuổi trẻ cần tiên phong thực hiện 6 khẩu hiệu vàng: Yêu nước - Trung thành - Gương mẫu - Trách nhiệm - Sáng tạo - Tình nguyện
Nắm vững lịch sử dân tộc sẽ cho những hiểu biết về tổ tiên, đất nước, dân tộc mình với chặng đường đấu tranh dựng và giữ nước đầy xương máu, nước mắt của ông cha. Từ đó, chúng ta cảm thấy tự hào, trân trọng giá trị lịch sử, biết ơn những thế hệ đi trước, nhận thức được trách nhiệm của mình trong việc giữ gìn và phát huy nền độc lập dân tộc.
Đối với đoàn viên thanh niên không còn ngồi trên ghế nhà trường thì trách nhiệm của chúng ta càng phải cao hơn đối với lịch sử nước nhà. Chúng ta không chỉ “ôn cố tri tân” lịch sử mà còn có trách nhiệm viết tiếp trang sử nước nhà. Viết bằng cách nào? Viết như thế nào? Đó là hai câu hỏi chúng ta phải đặt ra. Đáp án cho câu hỏi “viết bằng cách nào” chính là hãy sống và làm việc với một tinh thần dân tộc, vì quê hương, vì đất nước. Con người Việt Nam vốn nổi tiếng với những phẩm chất truyền thống quý báu: giàu lòng yêu nước, cần cù, đoàn kết, thủy chung, hiếu học... đã tạo nên lịch sử và bản chất tuyệt vời của con người Việt Nam. Là thế hệ trẻ, chúng ta phải sống, học tập, làm việc và cống hiến xứng đáng với những phẩm chất, truyền thống, tinh thần dân tộc cao quý ấy. “Viết như thế nào” là thể hiện bằng những hành động, việc làm cụ thể nhất. Qua kết quả hành động và việc làm mới chứng minh được lòng yêu nước, yêu dân tộc, có động lực dựng xây. Đất nước phát triển bền vững thì lịch sử dân tộc mới tồn tại và phát triển dày thêm những trang mới.
Đối với đoàn viên, thanh thiếu nhi tỉnh nhà, chúng ta phải có trách nhiệm tìm hiểu lịch sử tỉnh nhà, xác định việc chung tay xây dựng quê hương Bình Phước ngày càng giàu đẹp. Hàng loạt các địa danh, di tích, chứng tích lịch sử như: Phú Riềng Đỏ (Bù Gia Mập), sóc Bom Bo (Bù Đăng), Nhà giao tế Lộc Ninh, nhà tù núi Bà Rá (Phước Long)... đã khẳng định những dấu mốc lịch sử vang dội trên mảnh đất Bình Phước anh hùng. Trong 2 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, quân dân Bình Phước đã cùng miền Nam và cả nước tiến hành nhiều cuộc đấu tranh vô cùng cam go, ác liệt và hy sinh lớn lao nhưng chiến thắng rất vẻ vang, góp phần giải phóng đất nước.
Bác Hồ đã từng dạy: “Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đó cũng là trách nhiệm lớn lao của đoàn viên, thanh thiếu nhi, là cách để thế hệ trẻ hôm nay viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc.
Hồng Phấn

Danh sách các cuộc chiến tranh trong lịch sử Việt Nam

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Việt Nam là một trong những dân tộc khổ đau nhất thế giới, đúng như mấy câu trong bài Hắc Hải của nhà thơ Nguyễn Đình Thi: "Đất nghèo nuôi những anh hùng, chìm trong máu chảy lại vùng đứng lên. Đạp quân thù xuống đất đen, súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa". Từ khi Kinh Dương Vương được vua cha Đế Minh phân phong cho vùng khu vực miền Nam núi Ngũ Lĩnh cho đến tận ngày nay, dải đất hình chữ S này luôn luôn phải hứng chịu họa xâm lăng từ các thế lực ngoại bang (đặc biệt là người anh ruột đến từ phương Bắc). Dưới đây là danh sách các cuộc chiến tranh xảy ra tại lãnh thổ Việt Nam hoặc có sự tham gia của Việt Nam xuyên suốt chiều dài lịch sử gần 5000 năm dựng nước, mất nước và giữ nước qua các triều đại và thời kì. Trong bản danh sách này, ngoài những cuộc kháng chiến chống xâm lược và chủ động tấn công để tự vệ, để mở mang bờ cõi hoặc nghĩa vụ quốc tế ra, còn có bảng thống kê tất cả những cuộc thanh trừng lẫn nhau huynh đệ tương tàn tranh quyền đoạt vị trong nội bộ hoàng thất, những cuộc khởi nghĩa nông dân, những cuộc hỗn chiến giữa các phe phái tướng lĩnh quan lại, giữa những tập đoàn quân phiệt cát cứ và các lãnh chúa địa phương

 


    Mô hình chiến thắng Bạch Đằng 938.

    Thuyền Đại Hiệu, một loại thuyền chiến cỡ lớn có trang bị hỏa lực mạnh mà thủy quân Tây Sơn đã sử dụng trong trận đánh (mô hình).

    Một bức họa của người Trung Quốc miêu tả cuộc tấn công của Tôn Sĩ Nghị: Quân Thanh vượt sông Thọ Xương (sông Thương) trên đường tiến về Thăng Long, phía xa là quân Tây Sơn đang tháo chạy.

    Lực lượng viễn chinh PhápTây Ban Nha tấn công thành Gia Định, tranh của Antoine Léon Morel-Fatio.

    Các lãnh đạo Việt Minh từ trái qua: Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

    Máy bay ném bom chiến lược B-52 đang ném bom rải thảm từ 18 tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972

    Xe tăng T-54 số hiệu 390 của Quân đội nhân dân Việt Nam trong sân dinh Độc Lập

    Thời kỳ Khai Quốc

    Hồng Bàng thị (2879 TCN-2525 TCN)

    Hùng Vương (2524 TCN - 258 TCN)

    An Dương Vương (257 TCN-208 TCN)

    Nhà Triệu (208 TCN-111 TCN)

    Thời kỳ Vong Quốc

    Bắc thuộc lần 1 (111 TCN - 40)

    • Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40)

    Trưng Nữ Vương (40-43)

    Bắc thuộc lần 2 (43 - 543)

    Nhà Tiền Lý (544 - 602)

    Bắc thuộc lần 3 (602 - 938)

    Các cuộc chiến tranh và khởi nghĩa thời Tùy-Đường (602-905)
     Thời kì tự chủ Việt Nam (905 - 938)

    Thời kỳ Phục Quốc

    Nhà Ngô (938 - 967)

    Nhà Đinh (968 - 980)

    Nhà Tiền Lê (981 - 1009)

    Nhà Lý (1009 - 1225)

    Nhà Trần (1225 - 1400)

    Nhà Hồ (1400 - 1407)

    Bắc thuộc lần 4 (1407 - 1427)

    Nhà Lê sơ (1428 - 1527)

    Thời kỳ phân chia Nam Bắc lần thứ nhất (1533-1802)

    Trong giai đoạn này, ở Việt Nam xuất hiện ba triều đại bao gồm: Nhà Mạc (1527 - 1677), Nhà Lê trung hưng (1533 - 1789) và Nhà Tây Sơn (1778 - 1802). Ngoài ra còn có 3 tập đoàn quân phiệt cát cứ gồm: Chúa Trịnh (1545-1787), Chúa Nguyễn (1558-1802) và Chúa Bầu (1527-1699). Đây là giai đoạn rối ren loạn lạc nhiễu nhương lộn xộn phức tạp nhất trong lịch sử Việt Nam.

    Thời kỳ phân chia Nam Bắc lần thứ nhất (1533-1802)


    Chiến tranh Lê-Mạc (1533-1677)
    Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627-1672)

    Nội loạn và Khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài 

    Các cuộc xung đột ở Đàng Trong
    Chiến tranh thời Tây Sơn

    Nhà Nguyễn (1802 - 1945)

    Thời kỳ Tái Vong Quốc và Tái Phục Quốc

    Thời Pháp thuộc (1858-1956)


    quân Pháp đổ bộ vào Thuận An

    quân Pháp hạ thành Bắc Ninh năm 1884
    Chiến tranh Pháp-Đại Nam (1858-1884)
    Phong trào Cần Vương (1885-1896)
    Những cuộc chiến tranh và khởi nghĩa khác

    Nhóm khởi nghĩa của Đề Thám (hình chụp của trung úy Romain-Desfossés)

    Quân đội Nhật tiến vào Hải Phòng ngày 24/11/1940

    Thời kỳ phân chia Nam Bắc lần thứ hai (1954-1976)


    Xe tăng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến vào thị trấn Snuol, Campuchia
    Chiến tranh Việt Nam
    Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1964-1973)
    Các cuộc xung đột và can thiệp khác

    Chiến tranh Đông Dương lần thứ ba (1975-1990)


    Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc đang di chuyển tại Cao Bằng, đi đầu là xe bọc thép Kiểu 63 (K63)

    Giai đoạn từ năm 1991 đến nay




    Không có nhận xét nào:

    Đăng nhận xét