CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 241
(ĐC sưu tầm trên NET)
Nguồn: ANTG/ Báo CAND
CHUYÊN ÁN bắt gián điệp đầu tiên ở miền Bắc - "Chuyện chưa kể " l CA BK63 l HỒ SƠ VỤ ÁN l ANTG
Chuyên án BK63: 10 năm 'dắt mũi' CIA
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, với âm mưu "đánh Cộng
sản trong lòng Cộng sản", Cơ quan Tình báo Mỹ và Việt Nam Cộng hòa
(VNCH) đã tung ra miền Bắc hàng trăm tên gián điệp, biệt kích. Tất cả số
này đều bị ta tiêu diệt hoặc bắt sống; không những thế, lực lượng Công
an nhân dân (CAND) còn thực hiện thành công chiến thuật "dùng người của
địch, phương tiện của địch để đánh lại địch". Chuyên án BK63 là một
chiến công tiêu biểu của cuộc đấu tranh bí mật này.
Trong suốt
10 năm (1961- 1970), lực lượng an ninh đã dùng chính gián điệp mà CIA
đánh ra Bắc để câu nhử CIA đưa phương tiện và nhiều toán biệt kích ra
Bắc theo ý đồ của ta. Được sự giúp đỡ của Cục Chính trị Tổng cục An
ninh, phóng viên Chuyên đề ANTG đã tiếp cận khá đầy đủ hồ sơ chuyên án.
Loạt bài tư liệu này sẽ dựng lại phần nào cuộc đấu trí suốt 10 năm của
các cán bộ an ninh với trung tâm CIA…
KỲ I: CHIẾC THUYỀN LẠ TRÊN BÃI BIỂN VÀ CUỘC TRUY LÙNG "NGƯỜI TRỞ VỀ"
1.
Một buổi sáng đầu tháng 4/1961, cũng như bao buổi sáng khác, ông Ngột,
một ngư dân ở thôn La Khê, xã Tiền An, huyện Yên Hưng, tỉnh Hồng Quảng
(nay là Quảng Ninh) cùng một bạn chài từ trong làng ra bến thuyền để đi
biển. Nhưng khi qua đầm Thùa (thôn La Khê), hai người bất ngờ thấy có
một chiếc thuyền nan có kiểu dáng rất lạ, không giống như của ngư dân
vùng Hồng Quảng đang sử dụng.
Tò mò, hai
người đến xem thì thấy trong thuyền có hai chiếc bơi chèo, một chiếc
giỏ đan bằng mây để đựng cá, một cần câu, một ống câu. Thấy những vật
này bỏ trong chiếc thuyền vô chủ, ông Ngột đã lấy mang về nhà, còn chiếc
thuyền thì mang để ở bến thuyền với ý định sẽ dùng chung. Nhưng sáng
hôm sau, khi ra bến thì không thấy chiếc thuyền đâu nữa.
Chuyện
chiếc thuyền lạ lập tức được báo cho Cơ quan Công an. Công an huyện Yên
Hưng sau đó cử cán bộ đi xác minh đã tìm thấy chiếc thuyền lạ này ở một
xã khác cách xã Tiền An 2km. Người chủ của chiếc thuyền trình bày rằng
anh ta mua lại của một gia đình thuyền chài.
Đúng lúc
chuyện chiếc thuyền lạ bỗng nhiên dạt vào bờ còn chưa hết xôn xao thì
mấy hôm sau, anh Phạm Văn Hán, ở xã Tiền An lên báo với Công an xã rằng
mẹ anh là bà Trới, chiều ngày 9/4 khi lên núi Đầm Thùa lấy củi thì bất
ngờ thấy ở gần nhà Phạm Ốc có một người đàn ông lạ ngồi trong bụi rậm,
xung quanh có rất nhiều quần áo. Khi thấy bà, người này úp mặt trên đầu
gối như che mặt rồi gừ lên một tiếng nghe sởn tóc gáy, tưởng ma, bà vứt
cả dao lẫn củi bỏ chạy về nhà.
Báo cáo của Sở Công an Hồng Quảng gửi Bộ Công an về việc bắt Phạm Chuyên.
|
Khi Công
an huyện cử cán bộ đến gặp bà Trới để hỏi chuyện này thì bà nói rằng
không có gì cả, người ngồi trong bụi rậm hôm ấy là Phạm Ốc, hôm đó đi
lấy dây rừng về buộc chuồng lợn, thấy bà đi một mình nên định trêu bà
thôi. Sau đó Ốc đã đến nhà xin lỗi vì làm bà sợ.
Tuy nhiên,
với các cán bộ an ninh, xâu chuỗi những thông tin lại đã khiến họ đặt
một nghi vấn lớn hơn, bởi Phạm Ốc có một người anh ruột là Phạm Chuyên
vốn là một phần tử chống đối ở địa phương nhưng hai năm trước đã bỏ trốn
đi Nam.
Theo hồ sơ
lưu tại Cơ quan Công an thì Phạm Chuyên sinh năm 1922, thời Pháp thuộc
đi lính khố xanh và được đi học về điện đài. Sau Cách mạng Tháng Tám,
Chuyên tham gia Cách mạng và được kết nạp vào Đảng và có một thời gian
làm ở Ty Công an Quảng Yên. Tháng 10/1947, Chuyên bị Pháp bắt, sau được
tha và làm thư ký hội đồng ở thị xã Hồng Gai. Tháng 5-1948, Chuyên bỏ về
quê, sau đó chạy vào căn cứ địa cách mạng ở huyện Hoành Bồ và được kết
nạp Đảng lại.
Cuối năm
1948, Chuyên được phân công phụ trách 3 xã ở huyện Yên Hưng; đầu năm
1949, Chuyên được điều về làm ở Ban Thi đua tỉnh; đầu năm 1950 chuyển
sang làm ở Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Yên. Năm 1953, khi được cử đi học
trường Đảng, Chuyên bị tố hủ hóa sau đó đã cùng tình nhân bỏ vào vùng
địch nên lại bị khai trừ Đảng. Sau hòa bình, dù được bố trí công tác
trong một cơ quan, nhưng cuối năm 1957, Chuyên bất mãn, nên bỏ cơ quan
về và gọi cả em trai là Phạm Ốc lúc đó đang học y sĩ bỏ học về nhà.
Về quê,
sẵn tư tưởng bất mãn nên Chuyên sáng tác ca dao, hò vè đả kích, khích
động quần chúng đấu tranh. Tháng 6/1959, sau khi bị Tòa án nhân dân
huyện Yên Hưng gọi lên xét hỏi về hành động chống đối chính quyền, khi
được cho về viết kiểm điểm, Chuyên đã bỏ trốn đi Nam. Thời gian sau đó,
có bưu thiếp của Chuyên gửi về báo tin Chuyên làm ăn phát đạt.
Một loạt
câu hỏi được đặt ra: Phải chăng Phạm Chuyên đã quay về? Người ngồi trong
bụi rậm chính là hắn? Việc Phạm Ốc tự nhận là người ở bụi cây dọa bà
Trới là một trò đánh lạc hướng điều tra của công an và để dập tắt mọi sự
nghi ngờ?
Một báo
cáo khẩn cấp của Công an Hồng Quảng gửi về Bộ Công an. Sau khi nhận được
chỉ thị của Bộ, một đội trinh sát tinh nhuệ bí mật triển khai bám sát
những thành viên trong gia đình Phạm Ốc và theo dõi những biến động khả
nghi ở vùng lân cận.
Đêm
6/6/1961, phát hiện Phạm Đắc, em ruột Phạm Chuyên, xách một túi vải đi
về thị xã Quảng Yên với nhiều dấu hiệu nghi vấn, tổ công tác quyết định
bắt Phạm Đắc đưa về Đồn Công an Quảng Yên. Tại đây, khi khám xét chiếc
túi đã thu giữ một máy phát tin, một gói cơm nếp và một số thực phẩm.
Đấu tranh ngay trong đêm, Đắc khai chiếc máy này là của Phạm Chuyên,
chiếc thuyền nan mà người dân xã Tiền An phát hiện thấy ở bờ biển chính
là thuyền của Chuyên.
Kế hoạch
vây bắt Phạm Chuyên được vạch ra. Khuya 11/6/1961, đồng chí Nguyễn Minh,
Trưởng Ty Công an Hồng Quảng đã chỉ huy tổ trinh sát đặc nhiệm bí mật
bắt Phạm Chuyên ngay tại nhà. Khám nhà, công an thu được 19 bộ lốc mã
giấu trong cót thóc. Mở rộng diện đấu tranh, ta thu được trọn bộ điện
đài vô tuyến điện gồm một máy thu, một máy phát và một máy phát điện
quay tay.
Từng làm
công an và lại được CIA đào tạo bài bản nên những ngày đầu bị bắt, Phạm
Chuyên kiên quyết không khai và giở nhiều thủ đoạn để đối phó với cán bộ
điều tra. Sau khi nhận báo cáo của Công an Hồng Quảng, đồng chí Nguyễn
Tài, lúc đó là Cục trưởng Cục Bảo vệ Chính trị (đồng chí Nguyễn Tài sau
này là Thứ trưởng Bộ Công an, rồi chuyển sang làm Tổng cục trưởng Tổng
cục Hải quan), trực tiếp xuống Hồng Quảng.
Sau những
cuộc trò chuyện với Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài nhận ra một điều
Phạm Chuyên là kẻ tráo trở nhưng lại rất thương mẹ, thương em, vì vậy
cùng với việc thuyết phục Phạm Chuyên, Cục trưởng Nguyễn Tài cũng chỉ
đạo phải làm tốt chính sách với với gia đình Phạm Chuyên. Vì vậy mà sau
vài lần nói chuyện với Cục trưởng Nguyễn Tài, cùng với sự tác động của
các cán bộ an ninh, Phạm Chuyên mới khai lại toàn bộ.
2. Trong
bản báo cáo ngày 5/7/1961 có đóng dấu "tối mật" của Sở Công an khu Hồng
Quảng đã trình bày lại toàn bộ quá trình trốn vào Nam của Phạm Chuyên
như sau:
Ngày 25/6/1959, sau khi được Tòa án nhân dân huyện Yên Hưng cho về viết kiểm thảo, Phạm Chuyên quyết định bỏ trốn.
Ban đầu
Chuyên lên Hà Nội rồi mua vé xe khách đi vào Vinh. Từ Vinh, Chuyên đi
theo đường số 8 lên biên giới rồi vượt biên sang Lào. Sang Lào, sau khi
được tiếp nhận, Chuyên được đưa về Savanakhet để thẩm vấn. Sau 9 tháng ở
Lào và qua nhiều vòng thẩm vấn, Chuyên được đưa về trung tâm tiếp đón
đồng bào vượt tuyến ở Sài Gòn. Tháng 5/1960, sau khi trải qua nhiều vòng
thẩm vấn, Chuyên đề đạt nguyện vọng được có một việc làm để sinh sống,
khi nào cần sẽ tình nguyện về miền Bắc làm việc, nếu không xin cứ cho
nằm lại ở trung tâm.
Công việc
mà Chuyên được Sở Nghiên cứu chính trị giao cho làm sau đó là đi nói
chuyện ở một số địa phương với nội dung xuyên tạc về chính sách thuế
nông nghiệp, hợp tác xã ở miền Bắc.
Sau vài
tháng đi nói chuyện, một ngày đầu tháng 9/1960, một người tên là Phan
đến gặp Chuyên. Phan giới thiệu là nhân viên của Sở Nghiên cứu chính trị
thuộc Phủ Tổng thống (thực chất là cơ quan tình báo, phản gián chiến
lược của chính quyền VNCH được thành lập năm 1956 do Trần Kim Tuyến làm
giám đốc. Sở này có nhiệm vụ điều tra, thu thập tin tình báo chiến lược
về mọi mặt; tổ chức, chỉ huy các hoạt động gián điệp tại Bắc Việt, bảo
vệ an ninh nội bộ…).
Huấn luyện biệt kích tại Đà Nẵng. |
Câu chuyện
của Phan vẫn chỉ xoay quanh việc Chuyên vượt tuyến, việc Chuyên từng
học điện đài thời Pháp thuộc. Cuối cùng, Phan mới lật bài ngửa với
Chuyên khi hỏi thẳng có dám mạo hiểm trở lại miền Bắc không. Sau khi
Chuyên đồng ý, Phan hẹn lần sau sẽ gặp để bàn tiếp công việc.
Vài ngày
sau, Phan lại tới và yêu cầu Chuyên tự viết bản kế hoạch hoạt động khi
quay trở lại miền Bắc. Chuyên lập tức viết một bản kế hoạch, trình bày
chi tiết từ kế hoạch vượt tuyến trở lại miền Bắc, tới phương pháp gây
dựng cơ sở khi ra Bắc, cách thức lãnh đạo đấu tranh, phương tiện liên
lạc để cung cấp tin cho trung tâm ở Sài Gòn và cả dự trù kinh phí hoạt
động… Cầm bản kế hoạch này, Phan ra về và hẹn sẽ gặp lại sau khi nghiên
cứu.
Một buổi
chiều giữa tháng 9/1960, Phan quay trở lại gặp Chuyên và đưa Chuyên đến
khách sạn Majestic để gặp một người Mỹ. Người Mỹ này lại hỏi Chuyên
những câu hỏi mà Phan đã hỏi nhiều lần; gã người Mỹ còn hỏi Chuyên về ấn
tượng với chính thể miền Nam rồi sau đó câu chuyện kết thúc. Một tuần
sau, Phan lại đưa Chuyên đến gặp gã người Mỹ nhưng địa điểm là ngôi biệt
thự trên một con phố. Gã người Mỹ lại đặt những câu hỏi trắc nghiệm tâm
lý. Khi kết thúc, gã nói với Chuyên rằng "cán bộ của chính phủ sẽ gặp
ông nữa. Riêng tôi, chúc ông thành công".
3.
Đó là nội dung Phạm Chuyên khai vào tháng 6/1961. Mấy chục năm sau,
trong cuốn sách "Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội
VNCH" của dịch giả, giáo sư Vũ Đình Hiếu (Giáo sư Vũ Đình Hiếu là một
cựu biệt kích quân đội VNCH, sang Mỹ năm 1975, đi học trở lại, sau này
trở thành giáo sư chuyên ngành Công nghệ thông tin, từng giảng dạy các
trường đại học ở bang Texas - (Mỹ), căn cứ vào những tài liệu đã giải mã
của Lầu Năm Góc cũng đề cập tới việc CIA và tình báo VNCH tuyển chọn
Phạm Chuyên, trong đó có nhắc tới 2 người đã thẩm vấn và đào tạo Chuyên,
đó là Trung úy Đỗ Văn Tiên, nhân viên của Phòng 45 và Edward Reagan,
nhân viên CIA.
Phòng 45
là mật danh của Phòng Bắc Việt, trực thuộc Phòng Liên lạc Phủ Tổng
thống VNCH, thực chất là một đơn vị tình báo do CIA lập ra vào cuối năm
1958 gồm 12 sĩ quan người Việt cấp bậc từ thiếu úy đến trung úy. Tất cả
những người này đều do CIA tuyển chọn và đào tạo về nghiệp vụ tình báo,
tác chiến, phương thức phá hoại và chỉ huy đường dây tình báo.
"Phòng 45
lập kế hoạch 5 năm để xâm nhập vào vùng hậu phương mà đối phương kiểm
soát rất chặt chẽ. Lần này Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống giao trách
nhiệm cho Trung úy Đỗ Văn Tiên (mật danh Francois) phái một điệp viên
đơn tuyến xâm nhập miền Bắc. Francois tìm được một người thích hợp là
Phạm Chuyên, nguyên là một đảng viên biến chất, quê ở tỉnh Quảng Ninh.
Chuyên bị vợ bỏ nên anh ta di cư vào Nam.
Thoạt đầu
Phạm Chuyên từ chối, mặc dù Trung tá Lê Quang Tung đã cho đàn em theo
dõi, dụ dỗ suốt nửa năm trời. Trung úy Tiên (Francois) buộc phải cộng
tác với một nhân viên CIA là Edward Reagan tìm cách thuyết phục Chuyên.
Sau hơn 6 tháng CIA trổ tài, Phạm Chuyên nhận lời. Anh ta được đưa ra
Nha Trang để làm kỳ trắc nghiệm tâm lý. Chuyên đạt điểm xuất sắc trong
kỳ trắc nghiệm.
Sau đó,
Chuyên còn phải trải qua hai kỳ khảo nghiệm nữa, một ở Sài Gòn và một ở
Nha Trang. Tiếp theo CIA huấn luyện cho Chuyên 6 tháng về kỹ năng truyền
tin. Trong lúc Chuyên được huấn luyện các kỹ năng thì Trung úy Tiên và
Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa điệp viên xâm nhập miền Bắc…".
Nhưng, đây
là chuyện của mấy chục năm sau, khi các hồ sơ đã được giải mật. Còn
vào thời điểm năm 1961 thì CIA vẫn chắc mẩm rằng đã thành công khi đưa
được Phạm Chuyên trở lại miền Bắc an toàn…
KÌ 2: Điệp viên Ares và hành trình trở lại miền Bắc Việt Nam
1. Sáng sớm ngày 5/4/1961, tại một bến tàu ở Đà Nẵng, một chiếc tàu hình dáng như tàu đánh cá trọng tải khoảng 40 tấn chở theo một chiếc xuồng cao su và một chiếc thuyền nan nhỏ lặng lẽ rời bến. Ra khỏi cửa biển Đà Nẵng, chiếc tàu nhằm thẳng hướng Tây - Bắc.
Trên tàu, ngoài thuyền trưởng và mấy thủy thủ, có một người khách nói giọng Bắc. Các thủy thủ chỉ được thuyền trưởng thông báo đó là một cán bộ của Trung ương đi công tác đặc biệt và là người chỉ huy chung trên suốt hành trình. "Cán bộ Trung ương" ấy không ai khác chính là Phạm Chuyên.
Chạy mải
miết suốt 3 ngày, tới 4 giờ chiều 7/4, khi đã ở vùng biển Vịnh Bắc Bộ,
thấy phía trước mặt lờ mờ nhiều dãy núi đá, thuyền trưởng cho tàu dừng
lại, nấu cơm ăn và nắm cho Chuyên một nắm to.
Khi bữa
cơm chiều kết thúc đã là 6 giờ 30 phút. Cuối xuân nên trời tối rất
nhanh, thuyền trưởng cho tàu nhổ neo nhằm thẳng hướng có dãy núi đá chạy
vào bờ. Sau hơn 3 giờ, tàu đã đi vào khu vực Hồng Gai. Khi chạy qua
luồng Cửa Dứa, đến gần một quả núi cao, Quân, gã lái tàu vốn là một ngư
dân trước khi vượt tuyến vào Nam đã có thâm niên đi biển ở khu vực Quảng
Ninh - Hải Phòng 20 năm nên rất thành thạo luồng lạch, khẳng định là
núi cột cờ, Quân cho tàu dừng lại, thuyền trưởng lệnh cho nhóm thủy thủ
hạ chiếc thuyền nan và chiếc xuồng cao su xuống nước.
Sau hơn
nửa tiếng chuẩn bị, đưa máy truyền tin và hành lý của Chuyên lên thuyền
nan, buộc chiếc thuyền nan vào phía sau xuồng cao su, Chuyên ngồi lên
chiếc thuyền nan, Quân lái chiếc xuồng cao su chạy về phía hang Đầu Gỗ
rồi rẽ sang ghềnh Si.
2 giờ sáng
ngày 8/4, đến ghềnh Si, Quân lái xuồng cao su quay lại tàu, Chuyên bơi
thuyền nan theo kênh tiến vào núi đất. Vì nước xuống rất mạnh, lại chèo
ngược dòng nên đến gần sáng, Chuyên mới vào được bờ. Vội vã vác hai
chiếc máy truyền tin cùng tư trang lên giấu ở rừng sú, Chuyên kéo chiếc
thuyền vào một lạch nhỏ giữa rừng sú và trốn trong rừng cả ngày. Vậy là
sau 22 tháng bỏ trốn vào Nam, Phạm Chuyên đã trở lại quê hương nhưng với
một vai trò khác, điệp viên của CIA với mật danh Ares.
Báo cáo của Sở Công an Hồng Quảng về việc khai thác Phạm Chuyên sau gần hai tháng bắt giữ.
|
2.
Để chuẩn bị cho chuyến trở về này của Chuyên, trước đó gần một năm,
Phan (tức trung úy Đỗ Văn Tiên (biệt danh Francois), nhân viên Phòng 45)
và nhân viên CIA Edward Reagan đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng.
Đầu tháng
10-1960, sau khi vượt qua các vòng thẩm vấn, Phan đưa Chuyên đến một căn
phòng trên tầng 5 ngôi nhà số 13 đường Kỳ Đồng. Tại đây, Phan thông báo
với Chuyên rằng Tổng bộ đồng ý tuyển dụng, từ hôm nay Chuyên sẽ phải
trải qua một khóa đào tạo. Thời gian học, Chuyên được hưởng lương 3.000
đồng tiền miền Nam/ tháng. Sau thời gian học, lương sẽ tăng lên 5.000
đồng/ tháng.
Ngay ngày
hôm sau, Phan bắt đầu công việc huấn luyện Chuyên bằng cách đưa cho một
tập tài liệu về phương pháp công tác yêu cầu đọc kỹ, sau đó có gì thắc
mắc thì hỏi lại và cùng thảo luận. Nội dung tài liệu này là hướng dẫn
các phương pháp hoạt động gián điệp gồm: công tác bí mật; hướng phát
triển cơ sở; tuyên truyền - điều tra - phân tích, chia loại; lãnh đạo
đấu tranh; liên lạc báo cáo… Thời gian đọc và thảo luận tài liệu này
trong 1 tuần.
Sau một
tuần học về phương pháp công tác, Phan đưa một người nữa, giới thiệu tên
là Tý, nhân viên điện đài đến hướng dẫn Chuyên về cách truyền tin bằng
vô tuyến điện. Giữa tháng 1/1961, khi đã thành thạo việc phát tin,
Chuyên được chuyển đến một ngôi nhà ở đường Nguyễn Biểu để thực tập.
Thời kỳ đầu tập liên lạc với Đài P8M ở ngay Sài Gòn, sau đó chuyển sang
liên lạc với một đài ở xa hơn. Sau gần một tháng thực tập, khi đã thành
thục, Chuyên phải trải qua một cuộc kiểm tra. Kết thúc khóa học này, tên
đài của Chuyên được trung tâm đặt là ARES; bí danh của Chuyên là "Hạ
Long". Khi liên lạc, trung tâm sẽ xưng hô là "Tổng bộ".
Phan còn
hướng dẫn Chuyên trong trường hợp không liên lạc được qua điện đài thì
sẽ dùng thư, bưu thiếp để báo cáo tình hình. Tất cả thư, bưu thiếp đều
dùng danh nghĩa hai em trai của Chuyên là Phạm Ốc và Phạm Đắc gửi cho
Chuyên qua một người khác làm trạm trung gian. Bưu thiếp sẽ gửi tới 2
địa chỉ: Phạm Kỷ, số 186 ấp Tây 3, xã Phú Nhuận, quận Tân Bình - Gia
Định và Phạm Thị My, học sinh đệ nhất Trường Lê Quý Đôn, số 216 Phan
Đình Phùng - Sài Gòn. Thư chỉ gửi cho bà Kraemer Jean ở Pháp.
Sau kỳ
nghỉ Tết Nguyên đán, giữa tháng 2/1961, Phan quay lại gặp Chuyên để tiếp
tục huấn luyện về chính trị. Kết thúc khóa học, Phan đưa Chuyên ra Nha
Trang nghỉ mát nửa tháng. Trong nửa tháng ở Nha Trang, Phan tiếp tục
đưa bản kế hoạch công tác khi trở ra Bắc của Chuyên viết trước đó để
thảo luận, đặc biệt là cách nói dối thế nào cho hợp lý nếu sau khi ra
Bắc mà bị bắt và Công an miền Bắc không thu được tài liệu. Cả hai thống
nhất trong hoàn cảnh này Chuyên sẽ khai do vào Nam không được thu dung
vì bị nghi vấn nên quyết định vượt tuyến quay về đầu thú, chưa kịp ra
trình diện thì đã bị bắt.
Nhưng khi
bàn đến phương án nếu bị bắt mà Công an thu được cả máy móc, tài liệu
thì cả hai không tìm được tiếng nói chung, Phan nói rằng trong hoàn cảnh
ấy Chuyên "tùy cơ ứng biến" nhưng tuyệt đối không được nhận là "cán bộ
chính trị miền Nam cử ra Bắc" vì như vậy sẽ là vi phạm Hiệp định Geneve.
Sau đó, Phan đưa Chuyên ra Đà Nẵng nhận tàu.
Nhiệm vụ
mà Chuyên được giao trong lần quay trở lại miền Bắc là: tổ chức cơ sở
quần chúng; tổ chức một khu căn cứ chuẩn bị cho hoạt động vũ trang; tổ
chức cơ sở vùng biên để làm cơ sở đón tiếp tế về người, vũ khí, hàng hóa
lương thực từ miền Nam ra; cập nhật và báo cáo tin tức về các mặt quân
sự, chính trị, kinh tế ở vùng hoạt động.
Phan bàn
rất kỹ với Chuyên về đối tượng tiếp cận để gây dựng lực lượng, theo đó,
ngoài dân chài, thì phải đặc biệt chú ý tới cán bộ xã, đoàn viên thanh
niên. Khi đã có lực lượng, giai đoạn đầu tùy theo tình hình phát triển
của cơ sở và dựa vào chính sách, hướng dẫn quần chúng tham gia đấu tranh
hợp pháp với những bất hợp lý trong việc thực hiện chính sách dân công,
hợp tác xã… Việc chuyển hình thức đấu tranh tùy theo sự phát triển của
cơ sở và theo sự chỉ đạo từ trung tâm, dứt khoát không được tự động làm
khi chưa có lệnh.
Theo kế
hoạch Phan đưa ra, sau khoảng 1 đến 2 năm, khi Chuyên đã gây dựng được
cơ sở vững và guồng máy hoạt động tốt, trung tâm sẽ cử người ra hoặc
Chuyên chỉ định người mà mình đã tuyển để thay thế, Chuyên sẽ trở lại
miền Nam. Trong trường hợp bị lộ, Chuyên báo cáo để trung tâm tổ chức
đón. Trường hợp khẩn cấp, có thể bị bắt thì Chuyên rút vào rừng trốn,
chờ trung tâm tổ chức cho tàu ra đón bằng đường biển…
3. Sở dĩ
Phạm Chuyên được đào tạo kỹ lưỡng như vậy vì Ares là điệp viên đầu tiên
do CIA đào tạo để đánh ra miền Bắc. CIA kỳ vọng nếu Ares xâm nhập và
hoạt động được ở miền Bắc sẽ là cơ sở để tiếp tục đưa điệp viên và các
toán biệt kích ra Bắc.
Sau này,
trong cuốn sách "Cuộc chiến bí mật - Hồ sơ Lực lượng đặc biệt Quân đội
VNCH" của dịch giả Vũ Đình Hiếu cũng viết rằng để chuẩn bị cho việc đưa
Phạm Chuyên xâm nhập miền Bắc, trong khi Chuyên được huấn luyện các kỹ
năng thì trung úy Tiên và Edward Reagan bận rộn phác thảo kế hoạch đưa
điệp viên xâm nhập miền Bắc.
"CIA cho
rằng việc phái Chuyên xâm nhập miền Bắc bằng đường biển là rất hợp lý.
Với niềm hứng khởi ấy, hai chuyên viên tình báo bay ra Đà Nẵng tìm địa
điểm xuất phát. Họ thuê một biệt thự kín đáo, có tường bao quanh làm mật
cứ. Mọi động thái cũng như đường đi, nước bước của họ từ đó về sau có
mật hiệu là Pacific.
Sau điệp viên Ares, nhiều toán biệt kích bị bắt ngay sau khi đặt chân xuống miền Bắc. |
Trước khi
Chuyên được gửi đi, Phòng 45 quyết định triển khai kế hoạch ngắn hạn:
thả điệp viên đến khu phi quân sự, dọc theo Vĩ tuyến 17 để thăm dò. Nhân
vật được tuyển chọn cho kế hoạch này là một người theo đạo Công giáo,
quê ở Hà Tĩnh, tên là Vũ Công Hồng. Anh ta được huấn luyện cấp tốc và
đưa ra sống ở Huế trong một căn nhà được bảo vệ rất nghiêm mật. Vũ Công
Hồng (mang mật danh là Hirondelle) đã sẵn sàng lên đường. Thiếu tá Trần
Khắc Kính nhân vật thứ hai của Phòng Liên lạc Phủ Tổng thống chỉ đạo mọi
hoạt động xuất phát từ Huế, với mật danh là Atlantic (…). Vài tuần sau,
Hồng trở về căn cứ an toàn. Mặc dù Hồng chỉ cung cấp một ít thông tin
về đường đi, nước bước của hệ thống an ninh Bắc Việt, nhưng cũng đủ làm
cho những nhân viên của Phòng 45 hứng khởi. Sau chuyến đi của Hồng hai
tháng, Chuyên đã sẵn sàng lên đường, với hành trang là kiến thức của một
năm được huấn luyện.
Đầu tháng
4/1961, Chuyên lên tàu Nautilus 1, rời Đà Nẵng, theo hành trình 2 ngày
về phía Bắc. Không may cho Chuyên do gặp phải thời tiết xấu, chiếc
Nautilus 1 đành quay trở về nơi xuất phát. Vài hôm sau thời tiết đẹp trở
lại, Chuyên tiếp tục lên đường. Cả Tiên và Reagan đều ra bến tàu tiễn
đưa Chuyên. Sau này Tiên nhớ lại là khi chia tay với Chuyên, anh ta đã
chúc Chuyên may mắn nhưng Chuyên không nói nửa lời".
4. Sau một
ngày trốn trong trong rừng sú, đêm 8/4, sau khi chôn giấu máy truyền
tin, Chuyên lẩn về nằm ở trong vườn nhà mình nhưng không dám vào nhà vì
sợ em dâu, là vợ Phạm Ốc, và vợ con mình biết sẽ bị lộ. Sáng hôm sau,
khi thấy Ốc đi làm, Chuyên mới gọi Ốc. Tối hôm đó, Chuyên gặp mẹ và hai
em trai là Ốc và Đắc. Sau mấy ngày trốn trong nhà, khi nghe thông tin có
người đến nhà ông Ngột lấy hai mái chèo ở chiếc thuyền lạ ngoài bãi
biển, Chuyên mang máy truyền tin cùng tư trang lên rừng trốn.
Dù phải
sống trong cảnh trốn chui trốn lủi, nhưng Chuyên cũng 3 lần lấy máy ra
liên lạc về trung tâm. Nhưng vì chậm so với giờ lên máy đã quy ước với
trung tâm nên đều không được. Chuyên viết thư và bưu thiếp sau đó để Ốc
chép lại có nội dung mật báo gửi vào 3 địa chỉ đã quy ước từ trước với
Phan.
Cho tới
ngày 27/4, lần thứ 4 lên máy, Chuyên mới liên lạc được với trung tâm,
báo cáo đã về tới nơi nhưng căn cứ bị động nên còn ở La Khê. Hai ngày
sau, Chuyên lại liên lạc với trung tâm. Sau đó, cách vài ngày, Chuyên
lại lên máy liên lạc với trung tâm. Cùng với báo cáo tình hình vào Nam,
Chuyên bắt tay vào tuyển người, ngoài 2 em ruột, một em họ, Chuyên chú ý
tới những người bạn và một số cán bộ cùng công tác trước kia có tư
tưởng bất mãn; Chuyên dự định tổ chức cơ sở vùng ghềnh Si, lập ban đón
tiếp, chuẩn bị nhận tiếp tế chuyến đầu tiên vào cuối tháng 5.
Với các
ngư dân, Chuyên có ý định dùng gạo để mua chuộc và tổ chức họ. Khi trung
tâm chuyển tiền ra sẽ tổ chức thuyền đánh cá để có thể nhận tiếp tế từ
ngoài xa ở Hạ Long hay Cát Bà, để tàu tiếp tế không phải vào quá sâu, sẽ
nguy hiểm; lựa chọn người để cuối tháng 10-1961 sẽ gửi vào Nam học vô
tuyến điện, sau đó ra làm nhiệm vụ liên lạc điện đài để Chuyên tập trung
vào việc tổ chức, gây dựng lực lượng…
Tất cả
những dự định ấy mới chỉ được vạch ra thì sau 7 phiên liên lạc bằng điện
đài, tối ngày 6/6/1961 Đắc bị bắt khi đang trên đường mang điện đài và
lương thực lên rừng tiếp tế cho Chuyên.
Biết em bị
bắt trước sau gì cũng sẽ khai ra việc mình vượt tuyến xâm nhập về Bắc,
Chuyên quyết định đánh lạc hướng bằng cách một mặt viết thư xin đầu thú
rồi cho em ra bưu điện gửi tới Công an huyện Yên Hưng nhưng trong lúc ấy
cũng lên kế hoạch liên lạc với Trung tâm cho rút bằng đường biển. Tuy
nhiên, kế hoạch này chưa kịp thực hiện thì chỉ vài ngày sau khi em bị
bắt, Chuyên cũng bị bắt khi đang trốn trong bồ thóc trong buồng cùng với
súng ngắn, lựu đạn, tiền và tài liệu; sau đó Chuyên phải khai nơi giấu
bộ máy điện đài thứ hai cùng tất cả tài liệu trong hang trên núi Đá
Chồng.
Sau gần 2
tháng đấu tranh, Phạm Chuyên đã bị khuất phục và khai hết kế hoạch mà
CIA giao cho khi xâm nhập ra Bắc. Sau khi đánh giá lại toàn bộ quá trình
bắt, đấu tranh với Phạm Chuyên, Cục Bảo vệ Chính trị và Sở Công an Hồng
Quảng khẳng định tất cả vẫn đảm bảo bí mật, một kế hoạch táo bạo được
gửi lên Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, đó là cho lập Chuyên án BK63 đấu tranh
với CIA với mục đích: duy trì chuyên án hoạt động lâu dài nhằm khống
chế được hoạt động của địch đối với địa bàn khu vực Đông Bắc; phát hiện
toàn bộ âm mưu và thủ đoạn hoạt động gián điệp biệt kích đối với miền
Bắc, tạo điều kiện để chủ động tấn công lại địch. Tổ chức câu nhử, đón
bắt những nhóm gián điệp khác nhằm khai thác triệt để các trung tâm gián
điệp biệt kích của địch; tính toán khả năng phái khiển người vào tổ
chức của địch khi cần thiết.
Bộ trưởng
Trần Quốc Hoàn đã chỉ đạo trong quá trình đấu tranh phải đảm bảo nguyên
tắc "tích cực bảo vệ mình, chủ động tiêu diệt địch" để vận dụng vào việc
bố trí các tin tức, tình huống giả tạo với phương châm "không để thiệt
hại cho ta, chỉ được lợi cho ta".
Những cán bộ tham gia chuyên án cũng không thể nghĩ từ đây, một cuộc chiến âm thầm đã diễn ra tới 10 năm sau mới kết thúc…
KÌ 3: 10 năm “dắt mũi” CIA
1.
Năm nay đã gần 90 tuổi nhưng Thiếu tướng Lê Mai, nguyên Giám đốc Công
an tỉnh Quảng Ninh, một trong những cán bộ đã trực tiếp chỉ đạo Chuyên
án BK63 từ những ngày đầu, vẫn còn minh mẫn. Nhắc lại chuyện xưa, Thiếu
tướng Lê Mai bảo rằng đó là những ngày không thể nào quên.
Sau
gần hai tháng bị bắt, trực tiếp thấy công an đối xử với mình và người
thân trong gia đình, đặc biệt là với bà mẹ già, rất chu đáo, Phạm Chuyên
đồng ý lập công chuộc tội, tham gia chuyên án.
Sáng
8/8/1961, sau gần 2 tháng mất liên lạc, “Tổng bộ” tại Sài Gòn nhận được
điện từ đài Ares. Ares báo cáo tình hình tạm ổn, có thể liên lạc lại
được, nhưng để đảm bảo an toàn thì khoảng cách giữa hai phiên phải thưa
hơn, không như lịch truyền tin được.
Các
sĩ quan tình báo tại Trung tâm dù đều là những người được CIA đào tạo
bài bản, nhất là các phương pháp thẩm tra trên điện đài, sau khi kiểm
tra đã chúc mừng Ares thoát hiểm và nhắc nhở chú ý đảm bảo an ninh.
Trong
khi đó, cách trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn hơn 2.000km, ở một bãi hoang
thuộc xã Trạp Khê (huyện Yên Hưng), Phạm Chuyên ngồi gõ manip truyền
tin, bên cạnh là các cán bộ Cục Bảo vệ Chính trị và Công an Hồng Quảng.
Kết thúc phiên liên lạc, tất cả mọi người mới thở phào vì mọi việc diễn
ra đúng kế hoạch.
Để
chuẩn bị cho phiên liên lạc này, nhiều ngày trước đó, các cán bộ tham
gia Chuyên án BK63 đã phải bàn bạc, đưa ra nhiều tình huống để có phương
án xử lý.
Theo
lời khai của Phạm Chuyên, trước khi kết thúc khóa huấn luyện về điện
đài, tên Tý, người hướng dẫn Chuyên về điện đài đã mang máy ghi âm đến
để ghi tín hiệu với mục đích cho central gián điệp nghe quen, đề phòng
trường hợp khi Chuyên ra Bắc bị bắt, Công an Bắc Việt lấy được thiết bị
và các quy ước liên lạc sẽ đánh tráo manip.
Không
những thế, Tý còn huấn luyện Chuyên biết cách hội thoại trong lề lối
thông báo giúp cho nhân viên báo vụ ở Trung tâm khi nhận điện nghe sẽ
biết ngay điệp viên đang bị khống chế, bằng cách đài chính bắt nhắc lại
một nhóm nào đó trong lúc đài đối đang chuyển điện, nếu có an ninh: nhắc
lại tự do không theo quy luật nào.
Ngoài
các biện pháp kỹ thuật là thêm những ký tự đã quy ước sẵn khi gõ manip
để báo cho Tổng đài biết đang bị khống chế, trong quá trình hỏi đáp,
tổng đài sẽ có những câu hỏi để thẩm tra xem đang trao đổi với điệp viên
hay một đối tượng giả, hoặc điệp viên đang bị khống chế.
Tổng
đài hỏi “Địa điểm tiếp tế bằng phi cơ ở đâu?”, nếu đang bị khống chế,
điệp viên trả lời “Cát Bà” hoặc một điểm vu vơ nào đó; nếu không bị
khống chế, trả lời “Chưa tìm được”…
Tuy
nhiên, việc đứt liên lạc suốt gần 2 tháng vẫn khiến “Tổng bộ” nghi ngờ,
vì vậy việc thẩm tra vẫn được thực hiện ở phiên liên lạc sau khi trong
bức điện thứ 2 đã hỏi tình trạng máy truyền tin, nơi cất giấu.
Các
trinh sát quyết định sáng tác bản tin cho Ares báo cáo về hai nơi chôn
cất máy, có tọa độ, mốc đánh dấu bằng các cây rừng có gai góc, kèm theo
việc này là một số tin tức hoạt động quân sự, kinh tế được lấy… trên
báo.
Một bản tin do trinh sát sáng tác cho Ares. |
Cho
tới tháng 10/1961, sau vài lần thẩm tra nữa, “Tổng bộ” mới tin Ares thực
sự vẫn đang hoạt động hiệu quả khi lần liên lạc nào, Ares cũng cung cấp
rất nhiều tin về các hoạt động kinh tế rất chuẩn xác vì được trinh sát
“copy” từ các báo. Với lý do cần có kinh phí và phương tiện để hoạt
động, Ares đề nghị được tiếp tế sớm.
“Tổng
bộ” yêu cầu Ares tìm địa điểm đón hàng rồi báo cáo cùng quy ước an ninh
và ám hiệu nhận hàng. Sau khi tính toán, Ban chuyên án quyết định chọn
nơi nhận hàng là khu Đầu Đá, một điểm trong Vịnh Hạ Long.
Ngày
16/1/1962, tàu Nautilus 1, chính là tàu đưa Phạm Chuyên ra Bắc, cùng
với 10 thủy thủ từ Đà Nẵng mang theo 30 thùng đồ gồm máy truyền tin,
vàng, tiền miền Bắc (tiền thật) lương thực, thực phẩm, vũ khí ra tiếp tế
cho Chuyên. Sau khi toàn bộ hàng hóa đã tập kết lên bãi, toàn bộ thủy
thủ cùng hàng hóa bị bắt gọn.
Trong
khi đó, Ares thông báo không nhận được hàng, vì có thể đúng hôm chiếc
tàu chở hàng ra tiếp tế đã bị giông lốc đánh chìm và đề nghị tiếp tục
chuyển đồ tiếp tế ra. Cùng với đề nghị tiếp tế, Ares vẫn đều đặn cung
cấp tin tức rất “giá trị” do các trinh sát tổng hợp hoặc sáng tác ra.
Hơn
một tháng sau chuyến hàng đầu tiên, Ares bất ngờ nhận được thông báo
Tổng bộ đã chuyển hàng ra và chỉ tọa độ cất giấu. Hàng hóa là 23 kiện
lương thực, thuốc và 7 thùng vũ khí. Cho tới tháng 8/1963, Tổng bộ đã 3
lần tiếp tế bằng đường biển cho Ares. Tuy nhiên, lần này khi tàu bốc
hàng trở ra thì bất ngờ bị công an vũ trang phát hiện truy đuổi, bắt
được.
Với
lý do việc tiếp tế bằng đường biển đã bị lộ, Ares đề nghị Tổng bộ tiếp
tế bằng đường không. Đề xuất này lập tức được chấp nhận vì “Tổng bộ”
cũng cho rằng tiếp tế bằng đường không sẽ được nhiều và nhanh hơn, lại
ít nguy hiểm.
Sau
khi đi tìm địa điểm, Ban chuyên án quyết định chọn địa điểm nhận hàng là
Khe Ru (huyện Hoành Bồ), đây là một bãi cỏ trên đỉnh núi, xa dân, hướng
bay từ đông bắc sang rồi thẳng ra biển, máy bay thả dù rất an toàn. Tín
hiệu quy ước địa điểm nhận hàng là 3 cột khói hình tam giác ở giữa bãi.
Nhận
được thông báo của Ares về địa điểm, “Tổng bộ” đồng ý ngay và thông
báo chuẩn bị nhận hàng. Trước ngày hẹn, một tổ công an vũ trang cùng tổ
công tác gồm 3 trinh sát và Phạm Chuyên dưới sự chỉ đạo trực tiếp của
đồng chí Lê Mai, lúc đó là Phó giám đốc Công an tỉnh, lên bãi thả chuẩn
bị.
Đúng
ngày hẹn, từ sáng, giữa bãi thả, 3 đống cỏ khô được chất lên, trên cùng
phủ lá tươi để tạo khói. Đợi suốt một ngày mà không thấy máy bay đâu
khiến ai cũng thấy bồn chồn. Cho tới gần 17h mới nghe thấy tiếng máy
bay, lập tức 3 đống cỏ khô được châm lửa. Khi 3 cột khói bốc lên cũng là
lúc chiếc máy bay bay qua, thả xuống hai cái dù hàng.
Sau
lần tiếp tế này, với lý do mở rộng địa bàn hoạt động, Ares tiếp tục đề
nghị tiếp tế ngoài lương thực, thuốc men, tiền mặt cần có cả vũ khí,
thuốc nổ, máy ảnh, ống nhòm… tất cả những đề nghị này đều được đáp ứng.
Có
chuyến, “Tổng bộ” thả xuống 30 thùng hàng, ngoài lương thực, thực phẩm
còn trang bị cho Ares cả súng giảm thanh, máy ảnh, máy ghi âm và đặc
biệt cả một bộ máy truyền tin đời mới nhất chạy bằng ắc quy khô chứ
không cần quay ragono.
Cho
tới khi kết thúc chuyên án, “Tổng bộ” đã tiếp tế cho Ares tổng cộng 6
chuyến hàng, 3 chuyến đường biển, 3 chuyến đường không, ngoài lương
thực, thực phẩm, vũ khí còn có nhiều phương tiện, máy móc phục vụ hoạt
động gián điệp, tiền, vàng, có chuyến thả tới 150 ngàn đồng tiền miền
Bắc, một số tiền có giá trị rất lớn.
Ares trong một phiên liên lạc với “Tổng bộ”. |
Nhưng
quan trọng hơn, tin tưởng Ares mà “Tổng bộ” đã cung cấp 5 đầu mối gián
điệp cài lại ở Hải Phòng, Quảng Ninh. Cũng từ Ares, hai toán biệt kích
khi được tung ra Bắc để “tăng cường lực lượng” đã bị bắt ngay khi chân
vừa chạm đất.
2. Giữa năm 1964, “Tổng bộ” thông báo Ares chuẩn bị đón thêm người. Đó là toán biệt kích mang tên Eagle.
Ngày
28/6/1964, 6 biệt kích trong toán Eagle nhảy dù xuống Bắc Giang với
nhiệm vụ phá hoại hai tuyến quốc lộ số 1, số 4 và phá hoại tuyến xe lửa
Mục Nam Quan; căn cứ không quân Mai Phả. Tuy nhiên, khi vừa tiếp đất cả
bọn đã phải tra tay vào còng số 8. Điều đáng nói là tất cả tin tức và
hoạt động vẫn được toán Eagle báo cáo về đầy đủ khiến “Tổng bộ” rất hoan
hỉ.
Hơn
một năm sau, ngày 21/9/1967, toán Red Dragon (Rồng đỏ) gồm 7 biệt kích
được thả xuống Hà Giang với nhiệm vụ phá hoại các tuyến quốc lộ và cơ
sở kinh tế. Nhưng cũng như toán Eagle, vừa nhảy dù xuống, 7 “Rồng đỏ” đã
bị bắt khi chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra trong khi “Tổng bộ” vẫn nhận
được các bản báo cáo.
Sau
này, trong cuốn sách của dịch giả Vũ Đình Hiếu viết rằng: “Theo các dữ
liệu trong các bản báo cáo về tất cả những gì liên quan đến toán Red
Dragon, cho thấy có những bất đồng khá sâu sắc giữa hai trung tâm chỉ
huy lực lượng biệt kích Mỹ và Việt Nam.
Người
Mỹ tin là toán biệt kích đã nằm trong tay đối phương và bị khống chế,
buộc phải gửi đi những bản báo cáo sai sự thật về cho SOG. Các sĩ quan
quân đội Sài Gòn thì ngược lại, cho rằng toán biệt kích Red Dragon vẫn
còn hoạt động, vì toán vẫn tiếp tục liên lạc từ năm 1968, cho đến 1969
mới chấm dứt”.
3.
Thiếu tướng Lê Mai kể rằng để đảm bảo bí mật, suốt 10 năm thực hiện
chuyên án, tổ công tác gồm 3 trinh sát và Phạm Chuyên toàn sống trong
hang hoặc lán trại ở những khu rừng núi biệt lập. Ban đầu, tổ đóng ở Bãi
Cháy. Nhưng khi máy bay Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, nhất là Hải
Phòng, Quảng Ninh thì lại phải thay đổi.
Ngày
ấy, cơ quan cũng ít ôtô, trong khi mỗi lần liên lạc bằng điện đài lại
phải cần ôtô để chở máy. Vậy là tổ lại chuyển về Hà Lầm để đỡ phải đi
lại. Nhưng về Hà Lầm chưa được bao lâu thì khu vực này bị ném bom, vậy
là lại chuyển vào sống ở một hang núi ở Quang Hanh. Ở Quang Hanh, mỗi
lần liên lạc lại phải dùng xe ôtô chạy lên Uông Bí để thay đổi tọa độ
liên lạc.
Vừa
lo đảm bảo an toàn, nhưng cái khó nữa là phải sáng tác tin tức báo cáo
làm sao địch không phát hiện ra đang bị “ăn quả lừa”. Dù không theo định
kỳ cụ thể nhưng thông thường cứ 10 – 20 ngày phải có một bản tin để báo
cáo về “Tổng bộ”.
Suốt
10 năm, các trinh sát đã sáng tác tới gần 300 bản báo cáo, trong đó có
cả những tình huống giật gân, như bị truy đuổi, bị bắt hụt, điều kiện
hoạt động cực kỳ khó khăn…
Thiếu
tướng Lê Mai kể rằng quy trình sản xuất báo cáo là các trinh sát soạn
ra trình cho ông duyệt, sau đó ông lại trình về Bộ Công an để Cục trưởng
Nguyễn Tài duyệt lần cuối rồi chuyển lại cho Ares phát vào Nam.
Nội
dung tin về kinh tế thì tập hợp từ các báo và thực tế đời sống mà ai
cũng biết, nhưng tin tức về quốc phòng an ninh thì phải tính toán.
Có
lần “Tổng bộ” yêu cầu xác định tọa độ các cây cầu trên Quốc lộ 18 cần
đánh sập, sau khi thị sát, Ban chuyên án quyết định cung cấp tọa độ
những cây cầu đã hỏng để lập báo cáo. Sau khi địch ném bom, Ares lại có
báo cáo kết quả rất chính xác rằng cầu đã hư hỏng nặng. Vì vậy mà uy
tín của Ares ngày càng tăng. Về các công trình quốc phòng, rất nhiều báo
cáo về trận địa pháo được trinh sát “sáng tác” như thật cho Ares báo
cáo.
Tôi
đã đọc trong hồ sơ chuyên án những bản tin viết tay do đồng chí Nguyễn
Nhàn, trinh sát phòng Bảo vệ Chính trị Công an Hồng Quảng sáng tác vào
năm 1967. Như bản tin ngày 14/7/1967, tức là chuyên án đã thực hiện được
7 năm, Ares vẫn báo cáo: “Vùng Quảng Khê - La Khê, tọa độ 930 - 160, có
các cơ sở: Khấu, Đắc, Ốc, Hiển.
Các
mục tiêu vùng này: có trận địa tên lửa hoạt động thường xuyên ở quanh
vùng La Khê ở các tọa độ 89-17, 92-16, 92-18. Ở La Khê còn có một đơn vị
huấn luyện Hải quân (khoảng 1B) và 1 lớp đặc công, nghe nói lớp đặc
công thỉnh thoảng vào vùng Đà Nẵng đánh xong lại ra. Có các ụ pháo bảo
vệ bờ biển đặt trên các núi ở tọa độ 94-20, 94-17. Kho xăng ngầm ở
90-16…”.
4. Mấy chục năm sau, trong cuốn sách “Đội quân bí mật, cuộc chiến bí mật”, cựu sĩ quan tình báo Mỹ Sedgwick Tourison viết rằng:
"Điệp
viên ARES. Tôi biết anh ta quá đi chứ, tôi đã nghiên cứu hồ sơ của anh
ta, anh ta có nhiều tên nhưng tên thật là Phạm Chuyên. Chúng tôi tuyển
mộ để đánh anh ta quay trở lại Bắc Việt Nam năm 1961. Anh ta vẫn giữ
liên lạc với chúng tôi ít ra là cho đến năm 1969 và tôi không biết rõ là
anh ta hoạt động cho chúng tôi hay hoạt động cho Bắc Việt (…).
Trong
cuộc chiến tranh này, cán bộ phản gián của Bộ Công an Việt Nam đã đối
đầu với Cục Tình báo Trung ương Mỹ. Bấy giờ các toán gián điệp người
Việt Nam do CIA và Lầu Năm Góc tuyển mộ và cho nhảy dù xuống miền Bắc
Việt Nam để xây dựng các cơ sở kháng chiến, đằng sau các phòng tuyến của
địch.
Một
số nhân viên điện đài đã bị bắt chỉ vài giờ sau khi họ đặt chân xuống
mặt đất và đã bị lực lượng phản gián của Hà Nội khuất phục, mở điện đài
thông báo cho Sài Gòn và Washington những gì mà Hà Nội muốn cho họ
biết”.
Nhưng
đó là chuyện sau này, còn vào thời điểm ấy, những bản tin chi tiết từng
đơn vị, từng tọa độ của Ares đã khiến cho “Tổng bộ” tin tưởng tuyệt
đối. Vì vậy mà trong 10 năm, ghi nhận thành tích công tác của Ares,
“Tổng bộ” đã thưởng cho điệp viên này tới 12 huân chương, trong đó có
Huân chương “Anh dũng Bội tinh”.
CIA và điệp vụ nghe lén tại Nghệ An: Toi công
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, miền Bắc vẫn là mục
tiêu tối quan trọng đối với Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA). Để
theo dõi mọi động thái quân sự, chính trị, ngoại giao của Nhà nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), dưới
đất họ tung ra miền Bắc hàng chục toán biệt kích, ngoài biển là lớp lớp
tàu trinh sát thuộc Hạm đội 7, còn trên trời là máy bay do thám U2.
|
Tuy nhiên,
những tin tức thu lượm được chưa làm hài lòng giới cầm quyền nước Mỹ.
Vì thế, năm 1972, CIA đã thực hiện một kế hoạch liều lĩnh: Đó là cử một
nhóm biệt kích gồm 2 người xâm nhập tỉnh Nghệ An để cài đặt thiết bị
nghe lén vào đường dây điện thoại…
1.
Trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tin tức về miền Bắc Việt
Nam do các cơ quan tình báo Mỹ như tình báo Lục quân, Hải quân, Không
quân, CIA, NSA… thu được rất ít ỏi. Một phần vì quân dân miền Bắc không
ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác.
Mặt khác,
các nhà lãnh đạo Hà Nội hạn chế sử dụng sóng vô tuyến trong thông tin
liên lạc đến mức tối đa vì họ biết hệ thống trinh sát điện tử của người
Mỹ đặt tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, các trạm thu tin trên đất Lào và
các tàu mã thám thuộc hạm đội 7 thường xuyên lảng vảng ở ngoài khơi vịnh
Bắc Bộ có thể dễ dàng bắt được tần số của các sóng này, và đội ngũ
chuyên viên giải mã của Mỹ đều là những người giỏi.
Vì vậy,
phần lớn mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu của Quân đội nhân dân, của Lực
lượng Công an nhân dân Việt Nam đều thông qua mạng lưới điện thoại hữu
tuyến.
Điều này
có cái bất lợi là phải rải dây - lắm khi dài cả trăm kilômét, xuyên qua
đèo cao, dốc thẳm, rừng già…, đồng thời phải thường xuyên túc trực một
đội quân vừa đề phòng biệt kích phá hoại, vừa làm nhiệm vụ bảo trì, sửa
chữa, thay thế nếu chẳng may nó bị đứt hoặc hở mạch.
Chiếc trực thăng Hughes 500 số hiệu N351X tại căn cứ PS-44, Pakse, Lào trước ngày xâm nhập tỉnh Nghệ An. |
Tuy nhiên,
ưu điểm do đường dây hữu tuyến mang lại là đối phương khó có thể nghe
lén vì nếu muốn nghe lén, người Mỹ phải cử kỹ thuật viên đến tận nơi, sờ
tận tay nhưng đó là chuyện không tưởng, chưa kể khi bộc lộ phần lõi
bằng đồng hoặc bằng kim loại khác bên trong sợi dây để kết nối thiết bị
nghe lén, nó sẽ tạo ra nhiễu - dù chỉ một thời gian rất ngắn nhưng vẫn
có thể khiến người trực tổng đài nghi ngờ.
2.
Đầu tháng 2/1971, trong một phi vụ do thám trên bầu trời miền Bắc Việt
Nam, máy bay U2 đã chụp một loạt ảnh tại một khu vực cách thành phố
Vinh, tỉnh Nghệ An khoảng 46km về phía tây nam.
Phân tích
những bức ảnh này, chuyên viên không ảnh ở căn cứ Clark, Philippines
nhận thấy có một đường dây điện thoại được mắc trên những thanh ngang,
đóng vào những cây cột bằng gỗ cao khoảng 4m, nhìn như những cây thập
giá.
Cạnh đó là
một con đường đất nhỏ, có lẽ dành cho xe đạp chạy song song với những
cột điện thoại. Đường dây ấy kéo dài đến gần con sông Lam rồi đi lên một
sườn núi.
Đến đoạn
này, con đường đất kết thúc, có lẽ do địa hình quá dốc đối với xe đạp,
còn những cột điện thoại thì tiếp tục đi sâu vào trong núi. Tại đây, có
một căn nhà nhỏ, xây bằng gạch không tô, nằm ẩn khuất dưới những tán lá.
Và do rừng quá rậm rạp nên những bức ảnh không cho biết đường dây điện
thoại ấy còn kéo dài đến đâu.
Từ lâu,
CIA đã biết Nghệ An là một trong những điểm tập kết người, vũ khí cùng
hàng tiếp liệu chi viện cho chiến trường miền Nam bằng cách qua Lào rồi
đi vào một tỉnh nằm ở bắc Tây Nguyên là Kon Tum.
Trong hồ
sơ "Im lặng số 1 - Những bí mật của cuộc chiến Việt Nam - Quiet One -
The Secrets in Vietnam War", báo cáo của sĩ quan do thám điện tử
McTunler gửi Lầu Năm Góc đã viết: "Đây chắc chắn là hệ thống thông tin
liên lạc, chỉ đạo những cuộc hành quân sang Lào và đây cũng là địa điểm
lý tưởng để đặt thiết bị nghe lén".
Liên tục trong suốt tháng 2, máy bay do thám U2 chụp thêm hàng trăm tấm ảnh về đường dây điện thoại.
Qua phân
tích, các chuyên viên không ảnh nhận thấy việc tuần tra bảo vệ không
tuân theo quy luật nào. Có khi là hai người đàn ông trên một chiếc xe
đạp, vai đeo súng trường CKC, sáng sớm chạy đến cạnh con sông Lam thì
dừng lại, ở đó khoảng nửa tiếng rồi quay về. Cũng có khi một tốp vài
người có vũ trang, từ căn nhà trên sườn núi đi bộ xuống vào buổi chiều.
Biệt kích Lào thực tập lắp đặt thiết bị nghe lén. |
Đặc biệt
nhất là những tấm ảnh chụp một nhóm kỹ thuật viên sửa chữa đường dây. Họ
dùng hai chiếc thang bằng tre chụm vào nhau theo hình chữ V ngược rồi
một người trèo lên, còn vài người giữ thăng bằng ở phía dưới.
Các bức
ảnh cho thấy những đoạn dây cần sửa chữa đều nằm ở giữa hai cột, bị đứt
do nhánh cây rừng rơi xuống hoặc do lâu ngày, dưới tác động của sức nóng
mặt trời, lớp nhựa bọc dây lão hóa, bong tróc ra. Khi gió thổi mạnh,
hai sợi dây thỉnh thoảng lại chập vào nhau gây đoản mạch.
Thời điểm
này, Ngoại trưởng Mỹ là Henry Kissinger đã có những cuộc gặp riêng với
đại diện Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là Cố vấn đặc biệt Lê Đức
Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy nên Tổng thống Richard Nixon cũng như Lầu Năm
Góc và CIA rất muốn biết các động thái của Quân Giải phóng trên chiến
trường miền Nam Việt Nam, nhất là nếu Hiệp định Paris được ký kết. Vì
vậy, việc nghe lén điện thoại lại càng thêm cấp thiết.
Theo
chuyên gia phân tích của CIA là Dustin Kane thì: "Biết trước được những
hành động của đối phương sẽ giúp chúng ta có lợi thế hơn nếu cần phải
đánh phủ đầu, cũng như trong đàm phán".
Đến tháng
4/1971, một kế hoạch đã được CIA lập ra. Đó là một tấm pin mặt trời
đường kính chỉ 10cm sẽ được lắp vào một đỉnh cột điện thoại để cung cấp
năng lượng cho một máy thu, phát sóng cũng chỉ nhỏ bằng nửa bao thuốc lá
đặt kế bên. Tất cả đều ngụy trang cho giống với màu sắc cây cột và nếu
chỉ nhìn lướt qua, rất khó phát hiện.
Do máy
thu, phát sóng nhỏ, công suất yếu, CIA sẽ thiết lập một trạm khuếch đại
tín hiệu trên đất Lào rồi từ trạm này, những cuộc đàm thoại nghe lén
được sẽ chuyển tiếp về Thái Lan.
Vẫn theo
sĩ quan do thám điện tử McTunler: "Kế hoạch hoàn hảo đến nỗi chúng tôi
tưởng như việc đặt thiết bị nghe lén sẽ chẳng gặp một trở ngại gì, giống
như bạn leo lên nóc nhà mình để dựng một ăng ten thu tín hiệu truyền
hình vậy".
Tuy nhiên,
làm thế nào để có thể đặt thiết bị nghe lén một cách an toàn, không bị
phát hiện? Rút kinh nghiệm những toán biệt kích gửi ra Bắc đều bị bắt
hoặc sau khi nhảy xuống đất, mọi liên lạc với trung tâm chỉ huy ở Sài
Gòn cũng im luôn nên phương án sử dụng kỹ thuật viên từ lãnh thổ Lào,
vượt biên giới bí mật tiếp cận với đường dây điện thoại bị bác ngay từ
đầu.
Với phương
án một cuộc đột kích chớp nhoáng, bắt cóc một hay vài người dân ở những
khu vực xung quanh rồi mua chuộc và huấn luyện họ cách thức cài đặt
thiết bị nghe lén cũng bị xem là ảo tưởng bởi lẽ cuộc đột kích ấy chắc
chắn không thể giữ bí mật được lâu khi gia đình của những người bị bắt
cóc không thấy chồng, cha, anh, họ về, mà thời gian để mua chuộc, dụ dỗ,
huấn luyện lại không chỉ một ngày một bữa.
Sau nhiều
cuộc họp bàn bạc, tranh luận dựa trên những dữ kiện do nhóm chuyên viên
phân tích không ảnh cung cấp, những người đứng đầu CIA chọn phương án
tiếp cận đường dây điện thoại bằng trực thăng.
Một bức không ảnh do máy bay U2 chụp con đường đất và các cột điện thoại ở Nghệ An. |
Một chiếc
trực thăng bay ở chế độ bay treo - nghĩa là đứng yên một chỗ ngay trên
cột điện thoại, thả kỹ thuật viên xuống bằng thang dây, lắp đặt thiết bị
nghe lén rồi lại bay lên ngay xem ra khả thi.
Tuy nhiên,
với những loại trực thăng của Hãng Hàng không Mỹ (Air America) - là
hãng hàng không có vỏ bọc dân sự, hoạt động dưới sự chỉ huy trực tiếp
của CIA - có thể thực hiện phương án này là Bell 205, H 34, UH thì tiếng
ồn do động cơ gây ra quá lớn, ai cũng nghe được trong phạm vi bán kính
đến vài kilômét.
Cuối cùng,
CIA quyết định chọn loại trực thăng OH6A - Loach để tiến hành việc nghe
lén, và kế hoạch nghe lén mang mật danh là "Chính lộ - Main Street".
3.
Được Hãng Hughes, Mỹ, chế tạo, trực thăng OH6 có thể đảm nhiệm các chức
năng tấn công, hộ vệ và trinh sát. Nó được trang bị động cơ Allison
T68-A5A công suất 317 mã lực, trọng lượng rỗng là 696kg, tải trọng tối
đa 1.610kg. OH6 có thể bay với vận tốc 282km/giờ và hoạt động trong phạm
vi 430km.
Được vũ
trang bằng 2 súng máy M60 hoặc 1 đại liên minigun 6 nòng, hoặc 2 đại
liên 12,7mm cùng 14 quả rốckét 70mm Hydra và 4 tên lửa chống tăng TOW
hay tên lửa Hellfire nên vì thế, OH6 có hỏa lực khá mạnh. Hơn nữa, nó
còn được lắp đặt một thiết bị "phun lưới bắt người".
Nếu phát
hiện 1 hoặc 2 người đang di chuyển trên một địa hình trống trải và nếu
nghi ngờ đó là du kích, phi công sẽ cho máy bay sà sát xuống rồi bấm nút
phun lưới.
Tấm lưới
làm bằng sợi kelva mảnh như sợi chỉ nhưng sẽ thít chặt vào thân thể
người bị bắt, càng giãy giụa nó càng thít chặt hơn, thậm chí cứa đứt da.
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng người dân gọi OH6 là trực thăng
"cán gáo" bởi lẽ hình dạng nó giống một quả trứng với cái đuôi mỏng
manh, nhìn y như cái gáo múc nước.
Khi đưa
vào sử dụng tại chiến trường miền Nam Việt Nam, người Mỹ đã cho in những
tờ truyền đơn bằng tiếng Việt, rải xuống những vùng giải phóng, tuyên
truyền rằng OH6 có thể "bay thụt lùi rồi dùng cánh quạt đuôi quậy nát
những vách nhà bằng tranh hoặc lá dừa nước để phát hiện du kích Việt
Cộng ẩn náu bên trong".
Tuy nhiên,
đó là chuyện thổi phồng nhằm tạo ra hoang mang tâm lý bởi lẽ bay thụt
lùi thì được, nhưng cánh quạt đuôi nếu chém vào những thân tre dùng làm
cột nhà sẽ bị cong, thậm chí còn có thể gãy. Khi ấy, việc triệt tiêu mô
men xoắn do cánh quạt chính tạo ra sẽ mất, và trực trăng sẽ xoáy trôn ốc
trước khi cắm đầu xuống đất.
Trở lại
chuyện xâm nhập tỉnh Nghệ An, thời điểm ấy Air America đang sở hữu 2
chiếc trực thăng OH6, nhưng là phiên bản dành cho dân sự, không vũ
trang, được định danh là Hughes 500.
Khi quyết
định chọn loại máy bay OH6 làm con át chủ bài cho việc cài đặt thiết bị
nghe lén điện thoại, CIA lấy cả hai chiếc Hughes 500 của Air America
rồi chuyển cho Hãng Hughes, cấp cho họ 200 nghìn USD, yêu cầu họ làm thế
nào để giảm bớt đến mức tối đa tiếng ồn do động cơ gây nên.
Suốt 3
tháng làm việc cật lực, bộ phận chuyên gia của Hughes đã thành công bằng
cách thay đổi cấu trúc của cánh quạt, từ 2 lá tăng lên 4 lá, đồng thời
lắp đặt thêm một bánh răng có tác dụng làm giảm vận tốc quay của cánh
quạt đuôi, bố trí thêm một thùng xăng phụ trong khoang hành khách để kéo
dài thời gian hoạt động, ống xả cũng được kéo dài về phía sau với những
vách ngăn "lá sách" nhằm giảm tiếng ồn. Sau khi hoàn thành, chiếc
Hughes 500 được đặt tên là "Im lặng số 1 - Quiet One".
Tiến hành
bay thử, Hãng Hughes chọn một khu ngoại ô giàu có ở thành phố Los
Angeles, nơi cư dân không ngớt than phiền về những tiếng động ầm ĩ của
trực thăng cảnh sát tuần tra, bay ở độ cao thấp.
Kết quả
ngoạn mục đến nỗi trong suốt 7 ngày kể từ lúc tiến hành bay thử, người
dân ở khu ngoại ô này đã hỏi nhau, rằng không biết ngân sách thành phố
có cắt giảm tiền xăng cho trực thăng tuần tra hay không mà cả tuần lễ
chẳng thấy bóng dáng một chiếc nào…
4. Sau
khi hoàn chỉnh hai chiếc trực thăng Hughes 500 Quiet One, dựa vào những
bức không ảnh chụp đường dây điện thoại tại Nghệ An, CIA cho dựng một
sa bàn sát với kích thước, giống như thật, kể cả một đoạn sông Lam cũng
được đào nhưng không có nước, nằm sát một ngọn núi trong căn cứ bí mật
"Vùng 51 - Air Force Area 51" thuộc bang Nevada.
Để
che mắt vệ tinh trinh sát Liên Xô mỗi ngày bay qua nước Mỹ 6 lần, CIA
ngụy trang sa bàn thành một phim trường, đang thực hiện quay một bộ phim
hành động với những chiếc xe sơn màu trắng, bên hông có hàng chữ to
đùng Paramount - là tên một hãng phim ở Hollywood, Mỹ - cùng hệ thống
đèn rọi cỡ lớn và hàng chục tấm panô chiếu sáng, hàng dãy nhà tiền chế,
đặt lộ thiên ngoài trời.
Tháng
8/1971, hai phi công người Đài Loan thuộc Không đoàn 34 Trung Hoa Dân
quốc được gọi sang Nevada. Hướng dẫn cho họ tập bay trên chiếc Hughes
500 Quiet One là hai phi công kỳ cựu của Air America: Lloyd George
Anthony Lamothe Jr. và Daniel H. Smith. Bên cạnh đó, hai biệt kích người
Lào cũng được gọi sang để huấn luyện cách thức lắp đặt thiết bị.
Đến
lúc này, Hãng Hughes lại đưa ra một cải tiến. Thay vì thả biệt kích
xuống trụ điện thoại để lắp đặt thiết bị nghe lén bằng thang dây thì họ
gắn ở hai bên cửa trực thăng, mỗi bên một tấm kim loại bằng nhôm tựa như
chiếc ghế.
Biệt
kích ngồi trên ghế này chỉ cần khom người xuống thao tác trong lúc trực
thăng vẫn bay treo tại chỗ. Bên cạnh đó, Hughes 500 Quiet One còn được
lắp đặt camera hồng ngoại FLIR để bay đêm.
Daniel
H. Smith kể: "Từ độ cao 500m, tôi dạy phi công Đài Loan cách hạ xuống
mục tiêu thật nhanh rồi giữ cho trực thăng đứng yên trong 2 phút. Sau đó
lên ngay. Cũng có khi tôi cho họ bay cách mặt đất 2m rồi đột ngột bốc
lên 4,5m, điểm dừng ngay trên đỉnh cột điện thoại".
Zuckerman,
sĩ quan phụ trách huấn luyện lắp đặt thiết bị nghe lén nói: "Trong hơn
90 lần thực tập, thời gian lắp đặt hoàn chỉnh của biệt kích Lào trung
bình là 1 phút 18 giây. Đến giai đoạn cuối, họ rút xuống còn 1 phút 6
giây nhưng tôi sẽ cố gắng để họ thực hiện chỉ trong 1 phút".
Những phi vụ huấn huyện được ngụy trang thành những chuyến bay tiếp tế. |
Tháng
10/1971, CIA chuyển hai chiếc Hughes 500 đến căn cứ không quân thuộc
Không đoàn 34 ở Đài Loan. Tại đây, phi công Đài Loan tiếp tục tập bay
đêm, bay trong điều kiện thời tiết xấu, gió thổi mạnh hoặc sương mù.
Kết
quả cho thấy trong điều kiện thời tiết bình thường, khi đã vào đến mục
tiêu, việc lắp đặt thiết bị nghe lén tính từ lúc Hughes 500 bắt đầu bay
treo trên đỉnh cột cho đến khi hoàn tất, thời gian chỉ là 1 phút 4 giây.
Nếu có sương mù đậm, thời gian là 1 phút 27 giây, còn nếu gió thổi với
tốc độ 15m/giây thì thời gian xấp xỉ 2 phút.
5.
Một tối tháng 5/1972, hai chiếc Hughes 500 mang số hiệu N351X và N352X
được chuyển đến Thái Lan. Sau khi lấy thêm nhiên liệu, nó bay sang Lào
cùng với một máy bay vận tải C130 chở theo các chuyên gia kỹ thuật.
Don
Stephens, người quản lý hai chiếc Hughes 500 tại căn cứ bí mật PS-44 của
CIA ở tỉnh Pakse, Lào kể lại: "Khi nó hạ cánh, tôi đã cố gắng lắng nghe
xem tiếng động cơ phát ra từ hướng nào nhưng tôi không thể nghe thấy.
Mãi đến khi nó chỉ còn cách tôi chừng 200 mét, tôi mới biết có một chiếc
trực thăng đang ở trên đầu mình".
Rod Taylor, kỹ sư dự án của Hãng Hughes nói thêm: "Trong căn cứ, chiếc Hughes 500 cất, hạ cánh lúc nào, chẳng ai biết".
Căn
cứ PS-44 nằm trên một ngọn đồi, ba mặt đều là dốc đứng, cách thị trấn
Pakse khoảng hơn 30km về phía đông nam, gồm những dãy nhà lợp tôn dành
cho quân phòng vệ người Mông của Vàng Pao, một đường băng dã chiến làm
bằng những tấm vỉ sắt ghép lại, một kho chứa xăng và một trạm kiểm soát
không lưu.
Lớp
bụi đất bốc lên sau mỗi lần máy bay lên xuống khiến căn cứ ngập trong
một màu vàng bẩn thỉu. Hai phi công Đài Loan được phép ra thị xã Pakse
chơi bời nhưng được lệnh giữ bí mật tuyệt đối về những gì họ sắp sửa
làm, còn hai biệt kích kiêm kỹ thuật viên người Lào thì bị giam lỏng
trong một căn phòng vì họ là mấu chốt của kế hoạch nghe lén.
Dick
Casterlin, phi công của Air America nhớ lại: "Phần lớn địa điểm chơi
bời của chúng tôi là các nhà thổ ở Pakse với những cô gái điếm người
Thái. Thường thì chúng tôi không ai nói với họ là mình ở đâu, làm gì.
Ngay giữa phi công với nhau, chúng tôi vẫn chỉ gọi nhau bằng nickname
(biệt danh), còn với CIA, chúng tôi là "khách hàng".
Lúc
này, tin tình báo của CIA cho biết một đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam
và một đơn vị Quân đội nhân dân Cách mạng Lào (Pathet Lào) đã xuất hiện
cách Pakse khoảng 35km về phía bắc. Tuy nhiên, nếu đối phương muốn tiến
công căn cứ PS-44 thì chỉ có thể xông vào từ một hướng duy nhất là
hướng tây nhưng hướng này đã có 6 đồn lính Vàng Pao làm nhiệm vụ bảo vệ.
Dẫu
vậy, để đề phòng, thỉnh thoảng mới có những buổi bay tập vào ban ngày
nhưng camera hồng ngoại và hai băng ca được tháo ra rồi ngụy trang như
những chuyến bay tiếp tế thực phẩm nhằm đánh lạc hướng điệp viên Hà Nội
có thể ở đâu đó quanh vùng.
Theo
Stephens, sĩ quan quản lý hai chiếc Hughes 500 Quiet One, máy bay được
đặt trong một nhà chứa (hangar) và được che giấu rất kín đáo nhằm tránh
con mắt soi mói của vệ tinh do thám Liên Xô
Nhưng
xui rủi thay, trong một lần bay tập lúc chập choạng tối, chiếc Hughes
500 số hiệu N352X khi hạ cánh đã bị hỏng cánh quạt chính vì va vào một
ngọn cây rồi rơi xuống một vũng lầy.
Theo
Hãng Hughes, việc sửa chữa có thể kéo dài trong nhiều tuần lễ nên vì
vậy, kế hoạch nghe lén sẽ phải thực hiện mà không có trực thăng dự
phòng. Chưa kể hai phi công Đài Loan liên tục cãi nhau về việc ai sẽ là
người lái chính trên chiếc Hughes 500 Quiet One còn lại.
Lamothe,
người huấn luyện cho hai phi công ấy kể: "Cuối cùng, CIA quyết định
loại họ ra khỏi cuộc chơi bằng cách đưa họ sang căn cứ Guam, giam lỏng ở
đó cho đến khi kế hoạch nghe lén kết thúc. Việc xâm nhập Nghệ An được
giao cho tôi và Daniel H. Smith".
Sáng
ngày 1/6/1972, CIA chỉ đạo Hãng Air America chuyển đến căn cứ PS-44 một
trực thăng Sikorsky S-58T "Twin Pack" làm nhiệm vụ giải cứu nếu chiếc
Huges 500 N351X Quiet One bị bắn rơi.
Người
trực tiếp điều hành kế hoạch lắp đặt thiết bị nghe lén là James Glerum,
trợ lý chỉ huy CIA tại Udorn Thani, Thái Lan. Ông nói: "CIA hy vọng có
thể nghe được những cuộc điện thoại của người Bắc Việt Nam trước khi
mùa mưa bắt đầu nhưng một loạt rủi ro xảy ra, cộng thêm gió mùa đến sớm
nên chuyến bay đã bị trì hoãn".
6.
Cuối cùng, gần nửa đêm ngày 5/6/1972, Lamothe và Smith lái chiếc
Hughes 500 N351X cất cánh từ căn cứ PS-44 với hai biệt kích kiêm kỹ
thuật viên người Lào. Ngoài camera hồng ngoại, hệ thống định vị tầm xa
LORAN-C, Lamothe và Smith còn được trang bị kính nhìn đêm SU-50 - và đây
là loại kính lần đầu tiên được đưa vào sử dụng.
Theo
sau họ là chiếc trực thăng cứu hộ Sikorsky S-58T "Twin Pack" nhưng nó
chỉ đến một trạm thu tin của CIA ở gần biên giới Lào - Việt thì nằm lại.
Tại căn cứ này, CIA đã bố trí sẵn một toán biệt kích Lào với đầy đủ
súng đạn cùng một máy bay de Havilland DHC-6 Twin Otter để đề phòng
trường hợp cần phải sử dụng vũ lực giải cứu chiếc Hughes 500 Quiet One
cùng phi hành đoàn.
Thời
điểm ấy, chiến dịch Linebacker ném bom hủy diệt miền Bắc đang diễn ra.
Vì vậy, CIA yêu cầu Không quân Mỹ tổ chức một cuộc tập kích lớn vào khu
vực Thanh Hóa, Ninh Bình trong đêm ngày 5 rạng ngày 6 để nghi binh nhưng
không tiết lộ cho chỉ huy lực lượng không quân biết họ đang làm gì, mà
chỉ đề nghị máy bay ném bom đừng bay vào vùng tiếp giáp giữa Nghệ An và
Lào nhằm tránh va chạm hoặc bắn nhầm chiếc Hughes 500 Quiet One.
Theo
kế hoạch, khi đến mục tiêu, biệt kích Lào ngồi trên trực thăng sẽ khom
mình xuống để đặt một mảnh gỗ mỏng, trên có tấm pin mặt trời mà hai cạnh
của mảnh gỗ đã có sẵn hai lỗ định vị. Với một chiếc khoan nhỏ cầm tay
chạy bằng pin, hoạt động được 10 phút, họ sẽ khoan hai lỗ vào đỉnh cột
điện thoại, đặt tấm pin mặt trời xuống rồi cố định nó với hai cái chốt
cũng bằng gỗ.
Chiếc Hughes 500 N351X sau chuyến xâm nhập tỉnh Nghệ An. |
Tiếp
theo, họ giấu bộ thu phát sóng vào góc của thanh ngang dùng để đỡ đường
dây điện thoại, nhìn xa như thể có một miếng gỗ được gá thêm vào cho
chắc chắn rồi dùng 2 chiếc kẹp bé tí có hình dạng như ngàm cá sấu, kẹp
vào đường dây.
Ở
ngàm của hai chiếc kẹp ấy, có gắn bộ cảm biến đo những rung động của
sóng âm thanh nên vì vậy, không cần phải bộc lộ lõi trong của dây mà vẫn
nghe được những cuộc điện đàm. Với dây dẫn từ pin mặt trời đến bộ thu
phát sóng, họ dán nó dọc theo cây cột bằng một loại keo đặc biệt, màu
sắc trùng hợp với thân gỗ. Tất cả mọi việc, hai biệt kích phải hoàn
thành trong vòng 1 phút 15 giây!
Vượt
qua biên giới Lào - Việt, Lemothe dùng kính nhìn đêm và camera hồng
ngoại, điều khiển trực thăng bay ngoằn ngoèo giữa những ngọn núi thuộc
dãy Trường Sơn. Tất cả mọi liên lạc vô tuyến đều không được phép, đèn
hiệu máy bay cũng tắt ngúm. Gần đến mục tiêu, Lemothe hạ độ cao xuống
chỉ còn 50m rồi cho trực thăng lách qua những ngọn cây. Khi nhìn thấy
dãy cột điện thoại, anh ta cho trực thăng sà xuống.
Đến
lúc này, xuất hiện một sự cố. Cột điện thoại không phải cao 4m như nhận
định của các chuyên viên không ảnh, mà nó chỉ cao chừng 2,5m. Lemothe
nói: "Độ cao ấy không bảo đảm lực nâng cho trực thăng bay treo quá 1
phút nên tôi ra hiệu cho hai biệt kích Lào nhảy xuống".
Do
đã được huấn luyện phương án dự phòng, hai biệt kích người Lào nhanh
chóng lao ra khỏi máy bay, còn Lemothe cho trực thăng đáp xuống con
đường đất. Một trong hai biệt kích trèo lên cột điện thoại với túi đồ
nghề lỉnh kỉnh nhưng hỡi ơi, cột thay vì bằng gỗ thì nó lại là bê tông.
Cố
gắng khoan nhưng vẫn chẳng ăn thua vì mũi khoan chỉ dùng cho gỗ, gã biệt
kích lấy tuýp keo dán dây dẫn, bôi xuống mặt bê tông một lớp rồi ấn tấm
pin mặt trời lên. Sau đó, anh ta lắp đặt bộ thu phát sóng.
Công
việc kéo dài gần 5 phút. Hấp tấp lao về phía máy bay, một biệt kích
trượt chân, ngã sóng xoài khiến phi công phụ Smith phải nhảy xuống, đẩy
anh ta lên. Trên đường về và khi vào tới đất Lào, phi công Lamothe mở
radio rồi khi biết trạm thu tin của CIA ở Thái Lan đã nhận được tín hiệu
từ bộ thu phát sóng. Lamothe nói: "Thế là thành công".
7.
Hai ngày sau, trạm thu tin nghe được cuộc đàm thoại đầu tiên. Tất cả
chỉ có: "A lô nghe đây", đầu bên kia nói: "Bốn ba bẩy nhăm".
Các
chuyên gia phân tích tình báo của CIA ở Udorn Thani, Thái Lan điên đầu
vì cái "bốn ba bẩy nhăm" ấy. Hỏi một nhân viên người Việt thì hóa ra một
số người miền Bắc gọi số 5 là "nhăm". Nhưng "bốn ba bẩy năm" là gì thì
chịu!
Những
ngày sau đó, trạm thu tin liên tục nghe được những cuộc điện thoại
nhưng tất cả chỉ là những con số. Các bộ óc giải mã giỏi nhất của CIA,
của tình báo quân đội và của cả NSA được yêu cầu phải tìm cho ra ý nghĩa
của những mật ngữ này. Tuy nhiên, kết quả đều mờ mịt.
Ngày
28/10, nghĩa là gần 4 tháng kể từ khi thiết bị nghe lén được lắp đặt,
một chuyên viên phân tích không ảnh ở căn cứ Clark, Philippines, lúc so
sánh những bức ảnh do máy bay U2 vừa chụp được với những câu mật ngữ, đã
phát hiện ra rằng đó chỉ là những báo cáo về mực nước của con sông Lam,
còn căn nhà gạch trên sườn núi là một trạm thủy văn, làm nhiệm vụ cảnh
báo lũ lụt.
Mấy năm sau, khi biết chuyện này, phi công Lamothe chỉ nói được một từ: "Shame - Xấu hổ quá!"
Nguồn: ANTG/Quiet One
Nhận xét
Đăng nhận xét