Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2018

SUY NGẪM VỀ "TƯ SẢN ĐỎ" 9

-Theo Wikipedia: "Cách mạng vô sản là một cuộc cách mạng xã hội hoặc/và chính trị mà theo đó giai cấp công nhân tiến hành lật đổ tư bản. Cách mạng vô sản thường được những người theo chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ủng hộ. Chủ nghĩa Marx cho rằng là bước đầu tiên tiến đến loại bỏ ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Lenin cho rằng để chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, đảm bảo cho các dân tộc giành lại được độc lập, thì phải thực hiện sự liên minh, thống nhất của giai cấp vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Ông khẳng định rằng, không có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên toàn thế giới, thì không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản được. Ở Việt Nam,Nguyễn Ái Quốc cho rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản, mặc dù hai thứ có vẻ không liên quan gì với nhau."
- Tóm lại, làm cách mạng vô sản, theo quan niệm truyền thống, là lật đổ chế độ tư bản, xóa tan giai cấp tư sản, triệt tiêu bóc lột, xây dựng nền kinh tế công hữu, tiến lên CNXH.
-Như vậy, đối với những nước bị thực dân (cũ) đô hộ, muốn làm cách mạng vô sản thì trước đó phải làm cách mạng giải phóng dân tộc.
-Đó chính là lựa chọn cuối cùng của cách mạng Việt Nam.
-Nước ta, đồng thời/ sau khi hoàn thành vẻ vang cách mạng giải phóng dân tộc (đánh thắng Pháp - Mỹ và tay sai), đã thực hiện tiếp cách mạng vô sản một cách trung thành với những nguyên tắc cũ, tức sau khi đánh đổ chế độ cũ, giải tán, trừng trị, cải tạo (thực chất là triệt phá) giai cấp tư sản, xây dựng nền kinh tế công hữu có kế hoạch, theo học thuyết Mác-Lê.
-Trong hai cuộc cách mạng ấy, chúng ta đã hoàn thành vẻ vang và đầy tự hào cuộc cách mạng thứ nhất (tức là cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc) còn cuộc cách mạng thứ hai thì cho đến nay, tuy đạt được một vài thành tựu "gọi là", vẫn "ì ạch", rối bời, thậm chí có những mặt tỏ ra "phản cách mạng" (chẳng hạn như sự suy đồi đạo đức xã hội, manh nha hình thành tầng lớp "tư sản đỏ"...)
-Vì sao vậy? Vì cuộc CMVS, như đã nói, xét về mặt lý tưởng, là cuộc cách mạng cao đẹp, thỏa mãn ước nguyện ngàn đời của quần chúng cần lao, nhưng trong thực tiễn, do nhận thức triết học của chủ nghĩa Mác-Lê còn sai nhiều mặt dẫn đến những lệch lạc trong phương thức thực hành cách mạng, làm cho các nhà hoạch định cách mạng hoang mang phạm hết sai lầm này tới sai lầm khác.
-Theo chúng ta nhận định, mục đích chân chính của các nhà nước, của các triều đại từ xưa đến nay là làm cho dân giàu nước mạnh. Nhà nước nào không như thế đều sai trái. Nhà nước cộng sản, đã khẳng định công khai lý tưởng cao đẹp của mình, lại càng phải như thế. Tuy vậy, nhà nước cộng sản hiện nay vẫn chưa làm được hoặc làm chưa hiệu quả công việc thiêng liêng ấy. Nguyên nhân? Do nhận thức triết học sai dẫn đến tư tưởng cực đoan, quá tả khuynh hoặc quá hữu khuynh.
-Đúng ra, sau khi hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, không làm cách mạng vô sản kiểu đánh tư sản,quốc hữu hóa tư bản, áp dụng ngay những hình thức kinh tế tập trung bao cấp, mà kế thừa nền kinh tế sẵn có, tập trung đào tạo và chọn lựa cán bộ nhà nước vừa hồng vừa chuyên, xây dựng ngay một nhà nước có lý tưởng cộng sản, hoạt động vì mục đích Chủ Nghĩa Xã Hội. Khi nhà nước cộng sản đã thực sự vững mạch về chính trị thì giải tán Đảng cộng sản. Đến đây coi như là hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân với tên nước: Việt Nam dân chủ cộng hòa. Lúc này không còn tổng bí thư nữa, chủ tịch nước (hoặc tổng thống) là lãnh đạo hành pháp cao nhất sau chủ tịch quốc hội. Quốc hội là ý nguyện tối cao của dân chúng một nước.
-Phi đảng hóa nhà nước là con đường đúng đắn duy nhất, là xu hướng tất yếu của đất nước mang hệ tư tưởng cộng sản. Trung Quốc, Việt Nam cũng đang theo xu thế ấy. Vừa rồi, tổng bí thư Tập Cận Bình và Nguyễn Phú Trọng gặp thời cơ, kiêm luôn chức chủ tịch nước. Đó là việc đáng lý ra phải làm cách nay mấy chục năm rồi (Hồ Chí Minh đã từng làm) mà sau giải phóng, giờ mới rục rịch, dẫu muộn...còn hơn không!

----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
100% thống nhất giới thiệu Tổng BT Nguyễn Phú Trọng làm Chủ tịch nc
 

GS Trọng trả lời câu hỏi BBC về lớp trẻ

 
Choáng ngợp nhà cổ 650 tỷ của đại gia Đà Nẵng
Để có một không gian xưa cũ trên đường Điện Biên Phủ, Thanh Khê, Đà Nẵng, ông Lê Bá Huy, người đã mạnh tay chi hơn 32 triệu USD để đầu tư xây dựng.

Phần lớn cán bộ tham nhũng 'có ăn, có học', vì sao biến chất?

28/11/2017 20:14 GMT+7

TTO - Cử tri quận Long Biên (Hà Nội) bày tỏ băn khoăn với đại biểu Quốc hội Hoàng Trung Hải, bí thư Thành ủy Hà Nội, tại buổi tiếp xúc cử tri quận này ngày 28-11.

Phần lớn cán bộ tham nhũng có ăn, có học, vì sao biến chất? - Ảnh 1.
Ông Hoàng Trung Hải phát biểu với cử tri - Ảnh: LÂM HOÀI
Nêu ý kiến với ông Hoàng Trung Hải, cử tri Nguyễn Hoàng Cúc (phường Giang Biên) cho rằng từ thực tế các vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử thời gian qua, dư luận đều nhận thấy rõ phần lớn cán bộ có liên quan đều được ăn học, đào tạo đầy đủ. 
"Vậy tại sao lại bị biến chất?" - cử tri này đặt vấn đề.
Nhận định công tác quy hoạch, đề bạt cán bộ hiện nay còn yếu kém nên dẫn đến tình trạng nêu trên, ông Cúc bày tỏ mong muốn tới đây Quốc hội tạo dựng được cơ chế bổ nhiệm cán bộ phù hợp để kiểm soát, hạn chế tham nhũng từ trung ương xuống địa phương.
Ông Hoàng Trung Hải thừa nhận nhiều cán bộ lúc được quy hoạch, bổ nhiệm rất gương mẫu, nhưng trong quá trình công tác cũng có lúc không tránh được cám dỗ, không giữ gìn được phẩm chất dẫn đến tham nhũng.
"Vì vậy, trong công tác cán bộ phải tránh tình trạng đánh giá chỉ mang tính hình thức. Năm nào cũng trong sạch vững mạnh hết, năm nào cũng là đảng viên xuất sắc, nhưng đến lúc phát hiện thì thiệt hại quá lớn" - ông Hải thẳng thắn nói.
Theo Bí thư Thành ủy Hà Nội, để giảm thiểu tình trạng tham nhũng, Thành ủy Hà Nội đã xây dựng chương trình 07 về phòng chống tham nhũng. Việc phòng chống tham nhũng được thành phố xác định là vấn đề thường xuyên. 
Ông Hoàng Trung Hải cho rằng Thành ủy, lãnh đạo thành phố Hà Nội luôn quán triệt các đơn vị trong việc phòng chống tham nhũng, áp dụng các biện pháp như rà soát, nhận dạng được vị trí, công việc có khả năng tham nhũng. 
Từ đó vận dụng các biện pháp để hạn chế tối đa như luân chuyển vị trí công tác của cán bộ… 
Không vội vã triển khai quy hoạch sông Hồng

Tại buổi tiếp xúc, trả lời ý kiến cử tri về chủ trương quy hoạch hai bên bờ sông Hồng đang được thành phố triển khai lấy ý kiến, ông Hoàng Trung Hải khẳng định tầm quan trọng của sông Hồng trong hàng trăm năm trước và về sau là bảo vệ cho toàn thành phố an toàn khỏi lũ. Ngoài ra, sông phục vụ tưới tiêu, cấp nước phục vụ sản xuất…
Chống tham nhũng: Vẫn bó tay với tài sản bất minh?
TTO - Cử tri kỳ vọng Luật phòng chống tham nhũng sửa đổi giải quyết vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng, nhưng dự thảo tiếp tục để ngỏ việc thu hồi tài sản bất minh...
Sửa Luật phòng chống tham nhũng trong 3 kỳ họp
TTO - Luật phòng chống tham nhũng có nhiều nội dung khó như kê khai tài sản, kiểm soát tài sản bất minh, thu hồi tài sản tham nhũng, việc sửa đổi phải kéo ra 3 kỳ họp.
LÂM HOÀI
Tìm hiểu nguyên nhân tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay
17/5/2012 15:36' Gửi bài này In bài này
           Một là, khách quan “do việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, còn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ động ngăn ngừa những vi phạm.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước, đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển. Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng”.
Hai là, chủ quan, do “Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ. Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ, chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém. Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao”.
Bài viết này cụ thể hơn để làm rõ thực chất nguyên nhân của tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
1. Về yếu tố khách quan, theo chúng tôi, có 4 tác động chính sau đây:
Một là, sự khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội thế giới và quá trình toàn cầu hóa tác động một cách dữ dội đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Hơn 70 năm với sự hình thành, phát triển và những thành tựu của chủ nghĩa xã hội do Liên Xô mở đường, dẫn đầu đã tạo được nhận thức trong cán bộ, đảng viên rằng: “Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa gấp triệu lần dân chủ tư sản”; “Chủ nghĩa xã hội quyết định chiều hướng phát triển của lịch sử xã hội loài người”; “Chủ nghĩa xã hội là đích đến của tất cả các quốc gia, dân tộc”; “Liên Xô là thành trì của chủ nghĩa xã hội”;... Nay  chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu tan rã, hệ thống xã hội hiện thực thế giới khủng hoảng. Trong khi đó, lợi dụng thành tựu khoa học, công nghệ, chủ nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh ngay trong những thuộc tính vốn có của nó nên đã tạo được những thay đổi đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, công nghệ. Sự cân bằng tương đối giữa hai hệ thống xã hội đối lập: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu, lâu nay vẫn gọi là thế giới hai cực, nay được thay thế bằng sự độc tôn lộng hành của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc mà ta gọi là thế giới một cực do Mỹ đứng đầu.
 Trong khi đó, các thế lực chính trị thù địch với chủ nghĩa xã hội coi đây là cơ hội để chúng tiếp tục tấn công mạnh mẽ hơn vào chủ nghĩa Mác-Lênin. Chiến dịch “diễn biến hòa bình” của chúng được tập trung vào các nước xã hội chủ nghĩa còn lại với nhiều thủ đoạn quỷ quyệt. Mặt khác, các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa phải đối mặt với quá nhiều vấn đề mới, khó, phức tạp cả lý luận lẫn thực tiễn cần có lời giải, trong khi những vấp váp, sai lầm vẫn diễn ra...
Giữa lúc này, xu hướng toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ tạo thời cơ và cả thách thức, nhất là sự cạnh tranh quyết liệt nhưng lợi thế so sánh không thuộc về chúng ta. Toàn cầu hóa cũng là cơ hội thuận lợi để các thế lực thù địch du nhập và áp đặt tất cả những gì có thể làm phân rã mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội từ sức mạnh kinh tế thông qua đầu tư, tự do chính trị, phản văn hóa thông qua công nghệ thông tin, học sinh du học, thăm quan, du lịch... Vì thế nhiều người có tâm lý sùng bái tư bản.
Thực tế này đã làm cho nhiều người hoang mang, dao động, mất phương hướng, khủng hoảng niềm tin về tương lai và những giá trị của chủ nghĩa xã hội, thậm chí có người “sám hối”, “trở cờ” quay lại công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội... Đó là tiền đề trước hết dẫn tới suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Hai là, tác động tiêu cực từ mặt trái của kinh tế thị trường như việc chạy theo lợi ích, lợi nhuận; sự phân hóa giàu nghèo, tình trạng bất công xã hội, gian lận thương mại, chủ nghĩa cá nhân… chưa có giải pháp khắc phục tích cực, trong khi có những mặt trở nên nghiêm trọng. Tình trạng yếu kém trong lãnh đạo, quản lý kinh tế, xã hội; tệ quan liêu, tham nhũng, hối lộ, sự suy thoái về đạo đức, lối sống trong một số cán bộ có chức, có quyền… chậm được ngăn chặn, đẩy lùi. Tất cả đã tác động tạo nên sự hoài nghi, dao động và cả tiêu cực trong tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên.
Ba là, tác động từ các thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Lợi dụng những khó khăn, yếu kém, sự tha hóa của một số cán bộ ta trong cơ chế mới, các thế lực thù địch tìm mọi cách khoét sâu thêm mâu thuẫn, tìm cách làm suy yếu Đảng, tha hóa, lôi kéo, mua chuộc cán bộ, chia rẽ nội bộ… Mặt khác, chúng dùng tất cả các phương tiện truyền thông, trong đó đặc biệt là Internet xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ Đảng, các lãnh tụ, các đồng chí lãnh đạo… Mục tiêu là chia rẽ nội bộ ta, giảm lòng tin của dân đối với Đảng, lôi kéo để chuyển hóa tư tưởng chính trị trong cán bộ, trong lớp trẻ, giữa lớp trẻ với thế hệ cha anh… hòng gây rối loạn về chính trị, hình thành những xu hướng chính trị, xã hội đối kháng, thực hiện âm mưu đa nguyên chính trị, gây hoang mang trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để thực hiện “tự diễn biến” từ bên trong.
Bốn là, tác động từ cơ sở, tâm lý của xã hội tiểu nông truyền thống đã ăn sâu hàng ngàn đời nay trong cộng đồng cư dân Việt Nam. Đội ngũ cán bộ phần đông sinh ra, lớn lên trong di sản kinh tế, tâm lý, tinh thần truyền thống đó. Do vậy, không ít người nặng tính cục bộ địa phương; tự do, tùy tiện, không theo các quy định chung; chủ nghĩa cá nhân, tư lợi; tuyệt đối hóa kinh nghiệm, nặng thói gia trưởng, bảo thủ, hạn chế tính sáng tạo, thiên về cảm tính, tư duy lý luận chưa phát triển… nên dễ xem thường tri thức khoa học, lý luận… Vì vậy, khi gặp những vấn đề phức tạp dễ lúng túng, dễ hoang mang, dao động, dễ dịch chuyển từ cực nọ sang cực kia… Những người không chịu rèn luyện, tu dưỡng, không dám tự phê bình và phê bình… theo phẩm chất người đảng viên, người cán bộ của Đảng tất dễ bị ngả nghiêng, dao động, mất phương hướng, mất lòng tin, để cho chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy làm họ trượt dài trên con đường tha hóa, biến chất, thậm chí phản bội Đảng, phản bội dân tộc.
2. Về yếu tố chủ quan, đó là những nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Yếu tố chủ quan ở đây bao gồm cả tổ chức đảng và bản thân cán bộ, đảng viên, với 5 nguyên nhân chính sau đây:
Thứ nhất, do công tác giáo dục chính trị, tư tưởng chưa được coi trọng đúng mức, hoạt động kém hiệu quả. Nhận thức chính trị, tư tưởng của cán bộ, đảng viên trước hết phải được bắt nguồn từ sự giáo dục, tuyên truyền của Đảng. 26 năm đổi mới, công tác này còn nhiều bất cập, nhất là hàng thập niên đầu Đổi mới có nhiều lúng túng, xáo trộn. Trước hết, về hệ thống nhà trường đào tạo lý luận mở rộng ngày một nhiều; chương trình cũ, nhiều nội dung trùng lặp, chồng chéo, xa thực tế; đội ngũ giáo viên chưa kịp chuyển đổi để thống nhất, nên kiến thức cũ, phương pháp lạc hậu; việc thi cử thì dễ dãi “dong công, phóng điểm”, quản lý văn bằng lỏng lẻo, cộng với  yêu cầu thái quá về bằng cấp đối với các loại cán bộ, dẫn tới tình trạng “chạy bằng”. Vì thế,  nhiều người có thái độ sai lệch trong học lý luận chính trị. Kết quả là ai cũng có “bằng” nhưng cái cần đạt được trong nhận thức lý luận chính trị để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới thì lại rất thấp.
Việc tổ chức học tập, nghiên cứu chỉ thị, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng chưa thật nghiêm túc, chưa truyền đạt được tính khoa học, tính cách mạng sáng tạo, tính thiết thực của nó tới cán bộ, đảng viên để tạo nên sự chuyển biến tích cực, niềm tin trong nhận thức làm cơ sở cho hành động đúng và thống nhất của họ. Trong khi những diễn biễn phức tạp của tình hình thế giới, trong nước đang tác động mạnh tới tư tưởng, tình cảm đạo đức cán bộ, đảng viên nhưng chưa được theo dõi chặt chẽ, dự báo đầy đủ và kịp thời đưa ra những giải pháp đấu tranh mạnh, xử lý đúng. Âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động thì độc ác, xảo quyệt, thô bạo, công khai nhưng chúng ta chưa tổ chức đấu tranh một cách mạnh mẽ, khoa học, có tổ chức để phản bác lại, giải tỏa kịp thời, đưa ngay cái đúng, khoa học, nhân văn trong chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước vào trong nhận thức của cán bộ, đảng viên, tạo nên thế giới quan, nhân sinh quan đúng trong họ. Chúng ta đều nhớ, có một quy luật là chỗ nào “ánh sáng” không tới thì “bóng tối” sẽ bao trùm. Nhận thức về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa dựa trên cơ sở khoa học, cách mạng thì khó có niềm tin vững chắc. Cho nên khi đứng trước sự vật, hiện tượng, vấn đề họ khó thấy được bản chất của nó để có nhận thức đúng, dễ ngộ nhận, và tất yếu hệ lụy là dao động, dễ thoái hóa, biến chất. Đó là cội rễ dẫn tới tiêu cực, sai trái trong hành vi của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
  Thứ hai, do tình trạng lạc hậu của lĩnh vực lý luận chính trị hiện nay. Sự nghiệp đổi mới của Đảng phải bắt đầu tư sự thay đổi quan điểm lý luận đến thực tiễn đời sống. Đây là quá trình vừa tìm tòi, thử nghiệm, nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, chưa được nhận thức lý luận làm sáng tỏ. Trong khi thực tiễn đổi mới càng đi vào chiều sâu, nhiều vấn đề phức tạp đặt ra càng đòi hỏi lý luận giải đáp, cắt nghĩa, dẫn dắt song chưa được đáp ứng. Đảng ta đã nhận thức: “Công tác nghiên cứu lý luận của Đảng chưa ngang tầm với sự phát triển của thực tiễn; chưa giải đáp có căn cứ khoa học, thuyết phục nhiều vấn đề quan trọng do thực tiễn đặt ra”; “Việc cụ thể hóa, thể chế hóa nghị quyết còn chậm, tổ chức thực hiện nghị quyết của các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương vẫn là khâu yếu…”(1). Sự lạc hậu của lý luận,  một mặt tạo nên băn khoăn, thắc mắc nhiều vấn đề, sự khác biệt, thiếu thống nhất trong nhận thức, trong hành động; mặt khác lúng túng, không rõ phương cách giải quyết nhiều vấn đề mà Nghị quyết nêu, thực tiễn đặt ra của thời kỳ quá độ, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong khi các thế lực thù địch ra rả phủ nhận nền tảng lý luận của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là những tác động ghê gớm đến tư tưởng chính trị, gây tâm trạng hoài nghi về mục tiêu chính trị của Đảng và dân tộc ta.
  Thứ ba, là do nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, quản lý đảng viên bị buông lỏng, chấp hành chưa nghiêm. Tình trạng thiếu chặt chẽ trong quản lý cán bộ, đảng viên; việc kiểm tra, giám sát hoạt động của đảng viên chưa tốt; đấu tranh chống tiêu cực và xử lý vụ việc chưa nghiêm, chưa triệt để; nắm bắt diễn biến tư tưởng cán bộ, đảng viên chậm, thiếu đầy đủ; việc bảo vệ tư tưởng và con người cụ thể trong chống tiêu cực chưa tốt… không phải là cá biệt.
Nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng nhiều nơi bị vi phạm; quy chế dân chủ còn nặng về hình thức, thiếu cơ chế thực tế để thực hiện, ở nhiều nơi, nhiều tổ chức nguyên tắc này bị một số người cơ hội lợi dụng để phục vụ mục đích cá nhân. Công tác cán bộ là “công việc gốc” của Đảng còn nhiều hạn chế, thiếu khách quan, công tâm, thậm chí có tiêu cực. Dân gian đã có vè: “đi nặng thì về nặng, đi nhẹ thì về nhẹ, đi không thì về không”; “Thứ nhất là quan hệ, thứ nhì là tiền tệ, thứ ba là hậu duệ, thứ tư mới đến trí tuệ”(2). Tình trạng này góp phần dẫn tới tệ bè phái, cục bộ, thiếu thống nhất trong từng tổ chức đảng; không chọn được đúng người để phân công đúng việc, bỏ sót nhiều người có phẩm chất, năng lực. Vì thế nảy sinh tư tưởng ý thức chấp hành nguyên tắc sinh hoạt đảng kém, thiếu tin tưởng ở công tác cán bộ, thiếu tôn trọng, thiếu niềm tin đối với không ít cán bộ lãnh đạo, kể cả cấp cao; thiếu nhiệt tình tu dưỡng, phấn đấu… Đó cũng là nguyên nhân căn bản tạo nên sự suy thoái tư tưởng chính trị, niềm tin, đạo đức… của cán bộ, đảng viên hiện nay.
Thứ tư, là do cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện và học tập để chủ nghĩa cá nhân phát triển, chi phối. Họ nặng tính thực dụng, thiếu tu dưỡng rèn luyện thường xuyên nên ý thức giác ngộ, lập trường giai cấp phai nhạt, tư tưởng hưởng thụ, bệnh gia trưởng, hẹp hòi ích kỷ, chủ nghĩa cá nhân trỗi dậy chi phối suy nghĩ và hành vi. Do lười học tập, nghiên cứu lý luận chính trị, do những yếu kém của công tác này dẫn tới nhận thức, giác ngộ về hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong không ít cán bộ, đảng viên yếu kém. Sự chênh lệch về mức sống giữa nhiều người có chức, có quyền, có tiền và gia đình họ với quảng đại quần chúng nhân dân đang dần trở thành mâu thuẫn đối kháng. Vì thế họ càng xa dân, không được nhân dân ủng hộ trong thực tế… Những biểu hiện, phẩm cách  trên của một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết làm cho uy tín của họ giảm sút, nhân dân thiếu niềm tin vào họ… Và hơn hết, nếu sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống… trong họ (lâu nay ta vẫn nói họ là tinh hoa của cộng đồng) không được ngăn chặn, nó sẽ nhanh chóng lây lan trở thành nếp suy nghĩ, phong cách sống thường nhật của cán bộ, đảng viên và rộng hơn là toàn xã hội. Đó là nguy cơ lớn liên quan đến sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Có thể thấy, việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện và học tập để nâng cao năng lực, phẩm chất cách mạng vừa là biểu hiện, vừa là nguyên nhân của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên hiện nay.
 Thứ năm, là do những yếu kém trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Ai cũng thấy rõ tình trạng yếu kém trong quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay đều do năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ; do tình trạng pháp luật chưa đủ, chất lượng chưa cao, thi hành chưa nghiêm ở cả người duy trì và người chấp hành pháp luật. Sự yếu kém này làm cho phân hóa thu nhập trong xã hội ngày càng gia tăng; những tiêu cực xã hội không được kiểm soát và xử lý nghiêm minh đã tạo khoảng cách lớn giữa người làm ăn chân chính, lương thiện với những người suy thoái đạo đức làm ăn bất chính, kể cả tham nhũng quyền lực để có được của cải bất chính ngày càng gia tăng, còn là sự khuyến khích người khác không tôn trọng pháp luật, không cần chính trị cao cả, không cần đạo đức mà nghèo, đói… Tiền lương bất hợp lý, thu nhập chênh lệch quá xa giữa các thành phần trong xã hội; tình trạng bất hợp lý trong chế độ cấp đất, cấp nhà, cấp phương tiện làm việc… giữa các cấp cán bộ. Sự chênh lệch thu nhập dẫn tời tình trạng những người thu nhập cao chi phối lối sống trong xã hội làm cho người làm ăn chân chính có thu nhập thấp và những người thu nhập thấp nói chung thiệt thòi, cảm thấy tủi thân, thậm chí bức xúc. Đó cũng là yếu tố kích thích cho sự tha hóa, bất chấp pháp luât… Quản lý ngân sách, tài sản nhà nước yếu kém là môi trường thuận lợi để các tệ nạn xã hội phát triển. Rõ ràng, sự yếu kém trong quản lý nhà nước hiện nay vừa là hậu quả, vừa là nguyên nhân của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Trong hai hệ thống nguyên nhân dẫn tới tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay được trình bày trên đây thì hệ thống nguyên nhân chủ quan, mà trước hết là công tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội, xây dựng hệ thống pháp luật, xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm và sự nỗ lực tu dưỡng rèn luyện của cán bộ, đảng viên là những vấn đề hàng đầu cần có giải pháp khắc phục./.
--------------------------------                           
(1) Ban Tuyên giáo Trung ương, Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết và các văn bản kết luận của Hội nghị Trung ương 9 khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009, tr. 57 (2) Phát biểu bế mạc Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quốc triển khai Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, ngày 29-2-2012 của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, theo  Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 20-3-2012
PGS, TS Đoàn Thế HanhTạp chí Cộng sản

Vạch tên “bộ phận không nhỏ"

Nói “bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất nhưng ở các đảng bộ, chi bộ không chỉ tên bộ phận đó là ai, là người nào, thành thử ai cũng nói tình hình vi phạm “không nhỏ” là ai đó chứ không phải mình.

Phát biểu tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội mới đây, ông Võ Trọng Việt, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng – An ninh so sánh việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp cho người dân (số tiền miễn 34,3 tỷ đồng) với số tiền thua lỗ của Tổng Công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam thời ông Trịnh Xuân Thanh làm lãnh đạo thì thấy rằng, ông Thanh và thuộc hạ đã gây thất thoát bằng 100 năm tiền miễn thuế sử dụng đất. Còn thất thoát vụ án Ngân hàng Xây dựng do Phạm Công Danh cầm trịch thì bằng… 300 năm (hơn 9 nghìn tỷ đồng).
Ông Trịnh Xuân Thanh, ông Phạm Công Danh và những thuộc hạ trong hai vụ án chính là “bộ phận không nhỏ” thoái hóa, biến chất. Thế nhưng, điều đau xót là chỉ hai vụ án của “bộ phận không nhỏ” gây ra ấy lại làm đắm chìm tiền của Nhà nước hơn 12 nghìn tỷ đồng, trong khi đại bộ phận người dân vẫn phải trông chờ vào những chính sách miễn, giảm thuế của Nhà nước (đơn cử là việc hàng chục triệu nông dân chờ đợi từ việc miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp chỉ với số tiền 34,3 tỷ đồng!).
So sánh, đặt lên bàn cân như vậy càng thấy tính chất vô cùng nghiêm trọng mà “bộ phận không nhỏ” gây tổn thất cho đất nước, cho xã hội đến mức nào.
“Bộ phận không nhỏ” là cụm từ được nhắc đến khá lâu, dường như có từ trước đổi mới. Hàm ý của cụm từ này để áng lượng quy mô, tỷ lệ cán bộ, đảng viên phạm pháp, còn được gọi là thoái hóa, biến chất. Chất ở đây là chất đảng, chất giai cấp công nhân, chất cách mạng. Biến chất là khi người cán bộ, đảng viên đó bị thay đổi, biến đổi chất đảng, chất cách mạng, bị “thoái hóa” hay “tha hóa”, làm ngược với chất gốc.
Đã nhiều lần khi bàn về dự thảo văn kiện đại hội Đảng, có ý kiến đề nghị làm rõ cụm từ “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất”, đề nghị xác định “bộ phận không nhỏ” là bao nhiêu, ở mức nào? Không nhỏ có phải bộ phận lớn? Tuy nhiên, bàn đi tính lại, ban dự thảo văn kiện đại hội thấy rằng, dùng “bộ phận không nhỏ” là cụm từ đúng và hợp lý nhất. Không nhỏ nghĩa là không phải nhỏ để chủ quan, xem thường nhưng cũng không phải lớn, không phải “bộ phận lớn” để lo lắng về tính đa số.
Nhưng cũng đã từ lâu, trong sinh hoạt đảng bộ, chi bộ ở các cơ quan, đơn vị, địa phương, chúng ta vẫn có thói quen bê nguyên cụm từ này để đánh giá, nói về tình hình cán bộ, đảng viên trong đảng bộ, chi bộ mình. Nói “bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất nhưng ở các đảng bộ, chi bộ không chỉ tên bộ phận đó là ai, là người nào, thành thử ai cũng nói tình hình vi phạm “không nhỏ” là ai đó chứ không phải mình. Khi đương nhiệm Chủ tịch nước, đồng chí Trương Tấn Sang mỗi lần tiếp xúc cử tri tại TP Hồ Chí Minh đều đau đáu trước câu hỏi của cử tri về vấn nạn tham nhũng.
Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã, đang đôn đốc chỉ đạo, xử lý nghiêm các vụ tham nhũng nổi cộm.
Ngày 15-10-2014, tại buổi tiếp xúc cử tri quận 4, TP Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bày tỏ: “Điều quan trọng trước hết phải nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc, với đất nước của cán bộ. Tôi nghĩ rằng đa số anh em là như vậy nhưng có một bộ phận mà Đảng nói là không nhỏ, bây giờ không biết nằm ở đâu. Dân hỏi mãi, Đảng hỏi mãi nhưng không trả lời được.
Từ Trung ương đến cơ sở đều lúng túng chỗ này”. Nói về “bộ phận không nhỏ”, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” nêu: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc…”.
Đề cập việc có những cá nhân suy thoái trong Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng, “bộ phận không nhỏ” đó có thể nằm ngay trong mỗi con người chúng ta, mỗi cán bộ, đảng viên chúng ta. Tuy nhiên, với luật pháp, chỉ tên trong chúng ta cụ thể là ai, đấy lại là việc phải cần đến sự vào cuộc của cơ quan thanh tra, kiểm tra, cơ quan điều tra…
Đối với người dân, ngay cả khi chưa có kết luận thanh tra, kiểm tra, điều tra hay bản án của tòa, họ cũng đã nhận biết theo cảm tính “bộ phận không nhỏ” đó núp ở đâu. Chúng núp ở những dự án đẻ ra bởi phần trăm được bỏ túi chứ không phải vì lợi ích của cộng đồng, cái phần trăm luật bất thành văn đứng trên luật pháp.
Chúng núp ở những công trình hàng ngàn tỷ chưa khánh thành đã hư hỏng, xuống cấp hoặc lãng phí, ở những con tàu, những ụ nổi, những thiết bị máy móc được mua với giá hàng triệu đô nhưng rốt cuộc chỉ để làm sắt vụn hay đồ phế thải. Chúng núp trong những biệt thự hoành tráng, những xe hơi sang trọng, những trang trại mênh mông mà chủ nhân của nó không phải lao động mới có được…
Tai mắt nhân dân khó gì qua được, thế nhưng từ tai mắt đến kết luận trên văn bản để khẳng định chính xác cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất lại phải theo quy trình xác minh, điều tra chặt chẽ chứ không phải cảm quan “nhìn là biết”.
Ông Trịnh Xuân Thanh trước khi bị phanh phui, con đường quan lộ được ví “lên như diều” mà không gặp bất cứ cản trở nào. Trong giai đoạn ông làm Phó Tổng giám đốc rồi Chủ tịch Hội đồng quản trị Tổng công ty Cổ phần Xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC), đơn vị này thua lỗ, nợ nần trầm trọng tới hơn 3 nghìn tỷ đồng, thế nhưng vẫn được vinh danh Anh hùng Lao động?!
Việc thua lỗ của công ty ảnh hưởng tới lao động, sản xuất của hàng nghìn cán bộ, công nhân viên và tiền thuế Nhà nước, hiển nhiên việc đó không thể qua tai mắt thiên hạ - ở đây chính là cán bộ, nhân viên Tổng công ty.
Thế nhưng tại sao tai mắt nhân dân thì biết mà cơ quan Nhà nước lại không (ông Thanh tiếp tục được Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng bổ nhiệm làm Phó Chánh văn phòng Bộ - Trưởng đại diện Văn phòng miền Trung của Bộ Công thương tại Đà Nẵng vào tháng 9-2013.
Tháng 2-2014, được Bộ trưởng Bộ Công thương bổ nhiệm chức vụ Vụ trưởng - Trưởng ban Đổi mới doanh nghiệp Bộ Công thương. Tháng 5-2015, ông được luân chuyển làm Phó chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang). Rõ ràng, ở đây không phải tai mắt quần chúng không biết mà chính là sự vô hiệu hóa của một số cá nhân, nhóm lợi ích, phớt lờ sự thật.
Điều đáng bàn nữa là hồi tháng 5-2016, ông Thanh đắc cử đại biểu Quốc hội khóa XIV được 198.392 phiếu, đạt tỷ lệ 75,28% số phiếu hợp lệ và trở thành người trúng cử với số phiếu được bầu chọn cao nhất tại Hậu Giang.
Vậy là cá nhân suy thoái trong “bộ phận không nhỏ” vượt qua mấy lần hiệp thương của Mặt trận Tổ quốc, vượt qua sự kiểm chứng của hàng vạn cử tri tại Hậu Giang – nơi mà người dân chỉ biết vị dân biểu qua tấm ảnh và bản lý lịch vắn tắt, còn hầu hết họ không biết con người thực của vị Phó Chủ tịch UBND tỉnh này ra sao.
Câu hỏi ở đây: Tại sao cá nhân suy thoái, vi phạm nghiêm trọng như vậy lại dễ dàng vượt qua hàng loạt sự kiểm tra, kiểm soát của cơ quan Nhà nước bằng các quyết định khen thưởng, bổ nhiệm và vượt qua hàng vạn quần chúng, cử tri để đắc cử đại biểu Quốc hội (trước khi bị miễn nhiệm)?
Tai mắt quần chúng là hàng ngàn cán bộ, công nhân viên PVC biết việc ông Chủ tịch Hội đồng quản trị làm ăn thua lỗ, suy thoái ra sao nhưng hàng vạn tai mắt đó đã bị vô hiệu hóa trước quyền lực của cá nhân, lợi ích nhóm.
Chính quyền lực cá nhân, lợi ích nhóm đó đã đánh bật, vô hiệu hóa cả những người có trách nhiệm trong các vòng hiệp thương bầu cử để đưa ứng viên Trịnh Xuân Thanh với bộ hồ sơ đẹp, đánh lừa hàng vạn cử tri Hậu Giang khiến ông Thanh trúng cử với số phiếu cao nhất địa phương.
Như vậy, “bộ phận không nhỏ” khi được dìu dắt, che chắn bởi những thế lực thì bộ phận ấy đã dễ dàng đánh lừa, qua triệu tai mắt quần chúng và gây ra những hậu quả ghê gớm. Bộ phận không nhỏ nhưng tác hại lại vô cùng lớn, cả về số tiền, tài sản thất thoát và tác hại về tinh thần, niềm tin trong nhân dân.
Bây giờ và mai sau, chúng ta cũng chưa thể định lượng “bộ phận không nhỏ” là bao nhiêu. Nhưng chỉ tên, vạch mặt để xử lý “bộ phận không nhỏ” đấy là trọng trách của Đảng. Một đảng dám dũng cảm nhìn nhận “bộ phận không nhỏ” cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất và dũng cảm vạch tên, xử lý bộ phận đó dù biết đấy là công việc gian nan, phức tạp, là thách thức, áp lực thì đảng đó đã tự rũ bỏ những ung nhọt để gột rửa, trưởng thành. Đảng đó ắt phải tiến bộ.
Quá trình vận động, phát triển bao giờ cũng là sự đấu tranh giữa cái sáng và cái tối, giữa cái phàm và cái ưu. Luôn tu dưỡng, gột rửa, ấy là tính liêm, chính, chí, dũng của đảng.
Vì vậy, đừng nghĩ rằng việc lôi ra những ông Trịnh Xuân Thanh, ông Phạm Công Danh với số tiền hàng nghìn tỷ biến mất dưới tay họ là xám xịt, u tối bởi bầu trời muốn sáng hẳn phải gạt bỏ những khối mây đen, con đường đi tới phải gạt bỏ những gai góc chắn lối.
An Nhi (Theo Báo Công an nhân dân điện tử)

Hội nghị Trung ương 7: Đề án cán bộ có gì mới?

07-05-2018 - 09:44 AM | Thời sự
Hội nghị Trung ương 7: Đề án cán bộ có gì mới?

“Một số khi có cương vị, trọng trách thì thiếu bản lĩnh, thiếu nguyên tắc trong công tác, sinh hoạt, sa vào chủ nghĩa cá nhân mà hư hỏng”.

Hôm nay (7-5), Ban Chấp hành Trung ương sẽ mở hội nghị lần thứ 7 bàn về nhiều nội dung quan trọng . Trong số các vấn đề được đưa ra thảo luận có đề án quan trọng về “tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp , nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”.
Pháp Luật TP.HCM đã phỏng vấn ông Phạm Quang Hưng , Vụ trưởng Vụ Theo dõi các bộ, ban ngành, đoàn thể Trung ương, Ban Tổ chức Trung ương - thành viên thường trực tổ biên tập đề án.
Một số cán bộ khi có cương vị thì… hư hỏng
. Phóng viên: Thưa ông, tại sao công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lại được chọn để bàn ở Trung ương lần này?
+ Ông Phạm Quang Hưng: Đất nước đang ở giai đoạn phát triển mới với nhiều thách thức, cơ hội như cách mạng 4.0, kinh tế tri thức, kinh tế số, quá trình toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu. Ngoài ra, Bộ Chính trị nhận định Đảng ta đang bước vào giai đoạn chuyển giao thế hệ cán bộ.
Số cán bộ sinh ra, lớn lên, tôi luyện trong thời chiến, rồi trưởng thành trong thời kỳ gian khó, những năm đầu chuyển đổi từ kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì nay nhiều người đã nghỉ. Số tiếp tục công tác thì hầu hết chỉ nốt khóa này.
Như vậy, từ Đại hội XIII tới sẽ là lớp cán bộ lớn lên trong hòa bình, trưởng thành trong kinh tế thị trường. Đây là lớp cán bộ được đào tạo, bồi dưỡng, trưởng thành theo chiến lược cán bộ mà Trung ương 3 khóa VIII, năm 1997.
Đứng trước tình hình mới như vậy thì Trung ương phải đánh giá tổng thể, ban hành nghị quyết riêng thay thế cho chiến lược từ 20 năm trước, có phần lạc hậu.
. Hai thế hệ lãnh đạo này có đặc điểm gì giống, khác nhau?
+ Lớp trước chủ yếu đào tạo trong nước, một số được gửi gắm ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Nhiều đồng chí từng tôi luyện trong chiến tranh, dấn thân, đối mặt với sống chết. Họ là lớp cán bộ sẵn sàng đi đầu khi Tổ quốc cần và có trải nghiệm sâu sắc về những gập ghềnh, khó khăn của đất nước trong giai đoạn đầu đổi mới. Nhiều người đã trải qua các công việc tham mưu, xây dựng chính sách cho thời kỳ chuyển đổi này.
Đây là lớp cán bộ có kinh nghiệm cuộc sống phong phú, cuộc sống cá nhân còn khá gần gũi với quần chúng. Tuy nhiên, họ cũng có những hạn chế trước những thách thức của hội nhập quốc tế, của toàn cầu hóa…
Lớp hiện tại và tới đây thì được đào tạo từ nhiều nguồn. Trong nước cũng có mà ngoài nước cũng nhiều. Đào tạo ngoài nước thì hầu hết ở các nước tư bản phát triển, với các trường phái khác nhau. Họ có kiến thức, năng lực ứng phó với các thách thức chủ quan, khách quan trong thế giới toàn cầu hóa sâu rộng, giải quyết các vấn đề về môi trường, khí hậu. Cán bộ giờ trình độ, kiến thức phải toàn diện hơn trước rất nhiều.

Hội nghị Trung ương 7: Đề án cán bộ có gì mới? - Ảnh 1.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ. Trong ảnh: Các đại biểu dự Hội nghị Trung ương 6 khóa XII. Ảnh: TTXVN
Còn về phẩm chất, thế hệ cán bộ rèn luyện qua thời gian khó của đất nước thì có điểm mạnh về bản lĩnh chính trị, đạo đức trong sáng, tấm gương hy sinh, không ngại khó, ngại khổ, gần dân, sâu sát nhân dân, tính đảng cao. Lớp cán bộ mới sung sướng trong thời bình, được học tập bài bản nhưng thường hạn chế về thực tiễn. Nếu không có giải pháp nâng cao nhân sinh quan, đạo đức cách mạng, trau dồi bản lĩnh chính trị thì khó bằng lớp đàn anh được.
Thực tế, hai nhiệm kỳ gần đây Đảng cũng quan tâm bồi dưỡng cán bộ trẻ nhưng số thành công chưa nhiều. Một số khi có cương vị, trọng trách thì thiếu bản lĩnh, thiếu nguyên tắc trong công tác, sinh hoạt, sa vào chủ nghĩa cá nhân mà hư hỏng.
Đánh giá cán bộ phải đi vào thực chất
. Cán bộ hư hỏng, thoái hóa, biến chất ngoài lỗi của cá nhân họ thì còn có nguyên nhân thể chế. Chẳng hạn, cứ nhìn vào kết quả kiểm điểm cuối năm ở các đơn vị thì thấy hầu như đa số đều tự xếp loại và được trên đánh giá là hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Vậy làm thế nào để khắc phục cách đánh giá cán bộ rất hình thức ấy?
+ Tôi vào Đảng hơn 20 năm rồi, thấy hồi ấy việc kiểm điểm, xây dựng, đóng góp đảng viên chân thành hơn, thẳng thắn hơn, khuyết điểm được nêu ra và mọi người đều tiếp thu dễ dàng. Còn giờ thì kiểm điểm cuối năm, bị xếp loại tốt đã buồn. Và vì thế, kiểm điểm cuối năm trở nên hình thức. Thậm chí mặt nào đó là một biểu hiện của bệnh thành tích của cả xã hội, giống như học sinh giờ hầu hết khá với giỏi.
Tôi cho là giờ phải thực chất hơn. Nếu là người cán bộ có trách nhiệm thì hoàn thành nhiệm vụ đã vất vả rồi. Hoàn thành tốt thì phải có những sáng tạo, kết quả công việc phải đặc biệt, có thành tích được tập thể đánh giá cao. Còn cỡ xuất sắc thì phải hiếm lắm, nổi trội lắm, tiêu biểu lắm, được tập thể suy tôn, cấp trên công nhận…
Tháng 3 vừa rồi Bộ Chính trị đã ban hành Quyết định 132 về kiểm điểm và đánh giá, xếp loại chất lượng hằng năm đối với tập thể, cá nhân trong hệ thống chính trị. Theo đó, quy định cụ thể hơn các tiêu chí xếp loại chất lượng, đồng thời quy định cụ thể tỉ lệ tối đa xếp loại xuất sắc, không quá 20% số cá nhân, tập thể được phân loại hoàn thành tốt. Như thế sẽ từng bước khắc phục vấn đề này.
. đấy chỉ là kiểm điểm hằng năm. Còn đánh giá cán bộ để cất nhắc, bổ nhiệm thì có giải pháp gì mới khi mà nhiều đại hội vẫn thừa nhận đây là khâu quan trọng nhất nhưng cũng khó nhất và đang yếu nhất?
+ Vừa rồi Bộ Chính trị đã ban hành hai quy định 89 và 90 về tiêu chuẩn và khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ quản lý các cấp. Đây cũng là một bước đột phá rồi. Bởi trước đây tiêu chuẩn cán bộ chủ yếu dựa vào chiến lược cán bộ ban hành theo Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII. Chuẩn bị các kỳ đại hội thì phải tầm hội nghị trung ương lần thứ 9 mới cụ thể hơn về phương hướng, cơ cấu, tiêu chí…
Chiến lược ban hành 20 năm rồi nên các tiêu chuẩn, tiêu chí đề ra có phần lạc hậu. Vậy thì lần này Bộ Chính trị ban hành quy định riêng, đầy đủ, chi tiết hơn, cụ thể tới từng chức danh, kể cả Tổng bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng… Hai quy định này lại ban hành sớm, ngay sau Trung ương 5 và công khai. Vậy nên rất chủ động để đánh giá cán bộ, chuẩn bị nhân sự các cấp cho khóa tới.
Sẽ lập tổ khảo sát, đánh giá cán bộ
. Vậy đề án cán bộ trình Trung ương 7 lần này có gì mới hơn Quy định 89, 90 để làm tốt hơn công tác đánh giá cán bộ?
+ Quá trình xây dựng đề án này, Ban Tổ chức Trung ương nhận được nhiều góp ý của các tỉnh, thành ủy, các ban cán sự trực thuộc Trung ương cũng như từ các đồng chí lão thành. Qua đó đề xuất một số giải pháp mới theo nguyên tắc đánh giá liên tục, đa chiều, xuyên suốt quá trình công tác, nôm na là đánh giá 360 độ.
Như vậy, tới đây đánh giá một con người sẽ cả từ cấp trên xuống, cấp dưới lên và ngang cấp sang. Sẽ có các tiêu chí cụ thể, gắn với hiệu quả, kết quả công việc. Cuối năm 2017, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định 105 đổi mới quy trình bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử từ ba bước lên năm bước. Tới đây, theo đề án Bộ Chính trị bổ sung công cụ khảo sát riêng để đánh giá sát, đa chiều hơn nữa về nhân sự. Chẳng hạn, cấp có thẩm quyền sẽ lập tổ khảo sát xuống phỏng vấn, trao đổi riêng với những người làm việc, công tác với ứng viên, cả ở cơ quan, cấp trên, cấp dưới, ngang cấp và cả hàng xóm nơi cư trú.
. Theo kiểu khảo sát thế này, Ban Tổ chức Trung ương đã bao giờ áp dụng thử chưa? Thông tin nhận được khác gì so với kết quả lấy phiếu tín nhiệm?
+ Trước đây, với một số nhân sự cụ thể, Ban Tổ chức Trung ương có sử dụng nghiệp vụ này. Cách làm đơn giản thôi, đồng chí lãnh đạo ban xuống cơ sở để gặp riêng, nghe ý kiến các đồng chí trong thường vụ tỉnh, thành ủy, tổ chức đảng nơi nhân sự đó làm việc, sinh hoạt hoặc có quan hệ công tác.
Kết quả thì có trường hợp lấy phiếu ở hội nghị cấp ủy, ban thường vụ cho kết quả cao. Nhưng khi gặp riêng thì có thông tin khác, không hẳn “đẹp” như lấy phiếu. Cho thấy ở đấy có tình trạng nể nang, dĩ hòa vi quý.
Tôi nghĩ cách làm này mà được quy chế hóa thì cũng là một bước để nhân dân giám sát đảng viên và tổ chức đảng, để các đồng chí lãnh đạo gần gũi, sâu sát, lắng nghe quần chúng.
. Đề án với nhiều điểm mới như vậy thì đã được gửi tới các ủy viên Trung ương để chủ động nghiên cứu, cho ý kiến lần cuối?
+ Bộ Chính trị đã họp, cho ý kiến nhiều lần. Đề án chính thức đã được sao gửi các đồng chí trung ương cách đây 10 ngày. Như vậy, Trung ương có điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng, cho ý kiến để hoàn thiện, ban hành.
. Xin cám ơn ông.



Phải chống tha hóa quyền lực
photo-1
PGS-TS ĐOÀN MINH HUẤN
Cán bộ cấp chiến lược bao giờ cũng nắm các vị trí trọng yếu trong hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách; phân bổ các nguồn lực và phúc lợi; bố trí, điều động, đề bạt cán bộ cấp dưới. Vì thế, nếu cán bộ cấp chiến lược không tư duy và hành động theo các giá trị công minh, chính trực, thanh liêm thì quyền lực rất dễ bị tha hóa; các chính sách ban hành không vì mục tiêu công lợi mà bị các động cơ cá nhân, cục bộ, lợi ích nhóm chi phối...
Để tối ưu hóa hiệu quả trong sử dụng quyền lực công đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực hiệu quả, phòng ngừa lạm quyền, lộng quyền, rộng hơn là chống tha hóa quyền lực. Nhưng kiểm soát quyền lực mà không dẫn tới triệt tiêu năng lực sáng tạo, đổi mới, khả năng đột phá chiến lược của cán bộ cấp chiến lược là vấn đề thuộc khoa học và nghệ thuật tổ chức quyền lực.
Hóa giải mâu thuẫn trên đây chỉ có thể bằng cả xây dựng đạo đức cầm quyền và tạo ra khung thể chế nuôi dưỡng và bảo vệ các ý tưởng đột phá chiến lược. Đạo đức cần thiết cho mọi loại cán bộ nhưng quyền lực càng cao càng đòi hỏi phải nghiêm khắc với các chuẩn mực đạo đức cách mạng. Bởi chính đạo đức mới làm cho các năng lực cá nhân được vận hành đúng phương hướng, vì lợi ích của Đảng, của dân tộc, của nhân dân; đảm bảo cho các quyết sách chính trị luôn vô tư, không bị các động cơ cá nhân chi phối, nhờ đó luôn đúng đắn và sáng suốt; đảm bảo cho cán bộ chiến lược thực sự làm gương cho cấp dưới, dẫn đạo nhân dân.
Lệch chuẩn về đạo đức của cán bộ cấp chiến thuật chỉ gây hậu quả trong phạm vi nhỏ hẹp, còn suy thoái đạo đức của cán bộ cấp chiến lược ảnh hưởng trên phạm vi rộng lớn, liên quan đến hình ảnh của cả chế độ và tính chính đáng của sự cầm quyền...
Đạo đức cầm quyền cũng là sợi dây vô hình ràng buộc mỗi cán bộ cấp chiến lược với các giá trị đã cam kết, trong đó có đức hy sinh, dấn thân. Bởi đổi mới, sáng tạo, đột phá luôn đối mặt với nguy cơ rủi ro, rất cần đến những con người có bản lĩnh, dám hy sinh cả sinh mệnh chính trị cho các thay đổi vì các giá trị thiêng liêng.
PGS-TS ĐOÀN MINH HUẤN, Ủy viên dự khuyết Trung ương, TBT Tạp chí Cộng Sản
(Trích bài "Xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng Sản, ngày 4-5)
Kỳ vọng sẽ kiến thiết lớp cán bộ thực sự vì dân, vì nước
photo-2
ThS VŨ TRUNG KIÊN
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Cán bộ là gốc của mọi công việc, công việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hay kém" và thực tiễn đã chứng minh quan điểm này hoàn toàn đúng đắn. Trong bất kỳ giai đoạn nào, công tác cán bộ luôn là vấn đề cốt tử bởi nó liên quan đến con người, đến sự phát triển của đơn vị, địa phương, của quốc gia, dân tộc.
Công cuộc phòng, chống tham nhũng, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước, trong đó có việc xử lý các cán bộ sai phạm thời gian qua đã bước đầu đem lại niềm tin cho xã hội. Cứ mỗi sai phạm, khuyết điểm của một cán bộ nào đó được công bố lại làm cho nhân dân hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Không chỉ người dân mà những cán bộ cùng công tác, cùng làm việc với những người bị xử lý kỷ luật cũng không khỏi buồn lòng và không thể ngờ đồng chí mình lại sai phạm cỡ đó. Tất nhiên, trong nỗi buồn về khuyết điểm, kỷ luật của cán bộ, đảng viên vừa qua lại xuất hiện niềm tin, hy vọng vào quyết tâm của Đảng trong việc làm trong sạch đội ngũ, xử lý nghiêm minh các tập thể và cá nhân vi phạm.
Để chặn đứng tình trạng này không thể một sớm một chiều và cần chiến lược lâu dài, quyết liệt để thay đổi tận gốc rễ việc quy hoạch, bổ nhiệm như hiện nay theo hướng cần phải dân chủ, công khai, minh bạch, có tranh cử thật sự dân chủ đối với các vị trí lãnh đạo.
Hội nghị Trung ương 7 lần này sẽ bàn và quyết định những vấn đề quan trọng về công tác cán bộ, nhất là cán bộ chiến lược. Người dân kỳ vọng rằng đây là một đột phá mạnh mẽ của Đảng để kiến thiết một đội ngũ lãnh đạo thời kỳ mới - hết lòng vì dân, vì nước thực sự.
ThS VŨ TRUNG KIÊN,
Học viện Chính trị-Hành chính khu vực II
Xử lý cán bộ sai phạm cần không có vùng cấm
photo-3
Ông BÙI VĂN TIẾNG
Sự quyết liệt của Đảng trong xử lý cán bộ vi phạm thời gian qua thể hiện rõ nhất ở chỗ không có vùng cấm.
Trước đây cũng có một số ủy viên Bộ Chính trị bị xử lý nhưng chủ yếu là do sai phạm về chính trị, còn bây giờ sai phạm trong quản lý kinh tế thì cả ủy viên Bộ Chính trị cũng bị xử lý đúng mức. Như vậy rõ ràng là không có vùng cấm và điều này chứng tỏ mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, chứ không còn nhẹ trên nặng dưới, không còn triệt để theo kiểu chỗ triệt, chỗ để.
Rõ ràng sự quyết liệt của Đảng trong xử lý cán bộ vi phạm thời gian qua đã tạo niềm tin cho đảng viên và nhân dân về tính nghiêm minh của pháp luật. Đảng viên và nhân dân hiện nay tin rằng tính nghiêm minh của pháp luật không chỉ thể hiện qua việc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, không có vùng cấm mà còn và quan trọng hơn là thể hiện qua việc sai đến đâu xử lý đến đó, sai do quyết định sai sẽ được xử lý khác với sai do tham mưu sai, sai do lỗi cá nhân sẽ được xử lý khác với sai do lỗi tập thể.
Thiết nghĩ Đảng phải coi trọng cả phòng lẫn chống, lấy phòng để chống và lấy chống để phòng. Điều quan trọng nhất là phải mở rộng dân chủ trong Đảng khi làm công tác cán bộ, càng thiếu dân chủ càng dễ mắc sai lầm. Cũng cần coi trọng yếu tố cạnh tranh trong công tác cán bộ nhằm tăng thêm tính công khai, minh bạch.
Ông BÙI VĂN TIẾNG, cựu Trưởng ban
Tổ chức Thành ủy Đà Nẵng

Theo Nghĩa Nhân
Pháp luật TPHCM







Hội nghị Trung ương 7: Sẽ có quyết sách dẹp vấn nạn "cả họ làm quan"

(TTXVN/Vietnam+) Bản in

Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN)

Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, diễn ra từ ngày 7-12/5, tập trung thảo luận, cho ý kiến về các nội dung: xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp; cải cách chính sách bảo hiểm xã hội; và một số vấn đề quan trọng khác.

Sự kiện trên đã thu hút đông đảo sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân ở nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước.

Phóng viên TTXVN tại các địa phương đã ghi lại ý kiến của cán bộ, đảng viên, nhân dân trên địa bàn.

Trả lương không "cào bằng" sẽ tạo bước đột phá về năng suất lao động

Về Đề án cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong các doanh nghiệp, bà Hoàng Thị Ngân, Thư ký Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật tỉnh Thái Nguyên cho rằng nếu thực hiện chế độ tiền lương mới theo Đề án cải cách của Trung ương, tiền lương của cán bộ, công chức sẽ được cải thiện hơn. Tuy nhiên, việc cải cách này phải gắn với tinh giản biên chế, sắp xếp tinh gọn bộ máy khu vực công, mới tạo ra bước ngoặt trong lao động, sản xuất; tính toán lại quy định về phụ cấp lương giữa các ngành nghề cho phù hợp, hạn chế tình trạng tiền phụ cấp cao hơn tiền lương cơ bản.

Trung ương cũng cần xem xét lại chế độ viên chức ở các đơn vị sự nghiệp. Hiện nay, viên chức thuộc đơn vị sự nghiệp có thu thì có thêm thu nhập, viên chức tại các tổ chức Hội hưởng lương từ ngân sách Nhà nước lại không được bất cứ khoản phụ cấp nào.

Theo Đại tá Lê Văn Nguyên, Chính ủy Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Thừa Thiên-Huế, Đề án cải cách tiền lương được đông đảo cán bộ, công chức, viên chức, người lao động đón nhận, hưởng ứng, trong đó có lực lượng vũ trang. Đây là chủ trương đúng đắn, hợp lý và thiết thực. Với Đề án này, tất cả cán bộ có năng lực thực sự đều được hưởng lương xứng đáng, đồng thời tương xứng với trách nhiệm và năng lực của mỗi người. Đối với khối lực lượng vũ trang nói riêng, thời gian qua Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách quan tâm. Bảng lương của lực lượng vũ trang được quy định riêng thể hiện rõ sự quan tâm chăm lo của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, đối với một số chiến sỹ trẻ, đời sống vẫn còn nhiều khó khăn, cần có chế độ hỗ trợ về nhà ở hoặc được hỗ trợ vào lương...

Bà Trần Hoàng Thảo Nguyên, cán bộ Ủy ban Nhân dân phường Phú Nhuận, thành phố Huế, cho rằng vấn đề cải cách tiền lương đang được cả xã hội quan tâm; chính sách tiền lương hợp lý là đầu tư cho phát triển xã hội; trả lương theo đúng chức danh, vị trí việc làm, không "cào bằng" sẽ tạo bước đột phá về năng suất lao động. Trả lương theo cấp bậc, vị trí việc làm, đề cao trách nhiệm trả lương của người đứng đầu, người sử dụng lao động gắn với năng lực, khả năng của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị.

Đánh giá cao Chính phủ cùng các bộ có liên quan đã hoàn thiện Đề án về cải cách chính sách tiền lương trình Hội nghị Trung ương 7 xem xét, coi đây là bước đột phá mang tính lịch sử, bà Trần Thị Xuân Mai, Giám đốc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thành phố Cần Thơ cho rằng, Đề án đã tính toán bỏ cách tính lương theo hệ số thay bằng số tiền cụ thể cho từng chức vụ, vị trí là điểm đột phá lớn nhất. Trong đó, Đề án cũng đã tính toán đến việc trả lương cho công chức, viên chức theo chức vụ, vị trí việc làm, khối lượng công việc sẽ là cơ sở quan trọng trong thực hiện có hiệu quả chủ trương sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và xác định số lượng biên chế của 1 cơ quan, đơn vị đơn giản hơn.

Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội có nhiều đột phá

Đối với Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, ông Nguyễn Mạnh Thắng ở thị trấn Đu, huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên cho rằng: Trong cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, cái khó là mở rộng bảo hiểm xã hội tự nguyện với đối tượng là nông dân do đối tượng này rất rộng. Chính sách cần quan tâm hơn nữa đến giải pháp cũng như cách xử lý khi mở rộng bảo hiểm xã hội tự nguyện cho nông dân. Ngoài ra, cần cân nhắc chỉ tiêu mà Đề án đưa ra để phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước.

Đại biểu dự hội nghị. (Ảnh: Phương Hoa/TTXVN)

Bà Bùi Thị Trang, công tác tại Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh, tỉnh Thừa Thiên - Huế cho rằng, cải cách chính sách bảo hiểm xã hội là rất cần thiết, như vậy mới tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội cho toàn dân.

Để làm được điều này cần sửa đổi Luật Việc làm, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, chính sách việc làm theo hướng hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động duy trì việc làm, bảo đảm quyền lợi chính đáng của doanh nghiệp và người lao động, nhanh chóng đưa người thất nghiệp trở lại làm việc, khắc phục tình trạng trục lợi bảo hiểm thất nghiệp; hoàn thiện các chế tài xử lý vi phạm pháp luật về bảo hiểm xã hội.

Đồng thời, các doanh nghiệp và người lao động có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện cơ quan thực hiện bảo hiểm xã hội nếu phát hiện có sai phạm trong thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội.

Với Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội, ông Trần Văn Minh, Giám đốc Bảo hiểm Xã hội thành phố Cần Thơ đánh giá cao Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng đa tầng được Hội nghị Trung ương 7 đưa vào bàn thảo. Đề án cải cách chính sách bảo hiểm xã hội lần này có nhiều đột phá, mang lại quyền được bảo đảm an sinh xã hội của người dân; tạo ra sự công bằng và chia sẻ trong tham gia bảo hiểm, thu hút được nhiều người dân tham gia hơn. Mô hình bảo hiểm xã hội đa tầng trong Đề án lần này xây dựng trên nguyên tắc công bằng, bình đẳng là đóng-hưởng, vì vậy mọi đối tượng trong độ tuổi lao động và người có tuổi đều có thể tham gia, không có giới hạn, sẽ tạo sự linh hoạt, đa dạng và hiện đại...

Quan tâm, coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ

Về Đề án Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, theo bà Nguyễn Thị Vinh, cán bộ hưu trí tại phường Gia Sàng, thành phố Thái Nguyên, công tác xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý hiện nay cần được quan tâm, coi trọng. Bà Vinh cho rằng, quá trình thực hiện công tác cán bộ phải được triển khai nghiêm túc, khách quan, minh bạch, công bằng, công tâm từ việc thực hiện quy trình lựa chọn, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại… tránh tình trạng lợi ích nhóm trong lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ, gây bức xúc trong nhân dân.

Theo Chánh Văn phòng Hội Cựu chiến binh tỉnh Thừa Thiên-Huế Bùi Quang Tình, Đề án tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ được thảo luận tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XII được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình hưởng ứng. Đây có thể xem là bước đột phá trong việc đổi mới công tác cán bộ, nhất là trong sự nghiệp cách mạng và thời kỳ đổi mới. Đáng chú ý, trong Đề án nêu giải pháp nhằm thực hiện việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, điều này sẽ giúp kiểm soát quyền lực tốt hơn, cũng như hạn chế tình trạng "chạy chức," "chạy quyền", ưu tiên cho con cháu, họ hàng.

[Hội nghị Trung ương 7: Thảo luận Đề án Cải cách chính sách tiền lương]

Bên cạnh đó, việc cải cách chính sách tiền lương và nhà ở để tạo động lực cho cán bộ, đảng viên phấn đấu, toàn tâm, toàn ý với công việc; có cơ chế, chính sách để tạo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh và thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm; tạo động lực cho cán bộ có tâm có tầm.

Góp ý về Đề án xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, ông Lê Thanh Nhân, đảng viên, cán bộ hưu trí phường Trung Nhứt, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ kỳ vọng Đề án được Hội nghị Trung ương 7 bàn thảo sẽ có biện pháp mạnh mẽ liên quan đến công tác quy hoạch cán bộ, trong đó quy định chặt chẽ cán bộ làm việc trong các cơ quan nhà nước phải xét đúng người có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đúng chuyên ngành để cống hiến cho xã hội, đất nước.

Đề án sẽ có quyết sách thẳng tay dẹp vấn nạn “cả dòng họ làm quan” trong các cơ quan công quyền để tạo niềm tin tuyệt đối của người dân đối với các quyết sách của Đảng và Nhà nước...

Ông Võ Thành Đô, đảng viên, cán bộ hưu trí phường Hưng Lợi, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ, cho rằng đối với chính sách cán bộ, cần quan tâm đào tạo những người vừa có năng lực, trình độ, đồng thời phải có đạo đức.

Theo ông Đô, đạo đức cán bộ phải thông qua giáo dục, đào tạo, kiểm tra, chắt lọc nghiêm túc mới tìm ra được những cán bộ giỏi thực sự, toàn tâm, toàn ý phục vụ Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Vì vậy, trong công tác cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt phải quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng không chỉ về trình độ, kiến thức, mà còn bồi dưỡng đạo đức để có được những cán bộ vừa có tài, vừa có đức.

Theo ông Phạm Ngọc Hùng, Phó Chủ nhiệm Câu lạc bộ hưu trí thành phố Cần Thơ, vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp được đưa ra bàn thảo tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XII kịp thời.

Trong điều kiện hội nhập, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nếu cán bộ không có phẩm chất đạo đức tốt sẽ rất dễ bị cám dỗ; kỳ vọng Đề án khi được thông qua sẽ giúp đào tạo ra những lớp cán bộ kế thừa giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, giữ vững phẩm chất của người cán bộ cách mạng.../.






Lo tổn thương tới người dân, chuyên gia đồng loạt lên tiếng về thuế VAT

Thứ Năm, ngày 10/05/2018 05:00 AM (GMT+7)
Sự kiện:

Kinh Doanh

Thâm hụt ngân sách theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long là do chi sai, đầu tư không hiệu quả chứ không phải thu thấp. Bởi vậy, dù có tăng thuế giá trị gia tăng lên 12% hay gấp đôi nhưng gốc rễ không được giải quyết thì cũng không hiệu quả.

15 5
Nhiều chuyên gia trong tọa đàm khoa học “Đề xuất của Bộ Tài chính về sửa đổi các luật thuế: Những vấn đề đặt ra từ góc nhìn đa chiều” diễn ra sáng 9/5 tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân cũng có cái nhìn tương tự và đồng loạt đề xuất chưa nên tăng thuế VAT thời điểm này.
Lo tổn thương tới người dân, chuyên gia đồng loạt lên tiếng về thuế VAT - 1
Đề xuất tăng thuế giá trị gia tăng trong thời điểm GDP Việt Nam còn thấp theo đánh giá là chưa hợp lý.
Ông Long nêu quan điểm, nguồn gốc của nợ công và thâm hụt ngân sách triền miên ở Việt Nam không phải do việc huy động nguồn thu thuế thấp trong ngân sách, mà chính là do tham nhũng, thất thoát, lãng phí, kỷ luật tài chính không nghiêm, đầu tư sai,…
Điều này dẫn đến ngân sách bị eo hẹp bởi sự lãng phí của dự án cũ. Bởi thế, khi cần đối phó với tính cấp thiết của dự án mới, Bộ Tài chính đứng trước sức ép phải có đủ nguồn thu để đảm bảo chi. Tăng thuế trong đó có VAT trở thành một giải pháp.
Trong khi ấy, theo ông, thuế VAT là thuế tiêu dùng, bất kể thu nhập cao hay thấp, đều phải đóng cùng một mức thuế VAT cho cùng một sản phẩm chịu thuế. Ông nhấn mạnh, dưới góc độ công bằng, tăng thuế VAT sẽ làm tổn thương và tạo áp lực nhiều hơn đối với người có thu nhập thấp.
“Trong một nền kinh tế khó khăn, chúng ta cần khoan thứ sức dân để làm kế bền gốc, đó là thượng sách tạo động lực cho sự phát triển bền vững,” vị này nói.
Ông cũng lưu ý, nếu không giải quyết cái gốc của vấn đề nằm ở chi tiêu không hiệu quả, tham nhũng, lãng phí, đầu tư sai,…. thì dù có tăng lên 12% hay gấp đôi đi, thu ngân sách dù có phình to ra cũng khó mà đảm bảo được cân đối ngân sách nhà nước.
Từ đó, vị chuyên gia này đề xuất, việc điều chỉnh tăng thuế suất VAT cần cân nhắc thận trong và tính toán tác động cụ thể đối với sản xuất và đời sống.
Chuyên gia kinh tế Lư Bích Hồ thì nêu quan điểm, tư duy cần xuất phát từ trình độ phát triển của đất nước. Theo ông, Bộ Tài chính luôn đặt ra vấn đề thông lệ quốc tế khi đề xuất điều chỉnh thuế. Điều này theo ông là cần thiết nhưng không quá trọng. Bởi, theo ông, GDP Việt Nam còn thấp so với nước nên “không thể nói thông lệ quốc tế ở đây được.”
Nói thêm về thông lệ quốc tế, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban Pháp chế VCCI đặt thêm câu hỏi: Việt Nam thu theo thông lệ quốc tế nhưng chi đã theo thông lệ quốc tế chưa?
Ông tỏ ra thấu hiểu cái khó của ngành tài chính là không quyết định được chi ngân sách nhưng theo ông, khi đề xuất đánh thuế, ông chưa thấy cơ quan soạn thảo công bố phân tích đánh giá tác động ra sao, tới từng đối tượng như thế nào, ảnh hưởng tới tăng trưởng bao nhiêu,…
Thậm chí, chuyên gia kinh tế Lưu Bích Hồ, việc tính toán tác động của Bộ Tài chính chưa kỹ bởi áp lực tính toán làm sao chỉ để tăng thu. Ông bày tỏ thái độ phản đối tăng thuế giá trị gia tăng trong thời gian trước mắt, ít nhất là 3-5 năm.
Theo Phương Linh (Dân Việt)

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét