Đại tá – họa sĩ Lê Duy Ứng, sinh năm
1947, thương binh hạng 1/4 đến từ quê hương Quảng Bình. Khi đang học năm
thứ 3 Đại học Mỹ thuật Hà Nội, nghe theo tiếng gọi của Tổ quốc, tháng 9
năm 1971, ông xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ và trở thành lính trinh
sát Trung đoàn 101, Sư đoàn 325.
Họa sĩ Lê Duy Ứng
Chấm máu mắt xuất thuần ký họa chân dung Bác
Trong
chiến dịch mùa xuân năm 1975, theo đội hình thuộc Quân đoàn 2 với cương
vị trợ lý tuyên huấn tiến vào giải phóng Sài Gòn. Rạng sáng ngày
28/4/1975, khi đang ngồi trên xe tăng số 847, vừa chụp ảnh, vừa quay
phim, vừa vẽ ký họa, vừa chiến đấu… Ông thấy rất nhiều bộ đội xông lên
và bị trúng đạn ngã xuống, những người đồng đội từ phía sau chạy vội đến
nắm lấy lá cờ trong tay người lính sắp ngã để lá cờ Tổ quốc không rơi
xuống đất. Sau khi đến gần cửa ngõ Sài Gòn, cách 30 km, tại căn cứ Nước
Trong (Đồng Nai), ông bị trúng đạn hỏng cả hai mắt và không còn nhìn
thấy ánh sáng nữa.
Ông nhờ bạn bè ở trường Mỹ
thuật tìm giúp đất và miệt mài tập nặn trong bóng tối bằng trí tưởng
tượng và sự nhạy cảm của người nghệ sĩ.
Sau
nhiều ngày tháng, họa sĩ Lê Duy Ứng hoàn thành tác phẩm đầu tay của
mình, bức tượng về Bác Hồ cùng dòng thơ “Hỏng mắt con tạc tượng Người/
Niềm tin ánh sáng trọn đời trong con”.
Khi bị
trúng đạn vào mặt và vào người, sau này ông mới biết đó là súng chống
tăng của Mỹ bắn vào xe tăng. Chiến sĩ Lê Duy Ứng bị ngất rất lâu không
hay biết gì. Khi tỉnh dậy, ông thấy đồng chí trinh sát bên cạnh mình đã
hy sinh. Lúc này Lê Duy Ứng đã nghĩ đến Bác Hồ. Tưởng mình sắp hy sinh
vì hai mắt, đầu và ngực bị chảy máu quá nhiều nhưng ông cảm thấy mình
rất tỉnh táo (kinh nghiệm nơi chiến trường, ai tỉnh táo khi bị thương sẽ
hy sinh).
Với tấm lòng của người chiến sĩ cách
mạng đối với Tổ quốc, với Bác Hồ, ông nghĩ trước khi hy sinh mình nên để
lại điều gì đó cho đời. Vì vậy, chiến sĩ Lê Duy Ứng đã chấm máu từ đôi
mắt xuất thần ký họa chân dung Bác, cờ Đảng, cờ Tổ quốc và ghi đậm bên
dưới dòng chữ “Ánh sáng niềm tin con nguyện dâng Người tuổi thanh xuân”
với 3 ý nghĩa: Thứ nhất là, Tổ quốc Việt Nam- Ngôi sao vàng nằm giữa lá
cờ Tổ quốc; thứ hai là, Đảng – Búa liềm; thứ ba là, hình ảnh Bác Hồ ở
giữa trung tâm. Bức huyết họa ấy đã trở thành một biểu tượng của niềm
tin chiến thắng và sức sống mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng Việt
Nam, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Ánh sáng của niềm tin
Sau
khi chiến đấu tại Quảng Trị năm 1972, ông trở thành trợ lý tuyên huấn
của Trung đoàn, Sư đoàn và Quân đoàn. Trong khi tổ chức triển lãm, ông
gặp một nữ thanh niên Hà Nội rất trẻ đẹp, cô ấy tên là Trần Thị Lê. Ông
đem lòng yêu mến Lê. Họ đã thường xuyên trao đổi thư từ năm 1973 đến năm
1975. Khi biết ông bị thương, bà Lê đã đến thăm ông tại Bệnh viện Quân y
108.
Ông nói với bà Lê rằng: “Bây giờ anh đã bị
tàn tật, em nên đi lấy người khác” nhưng bà chỉ nói: “Anh đừng nói như
thế, em chỉ yêu anh và muốn chia sẻ những vất vả với anh”. Nghe bà Lê
nói, ông vẫn cự tuyệt mối tình đó nhưng bà Lê vẫn cùng với gia đình, bạn
bè tới thăm hỏi và chăm sóc ông trong khoảng thời gian một năm rưỡi.
Bà
Lê nói với ông: “Anh đừng từ chối em như thế! Em biết, sau khi anh từ
chối em thì anh cũng sẽ có vợ, em cũng sẽ có chồng. Nhưng người vợ mà
anh lấy thì anh sẽ không biết mặt, còn em là người yêu cũ, anh biết mặt
em rồi. Sau này, sinh con ra nếu con giống em thì anh có thể tưởng tượng
được mặt con”. Bởi câu nói xúc cảm đó, họa sĩ Lê Duy Ứng đã tiếp nhận
mối tình này.
Những ngày đầu khi nghe bác sĩ nói
đôi mắt của ông bị hỏng hẳn, đại tá - họa sĩ Lê Duy Ứng rất buồn và trở
nên yếu đuối, ông tuyệt vọng nghĩ thế là hết. Nhưng rồi ông đã tìm được
sự bình tâm nhờ động viên của đồng đội, người thân... Ông nhờ bạn bè ở
trường Mỹ thuật tìm giúp đất và miệt mài tập nặn trong bóng tối bằng trí
tưởng tượng và sự nhạy cảm của người nghệ sĩ. Sau nhiều ngày tháng, họa
sĩ Lê Duy Ứng hoàn thành tác phẩm đầu tay của mình, bức tượng về Bác Hồ
cùng dòng thơ “Hỏng mắt con tạc tượng Người/ Niềm tin ánh sáng trọn đời
trong con”.
Một lần, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đến thăm ông, khi chia tay Đại tướng vô cùng cảm động nói: “Bét-tô-ven
(Beethoven) đã sáng tác những bản nhạc hay nhất khi ông bị điếc hai tai,
cũng như họa sĩ cần biết đường nét, ánh sáng, màu sắc... Đồng chí bị
thương như vậy cần cố gắng rèn luyện và học tập tấm gương đó để phấn
đấu”.
Năm 1982, đại tá - họa sĩ Lê Duy Ứng may
mắn được ghép giác mạc và sáng mắt trở lại sau 8 năm sống trong bóng
đêm. Sau đó, ông tái ngũ về công tác tại Xưởng Mỹ thuật Quân đội thuộc
Tổng cục Chính trị; Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử quân sự
Việt Nam). Dù đôi mắt người lính ấy đã trải qua bao thăng trầm, lúc mờ
lúc tỏ, nhưng sự miệt mài sáng tác đem lại cho ông một gia tài khá đồ sộ
600 tượng và tranh, tổ chức 44 cuộc triển lãm, trong đó có 9 giải
thưởng trong nước và quốc tế.
Phương Bùi
Ký ức 3 lần được truy điệu sống của người lính công binh
ANTĐ 21 năm xông pha chiến trận, người lính
công binh này 3 lần được truy điệu sống, 1 lần người thân nhận giấy báo
tử. Thế nhưng, người lính này vẫn sống sót một cách kỳ diệu. Trở lại đời
thường, ông tìm cách để tri ân những người đồng đội đã hi sinh cho ông
được sống.
Người lính công binh 3 lần được truy điệu sống
Ông Nguyễn Văn Tài (SN 1949) quê ở Duy Minh, Duy Tiên, Hà Nam (nay trú tại số nhà 108, đường Hecman, phường Hưng Phúc, TP. Vinh, Nghệ An) sinh ra trong gia đình có 6 người con. Bố mẹ làm nông nên kinh tế rất khó khăn. Ngày còn trẻ, ông Tài học rất giỏi, đặc biệt là môn Văn. Năm 1967, vừa tròn 18 tuổi khi đường học đang rộng mở thì chàng thanh niên này quyết định xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Sau 3 tháng huấn luyện ở Thanh Hóa, ông Tài được phiên chế vào Đại đội công binh của Trung đoàn 2, Sư đoàn 324. Vừa vào chiến trường, ông Tài cùng đồng đội tham gia vào cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.
Ông Tài chia sẻ về những tháng ngày ở chiến trận
Sau chiến thắng của ta, địch điên cuồng trở lại càn quét. Lúc này lương thực, thuốc men đã dần cạn kiệt. Trung đoàn được lệnh hành quân ra Bắc nhằm củng cố lực lượng. 12 đồng chí, trong đó có ông Tài nhận nhiệm vụ chốt chặn để đơn vị rút quân. “Trước nhiệm vụ này, chúng tôi xác định bằng mọi cách phải chiến đấu đến người cuối cùng. Vào ngày 22/3/1969 cả Trung đoàn đã làm lễ truy điệu cho cả 12 người chúng tôi”, ông Tài nhớ lại.
Sau 3 ngày cầm cự, trung đội của ông Tài hi sinh gần hết. Cuối cùng chỉ còn lại Trung đội trưởng Thái Hữu Song và ông Tài. “Lúc này cả hai đều bị thương nhưng anh Song bị thương nặng hơn. Trước khi chết, anh Song nắm lấy tay tôi dặn phải cố gắng sống để báo cáo với Trung đoàn chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Địch dồn lên, tôi đã nghĩ đến việc sẽ sống mái với kẻ thù nhưng nhớ lời dặn của anh Song, tôi phải giả vờ chết rồi nằm lẫn giữa thi thể của đồng đội. Bọn địch kiểm tra từng thi thể một nhưng đến chỗ tôi và anh Song nằm thì đột nhiên chúng bỏ đi. Nhờ thế mà tôi thoát chết”, ông Tài kể lại. Sau lần đó, ông Tài mất 15 ngày vượt đường rừng có lúc ăn cua, ăn ốc sống để tìm đường về đến nơi đơn vị đóng quân.
Năm 1972, sau khi củng cố lực lượng, Trung đoàn 2 được lệnh trở lại đánh chiếm cao điểm 367 (nằm phía tây nam Trị - Thiên). Vào thời điểm này, địch xây dựng thế phòng ngự dày đặc trên cao điểm 367 bằng những hàng rào dây thép và chi chít bãi mìn.
Để anh em trung đoàn có thể tiếp cận được cao điểm, ông Tài cùng 2 đồng chí khác được cử đi dò gỡ mìn để tạo điều kiện cho anh em phá hàng rào mở cửa mở tấn công mục tiêu. Là nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm nên trước khi lên đường cả 3 người được đồng đội làm lễ truy điệu.
Ba người vừa trườn lên vị trí thì địch dùng hỏa lực bắn quyết liệt khiến chiến sĩ Phong (quê ở Thanh Hóa) hi sinh, chiến sĩ Tình (quê ở Hải Phòng) và ông Tài bị thương nặng. Bài mìn được vô hiệu hóa. Anh em ào lên dùng bộc phá đánh bật mấy lớp dây thép gai, mở cửa tấn công vào trung tâm cao điểm. Địch nhanh chóng bị tiêu diệt, quân ta hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.
Bức ảnh ông Tài (thứ 3 từ trái sang) chụp kỷ niệm với đồng đội ở Mũi Né – Phan Thiết
năm 1975.
Chiến tranh ngày càng ác liệt, vào tháng 2/1974, trung đoàn cử một trung đội công binh gồm 11 đồng chí có nhiệm vụ phá một chiếc cầu nằm giao nhau giữa Quảng Trị và Huế. Đây là điểm phân giới giữa ta và địch. Với nhiệm vụ này, 10 đồng chí phải ôm 1 quả bộc phá nặng 20kg đặt vào mặt cầu. Ông Tài có nhiệm vụ điểm hỏa khối bộc phá. Trước khi thực hiện nhiệm vụ, một lần nữa các anh được làm lễ truy điệu sống.
“Các anh em tiến vào cầu đặt bộc phá thì bên này quân ta sẽ bắn đạn để kìm địch. Khi mọi người rút đi thì tôi vào kích nổ quả bộc phá đầu tiên. Lần này tôi bị hất văng xuống sông mãi 4 ngày sau mới về lại được đơn vị. Cũng trong lần này, tôi bị sức ép lớn nên một bên tai bị điếc hẳn”, ông Tài cho biết.
“Đồng đội đã hi sinh cho tôi được sống”
Ba lần nhận nhiệm vụ cảm tử được đồng đội truy điệu sống nhưng người lính công binh này vãn sống sót trở về một cách kỳ diệu. Không những vậy, năm 1969, gia đình của ông Tài ở quê nhận được giấy báo tử. Ông Tài cho biết: “Lần đó, tôi mất tích 15 ngày mới trở về, đồng đội tưởng tôi đã hi sinh nên gửi giấy báo tử về cho gia đình. Mẹ tôi khóc hết nước mắt vì thương con.
Đến năm 1972, cả nhà biết tôi vẫn còn sống nên mới hủy bàn thờ đó”. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước liền một dải, năm 1978, ông Tài được lệnh sang chiến trường Camphuchia thực hiện nghĩa vụ quốc tế với nước bạn. Trước khi đi, ông Tài cùng đơn vị về huấn luyện tại Giang Sơn (Đô Lương, Nghệ An). Tại đây ông gặp cô dược sỹ Trần Thị Nga (cán bộ kỹ thuật Xí nghiệp dược phẩm tỉnh Nghệ An).
Ông Tài bên vợ của mình
Tình yêu chớm nở, ông Tài nên duyên vợ chồng với bà Nga bằng một
đám cưới giản dị. Cưới nhau được 1 tháng thì ông Tài nhận nhiệm vụ đưa
đơn vị sang giúp nước bạn Campuchia chống lại bọn Khơ –me đỏ. Ngày ông
Tài ra đi, bà Nga mới mang thai, đến năm 1979 thì sinh người con trai
đầu Nguyễn Thành Nam. 4 năm sau, người con gái thứ hai Nguyễn Thị Phương
Thanh ra đời.
Năm 1988, ông Tài về nước và chuyển ngành về làm chuyên viên Ban quản lý 85 của Bộ GTVT. Nhiều lần thoát chết hi hữu ở chiến trường, trở về đời thường suốt một thời gian dài người lính này từ chối nhiều phóng viên, nhà báo đến tìm hiểu viết bài. Bởi theo ông: “Đồng đội đã hi sinh cho tôi được sống đến hôm nay, vậy nên các phóng viên, nhà báo hãy tìm hiểu và viết về họ trước đã”.
Năm 1999, ông Tài về hưu. Nhàn rỗi, cựu chiến binh Nguyễn Văn Tài bắt đầu viết báo và tham gia viết lịch sử trung đoàn. Bà Nga chia sẻ về người chồng của mình: “Tôi và ông ấy đến với nhau bằng một đám cưới đơn giản trong thời chiến, nhưng ông ấy là người hiền lành, có trách nhiệm và rất yêu thương vợ con. Bao nhiêu năm ông ấy ra trận, tôi ở nhà nuôi nấng các con. Nay ông ấy đã về hưu, vợ chồng mới có thời gian bên nhau thế này”.
21 năm trong quân ngũ, đi hết chiến trường này đến chiến trường khác ông Tài được 19 lần phong tặng các danh hiệu dũng sỹ diệt Mỹ, dũng sỹ diệt Ngụy, dũng sỹ diệt xe tăng, dũng sỹ quyết thắng…, 16 lần được tặng huân, huy chương các loại.
Hiện tại, ông Tài là Chi hội trưởng Hội cựu chiến binh khối Yên Vinh, phường Hưng Phúc và là Ban chủ nhiệm hội thơ Tao đàn mùa xuân của Nghệ An. Tham gia công tác xã hội, người lính công binh ngày nào con tranh thủ viết về những câu chuyện cảm động ở chiến trường. Với ông hình ảnh những đôi mắt của đồng đội trước lúc sinh khiến ông không bao giờ quên được.
Ông Nguyễn Văn Tài (SN 1949) quê ở Duy Minh, Duy Tiên, Hà Nam (nay trú tại số nhà 108, đường Hecman, phường Hưng Phúc, TP. Vinh, Nghệ An) sinh ra trong gia đình có 6 người con. Bố mẹ làm nông nên kinh tế rất khó khăn. Ngày còn trẻ, ông Tài học rất giỏi, đặc biệt là môn Văn. Năm 1967, vừa tròn 18 tuổi khi đường học đang rộng mở thì chàng thanh niên này quyết định xếp bút nghiên lên đường nhập ngũ. Sau 3 tháng huấn luyện ở Thanh Hóa, ông Tài được phiên chế vào Đại đội công binh của Trung đoàn 2, Sư đoàn 324. Vừa vào chiến trường, ông Tài cùng đồng đội tham gia vào cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.
Ông Tài chia sẻ về những tháng ngày ở chiến trận
Sau chiến thắng của ta, địch điên cuồng trở lại càn quét. Lúc này lương thực, thuốc men đã dần cạn kiệt. Trung đoàn được lệnh hành quân ra Bắc nhằm củng cố lực lượng. 12 đồng chí, trong đó có ông Tài nhận nhiệm vụ chốt chặn để đơn vị rút quân. “Trước nhiệm vụ này, chúng tôi xác định bằng mọi cách phải chiến đấu đến người cuối cùng. Vào ngày 22/3/1969 cả Trung đoàn đã làm lễ truy điệu cho cả 12 người chúng tôi”, ông Tài nhớ lại.
Sau 3 ngày cầm cự, trung đội của ông Tài hi sinh gần hết. Cuối cùng chỉ còn lại Trung đội trưởng Thái Hữu Song và ông Tài. “Lúc này cả hai đều bị thương nhưng anh Song bị thương nặng hơn. Trước khi chết, anh Song nắm lấy tay tôi dặn phải cố gắng sống để báo cáo với Trung đoàn chúng tôi đã hoàn thành nhiệm vụ. Địch dồn lên, tôi đã nghĩ đến việc sẽ sống mái với kẻ thù nhưng nhớ lời dặn của anh Song, tôi phải giả vờ chết rồi nằm lẫn giữa thi thể của đồng đội. Bọn địch kiểm tra từng thi thể một nhưng đến chỗ tôi và anh Song nằm thì đột nhiên chúng bỏ đi. Nhờ thế mà tôi thoát chết”, ông Tài kể lại. Sau lần đó, ông Tài mất 15 ngày vượt đường rừng có lúc ăn cua, ăn ốc sống để tìm đường về đến nơi đơn vị đóng quân.
Năm 1972, sau khi củng cố lực lượng, Trung đoàn 2 được lệnh trở lại đánh chiếm cao điểm 367 (nằm phía tây nam Trị - Thiên). Vào thời điểm này, địch xây dựng thế phòng ngự dày đặc trên cao điểm 367 bằng những hàng rào dây thép và chi chít bãi mìn.
Để anh em trung đoàn có thể tiếp cận được cao điểm, ông Tài cùng 2 đồng chí khác được cử đi dò gỡ mìn để tạo điều kiện cho anh em phá hàng rào mở cửa mở tấn công mục tiêu. Là nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm nên trước khi lên đường cả 3 người được đồng đội làm lễ truy điệu.
Ba người vừa trườn lên vị trí thì địch dùng hỏa lực bắn quyết liệt khiến chiến sĩ Phong (quê ở Thanh Hóa) hi sinh, chiến sĩ Tình (quê ở Hải Phòng) và ông Tài bị thương nặng. Bài mìn được vô hiệu hóa. Anh em ào lên dùng bộc phá đánh bật mấy lớp dây thép gai, mở cửa tấn công vào trung tâm cao điểm. Địch nhanh chóng bị tiêu diệt, quân ta hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc.
Bức ảnh ông Tài (thứ 3 từ trái sang) chụp kỷ niệm với đồng đội ở Mũi Né – Phan Thiết
năm 1975.
Chiến tranh ngày càng ác liệt, vào tháng 2/1974, trung đoàn cử một trung đội công binh gồm 11 đồng chí có nhiệm vụ phá một chiếc cầu nằm giao nhau giữa Quảng Trị và Huế. Đây là điểm phân giới giữa ta và địch. Với nhiệm vụ này, 10 đồng chí phải ôm 1 quả bộc phá nặng 20kg đặt vào mặt cầu. Ông Tài có nhiệm vụ điểm hỏa khối bộc phá. Trước khi thực hiện nhiệm vụ, một lần nữa các anh được làm lễ truy điệu sống.
“Các anh em tiến vào cầu đặt bộc phá thì bên này quân ta sẽ bắn đạn để kìm địch. Khi mọi người rút đi thì tôi vào kích nổ quả bộc phá đầu tiên. Lần này tôi bị hất văng xuống sông mãi 4 ngày sau mới về lại được đơn vị. Cũng trong lần này, tôi bị sức ép lớn nên một bên tai bị điếc hẳn”, ông Tài cho biết.
“Đồng đội đã hi sinh cho tôi được sống”
Ba lần nhận nhiệm vụ cảm tử được đồng đội truy điệu sống nhưng người lính công binh này vãn sống sót trở về một cách kỳ diệu. Không những vậy, năm 1969, gia đình của ông Tài ở quê nhận được giấy báo tử. Ông Tài cho biết: “Lần đó, tôi mất tích 15 ngày mới trở về, đồng đội tưởng tôi đã hi sinh nên gửi giấy báo tử về cho gia đình. Mẹ tôi khóc hết nước mắt vì thương con.
Đến năm 1972, cả nhà biết tôi vẫn còn sống nên mới hủy bàn thờ đó”. Miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước liền một dải, năm 1978, ông Tài được lệnh sang chiến trường Camphuchia thực hiện nghĩa vụ quốc tế với nước bạn. Trước khi đi, ông Tài cùng đơn vị về huấn luyện tại Giang Sơn (Đô Lương, Nghệ An). Tại đây ông gặp cô dược sỹ Trần Thị Nga (cán bộ kỹ thuật Xí nghiệp dược phẩm tỉnh Nghệ An).
Ông Tài bên vợ của mình
Năm 1988, ông Tài về nước và chuyển ngành về làm chuyên viên Ban quản lý 85 của Bộ GTVT. Nhiều lần thoát chết hi hữu ở chiến trường, trở về đời thường suốt một thời gian dài người lính này từ chối nhiều phóng viên, nhà báo đến tìm hiểu viết bài. Bởi theo ông: “Đồng đội đã hi sinh cho tôi được sống đến hôm nay, vậy nên các phóng viên, nhà báo hãy tìm hiểu và viết về họ trước đã”.
Năm 1999, ông Tài về hưu. Nhàn rỗi, cựu chiến binh Nguyễn Văn Tài bắt đầu viết báo và tham gia viết lịch sử trung đoàn. Bà Nga chia sẻ về người chồng của mình: “Tôi và ông ấy đến với nhau bằng một đám cưới đơn giản trong thời chiến, nhưng ông ấy là người hiền lành, có trách nhiệm và rất yêu thương vợ con. Bao nhiêu năm ông ấy ra trận, tôi ở nhà nuôi nấng các con. Nay ông ấy đã về hưu, vợ chồng mới có thời gian bên nhau thế này”.
21 năm trong quân ngũ, đi hết chiến trường này đến chiến trường khác ông Tài được 19 lần phong tặng các danh hiệu dũng sỹ diệt Mỹ, dũng sỹ diệt Ngụy, dũng sỹ diệt xe tăng, dũng sỹ quyết thắng…, 16 lần được tặng huân, huy chương các loại.
Hiện tại, ông Tài là Chi hội trưởng Hội cựu chiến binh khối Yên Vinh, phường Hưng Phúc và là Ban chủ nhiệm hội thơ Tao đàn mùa xuân của Nghệ An. Tham gia công tác xã hội, người lính công binh ngày nào con tranh thủ viết về những câu chuyện cảm động ở chiến trường. Với ông hình ảnh những đôi mắt của đồng đội trước lúc sinh khiến ông không bao giờ quên được.
Chủ Nhật, 27 tháng 9, 2015
Đôi điều về bạn Dũng
“Hào khí bút nghiên” lời tri ân của tuổi trẻ với các anh hùng liệt sỹ
Cập nhật lúc
23:37,
Thứ Bảy,
01/09/2012
(GMT+7)
Web.ĐTN: Hoà trong khí thế hào hùng kỷ niệm 67 năm ngày
Cách mạng tháng 8 thành công và Quốc khánh 2/9 – ngày Tết Độc lập của
dân tộc, nhằm tiếp lửa truyền thống yêu nước, uống nước nhớ nguồn và
khắc sâu những giá trị hoà bình từ hy sinh cao cả của bao thế hệ thanh
niên, sinh viên đi trước, tối ngày 01/9, tại Quảng trường Giải phóng,
thị xã Quảng Trị, Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam và Trung tâm Hỗ trợ
& Phát triển Sinh Viên Việt Nam đã tổ chức chương trình nghệ thuật
sử thi với chủ đề “Hào khí bút nghiên”.
>> 500 sinh viên tham dự Hội trại "Nở hoa Độc lập"
>>Tuổi trẻ hôm nay nguyện xứng đáng với sự hy sinh của các anh
Hát múa "Ngôi nhà tri thức" |
Chương trình với những lời ca, câu hát là tiếng lòng của lớp lớp sinh
viên hôm nay dành để tri ân và tưởng nhớ đến công lao to lớn của thế hệ
cha anh. Sinh viên Việt Nam hôm nay và mai sau sẽ viết tiếp những trang
sách của các anh, các chị và nguyện phấn đấu học tập xây dựng đất nước
Việt Nam đẹp giàu.
Đến dự chương trình có đồng chí Nguyễn Thị Hà, Bí thư Trung ương Đoàn,
Chủ tịch Hội đồng Đội Trung ương; đồng chí Thái Vĩnh Liệu, Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh ủy Quảng Trị; cùng đại diện lãnh đạo các ban, đơn vị
của Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trung ương Hội Sinh viên Việt Nam,
lãnh đạo các sở, ban ngành tỉnh Quảng Trị, lãnh đạo các tỉnh, thành
Đoàn, Hội Sinh viên các tỉnh thành phố, các phòng ban thị xã Quảng và
đặc biệt là sự hiện diện của gần 1000 sinh viên ưu tú từ các trường Đại
học trên cả nước đã hội tụ về đây và trực tiếp tham gia vào các tiết mục
nghệ thuật của chương trình.
Sinh viên là lực lượng nòng cốt và quan trọng của thanh niên Việt Nam.
Đảng và Bác Hồ luôn coi trọng và dành sự quan tâm đặc biệt đến hoạt động
bồi dưỡng và phát triển Sinh viên Việt Nam – những chủ nhân Vàng tương
lại của đất nước. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Sinh viên Việt
Nam luôn ý thức được sứ mệnh và trách nhiệm cao cả của mình đối với sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước. Trong hai cuộc kháng chiến chống
giặc ngoại xâm, lớp lớp sinh viên đã xếp bút nghiên lên đường ra trận
theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc. Và biết bao sinh viên chiến sỹ
ấy đã hy sinh xương máu, vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Và chính
tại nơi đây, trên mảnh đất Quảng Trị thân yêu này, hàng vạn sinh viên
đã ngã xuống, dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho sự vẹn nguyên của tổ
quốc và sự bình yên cho các thế hệ mai sau.
Tri ân các anh hùng liệt sỹ đã hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước |
Phát biểu tại chương trình, anh Lê Hoàng Anh, Phó Chủ tịch Trung ương
Hội Sinh viên Việt Nam đã nhấn mạnh: Chương trình “Hào khí bút nghiên”
là lời tri ân của thế hệ sinh viên hôm nay với các anh hùng liệt sỹ, với
các chiến sỹ - sinh viên năm xưa; là lời hứa quyết tâm học tập, rèn
luyện, xung kích, tình nguyện phấn đấu trở thành những "Sinh viên 5 tốt"
với đạo đức tốt, học tập tốt, kỹ năng tốt, thể lực tốt, hội nhập tốt.
Anh tin tưởng lớp lớp sinh viên hôm nay và mai sau sẽ thực hiện tiếp ước
mơ, hoài bão của các anh và mong ước của Bác Hồ kính yêu “…xây dựng
nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Sánh vai với các cường quốc năm
châu…”
Hát múa "Tự nguyện" |
Bài hát "Gửi lại em" |
Tuổi xuân hiến dâng cho đất nước |
Nhằm tái hiện lại bằng hình ảnh và âm nhạc về không khí sục sôi của lớp
lớp sinh viên xếp bút nghiên lên đường ra trận cũng như khát vọng của
thế hệ sinh viên ngày nay đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước, chương trình “Hào khí bút nghiên” được xây dựng với 3 phần: Chương I: Hào khí bút nghiên là
các bài hát và hoạt cảnh tái hiện hoàn cảnh lịch sử khi đất nước đang
chia cắt hai miền Nam - Bắc. Các thế hệ học sinh, sinh viên đang hăng
say học tập, xây dựng đất nước. Nhưng khi đất nước có chiến tranh, mỗi
sinh viên, học sinh đều xác định được trách nhiệm của mình sẵn sàng rời
ghế nhà trường “xếp bút nghiên lên đường chiến đấu”. Chương II: Tổ quốc gọi sinh viên lên đường,
bao gồm các bài hát và hoạt cảnh, lời bình tái hiện lại lịch sử của các
thế hệ sinh viên, học sinh những năm xếp bút nghiên lên đường chiến đấu
bảo vệ Tổ Quốc : Hình ảnh những chiến sĩ - sinh viên, học sinh hành
quân trên đường Trường Sơn ; tái hiện sinh động tinh thần chiến đấu, hy
sinh của các chiến sĩ, chiến sĩ sinh viên trong 81 ngày đêm bảo vệ Thành
cổ Quảng Trị cách đây 40 năm. Chương III: Vinh quang sinh viên Việt Nam,
là những hoạt cảnh, lời bình, bài hát ghi nhận những hy sinh, mất mát
của các sinh viên, học sinh chiến đấu vì nền độc lập của dân tộc; các ca
khúc ca ngợi hình ảnh tươi đẹp của đất nước, đồng thời thể hiện trách
nhiệm của các thế hệ sinh viên, học sinh tích cực, hăng say học tập,
nghiên cứu khoa học, rèn luyện, xung kích tình nguyện chung sức cùng
cộng đồng, góp sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN ngày càng
giàu mạnh, văn minh.
Hát múa "Hành khúc tương lai" |
Hát múa "Bài ca sinh viên" |
Sinh viên cháy hết mình trong chương trình "Hào khí bút nghiên" |
Tự hào về truyền thống vẻ vang của các thế hệ cha anh, thông qua chương
trình, thế hệ sinh viên hôm nay sẽ nguyện tiếp tục phát huy khí phách
hào hùng, cống hiến tuổi trẻ, trí tuệ và bầu nhiệt huyết của mình, phấn
đấu học tập, nghiên cứu khoa học, nỗ lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
của mình trong sự nghiệp CNH-HĐH, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ
tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đông Hà
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét