Thứ Hai, 8 tháng 10, 2018

BÍ ẨN LỊCH SỬ 88

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Pháp “Làm Gỏi” TQ Trên Đất Việt, Từ Đó VN Thoát Tàu Thuộc PHÁP
Lấy cớ giúp nhà Nguyễn tiễu trừ phỉ, Nhà Thanh đã cử quân sang giúp VN. Trong dịp này Pháp đãng xâm lược VN, cuối cùng thì TQ cũng đc Pháp tiễn lên đường, nhưng bù lại Pháp thay Tàu đô hộ Vn 

Một cách nhìn của Trần Huy Liệu về quân Cờ Đen

Đề tài Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen trong cuộc kháng Pháp ở Việt Nam hồi cuối thế kỷ XIX đã được nhiều nhà sử học ở trong và ngoài nước như Pháp, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, v.v… quan tâm và nghiên cứu. Trong những năm 1960, trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử đã mở ra nhiều cuộc tranh luận nhằm đánh giá lại nhiều nhân vật và sự kiện lịch sử. Trong khi một số nhà sử học đề cao những đóng góp của Lưu Vĩnh Phúc đối với công cuộc kháng Pháp của Việt Nam, thì Trần Huy Liệu lại có cách nhìn nhận khác (1). Chúng ta hãy cùng nhau xem lại quan điểm này.
Francis Garnier bị quân Cờ Đen đâm chết ở Cầu Giấy.
Francis Garnier bị quân Cờ Đen đâm chết ở Cầu Giấy.

Trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 42, năm 1962, Trần Huy Liệu đã dũng cảm và trung thực khi biểu lộ thái độ tôn trọng sự thực khách quan trong bài viết nhan đề: “Góp ý kiến về việc đánh giá Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen trong cuộc kháng Pháp ở Việt Nam”. Ông viết: “Tôi chắc các bạn cũng đồng ý với tôi rằng: đánh giá Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen trong cuộc kháng Pháp ở Việt Nam là một vấn đề phức tạp, cần phải nhìn vào nhiều mặt với những khía cạnh của nó. Nếu chỉ nhìn vào một mặt nào thì tất nhiên tránh không khỏi phiến diện, chủ quan rồi hoặc khen quá hoặc chê quá…
Muốn tránh những suy luận chủ quan hoặc thổi phồng lên, hoặc bóp méo đi, tôi dịch ra đây một bài hịch thề quân của Lưu Vĩnh Phúc. Đọc nó, chúng ta chẳng những thấy tinh thần quả cảm của Lưu mà còn thấy cả lập trường của Lưu để đánh giá Lưu cho đúng…
            “Đề đốc tam tuyên oai hùng đại tướng quân… thề với ba quân: Nước Việt Nam từ khi cống chim trĩ trắng đã biết Trung Quốc có thánh nhân nên không dám đứng riêng lẻ ở ngoài, mà vẫn sống trong vòng che chở đùm bọc. Vài nghìn năm trở lại đây, Trung Quốc đối đãi bằng tấm lòng thành thực, lại ban ơn huệ, yêu như ruột thịt, thân như gia đình. Nếu gặp hoạn nạn từ ngoài đến hay từ trong sinh ra đều được thiên triều giúp đỡ. Thần dân Việt Nam chỉ biết có Trung Quốc, không biết có nước nào khác, nên không giao thiệp với nước ngoài.
            “Nước Việt Nam dẫu bé nhỏ, trước kia làm người bầy tôi không xâm lấn, không phản bội của Trung Quốc. Nay nước Việt Nam có nạn tất nhiên phải được Trung Quốc giúp đỡ… Chịu ơn sâu, nghĩa nặng của vị Đại hoàng đế Trung triều, tôi không thể đùn đẩy trách nhiệm cho ai, các binh sĩ cũng vì nghĩa không được phép từ chối… giặc với ta thề không cùng đứng.  Ta với giặc nghĩa không thể cùng sống. Nay các quân sĩ chúng ta phải đem hết thần uy để xông lên phía trước, chỉ có tiến chứ không có lùi. Ai giết một đầu Tây thì được thưởng 50 lạng bạc. Nếu kẻ cầm đầu thì được thưởng gấp đôi… Các binh sĩ ai muốn nhân phen này lập công to nghiệp lớn hãy theo ta cùng bước”.
            Qua bài hịch kể trên, chúng ta thấy gì?
– Lưu Vĩnh Phúc có tinh thần chống đế quốc chủ nghĩa, nói rõ hơn là chống Pháp xâm lược. Cố nhiên là ta không thể đòi Lưu và đồ đảng phải có tinh thần chống đế quốc chủ nghĩa theo kiểu ngày nay. Tinh thần bài Pháp lúc ấy còn có pha cả tính chất bài ngoại.
Điểm thứ hai mà chúng tôi nhận thấy là quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc không phải là một đội quân đánh thuê như có người đã nói, mà là đạo quân chiến đấu có mục đích rõ ràng. Chúng ta vẫn không quên quân Lưu khi mới sang Việt Nam không phải mục đích là sang đánh Pháp ở nước ta, mà còn sống theo lối lưu khấu, cát cứ từng địa phương và cướp bóc nhân dân, nhưng sau khi được triều đình Huế dung nạp rồi thì đạo quân của Lưu trở nên là địch thủ số một của quân xâm lược Pháp, là kẻ thù không thể hòa giải được đối với thực dân Pháp.
Điểm thứ ba mà chúng tôi muốn nhấn mạnh vào là quan điểm và lập trường của Lưu Vĩnh Phúc. Như trong văn kiện của Lưu đã nói lên rõ ràng, quan điểm và mục đích kháng Pháp của Lưu ở Việt Nam vẫn không ra ngoài khuôn khổ của các vị tướng “thiên triều” và “thượng quốc” hồi ấy. Trong quyển Bắc Kỳ kháng Pháp của đồng chí Trần Văn Giàu có trích đăng bài hịch thứ nhất của Lưu Vĩnh Phúc do đồng chí Chu Thiên dịch, tiếc rằng đã “quên” không dịch đoạn đầu của bài hịch nên tôi xin phép dịch bổ sung vào để các bạn thấy rõ thêm:
            “Phó đề đốc Tam Tuyên là Lưu Vĩnh Phúc xin bố cáo về tội ác của Pháp. Nước Việt Nam kể từ khi nhà Tần nhà Hán trở về đều thuộc vào nước Trung Hoa, đến nhà Tống mới đứng ra khu vực ngoài. Trước nhà Minh còn đặt thành hàng tỉnh, cho đến triều Đại Thanh, dẫu vua nước Việt có thay triều đổi họ cũng vẫn dự hàng phiên thuộc, cống nạp có định kỳ. Việc này đã chép trong sử sách, dẫu một đứa trẻ con cũng đều biết Việt Nam là thuộc quốc của Đại Thanh, có lẽ nào chỉ nước Pháp là không nghe biết ư? Nếu Pháp đã hòa hiếu với Trung Quốc mà lại còn động chạm tới thuộc quốc của Trung Quốc, như thế là dùng binh với nước Việt khác gì dùng binh với Trung Quốc. Gây hấn là do người Pháp trước nên Đại hoàng đế Trung Quốc cả giận, phái quân đi đánh, nước Pháp còn nói gì được nào? Như thế quân Trung Quốc kéo vào Việt Nam, nước Pháp cũng không thể viện đến công pháp quốc tế, nói là hai nước đương đánh nhau, một nước ngoài khác không thể can thiệp vào để áp dụng ở đây được”.
            Có lẽ tôi không phải dịch để dẫn chứng nhiều hơn nữa về quan điểm tham chiến của Lưu Vĩnh Phúc do Lưu tự nói ra. Cũng phải thấy thêm rằng: đạo quân Cờ Đen khi tham chiến ở Việt Nam về danh nghĩa, là dưới quyền của tiết chế quân vụ Hoàng Kế Viêm nên tới khi triều đình Huế hàng Pháp thì quân Cờ Đen cũng phải rút. Cũng sau khi triều đình Huế hàng Pháp rồi, phong trào khởi nghĩa của các văn thân, dựa vào nhân dân các địa phương, nổi dậy từ Nam chí Bắc thì lúc ấy quân Cờ Đen đã rút về Trung Quốc rồi. Ý tôi muốn nói quân Cờ Đen khi đánh Pháp ở Việt Nam vẫn nằm trong khuôn khổ của triều đình Huế, chưa phải dựa được vào nhân dân Việt Nam, tiếp hợp với luồng khởi nghĩa của các nhân sĩ ái quốc Việt Nam để kéo dài cuộc kháng Pháp tới vài chục năm sau, do đó, muốn cho quân Cờ Đen tính chất nhân dân điểm mầu sắc quốc tế hay tiêu biểu cho mối đồng minh chiến đấu của hai dân tộc Việt – Trung cũng thật là khó thông và có lẽ chính Lưu Vĩnh Phúc, thủ lĩnh quân Cờ Đen, cũng không dám nhận như vậy.
Chúng ta một mặt khẳng định thành tích to lớn trong cuộc đánh Pháp của quân Cờ Đen, thì một mặt khác, chúng ta cũng không được chối cãi những hành vi lưu manh của quân Cờ Đen đã xâm phạm đến tính mạng và tài sản của nhân dân Việt Nam. Nhiều bạn đã dồn cả những chuyện tội ác ấy là do thực dân Pháp bịa ra để bôi nhọ đạo quân chiến thắng Cờ Đen và hòng phá hoại tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung – Việt. Nhưng có phải tất cả những chuyện có ghi trên sử sách và truyền tụng trong dân gian đều là do kẻ thù của chúng ta “nặn” ra cả hay không? Ngày nay chúng ta bàn đến vấn đề này thì sự việc diễn ra đã cách với chúng ta đến gần tám, chín mươi năm, nhưng những ấn tượng rùng rợn, những chuyện khủng khiếp còn lưu hành trong dân gian, do các cố lão kể lại, đi đến đâu cũng có thể nghe thấy được. Chúng ta có thể không tin hết thẩy đều là sự thật cả, nhưng nhất định không thể nói là “hư cấu” cả. Có bạn đã nói với tôi rằng: quân Cờ Đen có xâm phạm đến tính mạng và tài sản của một số người Việt Nam nhưng có thể là đối với bọn địa chủ, bọn phản động, chứ không phải đối với nhân dân Việt Nam nói chung. Nói theo kiểu này thì những việc giết người cướp của của toán quân Cờ Đen nào đó lại đứng trên lập trường giai cấp, không nên quở trách mà lại đáng tán dương nữa là khác. Tôi không hiểu các bạn đọc yêu quý có ai đồng tính với cái “thuyết” này không? Với óc tưởng tượng chủ quan và ngụy biện, giả thuyết này đã quay lưng lại sự thật do đông đảo nhân dân đề ra, mà lại còn đem cả quan điểm người đời nay để gán cho người đời xưa một cách phi lịch sử?
Một số bạn đọc khác đã rơi vào “thành phần chủ nghĩa”, chỉ nhìn quân Cờ Đen là những người nông dân chống phong kiến ở Trung Quốc hay gán cho quân Cờ Đen là dư đảng của Thái Bình thiên quốc để đi đến kết luận rằng quân Cờ Đen là đạo quân nông dân, đạo quân cách mạng mà đã là nông dân thì chắc là tốt rồi. Ở đây, tôi không cần phải dựa vào tài liệu để chứng minh rằng quân Cờ Đen với thành phần nông dân thì cũng không đủ để đảm bảo rằng nó sẽ không trở nên lưu manh, thoái hóa… Chẳng những thế, một đoàn quân thất cơ lỡ vận đã từng lấy cướp bóc làm kế sinh nhai, lưu lạc ở nước ngoài thì làm sao còn giữ được phong độ của một đạo quân chống phong kiến, còn giữ được tính chất lương thiện của người nông dân?”
Trên đây là những luận điểm chính của Trần Huy Liệu về Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen. Lưu Vĩnh Phúc đặt mục tiêu chính khi tham chiến chống thực dân Pháp xâm lược tại Việt Nam là để bảo vệ cho “thuộc quốc của Đại Thanh” như họ Lưu từng tuyên bố nên quân Cờ Đen đã gây ra biết bao tai họa cho nhân dân Việt Nam. Ông Nguyễn Việt, bút danh Nguyễn Văn Nhân, cán bộ nghiên cứu Ban Lịch sử Cận đại Việt Nam, Viện Sử học, đã chứng minh cho những luận điểm của Trần Huy Liệu bằng cách cung cấp thêm những bằng chứng cụ thể và xác thực trong bài viết: “Cuộc điều tra về hành động của quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc tại một số làng thuộc ngoại thành Hà Nội” (2), đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử năm 1962, số 42, từ trang 26 đến trang 9. Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu những điểm chính của bài viết này:
Theo sự phân công của tòa soạn tập san Nghiên cứu Lịch sử, chúng tôi đã về một số làng thuộc ngoại thành Hà Nội. Sau đây, chúng tôi ghi không thêm không bớt, đúng như lời các cụ phụ lão đã nói với chúng tôi.
Cụ tôi, nguyên là một võ sinh, lúc quân Cờ Đen về vùng này. Cụ tôi thường kể lại rằng quân Cờ Đen đánh rất táo bạo, nhưng phải cái hay tàn sát hãm hiếp nhân dân… Ở làng Nghĩa Đô, xóm Giếng có rào tre kín dân xóm không chạy. Khi quân Cờ Đen đến họ phá được cổng xóm vào cho nên xóm Giếng bị phá nhiều nhất, đàn ông bị giết và đàn bà sau khi bị hiếp, cũng bị giết chết… Ở nơi nào dân không chống cự, thì đàn ông bị bắt đi tải đồ, đàn bà bị hiếp, của cải bị cướp đi. Ai chống cự lại lập tức bị chém đầu. Cụ Đặng Nghị 72 tuổi, ở xóm An Phú (Nghĩa Đô) nói: “Thường đàn ông bị bắt đi khuân vác. Vào làng nào là vơ vét gà, vịt và bổ đi bắt lợn. Gặp đàn bà thì dù già trẻ cũng đều bị hiếp và họ thay phiên nhau để hiếp. Theo các cụ kể lại như vậy là tuy Cờ Đen có thắng được Tây nhiều trận, nhưng vì quá tàn ác cho nên đã mất lòng dân, ở xã tôi và các xã xung quanh, hiện còn có tục là hễ nhà nào có chó dữ hoặc gà sống hay đạp mái, thì gọi con chó hoặc con gà đó là con “Cờ Đen”.
Cụ Lại Phú Be thuật lại: Sau khi thắng Pháp ở Cầu Giấy, quân Cờ Đen đi cướp bóc, giết, hiếp nhiều lắm làm cho dân xã chúng tôi căm phẫn. Cụ xã đoàn coi chùa Quan Âm có mở một tiệc rượu thết mấy tên tướng Cờ Đen rồi sau chuốc cho chúng say, giết luôn cả bọn. Sau đó cụ phải trốn khỏi chùa trong 5, 6 tháng. Chùa bị Cờ Đen phá sập, mãi về sau mới được dân dựng lại.
Làng Hồ Khẩu ở Bưởi cũng là một làng bị Cờ Đen tàn phá rất nhiều. Người đi đã khổ, người ở lại làng thì càng khổ hơn nữa. Một số trai tráng ở lại tổ chức bảo vệ xóm làng, mặc áo giấy bản bồi, phần lớn đều bị giết. Người chỉ huy là cụ Bát cũng bị giết. Vợ cụ Bát có mang gần ngày đẻ bị Cờ Đen bắt hiếp trụy thai… Cụ tôi có nói rằng tuy Cờ Đen thắng Tây nhưng dân làng rất oán ghết vì ngoài việc bắn giết hiếp tróc, bọn chúng còn vơ vét của cải từ nồi niêu, bát đĩa đến lợn, gà, vịt… Khi dân làng trở về thì gần như trắng tay, chỉ còn một số giấy vất vào bể nước là nguyên vẹn… Đến lúc Cờ Đen rút đi, dân làng, vì làm nghề giấy là chính, có rất ít ruộng đất, cho nên hàng năm sau vẫn chưa phục hồi lại được.
Bà cụ thân sinh ra chúng tôi nói chuyện lại là có những bà mẹ, thấy con gái còn bé bị hiếp, kêu van xin chịu thay con, liền bị chém băng đầu… Trước Cách mạng tháng Tám, vào trung tuần tháng Tư, gần như hầu hết các gia đình thôn tôi, đều có giỗ cụ, giỗ ông bà, giỗ bố…, tức là giỗ những người chết vì Cờ Đen”.
Ở Trung Quốc, quê hương của Lưu Vĩnh Phúc, từ lâu nhiều học giả đã luôn luôn tán dương và đề cao họ Lưu. Gần 50 năm sau bài viết của Trần Huy Liệu, tạp chí Trí thức thế giới dưới quyền chủ quản của Bộ Ngoại giao Trung Quốc số 14 ra ngày 16-7-2011 có loạt bài viết trong một chủ đề lớn “Loạt bài về ‘câu chuyện không thể không nói’ giữa Trung Quốc và Việt Nam” (3). Tôn Hồng Niên, nghiên cứu viên thuộc Trung tâm nghiên cứu sử địa biên giới, Viện Khoa học xã hội Trung Quốc, là tác giả của bài viết: “Lịch sử và chân thực: diễn biến quan hệ Trung – Việt trước năm 1949”. Ở phần 3 có nhan đề “Sát cánh chiến đấu từ thời kỳ cận đại”, ông viết: “Quan hệ giữa nhân dân hai nước được thể hiện bằng việc hai nước cùng chống lại xâm lược của nước ngoài. Sau năm 1885 dù là “phong trào Cần Vương” (đấu tranh vũ trang chống Pháp) do giới quý tộc ở Việt Nam phát động hay là khởi nghĩa nông dân, cùng đều được quân Cờ Đen là lực lượng vũ trang ở khu vùng Quảng Tây ủng hộ”.
Trong bài “Biến đổi trăm năm trong chiến lược ngoại giao nước lớn của Việt Nam”, hai tác giả Tôn Hồng Niên – Vương Sâm: Giáo sư, Viện Nghiên cứu Việt Nam, Học viện chủ nghĩa Mác, Đại học Trình Châu, đã viết: “Trong vua quan nhà Nguyễn có người mang ảo tưởng đối với “chủ quyền và độc lập hoàn toàn”, quân và dân yêu nước lại lo lắng đến âm mưu ở phía sau, tự phát cùng với quân Cờ Đen do Lưu Vĩnh Phúc lãnh đạo chống lại quân Pháp, đồng thời kêu gọi vua Tự Đức sớm sang cầu viện Trung Quốc kịp thời. Sau năm 1880, quân Pháp ráo riết tấn công Việt Nam, vua Tự Đức mới ý thức được tính chất nghiêm trọng của vấn đề, nhiều lần cử người sang Trung Quốc cầu viện. Chính phủ Trung Quốc vì thế đã nhiều lần giao thiệp với Pháp, lại trên cơ sở quan hệ tông – phiên làm cơ sở, đưa quân đến đóng ở Bắc Bộ Việt Nam, tiếp theo chiến tranh Trung – Pháp nổ ra, lửa chiến đấu lan đến ven biển Trung Quốc, cho đến năm 1885, Trung Quốc mới không thể không thừa nhận Việt Nam do Pháp “bảo hộ”.
Việc đánh giá Lưu Vĩnh Phúc giữa các nhà sử học luôn có sự khác biệt từ trước đến nay. Xem xét những cách nhìn khác nhau về Lưu Vĩnh Phúc và quân Cờ Đen giúp chúng ta tìm ra sự thực lịch sử và thấy rõ hơn giá trị những luận điểm của Trần Huy Liệu.

  1. Bải viết đăng trên Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 110 năm ngày sinh GS.VS. Trần Huy Liệu (1901 – 2011), Hà Nội, 11-2011.
  2. 2. Nay nhiều làng này đã chuyển lên thành phường thuộc các quận nội thành Hà Nội, như làng Giảng Võ thành phường Giảng Võ, quận Ba Đình…
  3. 3. Loạt bài về “câu chuyện không thể không nói” giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tài liệu tham khảo đặc biệt Thông tấn xã Việt Nam. Chủ nhật, ngày 21-8-2011, TTXVN (Bắc Kinh 31/7).

Ngô Văn Hoà
 
TRIỀU ĐÌNH NGUYỄN Mượn Tay QUÂN CỜ ĐEN TQ Để Dẹp Giặc Pháp Và Cái Giá Phải Trả
Lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam là lịch sử làm ruộng. Suốt mấy nghìn năm kể từ ngày dựng nước ông cha ta đã bám chặt mảnh đất quê hương, khai hoang ruộng đất, cải tạo thiên nhiên để nuôi sống mình và qua đó từng bước mở mang bờ cõi, xây dựng cơ đồ để lại cho con cháu về sau. Ít nhất là hai nghìn năm, kể từ khi sử thành văn bắt đầu ghi chép, hầu như không một thế hệ nào nhân dân ta có thể ngưng giùn giữ giang sơn. Và trong 1 giai đoạn pháp thuộc, chúng ta đã từng có 1 bài học về việc mượn quân cờ đen để dọn dẹp pháp

Hoàng Kế Viêm và quan hệ với Lưu Vĩnh Phúc (Phần I)

Sau khi Thư Thăng Long giới thiệu bài “Hà Nội 21 cửa ô và Hà Nội 5 cửa ô” của nhà văn Đặng Thân, có rất nhiều bạn đọc viết thư yêu cầu Thư Thăng Long cho biết thêm những thông tin về Hoàng Kế Viêm. Thư Thăng Long xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà văn Đặng Thân về nhân vật lịch sử này.


I- Thân thế Hoàng Kế Viêm và những chiến công hiển hách
Sau khi bài viết “Hà Nội 21 cửa ô và Hà Nội 5 cửa ô” (ban đầu có tên là “Từ các cửa ô Hà Nội đến Ô Cầu Giấy”) được đăng trên TS, tôi rất xúc động vì đã nhận được nhiều ý kiến rất tâm huyết. Trong các ý kiến đều phần nhiều băn khoăn về vai trò của Hoàng Kế Viêm trong các chiến thắng trước quân Pháp ở Ô Cầu Giấy vào cuối thế kỉ XIX.
Chẳng hạn như ý kiến đáng quý của độc giả Quan Thế Dân:
Xin nhấn mạnh là tôi bị bất ngờ về cụ Hoàng Kế Viêm. Tôi tự nhận là có yêu thích lịch sử Hà Nội, nhưng vẫn bất ngờ với tư liệu trên. Theo sử phổ thông lâu nay vẫn nói thì chiến thắng Cầu Giấy là do quân nhà Thanh do tướng Lưu Vĩnh Phúc sang giúp, sau đó Pháp phải ký với triều đình Mãn Thanh hòa ước, rút quan Cờ Đen về, thì Pháp mới rảnh tay bình định Bắc Kỳ. Có lẽ vì thế mà chiến thắng Cầu Giấy không được sử ta đề cao… Vì thế chúng ta nên sưu tầm thêm tài liệu để khẳng định chiến công của cụ Hoàng Kế Viêm - tài liệu như bạn Đặng Thân trích dẫn còn hơi mỏng về chứng cứ. Nếu thật sự thì đây là chiến công vô cùng chói lọi, lịch sử cần ghi công, Hà Nội phải có địa danh lưu danh.
Hoang Ke Viem va quan he voi Luu Vinh Phuc (Phan I)
Ô Cầu Giấy - Nguồn ảnh: nguyentl.free.fr

Hay là băn khoăn của độc giả Đặng Văn Em:

Tôi cũng thấy băn khoăn là Hà Nội có nhiều nhà Hà Nội học sao lại để quên một tướng tài như Hoàng Kế Viêm, ông đáng được sớm có tên của một đường phố Hà Nội lắm chứ. Mong sao nếu sự thực được xác định thì nên ghi danh cụ muộn còn hơn không.


Độc giả Nguyễn Quang Tuyến dứt khoát:

Tôi không hiểu sao Hà Nội đặt rất nhiều tên phố mới mà đến tôi, một người tương đối "thông kim bác cổ" cũng không biết đó là danh nhân nào trong khi đó những nhân vật như Hoàng Kế Viêm hay xa hơn nữa là Khúc Thừa Dụ thì không thấy có. Giá như tôi có quyền thì một trong những đường phố mới to đẹp tại Cầu Giấy sẽ mang tên Hoàng Kế Viêm vì ông xứng đáng được điều đó.
Độc giả Nguyễn Thông hỏi thẳng thừng:

Xin hỏi các nhà quản lý đô thị ở nước ta: Những danh nhân như Hoàng Kế Viêm, Trương Quang Đản không xứng đáng đặt tên cho một con đường nào đó hay sao? Cả Lưu Vĩnh Phúc (Cờ Đen) nữa. Cần phải thay đổi tư duy bó buộc lâu nay, như thế mới công bằng, mới là tôn trọng lịch sử.
Từ tận TP. Hồ Chí Minh, độc giả Nguyễn Vũ bức xúc:

Tác giả có thể nghiên cứu và viết thêm tiểu sử của cụ Hoàng Kế Viêm không? Thật khâm phục chiến công và cách sống của cụ.
Tôi cũng rất chú ý đến ý kiến của độc giả Phạm Xuân Tuyền trên báo Hà Nội Mới:

Tôi là một người yêu lịch sử và rất tự hào và ngưỡng mộ danh tướng Hoàng Kế Viêm nhất là với 2 lần chiến thắng vẻ vang và ấn tượng trước quân Pháp trong một thời điểm lịch sử rất nhạy cảm. Chiến thắng của ông phần nào đã trả thù xứng đáng cho sự hy sinh của 2 vị tổng đốc Hà Nội và 2 lần thất thủ thành. Thời gian này quả thật rất thích hợp để giới thiệu và hệ thống lại, bổ sung cuộc đời, sự nghiệp. Với lý do trên, tôi rất mong được đọc tiếp phần cuộc đời sau đó của anh hùng Hoàng Kế Viêm (ông xứng đáng là anh hùng với chiến công và tư cách của mình) sau khi vua Tự Đức từ trần.

Để góp phần minh định vấn đề mà các độc giả đáng kính nêu lên, tôi xin trình bày thêm về vấn đề này. Trên hết xin hãy cùng tìm hiểu thêm về thân thế của Hoàng Kế Viêm và các mối quan hệ của ông với các sự kiện lịch sử.

Hoàng Kế Viêm (1820 – 1909), còn gọi là Hoàng Tá Viêm (“Tá” là tên lót do vua Minh Mạng đặt), tự Nhật Trường, hiệu Tùng An. Ông người làng Văn La, tổng Văn Đại, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình, là con của cụ Hoàng Kim Xán (sau làm đến chức Thượng thư Bộ Hình). Sau khi Hoàng Kế Viêm thi đỗ cử nhân vào năm 1843 thời vua Minh Mạng, ông được bổ Tư vụ, hàm Quang Lộc tự khanh. Ông kết duyên với con gái thứ 5 của vua Minh Mạng là công chúa Hương La. Đám cưới của ông đã được tả lại như sau:
Vua Thiệu Trị có em gái là công chúa Hương La, đến tuổi kén chồng. Các quan trong triều và hội đồng hoàng gia thấy ông Hoàng Kế Viêm đỗ cử nhân, 23 tuổi, là người hiền đức, lại là con cụ Hoàng Kim Xán, nổi tiếng hiếu hạnh, có bài vị thờ tại miếu Hiền Lương, nên đồng thanh tiến cử làm phò mã và được chuẩn y (mặc dầu ông đã có vợ và có 1 con gái, đang sống cùng mẹ chồng tại làng Văn La, Quảng Bình). Đám cưới công chúa trước sau đủ 6 lễ rườm rà, mỗi lễ đều có lễ vật, tính chung gồm 2 mâm trầu cau, 2 trâu, 2 bò, 3 heo, 4 ché rượu, 2 cây gấm, 12 cây lụa, 10 nén vàng, 36 nén bạc và 2 chuỗi ngọc. Ngoài ra còn các thứ lặt vặt khác như 2 hộp chỉ ngũ sắc, 100 đồng tiền tượng trưng sự phú quí, 2 lá thiên tuế tượng trưng cho sống lâu, 2 con ngỗng thay cặp nhạn ở xứ ta không có (chim nhạn không lìa đôi).
Nghi lễ ấn định như thế, nhưng sau Bộ Binh và Bộ Lại tâu lên vua về gia cảnh nhà trai nên nhà vua chấp nhận mọi chuyện chi phí về hôn lễ sẽ do công bố đài thọ. (Phạm Thị Nhung, “Trầu cau trong đời sống văn hóa dân tộc”)
Hoang Ke Viem va quan he voi Luu Vinh Phuc (Phan I)
Quân Cờ Đen - Nguồn ảnh: farm4.static.flickr.com
Vào năm 1846 đời Thiệu Trị, ông làm Lang trung Bộ Lại, đến thời Tự Đức ông được sung chức Án sát Ninh Bình (1852). Năm 1854, ông được thăng Bố chính Thanh Hóa, năm 1859 thăng Bố chính kiêm Tuần phủ Hưng Yên, năm 1863 Tổng đốc An Tịnh. Suốt thời gian đó, ông có công trị an, mở mang kinh tế, thủy lợi.

Năm cuối thập niên 1860, dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc là Ngô Côn chạy sang các tỉnh phía bắc Việt Nam, đầu tiên xin hàng sau đem quân đi cướp phá các nơi, quân nhà Nguyễn đánh mãi không được mà lại còn mất mát nhiều. Triều đình phải nhờ quân nhà Thanh phối hợp để tiễu trừ. Đến khi Ngô Côn bị giết, dư đảng là Hoàng Sùng Anh (hiệu Cờ Vàng), Lưu Vĩnh Phúc (hiệu Cờ Đen), Bàn Văn Nhị, Lương Văn Lợi (hiệu Cờ Trắng) vẫn quấy nhiễu ở vùng Tuyên Quang, Thái Nguyên. Khi băng đảng cướp Tô Tứ nổi lên cướp Lạng Sơn, bắt giết Tổng đốc quân vụ Bắc Kỳ Đoàn Thọ thì vào năm 1870 triều đình Huế đã phải phái Hoàng Kế Viêm ra làm Lạng-Bình-Ninh-Thái Thống đốc quân vụ đại thần, cùng với Tôn Thất Thuyết đi dẹp ở Bắc Kỳ. Đến tháng 4 năm 1871, vua Tự Đức lại sai Thượng thư Bộ Hình Lê Tuấn làm chức Khâm sai thị sự để cùng với Hoàng Kế Viêm lo việc đánh dẹp.
Hoàng Kế Viêm vừa đánh vừa dụ hàng đã thu phục được Lưu Vĩnh Phúc (Cờ Đen) tại Lào Cai, rồi đánh tan giặc Cờ Trắng và Cờ Vàng. Sau đó Hoàng Sùng Anh đã bị quân Cờ Đen truy lùng và giết chết. Nhờ công lao này, Hoàng Kế Viêm được phong Đại học sĩ lãnh Tổng đốc Tam Tuyên, sung Tiết chế quân vụ miền Bắc. Vì Bắc Kỳ nhiều giặc giã nên triều đình đặt ra chức Tĩnh biên sứ để giữ các nơi. Năm Canh Thìn (1880), đặt ra Lạng Giang đạo do Tĩnh biên phó sứ Trương Quang Đản phụ trách và Đoan Hùng đạo do Tĩnh biên phó sứ Nguyễn Hữu Độ nắm. Hoàng Kế Viêm được phong Tĩnh biên sứ kiêm cả hai đạo.

Khi Pháp xâm chiếm Đại Nam (quốc hiệu nước ta từ 1839 đến 1945), Hoàng Kế Viêm đứng về phe chủ chiến. Năm 1873, đại úy hải quân Pháp Francis Garnier đem quân theo sông Hồng lên chiếm thành Hà Nội và sửa soạn đánh các tỉnh khác. Triều đình đã cử Hoàng Kế Viêm tiết chế quân vụ phòng thủ các nơi. Ông đã đem quân của mình và gọi thêm quân Cờ Đen đến phục kích ở Cầu Giấy và khiêu chiến với Garnier. Viên sĩ quan Pháp đem quân ra đánh liền bị giết chết ngày 21 tháng 11 năm 1873. Như vậy, vào lúc này quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc là phái thuộc của quân Hoàng Kế Viêm.

Garnier là người như thế nào? Marie Joseph François (Francis) Garnier (25/7/1835? - 21/12/1873) là một sĩ quan hải quân và đồng thời là một nhà thám hiểm, được biết đến vì cuộc thám hiểm sông Mê Kông tại khu vực Đông Nam Á cũng như vì chiến dịch quân sự tại Bắc Kỳ năm 1873. Năm 1943, Liên bang Đông Dương (tiếng Pháp: Union Indochinoise; đôi khi gọi là Đông Dương thuộc Pháp [Indochine française] hoặc Đông Pháp, là thuộc địa dưới sự bảo hộ của thực dân Pháp gồm sáu xứ: Nam Kỳ [Cochinchine], Bắc Kỳ [Tonkin], Trung Kỳ [Annam], Lào, Campuchia và Quảng Châu Loan, được thành lập vào ngày 17/10/1887 tồn tại cho đến năm 1954, thủ phủ đặt tại Sài Gòn [1887-1901] sau chuyển ra Hà Nội [1902-1954]) đã phát hành tem bưu chính để ghi công Garnier. Garnier đã viết nhiều cuốn sách trong thời gian ở Đông Dương như La Cochinchine (Nam Kỳ), De la colonisation de la Cochinchine (Về quá trình thực dân hóa Nam Kỳ). Tiếng tăm chủ yếu của Garnier là người châu Âu đầu tiên có ý tưởng thám hiểm sông Mê Kông, đồng thời là người thực hiện phần lớn công việc này. Sau khi tử nạn một thời gian Garnier được đưa về Sài Gòn chôn cất năm 1875. Như vậy, tấm bia mộ Garnier mà nhiều người thấy ở Giảng Võ chắc là nơi chôn cất ban đầu của ”ngài” đại úy. Vào ngày 17/11/1973 nhân kỉ niệm 100 năm ngày mất, tàu vận tải hạng nhẹ mang tên Francis Garnier của hải quân Pháp được hạ thủy để ghi công Garnier. Vào đêm 1/3/1983, thi hài Garnier được khai quật và đã được hỏa táng; các lọ đựng tro đã được bàn giao lại cho Tổng lãnh sự Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 2/3/1983 và được chuyển về Pháp chôn cất tại Paris.
Hoang Ke Viem va quan he voi Luu Vinh Phuc (Phan I)
Francis Garnier bị quân Cờ Đen giết chết tại Cầu Giấy - Nguồn ảnh: farm4.static.flickr.com

Liên quan đến chiến thắng Ô Cầu Giấy lần thứ hai với cái chết của đại tá hải quân Henri Rivière, xin đọc qua ít dòng trong cuốn lịch sử bằng văn vần Đại Việt Sử Thi của học giả Hồ Đắc Duy:

Sau khi chiếm được thành Hà Nội
Pháp bèn trao cho lũ tay sai
Tôn thất Bá được giao ngay
Nắm quyền sinh sát thay Tây điều hành
…..
Rivière liệt kê mười khoản:
Buộc triều đình nhượng hẳn Hà thành
Từ hành chánh đến việc binh
Độc quyền thu thuế thương thuyền bán buôn

Chính phủ Pháp nhận luôn bảo hộ
Trên toàn phần lãnh thổ Đại Nam
Trước nhiều đòi hỏi tham lam
Vô cùng láo xược của quân bạo tàn

Cả toàn dân một lòng thề quyết
Suốt ba miền không thể thờ ơ
Trước quân cướp nước côn đồ
Cần Vương tụ nghĩa phất cờ Văn Thân

Giặc đánh chiếm bất thần Nam Định
Cho pháo thuyền thôn tính Hòn Gay
Quan quân chiến đấu mấy ngày
Quần nhau với địch suốt ngày mới thua

Bắn gãy chân Carreau trung tá
Tấn công tàu đốt cháy Surprise
Quân ta chống trả gan lì
Dần dần hết đạn rút đi khỏi thành

Mưu lũ giặc gian manh xâm lược
Chúng cố tình cắt đứt ngoại giao
Lệnh cho Rheinart xuống tàu
Rời ngay khỏi Huế để vào trong Nam

Chúng cố làm tình hình căng thẳng
Để dễ bề điều động quân binh
Cho ngay tàu chiến vây quanh
Các đồn dọc biển án binh cắt đường

Quân Trung Quốc vội vàng phản ứng
Cho quân binh chặn đứng âm mưu
Cùng ta ngăn chặn kẻ thù
Muốn tràn chiếm lấy vùng bờ biển Đông

Hoàng Kế Viêm hợp cùng Vĩnh Phúc
Giữ các đồn khu vực Gia Lâm
Ngầm cho Quang Đản tấn công
Đánh cho Pháp rút về đồn thủy binh

Quân Cờ Đen bất ngờ đánh Pháp
Nhắm chiến thuyền pháo tháp bắn sang
Lê dương, Tây tặc kinh hoàng
Làm tên đại tá vội vàng lui binh

Lấy trăm binh rời thành đánh đuổi
Quân Cờ Đen rút khỏi rất nhanh
Lui về Cầu Giấy phục binh
Rivière quyết tự mình đuổi theo

Chân Cầu Giấy trời chiều lảng đảng
Vẫn im lìm hoang vắng thê lương
Phục binh nằm sẵn bên đường
Đột nhiên pháo lệnh nổ vang ngang đầu

Giặc tranh nhau tìm đường trốn thoát
Quân Nam Triều nhất loạt xông lên
Điểu thương súng đã nổ rền
Chơ vơ còn lại mấy tên cầm đầu

Rivière rướn cao lảo đảo
Một mũi gươm kết liễu cuộc đời
Nghĩa trang Montmartre ngậm ngùi
Hải quân đại tá thành người thiên thu

Đúng 7 giờ sáng, ngoài Rivière, quân Pháp còn có 50 tên bị giết và 76 tên bị thương. Quân Cờ Đen cắt đầu Rivière và những lính Pháp bị giết, bêu lên cọc. Xác Rivière bị chôn ở dưới đường, để người qua lại dẫm lên. Đến tháng 9, Giám mục Pugnier mới thu thập lại được hài cốt Rivière để đưa về Pháp chôn cất tại Nghĩa trang Montmartre ở Paris. Như vậy tấm bia mộ của “ngài” tại Ô Cầu Giấy là di tích của việc chôn cất trong vòng ít tháng.Tôi nghĩ chúng ta cũng cần biết Henri Laurent Rivière (12/7/1827 - 19/5/1883) là một sĩ quan hải quân nhưng cũng là một nhà văn. Rivière còn là một nhà báo viết bài cho La Liberté cũng như viết bài cho Revue des deux mondes.

Như thế chúng ta thấy Garnier và Rivière là những nhân vật đa năng, đa diện và quan trọng như thế nào đối với người Pháp.
(Còn nữa)

Hoàng Kế Viêm và quan hệ với Lưu Vĩnh Phúc (Phần II)

- ...Quân Cờ Đen là lính đánh thuê dưới quyền bài binh bố trận của Hoàng Kế Viêm vậy. Vai trò của quân Cờ Đen được ghi nhận trong lịch sử cũng là để phản ánh một sự thật đau lòng: quân lính nhà Nguyễn khi đó vô cùng bạc nhược trước quân Pháp...
II- Lưu Vĩnh Phúc và cờ đen tại Việt Nam Lưu Vĩnh Phúc (1837 - 1917), tự Uyên Đình, là một quân nhân Trung Quốc thời kỳ nhà Thanh. Ông có thể coi là tổng thống thứ nhì và cũng là cuối cùng của Đài Loan Dân Chủ từ ngày 5/6/1895 cho tới 21/10/1895. Ông sinh ra ở vùng cực tây nam tỉnh Quảng Đông (Khâm Châu, nay thuộc Quảng Tây), giáp giới với Việt Nam và gần biển, thuộc giống Hakka (còn gọi là người “Hẹ”, gọi theo âm Hán Việt là “Khách gia”, đó là lí do dân ta hay gọi người Tàu là “chú Khách”). Gia đình ông nghèo khổ, bản thân ông không biết chữ, cha mẹ chết không có áo quan chôn. Sống lang thang khắp nơi kiếm ăn, đến năm 21 tuổi, Lưu Vĩnh Phúc đến Nam Ninh xin làm thuộc hạ của Ngô Lăng Vân (tự xưng Ngô Vương), là dư đảng của Thái Bình Thiên Quốc. Sau khi Ngô Lăng Vân bị giết (1863), có thời gian Lưu Vĩnh Phúc đem bộ thuộc của mình đi cướp nhiều nơi, sau mới trở lại với Ngô Côn (con trai và là người kế nghiệp Ngô Lăng Vân). Lưu Vĩnh Phúc xin với Ngô Côn cho tiến hành các cuộc viễn chinh cướp bóc bên Đại Nam, cũng là để tránh sức ép của nhà Thanh. Dẫn theo 200 thuộc hạ thân tín, dùng một lá cờ màu đen làm kỳ hiệu, năm 1865, Lưu Vĩnh Phúc vượt biên giới vào Đại Nam. Vừa đi vừa tuyển thêm quân từ các toán thổ phỉ khác, đến gần Sơn Tây, quân Cờ Đen đã lên tới 500 và dừng lại lập doanh trại. Xung đột vũ trang đã nổ ra, quân Cờ Đen đánh bại cuộc tấn công của thổ dân, đồng thời giết chết một thủ lĩnh người Mông. Thủ lĩnh này chống đối nhà Nguyễn, nên nhân cơ hội nhà Nguyễn ban cho họ Lưu chức vị Cửu phẩm bách hộ để tiếp tục công việc bình định vùng này. Năm 1868, Lưu Vĩnh Phúc quay ra tranh giành ở Lào Cai (tức châu Bảo Thắng) - món mồi béo bở đang nằm trong tay các thương gia Quảng Đông. Quân Cờ Đen tự tiện thu thuế, khai khoáng, cướp bóc khắp nơi, quan quân nhà Nguyễn không ngăn được. Biết được tin về những thắng lợi của Lưu Vĩnh Phúc, những toán quân còn lại của Ngô Lăng Vân theo Hoàng Sùng Anh (cháu Ngô Lăng Vân) lập thành quân Cờ Vàng, tràn qua biên giới chiếm Hà Giang. Quân Cờ Vàng đông hơn quân Cờ Đen gấp 2-3 lần. Nhưng Hà Giang không phải là nơi có nhiều lợi lộc nên xung đột giữa Cờ Đen và Cờ Vàng bùng nổ. Năm 1869, quân Cờ Đen đánh tan quân Cờ Vàng tại Lào Cai, rồi truy quét Cờ Vàng đến tận Hà Giang. Quân Cờ Vàng phải tháo chạy khỏi Hà Giang nhưng rồi lại tiếp tục kiểm soát một vùng rộng lớn giữa Lào Cai và Sơn Tây. Đến năm 1875, quân Cờ Đen mở chiến dịch đánh chiếm Hà Giang, phối hợp với quân nhà Nguyễn của Hoàng Kế Viêm và cả quân nhà Thanh. Hoàng Sùng Anh bị truy đuổi, bị làm phản, bị bắt rồi bị giết. Do chiến thắng quân Cờ Vàng mà quân Cờ Đen được chính quyền nhà Thanh bảo trợ. Nhà Nguyễn tuy sử dụng Lưu Vĩnh Phúc nhưng vẫn nghi ngờ về lòng trung thành nên vào năm 1873 Hoàng Tá Viêm xin phong cho họ Lưu chức Phòng ngự sứ mà Vua Tự Đức không đồng ý. Về chuyện gốc tích của chữ “đen” trong “Cờ Đen” cũng xin được đưa ra ý sau đây: Lúc ấy trong dân gian có một bài hát: “...知白, 守黑, 却成愚”. “知其白, 守其黑” 出黃石公書, 老子道德經, 借用恰妙. 黃指黃佐炎, 白指大法, 黑指劉團. “...Tri bạch thủ hắc khước thành ngu”. “Tri kỳ bạch, thủ kỳ hắc” xuất Hoàng Thạch Công thư, Lão Tử Đạo Đức kinh, tá dụng kháp diệu. Hoàng chỉ Hoàng Tá Viêm, Bạch chỉ đại Pháp, Hắc chỉ Lưu đoàn.” [Nghĩa là] “Câu ‘biết cái trắng, mà lấy cái đen’ ngụ ý khiêm nhường nhẫn nhịn, lấy ở sách Hoàng Thạch Công, Lão Tử Đạo Đức kinh, mượn dùng ở đây rất khéo. Chữ Hoàng chỉ Hoàng Tá Viêm, Bạch chỉ quân Pháp, Hắc chỉ dõng đoàn của họ Lưu.” (Giá Sơn Kiều Ánh Mậu, Bản triều bạn nghịch liệt truyện) Vậy là các bác “Tàu ô” này cũng chữ nghĩa gớm. Trận giết đại úy hải quân Francis Garnier diễn ra như sau đây. Jean Dupuis, một thương gia Pháp đi ngược sông Hồng tìm đường giao thương lên Vân Nam, đã đạt được một số thỏa thuận với một viên tướng họ Mã ở Vân Nam để cung cấp vũ khí cho đội quân của ông ta. Theo đó Dupuis sẽ chở vũ khí, muối, gạo... theo sông Hồng vào Vân Nam, phía Trung Quốc sẽ nhượng cho Duipuis quyền lợi khai mỏ đồng mỏ thiếc ở Vân Nam. Việc này không được triều đình Đại Nam chấp thuận. Để giải quyết tranh chấp, chính quyền Pháp tại Nam Kỳ cử đại úy Francis Garnier ra Hà Nội, nhưng Garnier không những không làm trung gian đàm phán mà còn cùng với người của Dupuis (gồm cả quân Cờ Vàng) tấn công thành Hà Nội ngày 19/11/1873. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bị thương nặng chết, xung đột Bắc Kỳ bùng nổ. Tiếp theo, Garnier cho quân bình định châu thổ sông Hồng. Trong 3 tuần, toàn bộ 4 tỉnh Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam Định với 2 triệu dân đã rơi vào tay quân Pháp với chỉ khoảng 180 người, do viên đại úy hải quân chưa tới 35 tuổi chỉ huy. Tại thành Ninh Bình, 1.700 binh lính đã hạ vũ khí đầu hàng một toán quân Pháp chỉ có 7 người! Giữa tháng 12, Garnier đã quay lại Hà Nội điều hành công việc hành chính. Garnier tổ chức các đội dân quân ở những làng công giáo và tự chọn lựa quan lại. Triều đình nhà Nguyễn hết sức tức giận lệnh cho đoàn sứ Đại Nam đang ở Sài Gòn phản kháng hành động chiếm thành của Garnier, yêu cầu rút quân ra khỏi thành Hà Nội, đồng thời đưa 1.000 quân từ Huế và Nghệ An ra Bắc tăng cường chống trả. Triều đình lệnh đóng cọc xuống các lòng sông thông với sông Hồng để ngăn chặn tàu Pháp. Vua Tự Đức cũng sai người ra Hà Nội điều đình với Garnier. Ngoài ra triều đình phong cho phò mã Hoàng Kế Viêm làm Tiết chế Bắc kỳ quân vụ, chuẩn bị trả đũa. Hoàng Kế Viêm là chỉ huy cao cấp nhất tại Bắc Kỳ, cũng là cấp trên trực tiếp của Lưu Vĩnh Phúc, nên ông cho gọi họ Lưu từ Hưng Hóa về Sơn Tây làm tiền phong để đánh Pháp. Hoàng Kế Viêm biết quân Đại Nam đang hoang mang nên khích lệ quân Cờ Đen bằng cách hứa hẹn thưởng rất nhiều vàng cho mỗi tên Pháp bị giết, số lượng sẽ tăng lên theo cấp bậc. Ngày 18/12/1873, quân Cờ Đen về Hà Nội và lập trại cách chừng 10-12 dặm. Ngày 21, khi nghe tin quân Cờ Đen đến gần cửa tây thành Hà Nội, Garnier lập tức lên mặt thành cho pháo khai hỏa. Sau nửa giờ, quân Đại Nam và quân Cờ Đen (khoảng 500-600 quân cùng voi chiến) phải rút chạy. Garnier lập tức tiến ra truy đuổi cùng với 18 lính Pháp và chừng một trung đội lính bản xứ, nhưng chưa đi khỏi thành bao xa thì pháo dã chiến bị sa lầy, Garnier bị một toán quân Cờ Đen mai phục xô ra đâm chết tại Ô Cầu Giấy. Cái chết của Garnier đã đặt dấu chấm hết cho cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất của Pháp. Hơn một tháng sau trận Cầu Giấy năm 1873, đại úy Philastre (một người học chữ Nho, công bằng và có thiện chí với phía Đại Nam) được cử ra giải quyết mọi sự vụ, và Philastre đã cho rút quân khỏi Hà Nội và trao trả Bắc Kỳ lại cho triều đình nhà Nguyễn. Sau chiến thắng đó Lưu Vĩnh Phúc được thăng Phó Lãnh binh dưới quyền Hoàng Tá Viêm. Các thuộc hạ quân Cờ Đen đều được thưởng quan tước và tiền bạc. Hoàng Tá Viêm sai Lưu Vĩnh Phúc đưa quân chặn miền thượng du, được triều đình cho quyền cai quản việc thông thương và thu thuế ở vùng sông Lô và sông Thao từ Tuyên Quang trở xuống. Tháng 10 năm Giáp Tuất (1874), theo lời xin của Hoàng Kế Viêm, Lưu Vĩnh Phúc được thăng chức quyền Tam Tuyên quân vụ đề đốc tước vị nam, kiêm coi các đạo và được phái đi đánh giặc Cờ Vàng. Khoảng cuối 1881 đầu 1882, Lưu Vĩnh Phúc lần đầu tiên trở về thăm quê. Khi đi là một kẻ tội phạm bị truy nã, khi về được đón tiếp long trọng như một anh hùng, không những họ Lưu bây giờ là quan nhà Nguyễn mà còn mang phẩm hàm võ quan nhà Thanh. Nay xin được nói tiếp về hành tích công trạng của quân Cờ Đen trong vụ Pháp xâm lược Bắc Kỳ lần hai. Vào ngày 26/3/1882, Rivìere rời Sài Gòn ra Bắc cùng 230 lính trên 2 tàu chiến. Ngày 24 tháng 4, sau khi nhận được 250 quân tiếp viện Rivìere gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hoàng Diệu đòi nộp thành. Tổng đốc chưa trả lời thì pháo thuyền quân Pháp đã nổ súng. Được pháo yểm trợ, quân Pháp ồ ạt tràn lên. Tổng đốc Hoàng Diệu hạ lệnh cố thủ, nhưng chỉ sau hai tiếng giao tranh, thành Hà Nội lại một lần nữa rơi vào tay Pháp, Tổng đốc Hoàng Diệu thắt cổ tự tử. Quân Pháp chỉ có 4 người bị thương. Để đối phó lại, Hoàng Kế Viêm cho gọi Lưu Vĩnh Phúc từ Quảng Tây về bàn kế hoạch chống trả. Tuy nhiên họ Lưu phàn nàn về thái độ đãi ngộ và đưa ra những yêu sách về cung cấp lương thảo, tiền bạc rồi từ chối phối hợp tác chiến. Tháng 2 năm 1883, sau khi nhận được 750 quân tăng viện, Rivìere cho tiến quân chiếm cảng Hòn Gai và khu mỏ than. Trong thời gian đó, Hoàng Kế Viêm cũng tăng cường phòng thủ thành Nam Định để ngăn quân Pháp, đồng thời tuyển mộ thêm 500 lính đánh thuê người Tàu để lấp vào chỗ trống của quân Cờ Đen. Tới 27 tháng 3, Rivìere cùng 800 quân, 8 pháo thuyền và một số tàu bè khác cùng một phân đội lính Nam Kỳ hỗ trợ đánh thành Nam Định. Quân Nam ngoan cường cố thủ, nhưng chỉ đến trưa thì quân Pháp hạ được thành. Quân Pháp chỉ có 3 người bị thương, một người trong đó tử vong, nhưng cũng đủ làm Rivìere nổi giận, hạ lệnh treo cổ tất cả 50 lính đánh thuê người Tàu rơi vào tay mình. Mất Nam Định, quân Hoàng Kế Viêm trở nên tuyệt vọng, thế nhưng tới tháng 4 Lưu Vĩnh Phúc đã đồng ý quay lại đánh Pháp. Đồng thời, nhà Thanh cũng sai quân sang đóng ở Bắc Ninh và ở Sơn Tây, cùng với quân của Bố chính Quảng Tây sang tiếp ứng. Quân Nam chuyển từ thế thủ sang thế công. Quân Cờ Đen tiến về đóng đại bản doanh ở phủ Hoài Đức, đồng thời Tổng đốc Bắc Ninh Trương Quang Đản đem binh về đóng ở Giốc Gạch, thuộc Gia Lâm chuẩn bị sang đánh Hà Nội. Để khiêu khích quân Pháp, quân Cờ Đen đốt phá các khu giáo dân, lợi dụng đêm tối dùng pháo đặt trên lưng voi bắn vào Hà Nội. Ngày 10 tháng 5, gửi chiến thư thách Rivìere ra đánh. Rivìere trong khi đó đang tích cực chuẩn bị để đánh thành Sơn Tây, thấy quân Nam chuẩn bị tiến công, liền ra lệnh tiến quân đánh phủ Hoài Đức. Ngày 19 tháng 5, khi Rivìere dẫn 500 quân ra đến Cầu Giấy thì quân Cờ Đen đổ ra từ khắp các làng xung quanh để cắt đứt hậu quân Pháp. Bị vây, quân Pháp co cụm lại, nên càng dễ bị bắn. Một khẩu pháo dã chiến của Pháp bị rơi vào tay quân Cờ Đen. Rivìere dẫn một toán quân xông ra để chiếm lại khẩu pháo, trong lúc hỗn loạn đã bị trúng đạn. Quân Pháp mất chỉ huy, hoảng loạn rút chạy về thành. Được tin Rivìere chết, Thống đốc Thomson ở Sài Gòn liền điện về cho chính phủ Pháp. Bấy giờ Hạ viện Pháp còn đang do dự về việc đánh Bắc Kỳ, khi tiếp được điện báo ở Sài Gòn liền thuận chi ra 5 triệu rưỡi franc. Thiếu tướng lục quân Bouet ở Nam Kỳ được phái ra làm Thống đốc quân vụ Bắc Kỳ, Thiếu tướng hải quân Courbet được lệnh đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng, Harmand là sứ thần Pháp ở Xiêm được cử ra làm Toàn quyền. Ngày 3 tháng 5, Thiếu tướng Bouet đem 200 lính Pháp, 300 lính tập đến Hải Phòng và ngay tức khắc chuẩn bị phòng ngự ở Hà Nội và Nam Định, đồng thời cho Georges Vlavianos, người theo Dupuis ngày trước, mộ lính Cờ Vàng làm tiền quân. Chiến tranh Pháp-Thanh bắt đầu. Trong khi tại Bắc Kỳ, các quan lại Việt Nam lúng túng chưa biết đối phó với Pháp bằng cách nào, thì tình hình tại triều đình Trung Hoa rất náo động. Nhà Thanh, nhất là chính quyền Lưỡng Quảng, hết sức lo ngại trước tình hình Pháp đánh chiếm Hà Nội, gián tiếp uy hiếp an ninh biên thùy. Lấy cớ tiễu phỉ, quân Vân Nam và Lưỡng Quảng được điều động tiến sát về biên giới, sẵn sàng tiến sang Bắc Kỳ. Người Pháp cũng lo ngại việc nhà Thanh định can thiệp vào cuộc chinh phục Bắc Kỳ. Đại sứ Pháp Boureé tại Trung Hoa tiến hành một cuộc gặp mặt với Phó vương Trực Lệ (Bắc Kinh) Lý Hồng Chương, hai bên bàn tính khả năng đặt vùng Lào Cai về tay nhà Thanh để lập một trạm thuế quan, cũng như thiết lập một đường phân giới dọc theo sông Hồng, phần phía bắc do nhà Thanh quản lý, phần nam thuộc về Pháp. Tuy nhiên, chính phủ của Thủ tướng Jules Ferry không đồng ý phê chuẩn hiệp nghị này, triệu hồi Đại sứ Boureé về nước. Trong thời gian đó và về sau Lưu Vĩnh Phúc tham gia phòng thủ Hưng Hóa, đánh nhau với Pháp ở Lạng Sơn và bao vây một tiểu đoàn quân Pháp ở Tuyên Quang. Sau khi chiến tranh Pháp-Thanh (1884-1885) tại miền bắc kết thúc, họ Lưu phụng mệnh vua Quang Tự trở về Trung Quốc, bị ép phải giải tán quân Cờ Đen, sau đó được giao làm Tổng binh tại Quảng Châu. Tại đây, họ Lưu thường cùng Hoàng Phi Hồng (1847 - 1924), võ sư nổi tiếng (với các tuyệt chiêu Hổ Hạc Song Hình quyền, Thiết Tuyến quyền, Cung Tự Phục Hổ quyền, Vô Ảnh cước…) kiêm danh y, tập luyện võ thuật. Phần cuối đời của Lưu Vĩnh Phúc cũng thật là đầy biến động ghê gớm. Năm 1894, khi xảy ra cuộc chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, họ Lưu được nhà Thanh phái tới Đài Loan làm Tổng binh. Năm 1895, sau Hòa ước Mã Quan thì Đài Loan không cam chịu sự thống trị của Nhật đã tổ chức kháng chiến và thành lập nhà nước Đài Loan Dân Chủ, Lưu Vĩnh Phúc nhậm chức Đại tướng quân. Sau đó lực lượng của họ Lưu bị vây hãm tại Đài Bắc nhưng kiên trì kháng cự, dẫn tới chiến tranh Ất Mùi (1895). Tổng thống Đài Loan Dân Chủ là Đường Cảnh Tung cùng Thống lĩnh Khâu Phùng Giáp bỏ trốn tới Hạ Môn để vào đại lục. Lưu Vĩnh Phúc tái lập nhà nước Đài Loan Dân Chủ, dân chúng Đài Loan yêu cầu giao con dấu tổng đốc lại cho họ Lưu, nhưng ông không nhận chỉ xưng là Bang biện; tuy nhiên, vẫn được coi là người lãnh đạo cao nhất. Người Đài Nam thành lập nghị hội, phát hành tiền tệ, dự trù quân lương. Sau nhiều nỗ lực không thành, quân Đài Nam bị quân Nhật bao vây, ngày 21/10/1895, họ Lưu phải cải trang để bỏ trốn từ An Bình vào Hoa lục. Đài Loan không còn chỉ huy, buộc phải đàm phán hòa bình với Nhật. Năm Quang Tự thứ 28 (1902), Lưu Vĩnh Phúc nhậm chức Tứ thạch trấn tổng binh tại Quảng Đông. Sau cách mạng Tân Hợi (1911), giữ chức Tổng trưởng dân đoàn Quảng Đông. Năm 1915, chính quyền Nhật Bản yêu cầu Tổng đốc Viên Thế Khải chấp nhận 21 yêu sách thì Lưu Vĩnh Phúc là một trong những người chủ chiến. Nhưng đến tháng 1 năm 1917, họ Lưu mắc bệnh mà chết. Đương thời, quân Cờ Đen tuy đánh được Pháp một số trận, nhưng cũng nhũng nhiễu tàn hại dân. Tuy lập công lớn trong các chiến thắng ở Ô Cầu Giấy nhưng thực chất quân Cờ Đen là lính đánh thuê dưới quyền bài binh bố trận của Hoàng Kế Viêm vậy. Vai trò của quân Cờ Đen được ghi nhận trong lịch sử cũng là để phản ánh một sự thật đau lòng: quân lính nhà Nguyễn khi đó vô cùng bạc nhược trước quân Pháp, nếu nước Nam không có dũng khí và tài thao lược của Hoàng Kế Viêm thì Bắc Kỳ đã rơi vào tay quân Pháp ngay từ ngày đầu. Thế là, không những giữ được Bắc Kỳ một thời gian dài mà Hoàng Kế Viêm còn làm sáng tỏ cái hào khí oanh liệt bất khuất của dân tộc. (còn tiếp) Đặng Thân Ý kiến đóng góp và bài vở gửi cho Thư Thăng Long - Hà Nội xin liên hệ với địa chỉ: thuthanglong@vietnamnet.vn PHẢN HỒI CỦA ĐỘC GIẢ: Ho ten: Việt Khôi Dia chi: TP Hồ Chí Minh E-mail: hoangavnex@yahoo.com So dien thoai: Tieu de: Hoàng Kế Viêm - anh hùng dân tộc Noi dung: Khi còn bé, đọc ’Bóng nước Hồ Gươm’hay cuốn nào đó (mà lâu quá rồi không còn nhớ)về lịch sử Hà Nội tôi đã khóc khi đến đoạn cụ Hoàng Diệu tự sát, thành Hà Nội thất thủ. Đến đoạn cụ Hoàng Kế Viêm cùng Lưu Vĩnh Phúc chém chết tên quan Pháp thì cảm xúc dâng trào, một niềm tự hào vô bờ bến. Sau này mỗi khi có dịp nghe đến từ Cầu Giấy thì bao giờ cũng nhớ đến tên Hoàng Kế Viêm và Lưu Vĩnh Phúc. Bây giờ, đọc bài này mới biết Hà Nội không có đường Hoàng Kế Viêm. Đây là một thiếu sót quá lớn. Tôi nghĩ Hà Nội cần có tượng đài của Hoàng Kế Viêm đâu đó ở Cầu Giấy, nhắc chúng ta một điểm son trong lịch sử dân tộc. Nếu có dịp đưa con cháu đi thăm Hà Nội chắc chắn tôi sẽ giớ thiệu tượng đài này và kể cho con cháu mình đoạn lịch sử vẽ vang đó. Ho ten: Hà Trung Kiên Dia chi: 18Dịch Vọng - Cầu Giấy - Hà Nội E-mail: trungkienqntr@gmail.com So dien thoai: 0987541389 Tieu de: Rất cảm ơn quý báo Noi dung: Tôi muốn hỏi quý báo vậy cầu giấy ngày nay có phải là cầu giấy xưa kia không hay là ở vị trí khác Ho ten: hai yen Dia chi: doi can ba dinh ha noi E-mail: hoadaugia86@yahoo.com So dien thoai: Tieu de: rất hay Noi dung: tôi thấy chiến thắng trên của Hoàng Kế Viêm và quân cò đen rất đáng tôn vinh. không thể chỉ vì có sự tham gia của quân cờ đen mà hạ thấp chiến thắng oanh liệt này Ho ten: Quốc Khang Dia chi: 12- Hoàng Kế Viêm - Phường 12 - Quận Tân Bình - TPHCM E-mail: lnqkhang@mail.ru So dien thoai: Tieu de: Hiểu rõ hơn về con đường mang tên anh hùng dân tộc Noi dung: Cám ơn tác giả bài báo. Nhờ có bài báo này mà tôi mới hiểu thêm được về vị anh hùng dân tộc Hoàng Kế Viêm - cũng là tên của một con đường mà có ngôi nhà của tôi đang ở hiện giờ ! Ý kiến bạn đọc: Your browser does not support inline frames or is currently configured not to display inline frames.

Hoàng Kế Viêm và quan hệ với Lưu Vĩnh Phúc (phần cuối)

...Sau ngày kinh đô thất thủ, phe thân Pháp và bọn bậu xậu lên nắm quyền, các vị chủ chiến thất thế bị rơi vào thế đối lập chống lại triều đình... Và danh dự của các ông đã bị bôi nhọ, xuyên tạc ngay tại kinh đô Huế... Chắc chắn những lời bia miệng báng bổ độc ác đó đã phát ra từ những kẻ thù của các ông - những kẻ thân Pháp cầu vinh...

III- Lúc cuối đời của danh tướng Hoàng Kế Viêm

Năm 1883, triều đình Huế ký Hiệp ước Harmand với Pháp, rồi ra lệnh cho Hoàng Kế Viêm lúc đó đang đóng ở Sơn Tây rút quân về Kinh, nhưng ông không nghe lệnh, tiếp tục ở lại phối hợp với quân Thanh đánh lại quân Pháp. Mãi đến khi Sơn Tây và Hưng Hóa thất thủ, ông mới chịu về Huế, nhưng cương quyết không hợp tác với phe chủ hòa và quân Pháp. Những nghi vấn về việc xuất xử của ông chắc chắn đã xuất hiện trong giai đoạn này.
Hoang Ke Viem va quan he voi Luu Vinh Phuc (phan cuoi)
Quân Pháp tấn công thành Hà Nội - Ảnh tư liệu

Trước khi đi sâu vào câu chuyện cuối đời Hoàng Kế Viêm xin được xét sơ lược tình hình từ 1883 về sau thế này: Sau thất bại lần thứ hai tại Bắc Kỳ, Pháp thấy nguy phải cử cấp tướng ra chỉ huy và tăng thêm quân, sai Harmand làm toàn quyền kinh lý việc Bắc Kỳ. Dân chúng Bắc Kỳ nổi lên kháng Pháp khắp nơi và quân Nam phản công ở Hà Nội, Nam Định nhưng đều thất bại. Trong tình trạng hiểm nghèo đó, triều đình Huế sinh nhiều việc rối loạn.
Năm 1883, Tự Đức mất, Dục Đức lên ngôi được 3 ngày thì Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết truất ngôi, lập Hiệp Hoà. Trong khi đó quân Pháp đánh Thuận An, uy hiếp Huế. Triều đình phải cử Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp thương nghị với Harmand và De Champeaux để ký Hoà ước 23/7/1883. Hoà ước có 27 khoản, theo đó triều đình Huế chịu nhận Pháp bảo hộ, Pháp được đặt công sứ, chỉ huy tại các tỉnh, vua Việt chỉ có quyền cai trị từ Thanh Hoá tới đèo Ngang. Hoà ước ký xong không thi hành được vì Bắc Kỳ vẫn trong tình trạng chiến tranh, quân Tàu và quân triều đình vẫn tiếp tục đánh. Pháp phải gọi thêm quân tiếp viện từ chính quốc sang rồi tiến chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Tuyên Quang.
Quân Tàu thua, phải rút lên vùng biên giới Hoa-Việt, quân Nam phải lui về Huế. Ở Huế, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường tiếp tục phế vua Hiệp Hoà lập vua Kiến Phúc. Triều đình Huế yêu cầu Pháp ký hoà ước khác để quyền hành của vua Việt được nới rộng hơn. Nguyễn Văn Tường cùng Patenôtre ký Hoà ước 6/6/1884, gồm 19 khoản. Hoà ước này cũng như hoà ước 1883, nhưng giới hạn cai trị của triều đình Huế được nới rộng thêm từ Thanh Hoá tới Bình Thuận.
Tại vùng biên giới Hoa-Việt, quân Tàu vẫn chiếm đóng, quân Pháp tiến đánh nhưng thất bại ở Bắc Lệ và Lạng Sơn. Pháp liền đem hải quân đánh Phúc Châu và Đài Loan, Trung Hoa phải ký hoà ước Thiên Tân năm 1885, nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam và rút quân về Tàu. Sau nhiều năm chiến tranh và qua 4 bản hoà ước 1862, 1874, 1883 và 1884 nước Pháp thực dân đã hoàn tất việc xâm lăng Việt Nam. Nam Kỳ trở thành thuộc địa, Bắc Kỳ là đất bị bảo hộ và Trung Kỳ là nơi Pháp lập chế độ trú sứ, nhưng trên thực tế cả ba miền đều là thuộc địa của Pháp, nhà Nguyễn ở Huế không có quyền hành gì. Hoà ước 1884 xác định quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam và đã được thi hành tới ngày 9/3/1945.



Thế nhưng, thời đó trong dân gian có câu ca dao:

Nước Nam có bốn anh hùng;
Tường gian, Viêm láo, Khiêm khùng, Thuyết ngu!

Đó là tên 4 người trong phe chủ chiến: Nguyễn Văn Tường, Hoàng Kế Viêm , Ông Ích Khiêm và Tôn Thất Thuyết. Hoàng Kế Viêm chưa bao giờ “chủ hòa” vậy. Sau ngày kinh đô thất thủ, phe thân Pháp và bọn bậu xậu lên nắm quyền, các vị chủ chiến thất thế bị rơi vào thế đối lập chống lại triều đình... Và danh dự của các ông đã bị bôi nhọ, xuyên tạc ngay tại kinh đô Huế... Chắc chắn những lời bia miệng báng bổ độc ác đó đã phát ra từ những kẻ thù của các ông - những kẻ thân Pháp cầu vinh.

Thực chất, Hoàng Kế Viêm bất đắc dĩ đã phải theo dụ của Đồng Khánh truy dụ các nghĩa sĩ Cần Vương. Vì sử sách đã ghi nhận lời của Hoàng Kế Viêm bày tỏ quan điểm của mình:

Đánh [nghĩa sĩ Cần vương] để yên dân, chứ không cốt đánh để thắng.
(Đại Nam thực lục, Chính biên, Kỉ Đồng Khánh)

Vậy là đã rõ. Trước cái thế “châu chấu đá xe” cùng kinh nghiệm máu xương một đời trận mạc dường như ông thừa biết rằng phong trào Cần Vương trước sau cũng bị dập tắt vì những lí do rất rõ ràng:

1. Tính chất địa phương: sự thất bại của phong trào Cần Vương có nguyên nhân từ sự kháng cự chỉ có tính chất địa phương. Các phong trào chưa quy tụ, tập hợp thành một khối thống nhất đủ mạnh để chống Pháp. Các lãnh tụ Cần Vương chỉ có uy tín tại nơi họ xuất thân, tinh thần địa phương mạnh mẽ làm họ chống lại mọi sự thống nhất phong trào trên quy mô lớn hơn. Khi các lãnh tụ bị bắt hay chết thì quân của họ hoặc giải tán hay đầu hàng.
2. Quan hệ với dân chúng: các đạo quân này không được lòng dân quê nhiều lắm bởi để có phương tiện sống và duy trì chiến đấu, họ phải đi cướp phá dân chúng.
3. Mâu thuẫn với tôn giáo: sự tàn sát vô cớ những người Công giáo của quân Cần Vương khiến giáo dân phải tự vệ bằng cách thông báo tin tức cho phía Pháp. Những thống kê của người Pháp cho biết có hơn 20.000 giáo dân đã bị quân Cần Vương giết hại.
4. Mâu thuẫn sắc tộc: Chính sách sa thải các quan chức Việt và cho các dân tộc thiểu số được quyền tự trị rộng rãi cũng làm cho các sắc dân này đứng về phía Pháp. Chính người Thượng đã bắt Hàm Nghi, các bộ lạc Thái, Mán, Mèo, Nùng, Thổ đều đã cắt đường liên lạc của quân Cần Vương với Trung Hoa làm cạn nguồn khí giới của họ. Quen thuộc rừng núi, họ cũng giúp quân Pháp chiến tranh phản du kích đầy hiệu quả.

(Nguyễn Thế Anh, Kinh tế & xã hội Việt Nam dưới các triều vua nhà Nguyễn)
Hoang Ke Viem va quan he voi Luu Vinh Phuc (phan cuoi)
Chiếu Cần Vương (bản được cho là thật) - Nguồn ảnh: TTO
Đứng trước cái thực trạng của một phong trào bi thảm đó, Hoàng Kế Viêm đã chọn hai chữ YÊN DÂN. Vậy ai là anh hùng yêu nước thương nòi đích thực đã hiện lên rõ ràng!

Vả lại, nước Nam bé như bàn tay, chuyện đi hay ở đâu có dễ dàng. Vì ngay từ khi bị triệu về kinh năm 1884, dù được phong làm Thái tử Thiếu bảo và Cơ mật viện Đại thần, nhưng chẳng bao lâu ông đã xin về trí sĩ mà không được.

(Ông bị) triệu hồi về kinh, quản thúc tại gia là phủ công chúa Hương La (vợ quá cố của ông) dưới sự kìm chế riết róng của bộ máy thực dân thống trị ở Trung Kỳ là tòa Khâm sứ Pháp. Trong cảnh "cá chậu chim lồng", ông lại tiếp tục cái sự "láo" của mình trước mặt những trùm thực dân Pháp như toàn quyền Pôn Be (Paul Bert), trứ sứ Đờ Sămpô (De Champeaux). Sự "láo" này được dân ta hoan nghênh, cảm phục bao nhiêu thì đối với kẻ thù càng cộm lên nhói nhức bấy nhiêu, như cái kim trong họng. Đến nỗi trong nhiều báo cáo của trú sứ Pháp ở Trung Kỳ gửi lên toàn quyền Pháp ở Đông Dương đều dành riêng để nói về Hoàng Kế Viêm. Xin dẫn đôi lời trong đó: “Hoàng Kế Viêm là một kẻ thù không thể tiêu diệt và không thể chế ngự”, “... là một trong những kẻ thù quyết tử nhất của chúng ta”.(Phan Xuyến - Thanh Đồng, “Hoàng Kế Viêm trong con mắt thực dân Pháp xâm lược”)

Trong giai đoạn sau 1884 này có nhiều phong trào yêu nước mà ai học sử ta cũng đều biết. Tôi chỉ xin nói về những sự kiện liên quan đến Hoàng Kế Viêm, nhất là phong trào Cần Vương với vua Hàm Nghi. Trong Việt Nam Sử Lược, sử gia Trần Trọng Kim có đoạn chép về “Việc đánh dẹp ở Trung và Bắc Kỳ” như sau:

Vua Đồng Khánh ra Quảng Bình Đất Trung-Kỳ từ Quảng-Trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng-Khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm-Nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh-dẹp. Quân Pháp sai đại-úy Henry Billet đi hộ-giá.
Ngày 16 tháng 5 năm Bính-Tuất (1886), xa-giá ở Kinh đi ra, mãi đến cuối tháng 7 mới tới Quảng-Bình. Xa-giá đi đến đâu thì đảng cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến chống-cự, cho đến việc vua đi tuần-thú lần ấy, không có kết-quả gì cả. Ra đến Quảng-Bình thì vua Đồng-Khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi đường hải đạo trở về Huế.

Hoàng Kế Viêm ra quân thử mạn Quảng Bình Vua Đồng-Khánh về Huế được vô sự. Đến tháng 9, vua khai phục nguyên hàm cho Hoàng Kế Viêm và phong cho làm Hữu trực kỳ An phủ kinh lược đại sứ, được quyền tiện nghi hành sự, để ra Quảng Bình dụ vua Hàm-Nghi và các quan cựu thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng-Khánh ban cho Hoàng Kế Viêm đại lược nói rằng: Nếu vua Hàm Nghi mà thuận về, thì sẽ phong cho làm Tổng trấn ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, và lại cấp cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu thần như các ông Trương Văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê Mô Khải, Nguyễn Nguyên Thành, Phạm Trọng Mưu, Nguyễn Xuân Ôn, Ngô Xuân Quỳnh, ai về thú thì được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ Quảng Trị trở vào. Còn như các ông Trần Xuân Soạn, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Đình Phùng mà có chịu về thì sẽ tha những điều lỗi trước, và sẽ phong cho làm chức hàm khác. Những điều ấy đã bàn với viên Thống đốc Paul Bert, hai bên đã thuận cho như thế, quyết không sai lời.
Bấy giờ quân của quan Đề đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh Thủy, thuộc huyện Tuyên Chánh; quân của Tôn Thất Đạm là con Tôn Thất Thuyết thì đóng ở ngàn Hà Tĩnh, về hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên. Còn Tôn Thất Thiệp và Nguyễn Phạm Tuân thì phò vua Hàm-Nghi ở mạn huyện Thanh Hóa.
Ông Hoàng Kế Viêm ra Quảng Bình, sai người đi dụ ông Lê Trực về. Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết không chịu, chỉ có bọn thủ hạ lác đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc Hoàng Kế Viêm ra kinh lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm Đinh Hợi (1887), lại phải triệt về.

Vậy là Hoàng Kế Viêm tuân lệnh triều đình đã ra Quảng Bình chiêu dụ vua Hàm Nghi (1871 - 1943, làm vua 1884-1888) và các nhân vật hàng đầu của phong trào Cần Vương (kéo dài từ 1885 đến 1895), được hiểu là phong trào chống Pháp xâm lược. Vậy, phải chăng ông từ một người chủ chiến trong công cuộc đánh Pháp và đã lập những chiến công hiển hách nay thành ra một người a dua triều đình “bán nước” của vua Đồng Khánh (do Pháp dựng lên)? Xin hãy lắng nghe ý kiến của các bậc minh triết.

Một người thông minh tài giỏi như Phụ chính Đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 - 1886), mà vua nào cũng phải nghe lời tham vấn chân xác của ông về các quan tướng triều đình, đã từng gửi bản “Bắc Kỳ tấu nghị” lên vua Tự Đức ngày 20/6/1873 nhận xét về Hoàng Kế Viêm như sau:

Hoàng Kế Viêm bản chất rất bao dung, vốn có tài lâm cơ đoán định, lay chuyển chẳng dời, được xem là một tay đảm đương vậy. (Tôi - ĐT - nhấn mạnh)
Hoang Ke Viem va quan he voi Luu Vinh Phuc (phan cuoi)
Mộ Hoàng Kế Viêm tại Văn La, Quảng Bình - Nguồn ảnh: vi.wikipedia.org
Mãi đến đời Thành Thái, vào năm 1889, ông mới được nghỉ hưu, rồi sau đó về quê sống cùng người dân lam lũ cho đến khi mất (1909), thọ 89 tuổi. “Xin về trí sĩ mà không được”! Vậy phải chăng đằng sau sự việc ấy còn có cả một âm mưu khủng khiếp nào khác nữa. Có đấy, xin đọc đoạn sau đây về “nhất đẳng thông ngôn” Petrus Key Trương Vĩnh Ký sẽ rõ:

Nhiệm vụ chính của Petrus Key trong giai đoạn này là nắm gọn vua Ðồng Khánh - dạy bảo vua phải biết đưa hai tay ra nắm lấy người Pháp, và lựa chọn vào Viện Cơ Mật những người đồng hóa quyền lợi bản thân với quyền lợi nước Pháp. Ngoài ra, Tổng trú sứ [Paul] Bert muốn Petrus Key khuyên dụ Ðồng Khánh ký một qui ước tách biệt Bắc Kỳ khỏi Huế, thành lập chức Kinh Lược Sứ Bắc Kỳ, có toàn quyền thay mặt triều đình xử lý mọi việc. (Dụ ngày 3/6/1886) Nguyễn Hữu Ðộ được cử vào chức vụ này. Ðổi lại, Bert chính thức hủy bỏ Qui ước 30/7/1885, tức qui ước đặt phần lãnh thổ còn lại của Ðại Nam dưới chế độ quân quản Pháp, và cho phép 12 tỉnh An-Nam được nhiều quyền tự trị hơn. (ÐNTL,CB, 37:108; Vũ Ngự Chiêu, Các vua cuối, tập II. Xem thêm thư ngày 25/9/1886, Bert gửi Petrus Key; Trấn, 1993, tr. 83-84). Việc sử dụng Hoàng Kế Viêm, một lão tướng trụ cột của nhà Nguyễn tại Bắc Kỳ trước năm 1883, để “an phủ” [chiêu hồi] các lực lượng Cần Vương là một thành quả khác của Petrus Key. Tuy nhiên, chủ trương đứng ngoài cuộc tranh chấp Giáo-Lương của Bert và Petrus Key không được sự tán thưởng của giới giáo sĩ. Giáo sĩ và giáo dân bất chấp lệnh “an phủ” của Bert, tiếp tục bắt giết các thủ lĩnh Cần Vương về hàng, kể cả thày dạy cũ của Ðồng Khánh là Trần Văn Dữ.
(Nguyên Vũ, “Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký”)
Mới hơn trăm năm mà rằng đất trời như mù mịt! Mong sao lòng người sẽ như được vạch đám mây mù mà thấy lại trời xanh. Năm nay cũng là kỉ niệm 100 năm (1909 - 2009) ngày mất của Hoàng Kế Viêm, liệu hậu thế có làm được gì để tưởng niệm một tướng quân oai hùng của dân tộc.

Hoàng Kế Viêm không chỉ là một võ tướng uy dũng ông còn là một nhà văn, nhà viết sử. Ông là tác giả của một số tác phẩm có giá trị về văn học và lịch sử như: Phê thị trần hoàn (Ghi chép về đời Tự Đức), Tiên công sự tích biệt lục (Ghi lại thân thế và sự nghiệp của thân phụ ông), Khổn y lục (Ghi lại tiểu sử công chúa Hương La, vợ ông), Bát tiên công gia huấn từ (Ghi lời dạy con cái theo di cảo của thân phụ ông), Chi chi thi thảo, Vân vân văn tập, An phủ trấp lược.

Khi ông mất, nhà soạn tuồng Đào Tấn đã có bài thơ tưởng niệm cảm động thế này:

Tặng Tướng quân Hoàng Kế Viêm
Trong quân không rượu để khuyên sầu
Bến Cát đành cam phụ cặp bầu
Nam Bắc bao năm rong ruổi ngựa,
Quan hà muôn thuở tiễn đưa nhau
Gió hiu nâng gối tan buồn vặc
Trăng lụa xuyên rèm tỉnh mộng thu
Thức giấc, núi xưa người chẳng thấy
Trên sông sáng sớm bóng non cao

Đến đây thì việc Hoàng Kế Viêm có xứng đáng được đặt tên cho một con đường hay con phố của Hà Nội hay quận Cầu Giấy hay không là tùy ý trời và bạn đọc. Chỉ biết rằng cái tên Hoàng Kế Viêm ít nhất đã được đặt cho các đường và phố ở TP.Hồ Chí Minh (tại phường 12, quận Tân Bình), Đà Nẵng (tại phường Mỹ An, quận Ngũ Hành Sơn) và thành phố Vinh. Phần mộ của ông hiện đang ở Quảng Bình. Ông Hoàng Tư Phao, cháu đời thứ tư của danh tướng, cho hay:

Lăng mộ này chưa được công nhận là di tích, mọi chuyện coi sóc đều do con cháu đóng góp, không một [cơ quan] chức năng nào góp sức nên rêu phong phủ dày…
(Dương Minh Phong, “Quảng Bình - Chưa phát huy thế mạnh về di tích lịch sử”)
Tài liệu tham khảo: Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn nămsố 19/2003.
Trần Xuân An, “Các trích đoạn đề cập đến phong trào Văn Thân & Cần Vương chống Pháp 1883-1885-1886 từ bài viết ‘Cố điện’ của cố học giả Hoàng Xuân Hãn”.
Nguyên Vũ, “Góp phần nghiên cứu về Trương Vĩnh Ký”.
Phạm Thị Nhung, “Trầu cau trong đời sống văn hóa dân tộc”.
Đại Nam Thực Lục, Quốc Sử quán triều Nguyễn.
Giá Sơn Kiều Oánh Mậu, Bản triều bạn nghịch liệt truyện.
Nguyễn Hiến Lê, Lịch sử Trung Quốc.
Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược.
Hồ Đắc Duy, Đại Việt Sử Thi.
Các từ điển: Babylon, Britannica, Wapedia, Wikipedia…
Mồ mả Francis Garnier
Nguyễn Dư
Francis Garnier là người chỉ huy đánh chiếm thành Hà Nội lần thứ nhất, ngày 20/11/1873. Một tháng sau thì xảy ra sự cố:
Tháng chạp năm Quý Dậu,
Sáng ngày mồng tám ta.
Ngạc Nhi thằng tướng giặc
Thừa thắng phía Tây ra.
Giong ngựa qua Cầu-giấy
Tiếng súng nổ khói loà...
(Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỷ 19, Văn Học, 1970, tr. 403)
Ngày 21/12/1873, được tin báo thành Hà Nội đang bị quân Cờ Đen bao vây. Garnier và Balny dẫn một đoàn quân gồm 28 lính Pháp và thêm một số lính Việt, đi bộ ra giải vây. Garnier dẫn 9 người lính chạy băng qua một cánh đồng. Lúc leo lên một con đê gần Cầu Giấy thì Garnier bị vấp ngã. Quân Cờ Đen nấp gần đấy liền xúm lại đâm chết, chặt đầu, moi tim Garnier. Garnier bị giết. Xác Garnier được chôn ở đâu ? Hỏi gì mà vớ vẩn thế. Các cụ vẫn nói " chết là hết chuyện " cơ mà. Xin lỗi các cụ. Garnier chết, chuyện mới bắt đầu...
" Gác Nhe (Garnier) hầm hè đánh ra ngoại thành thì bị ta chém chết ngay ở làng Giảng Võ. Nay mả nó vẫn còn đó ". (Hoàng Đạo Thuý, Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội, Hội Văn Nghệ Hà Nội, 1971, tr. 68).
Du khách tò mò đến thăm viếng vùng Giảng Võ, Cầu Giấy. Hỏi thăm bên phải, bên trái. Chả ai thấy mả nó nằm đâu. Ối dào, lại cái thói chửi đổng cho hả giận đấy mà!
" Chỗ (Cầu Giấy) đó sau này Tây thực dân dựng bia kỷ niệm Gác-ni-ê mà nhân dân quanh vùng vẫn gọi là mả Ba Hoanh ". (Nguyễn Vinh Phúc, Nguyễn Văn Lê, Hà Nội, con đường, dòng sông và lịch sử, Giao Thông Vận Tải, 1984, tr. 76).
Hoàng Đạo Thuý nhìn cái bia tưởng là cái mả chăng?
Garnier còn nhiều lận đận, chưa được nằm yên như Hoàng Đạo Thuý nghĩ đâu.
" Chiếc xác mất đầu của Francis Garnier được trung sĩ Champion mang về thành cùng với xác của hai lính thuỷ cùng bị giết. (...) Sau buổi lễ cầu hồn do đức cha Puginier thực hiện vào lúc 8 giờ sáng ngày 23/12 (năm 1873) trước sự có mặt của các cha Sohier và Colomer, các thi thể được đóng trong các áo quan bằng gỗ rất dày và được chôn gần Hoàng cung ở chân hai gốc đa lớn ". ( André Masson, Hà Nội giai đoạn 1873-1888, Bản dịch của Lưu Đình Tuân, Hải Phòng, 2003, tr. 58).
Theo thoả thuận được kí kết, mấy cái xác chỉ được chôn tạm gần Hoàng cung. Bao giờ tìm được đất khác thì phải rời đi.
Ngày 31/8/1875, triều đình nhà Nguyễn kí thoả ước nhường đất (nhượng địa) cho Pháp. Khu Nhượng địa nằm phía bờ đê sông Hồng, quanh nhà thương Đồn Thuỷ (Bệnh Viện Hữu Nghị ngày nay).
Có đất, Pháp xây nghĩa địa. Garnier được cải táng.
7 giờ 30 sáng ngày 3/11/1875 bác sĩ Jardon cho khai quật tử thi Garnier để khám nghiệm, viết báo cáo pháp y. Công việc kéo dài đến 4 giờ chiều mới xong. Đám tang được cử hành đưa về một nhà thờ nhỏ của Hà Nội. 7 giờ sáng hôm sau (4/11/1875) đức cha Puginier làm lễ cầu hồn. Sau đó, đám tang được đưa về nghĩa địa mới trong khu Nhượng địa (sđd, tr. 59).
Masson không kể tiếp " hậu vận " của Garnier.
Nằm trong khu Nhượng địa nhưng Garnier vẫn chưa được mồ yên mả đẹp. Gia đình Garnier đòi chôn Garnier trên " đất Pháp ", tại Sài Gòn. Lại cải táng. Ngày 16/12/1875, chiếc áo quan đựng hài cốt Garnier cập bến Sài Gòn. Garnier được đem về chôn tại nghĩa địa Tây (cimetière européen) (địa điểm công viên Lê Văn Tám ngày nay). (Albert de Pouvourville, Francis Garnier, Plon, 1931, tr. 234). Ngôi mộ của Garnier tại Sài Gòn (Tombeau de Francis Garnier à Saigon) được vẽ lại trong sách của de Pouvourville (tr. 192-193). Nhưng tiếc rằng mộ vẽ lại không phải là ngôi mộ được đại uý Charles Peyrin chụp ảnh, năm 1928. Mộ Garnier nằm cạnh mộ de Lagrée ! Lí do của sự gần gũi này như sau :
Trước khi được phái ra Hà Nội năm 1873, Francis Garnier sống tại Sài Gòn và đã từng là phụ tá đắc lực của Doudart de Lagrée trong đoàn thám hiểm sông Cửu Long (từ 5/6/1866 đến 29/6/1868). De Lagrée hơn Garnier 16 tuổi. Hai người tin cậy lẫn nhau. Đặc biệt, Garnier rất mến phục vị trưởng đoàn. Sang đến Trung quốc thì de Lagrée bị bịnh gan, chết tại Vân Nam, ngày 12/3/1868. (De Pouvourville chép là ngày 26/3/1868) (sđd, tr. 120). Garnier quyết định mang thi hài của de Lagrée đi tiếp đến Thượng Hải, lấy tàu trở về chôn ông trên " đất Pháp ", tại Sài Gòn. (Francis Garnier, Voyage d'exploration en Indochine, Jean-Pierre Gomane giới thiệu và chú giải, La Découverte, 1985, tr. 224-226).
Tình cảm sâu đậm của Garnier đối với de Lagrée được mọi người trân trọng. Năm 1875, hài cốt Garnier được mang từ Hà Nội vào Sài Gòn. Người Pháp chôn Garnier cạnh de Lagrée. Cho " thầy trò " gặp lại nhau. Tấm ảnh của Peyrin cũng cho thấy tác giả sách Francis Garnier đã chép sai ngày chết của de Lagrée.
Tháng 7/1976 Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Vài năm sau, nghĩa địa Tây bị giải toả. Nước Pháp cho Bá Đa Lộc, Doudart de Lagrée, Francis Garnier... " hồi hương ". Lại cải táng. Hài cốt các ông đáp máy bay sang Singapour, rồi được chuyển lên tàu Jeanne d'Arc, đưa về Pháp. Tàu cập bến Brest ngày 26/4/1983. De Lagrée được an nghỉ tại quê nhà vùng Dauphiné. Garnier được táng tại đài kỉ niệm dựng tại ngã tư Saint Michel - Observatoire, quận 5, Paris. (J.P. Gomane, sđd, tr. 17).
Francis Garnier (1839-1873) lập được thành tích... ba lần cải táng. Một kỉ lục !
Nguyễn Dư
(Lyon, 3/2010)


 
1- Hình vẽ trong sách của Albert de Pouvourville
    (Mộ F.G. tại Sài Gòn, 1931)
*************
2- Toàn cảnh Mộ F.Garnier và D. de Lagrée, 
ảnh của Peyrin, 1928
*************
3- Mộ F. G. và D. de Lagrée

Hoàng Kế Viêm với chiến thắng Ô Cầu Giấy

Chủ Nhật 6:59 30/11/2008
 
Hậu duệ của Hoàng Kế Viêm bên lăng mộ ông được xây dựng từ năm 1909 tại Văn La (Quảng Bình).
(HNM) - Ngày 21-12-2008 tròn 135 năm chiến thắng Ô Cầu Giấy lần thứ nhất (1873-2008) và 125 năm chiến thắng lần thứ hai (1883-2008). Đây là 2 trận thắng nổi tiếng, ghi dấu ấn đầu tiên cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất của dân tộc Việt Nam...

Hoàng Kế Viêm (1820-1909) sinh tại xã Văn La, huyện Khang Lộc (nay là làng Văn La, xã Lương Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình), là con trai út Thượng thư Hoàng Kim Xán, dưới triều Gia Long. Là con quan đại thần, Hoàng Kế Viêm được tập ấm, sơ bổ chức Tư vụ Quốc tử giám, rồi thăng lên Chủ sự và được vua Minh Mạng gả con gái là công chúa Hương La. Minh Mạng đã thay tên lót cho ông từ Kế ra Tá (Hoàng Tá Viêm). Năm 1853, Hoàng Tá Viêm được bổ làm Án sát Nam Định, đến năm 1858 giữ chức Bố chánh Thanh Hóa, năm 1859 đổi ra làm Bố chánh Hộ lý Tổng đốc Hưng Yên. Năm Nhâm Tuất (1862), Hoàng Tá Viêm được thụ phong Tuần phủ Hưng Yên, năm 1865 giữ chức Thự Tổng đốc An-Tĩnh, rồi đến năm Canh Ngọ (1870) Tổng đốc An-Tĩnh. Làm quan ở nhiều địa phương, ở đâu Hoàng Tá Viêm cũng là một vị quan thanh liêm, quan tâm đến đời sống nhân dân, do vậy dân được an cư lạc nghiệp, cuộc sống ổn định.

Lúc bấy giờ tình hình biên cương phía Bắc rất phức tạp. Quân phỉ từ bên kia biên giới tràn sang nước ta. Lý Tam Đường chiếm cứ vùng Thái Nguyên, Lý Dương Tài đánh phá miền Lạng Sơn. Bọn Cờ vàng, Cờ đen, Cờ trắng đóng chiếm cả một giải thượng du Bắc Kỳ. Bọn Hoàng Tề, Tô Tứ quấy nhiễu ở ven biển Bắc Kỳ… Triều đình muốn chọn một vị tướng tài ba và tin cậy để đảm đương công việc dẹp giặc nơi biên cương. Vua hỏi ý kiến Nguyễn Tri Phương. Nguyễn Tri Phương tâu xin vua cho Hoàng Kế Viêm được toàn quyền. Tự Đức ban cho Hoàng Kế Viêm một thanh gươm vàng và 5 lá cờ lệnh, coi đó là ân điển của triều đình. Mùa thu năm 1870, Hoàng Kế Viêm nhận trọng trách về quân sự, làm Thống đốc quân vụ đại thần Lạng - Bằng - Ninh - Thái. Năm sau ông được gia hàm Hiệp biên Đại học sỹ. Hoàng Kế Viêm đã dẹp được giặc ở biên cương tổ quốc, thu phục được quân Cờ đen, góp phần làm nên chiến thắng Ô Cầu Giấy sau này. Năm 1872, ông được phong Bắc Kỳ Đại nguyên soái, năm 1873 Tiết chế quân vụ Bắc Kỳ... Ngày 20-11-1873, viên đại úy Francis Garnier với 200 quân tấn công thành Hà Nội, Nguyễn Tri Phương trấn giữ thành bị thương nặng, tuyệt thực và hy sinh, Hà Nội thất thủ. Thành Hà Nội mất, song 2 cánh quân của triều đình do Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản chỉ huy vẫn còn nguyên vẹn. Triều đình Huế không muốn dựa vào lực lượng này để giành lại đất đai bị mất, mà muốn qua thương lượng để chuộc lại. Được đà, quân Pháp đánh chiếm Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Ninh Bình… Trong lúc phái đoàn Trần Đình Túc (làm Tổng đốc sau khi Nguyễn Tri Phương mất) đang đàm phán với   F. Gernier, Hoàng Kế Viêm lệnh cho cánh quân Lưu Vĩnh Phúc phối hợp với quân triều đình do ông tổng chỉ huy bố trí mai phục ở Ô Cầu Giấy, mặt khác cho quân vào thành Hà Nội khiêu chiến buộc F. Gernier tạm dừng thương lượng, tự dẫn quân đi ứng chiến và sa vào ổ phục kích. Trận chiến xảy ra ác liệt. Quân của Hoàng Kế Viêm chém đầu F. Gernier vào giữa trưa ngày 21-12-1873...

Tuy vậy, triều đình Huế bạc nhược đã lệnh cho Hoàng Kế Viêm (cũng như cánh quân của Trương Quang Đản) lùi khỏi phạm vi Hà Nội, buộc phải rút về Sơn Tây, tiếp tục xây dựng quân đội, tổ chức dân binh. Lúc này thực dân Pháp đánh giá Hoàng Kế Viêm "là đối thủ chính" và có thái độ "rất thù địch" (điện mật của Pháp). Theo hòa ước Giáp Tuất 1874 Pháp trả thành Hà Nội, Tổng đốc Hoàng Diệu trấn giữ. Năm 1878, Hoàng Kế Viêm được phong Thự Đông các Đại học sỹ và ngay sau đó ông được lệnh điều quân đi dẹp bọn giặc Lý Dương Tài đang quấy phá ở Lạng Sơn. Năm 1879, bọn Lý Dương Tài bị đánh tan...

Biết được âm mưu của giặc Pháp là không từ bỏ đánh chiếm Bắc Kỳ, năm 1882 Hoàng Kế Viêm cùng một số quân thần khác dâng sớ xin triều đình cho đánh Pháp. Hoàng Kế Viêm cùng Hoàng Diệu tâu vua Tự Đức xin đưa quân thứ Tam Tuyên do Viêm chỉ huy về ứng cứu Hà Nội. 8 giờ ngày 25-4-1882 viên Đại tá Henri Riviere (tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Bắc Kỳ) gửi tối hậu thư buộc Hoàng Diệu đầu hàng. Tổng đốc Hoàng Diệu không thèm trả lời. 15 phút sau, giặc từ chiến hạm nổ súng và tấn công thành Hà Nội. Quan triều đình chống giữ không nổi, Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu treo cổ tuẫn tiết.

Hà Nội thất thủ và cái chết của Hoàng Diệu làm cho nhân dân Bắc Kỳ sôi sục căm thù. Lúc này cánh quân Hoàng Kế Viêm vẫn án binh bất động. Triều đình không dựa vào lực lượng này để đẩy mạnh cuộc kháng chiến, trái lại, phái người ra Hà Nội thương thuyết và lệnh cho Hoàng Kế Viêm và Nguyễn Chính lui quân về Hà Đông. Hai ông phản ứng, dâng sớ vạch tội Pháp. Hoàng Kế Viêm kháng sắc dụ bãi binh. Tự Đức giao cho triều đình luận tội ông đã trái lệnh vua, mặt khác lấy tình gia tộc khẩn cầu ông bãi binh... Ông khẳng khái "Vua ta sợ giao chiến mãi với Pháp, mãi không thấy thắng sẽ mất cả giang san, lo sợ không còn đất đai cho hoàng gia sinh sống. Chúng ta có quyền tự hỏi: Tại sao nhà vua không hỏi rằng toàn dân sẽ ở vào đâu?"...

Sau khi Hà Nội thất thủ, nhân dân Hà Nội nổi dậy chống Pháp. Ngày   24-3-1883, H. Riviere đưa quân đánh chiếm Nam Định. Thừa cơ, 2 đạo quân do Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản chỉ huy đã hội quân vây Hà Nội. Quân Trương Quang Đản áp sát tuyến ven sông Hồng, quân Hoàng Kế Viêm án ngữ dọc bờ sông Tô. Rạng sáng 26-3-1883, Hoàng Kế Viêm cho 4.000 quân từ phủ Hoài Đức tiến về Hà Nội, tấn công một số căn cứ giặc ở trong thành, quân Trương Quang Đản chặn đánh dọc sông Hồng, pháo kích căn cứ Đồn Thủy. Quân của Hoàng Kế Viêm đem cả voi đi tuần trong lòng Hà Nội, tấn công cứ điểm Hàm Long…, buộc H. Riviere phải xin lệnh Thống đốc ở Sài Gòn dẫn quân ra Phủ Hoài Đức. 4 giờ ngày   19-5-1883, H. Riviere chỉ huy 500 quân theo đường Trường Thi kéo quân về Phủ Hoài Đức. Quân Pháp lọt vào ổ phục kích ở Hạ Yên Quyết, Trung Thôn và bị đánh bất ngờ đã tháo chạy ngang qua vị trí cánh quân ta mai phục ở Tiền Thôn. Quân mai phục xung phong đồng loạt và H. Riviere bị chém đầu. Thế là trong 2 chiến thắng Ô Cầu Giấy cách nhau 10 năm (1873-1883), hai viên tổng chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ bị chặt đầu trên đất Ô Cầu Giấy. Người chỉ huy lập nên 2 chiến thắng đó là Thống đốc Trấn Bắc Đại tướng quân Hoàng Kế Viêm.

Thực dân Pháp đã đánh giá "dân chúng Bắc Hà tin vào Viêm hơn Tự Đức". Ngày 17-7-1883, vua Tự Đức băng hà. Trong di chiếu để lại, nhà vua viết: "Thống đốc Hoàng Tá Viêm thân tuy ngoài Bắc, thực quan hệ đến biên phòng, lâu nay dẹp yên biên giới Bắc Kỳ, trung thành công nghiệp rực rỡ. Giao cho người làm Trấn Bắc Đại tướng quân, các việc bình Tây, định Bắc đều giao cả cho người…".

Đỗ Duy Văn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét