Thứ Tư, 10 tháng 10, 2018

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 69/c

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Hội Tam Hoàng



Hội Tam Hoàng: Một thời vùng vẫy trên đất Việt

Thứ Tư, ngày 27/07/2016 11:04 AM (GMT+7)

Hội Tam Hoàng từng phát triển khá mạnh ở thành thị và thôn quê 6 tỉnh Nam kỳ, nơi đón nhận khá nhiều Hoa kiều từ tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến sang Việt Nam mua lúa gạo cách nay hơn một thế kỷ, và tồn tại đến năm 1975.

Hội Tam Hoàng: Một thời vùng vẫy trên đất Việt - 1
Khu vực Chợ Lớn (Sài Gòn) trước đây là nơi nhiều băng nhóm tội phạm, trong đó có Hội Tam Hoàng hoạt động
Hội Tam Hoàng xưa kia theo chân những người Hoa phản Thanh phục Minh du nhập vào Việt Nam. Khi triều đại phong kiến Mãn Thanh sụp đổ, mục tiêu của Hội Tam Hoàng, hay Thiên Địa hội ở ở Trung Quốc thay đổi từ chính trị sang hoạt động xã hội đen. Còn ở Việt Nam, các bang hội này đã biến chất từ lâu.
Theo một số tài liệu, cuối thế kỷ 19 qua đầu thế kỷ 20, Thiên Địa hội phát triển khá mạnh ở thành thị và thôn quê 6 tỉnh Nam kỳ, nơi đón nhận khá nhiều Hoa kiều từ tỉnh Quảng Đông, Phước Kiến sang mua lúa gạo, được thực dân Pháp gián tiếp nâng đỡ và khuyến khích: người Hoa kiều đem tiền về xứ, thăm quê quán dễ dàng, các bang mang tính chất tự trị, trong phạm vi nhỏ. Một số Hoa kiều đã tổ chức Thiên Địa hội để giữ độc quyền thương mại trong địa bàn nhất định, để lợi dụng thực dân Pháp.
Nam Kỳ trong những năm 1920 và 1930 mang đặc trưng của một thế giới  tội phạm ngầm có căn cứ ở vùng đầm lầy phía đông nam Chợ Lớn. Khu vực này thường xuyên xảy ra những vụ đạo tặc cướp  tài sản và ám sát.
Nơi trú ẩn của những đối tượng này là vùng Rừng Sát mà từ đó chúng triển khai các phi vụ. Các băng nhóm và gia đình tội phạm thống trị tuyệt đối khu vực này, và kết nối với nhau thông qua quan hệ hôn nhân, lập hội và thực hiện các hoạt động chống Pháp cùng hội Tam Hoàng Trung Quốc và các hội kín khác ở Việt Nam.
Hội Tam Hoàng: Một thời vùng vẫy trên đất Việt - 2
Một thời, nhiều doanh nghiệp và gia đình giàu có ở Sài Gòn chịu sự kiểm soát của nhiều băng nhóm khác nhau, đặc biệt là hội Tam Hoàng.
Hội Tam Hoàng hoạt động mạnh ở những thành phố có đông cộng đồng người Hoa. Khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp, nhiều doanh nghiệp và gia đình giàu có ở Sài Gòn (đặc biệt ở khu người Hoa), chịu sự giám hộ và kiểm soát của nhiều băng nhóm khác nhau. Những người không trả tiền bảo kê sẽ bị hội Tam Hoàng trả thù bằng nhiều hình thức, từ tấn công, bắt cóc đòi tiền chuộc, phá hoại tài sản, cướp hay giết hại.
Trong những năm 1950-1960, Chợ Lớn xuất hiện nhiều ông "vua không ngai" người Hoa, như "vua hàng phế liệu chiến tranh", "vua lúa gạo", "vua sắt thép", "vua xuất nhập khẩu"..., đều có quan hệ chặt chẽ với Tam Hoàng. Trong số đó có "vua bột ngọt" Trần T. là một thủ lĩnh cao cấp của Tam Hoàng.
Những ông vua này thao túng giá cả, chèn ép dân thường một thời gian dài, khiến "tướng râu kẽm" Nguyễn Cao Kỳ quyết định xử bắn Tạ Vinh, một trong những "vua không ngai" ngành lúa gạo ở Chợ Lớn. Các thành viên hội Tam Hoàng khi đó ráo riết tìm mọi cách để cứu hoặc giảm án cho Tạ Vinh, nhưng không có kết quả.
Hội Tam Hoàng: Một thời vùng vẫy trên đất Việt - 3
AP đưa tin vụ xử bắn Tạ Vinh năm 1966
Ngô Đình Diệm sau khi được đưa lên nắm quyền ở miền Nam đã ra lệnh cho quân đội xóa sổ, tước vũ khí các nhóm tội phạm có tổ chức ở vùng Sài Gòn – Gia Định – Biên Hòa – Vũng Tàu, và các thành phố như Mỹ Tho và Cần Thơ ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngô Đình Diệm cũng cho truy quyét các nhà thổ, tiệm mát-xa, sòng bạc và ổ đánh bạc, ổ thuốc phiện và câu lạc bộ đêm vì đây đều là những cơ sở của các nhóm thuộc hội Tam Hoàng.
Thấy rằng thương nghiệp tại miền Nam sau thời Pháp thuộc phần lớn nằm trong quyền kiểm soát của Hoa kiều, giới chức tìm cách hỗ trợ doanh nhân địa phương bằng cách hạn chế quyền lợi của người Hoa. Đạo luật 53 ở miền Nam được ban hành năm 1956 để cấm ngoại kiều (nhắm vào Hoa kiều) tham gia 11 nghề liên quan đến thóc gạo, điền địa, buôn bán thịt cá, than đá, dầu lửa, thu mua sắt vụn… Những người Hoa cũng sẽ bị trục xuất nếu họ không chịu nhập quốc tịch Việt. Tính đến năm 1961 thì trong số 1.000.000 Hoa kiều ở miền Nam chỉ còn 2.000 giữ Hoa tịch.
Ở miền Bắc, từ sau khi giành độc lập (năm 1945), hoạt động truy quét tội phạm còn quyết liệt hơn. Nhiều nhóm tội phạm có tổ chức, trong đó có Tam Hoàng, bị bắt giam, những cơ sở kinh doanh và tài sản của các nhóm này cũng bị tịch thu và sung công.
Sau năm 1975, nhiều người Hoa, trong đó có các thành viên hội Tam Hoàng trở về Trung Quốc đại lục hoặc Hong Kong, Đài Loan rồi đến các quốc gia khác. Tam Hoàng ở Việt Nam dần tan, theo thời gian chỉ còn là một mảnh ký ức.
Theo Ngọc Minh (tổng hợp) (Dân Việt)

Hội Tam Hoàng và những biến thể ma quái (Kỳ 1): Thiên Địa hội ở Việt Nam

Là một hội kín bắt nguồn ở tỉnh Phúc Kiến thời Khang Hy, Trung Quốc, khi ấy Thiên Địa hội - hay còn gọi là Hồng Hoa hội (Hồng môn) hoặc Tam Điểm hội - được một nhóm nhà sư ở chùa Thiếu Lâm lập ra với mục đích 'phản Thanh phục Minh' (đánh đuổi quân Mãn Thanh ra khỏi bờ cõi, khôi phục giang sơn của nhà Minh).
Bốn câu thơ nghe như trong truyện kiếm hiệp: "Tam điểm ám tàng cách mệnh tông. Nhập ngã Hồng môn mạc thống phong. Dưỡng thành nhuệ thế tùng cừu nhật. Thệ diệt Thanh triều nhất tảo không" lại chính là một đoạn bài "Tam Điểm cách mệnh thi", một bài thơ phản ánh đường lối hoạt động của tổ chức này…
Lịch sử Thiên Địa hội
Theo thời gian, cùng với những thiên tai, biến động chính trị ở Trung Hoa đại lục, các thành viên của Thiên Địa hội như những người tha hương khác, di cư đến nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do yếu tố địa lý, văn hóa, cộng với việc người Pháp cho tự do buôn bán, hút thuốc phiện nên Thiên Địa hội - sau này đổi tên thành Hội Tam Hoàng - nhanh chóng nhìn ra món lợi béo bở. Từ đó, một nhánh của Thiên Địa hội bắt đầu hình thành và cắm rễ - chủ yếu tại miền Nam Việt Nam.
Lễ cắt máu ăn thề của hội viên Tam Hoàng.
Khởi đầu, lúc mới thành lập ở Trung Quốc, về mặt tổ chức thì người đứng đầu Thiên Địa hội được gọi là Tổng đàn chủ. Dưới trướng Tổng đàn chủ có hai bộ phận là Tiền ngũ phòng và Hậu ngũ phòng, mỗi "phòng" chịu trách nhiệm một tỉnh, chẳng hạn như Nhất phòng ở Phúc Kiến, Nhị phòng ở Quảng Đông, Tam phòng ở Vân Nam, Tứ phòng ở Hồ Nam, Ngũ phòng ở Triết Giang. Ngoài ra còn 5 phân đàn nhỏ ở Cam Túc, Quảng Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây.
Theo sự phân công của Tổng đàn chủ, Tiền ngũ phòng lo việc ngoại giao, kinh tài, trong đó "Hoạt vụ Phòng" chịu trách nhiệm ám sát các quan chức Mãn Thanh, phục kích những đoàn xe chở quân lương, vũ khí, còn Hậu ngũ phòng lo việc thông tin liên lạc, tuyển mộ người cùng các công tác hậu cần, phổ biến chủ trương, chính sách của Thiên Địa hội đến các "đàn". Nói là mỗi đàn phụ trách một tỉnh nhưng thật ra, đại đa số người thuộc Thiên Địa hội đều tập trung ở những thành phố lớn như Nam Kinh, Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu…
Đứng đầu mỗi đàn là Sơn chủ (hay còn gọi là Hoàng Long - Rồng vàng) và Phó sơn chủ. Dưới trướng Sơn chủ là Hương chủ lo về tổ chức, kết nạp hội viên. Dưới nữa có Hồng côn (gậy đỏ) thuộc ban võ, phụ trách lực lượng vũ trang; Bạch chỉ phiến (quạt chỉ trắng) thuộc ban văn, phụ trách việc tham mưu, lập kế hoạch; Thảo hài (giày cỏ) làm nhiệm vụ thông tin liên lạc, trinh sát.
Thiên Địa hội thờ trời làm cha, thờ đất làm mẹ, lấy "phản Thanh phục Minh" làm tôn chỉ, lấy tinh thần "Đào viên kết nghĩa" làm nền tảng. Trên bàn thờ có bài vị của 5 người, gọi là "Hồng môn ngũ tổ", gồm Thái Đức Trung, Phương Đại Hồng, Mã Siêu Hưng, Hồ Đức Đế và Lý Thức Khai. Mật hiệu để những hội viên Thiên Địa hội nhận ra nhau là khi đưa tẩu thuốc mời nhau chẳng hạn, người đưa cầm bằng ngón cái và ngón trỏ, đưa cả hai tay, hai ngón cái hướng lên, nếu người nhận cũng nhận bằng hai tay, ép ngón cái của mình vào ngón cái của người đưa tẩu thuốc thì đúng là người trong hội.
Còn nếu mời uống trà thì người mời dùng ngón cái và ngón trỏ cầm ngang miệng chén, ngón giữa chạm vào đáy chén, nếu người kia cũng nâng chén như vậy thì đó chính là đồng hội, hoặc khi mời ăn, người mời đặt đôi đũa nằm ngang trên mấy đầu ngón tay xòe ra để mời, nếu khách chưa nhận đũa ngay mà đẩy bát ra xa thì ắt là hội viên chính hiệu.
Khi Cách mạng Tân Hợi (10.10.1911) nổ ra rồi ngày 12.2.1912, hoàng đế Mãn Thanh thoái vị thì sứ mệnh chính trị của Thiên Địa hội xem như đã hoàn tất. Tuy nhiên, các bang hội sinh ra từ Thiên Địa hội hoặc chịu ảnh hưởng của nó vẫn tồn tại với hệ thống tổ chức rất quy mô, chặt chẽ, chỉ có điều là mục tiêu lúc này không còn là "phản Thanh phục Minh" nữa, mà đơn thuần là những băng nhóm xã hội đen, coi việc kiếm tiền bằng cách buôn ma túy, tổ chức sòng bạc, tiệm hút thuốc phiện, bảo kê, giết mướn là ưu tiên hàng đầu.
Một trong những băng nhóm nổi tiếng nhất, thoát thai từ Thiên Địa hội là băng 14K. Khởi đầu, nó mang tên "Hội Hồng Môn trung nghĩa", sáng lập bởi một viên tướng thuộc Quốc dân đảng Trung Quốc là Cát Triệu Hoàng. Năm 1949, khi Đảng Cộng sản Trung Quốc giải phóng đại lục, Hồng Môn trung nghĩa chạy sang Hồng Kông rồi đổi tên là 14K.
Một số tài liệu cho rằng khi chạy sang Hồng Kông rồi tập hợp lại, Hội Hồng Môn trung nghĩa chỉ gồm 14 người và đều là người của Quốc dân đảng nên nó được đặt tên là 14K. Tuy nhiên, cũng có một số tài liệu khác khẳng định 14 là số nhà, nơi đặt tổng hành dinh cũ của Hồng Môn trung nghĩa ở đường Bảo Hoa, TP Quảng Châu, còn chữ "K" là Kuomintang - nghĩa là Quốc dân đảng.
Cùng với 14K, các băng nhóm khác như Thanh hội, Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào cũng lần lượt ra đời rồi trở thành 4 nhóm xã hội đen lớn nhất ở Hồng Kông (gọi là tứ đại hắc bang), trong đó 14K được xem là mạnh nhất. Đầu những năm 50 của thế kỷ 20, 14K bành trướng sang Macao, Đài Loan và các khu vực khác trên thế giới như Tây Âu, Bắc Mỹ, Australia và Đông Nam Á… Nó có liên hệ mật thiết với nhóm Yamaguchi-gumi ở Nhật Bản, với Trúc Liên bang, Tứ Hải bang ở Đài Loan, nhóm Hoa Thanh ở Mỹ và Hội Tứ ở Đông Nam Á…
Năm 1952, xảy ra cuộc chiến giành lãnh địa giữa Thanh hội và Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào. Khi ấy, 14K áp dụng chiến lược "ngọa sơn quan hổ đấu" - ngồi trên núi xem cọp đánh nhau. Kết quả Thanh hội bị xóa sổ còn Hòa Thắng Hòa, Hòa Hợp Đào cũng bươu đầu sứt trán nên thế lực của 14K cũng vì vậy mà mạnh hơn, nhất là sau lưng nó có một số nhân vật trong Quốc dân đảng đỡ đầu.
Một thành viên của tổ chức 14K.
Theo tài liệu thuộc địa lưu trữ của chính quyền Anh quốc, cuối những năm 80 của thế kỷ 19, số lượng thành viên Hội Tam Hoàng ở Hồng Kông lên đến gần 20.000 người, có mặt trong khắp các lĩnh vực, từ một nhân viên thuộc một cơ quan hành chính nào đó hay một viên chức tòa án, thậm chí còn là cảnh sát. Cũng vào thời điểm này, Trung Quốc đại lục rơi vào cảnh thiên tai, loạn lạc nên nhiều người bỏ sang Hồng Kông, làm nghề khuân vác, bốc xếp, thồ hàng hoặc kéo xe ở các bến tàu, trên đường phố để mong tìm được cuộc sống tốt đẹp hơn.
Ở nơi đất khách quê người, họ cũng cần một tổ chức đứng ra bảo vệ cho quyền lợi cho mình nên vì vậy, họ tình nguyện gia nhập Hội Tam Hoàng. Trong cuốn sách "Giai thoại Hồng Kông", tác giả Lu Yan viết: "Thời kỳ đầu, Hội Tam Hoàng là tổ chức đầu tiên đoàn kết mọi người lại với nhau và mục đích là giới thiệu việc làm cho người nhập cư. Khi trở thành hội viên của Hội, họ sẽ được hội bố trí địa bàn làm việc. Đổi lại, mỗi tháng họ tự nguyện trích một phần từ đồng lương ít ỏi của mình, nộp cho Hội, gọi là "hội phí".
Đứng trước làn sóng nhập cư ồ ạt, chính quyền Hồng Kông không thể kịp thời cung cấp điện, nước và các dịch vụ công cộng khác. Lợi dụng cơ hội này, Hội Tam Hoàng đã cho xây các trạm cấp điện, cấp nước, mạng lưới xe khách, nhà hộ sinh tư để thu lợi. Chẳng những không phản đối, người nhập cư còn mong được đóng tiền để sử dụng các dịch vụ của Hội Tam Hoàng. Đối với họ, nộp phí cho Hội Tam Hoàng đồng nghĩa với việc họ được công nhận là "người của Hội", và được Hội bảo vệ.
Để chứng tỏ mình là Tam Hoàng, Sun Yee On không ngần ngại kéo áo lên khoe hình xăm trong một quán ăn.
Dần dà, từ việc thu tiền tự nguyện của dân nhập cư, Hội Tam Hoàng chuyển sang hình thức dùng bạo lực để bắt ép người dân - nhất là những người ăn nên làm ra - hằng tháng phải nộp một khoản tiền, gọi là tiền bảo kê. Với số tiền này, Tam Hoàng đầu tư vào các nhà chứa gái, sòng bạc, các tiệm hút thuốc phiện…
Và mặc dù chính quyền Hồng Kông nhận ra sự lũng đoạn của Hội Tam Hoàng nhưng cảnh sát lại không thể quét sạch tổ chức này vì thế lực của Tam Hoàng đã bám rễ vào sâu trong nhiều tầng lớp xã hội. Nó gắn liền với kế sinh nhai của quá nhiều người nên việc họ chủ động khai báo với cảnh sát về những "hoạt động đen" của Hội là việc không tưởng!
Năm 1955, K. Hawins, một viên chức thuộc Phòng Nội vụ người Hoa ở Hồng Kông đã viết trong một báo cáo nội bộ: "Có thể nói, Hội Tam Hoàng đã gây tổn hại lớn cho xã hội Hong Kong. Hành vi tống tiền diễn ra công khai ở khắp mọi nơi và ngày càng nhiều người trở thành mục tiêu của băng nhóm này. Rất nhiều người di cư đến Hồng Kông phải sống trong những điều kiện dưới mức cơ bản nhưng rất khó động viên họ tham gia chiến dịch bài trừ Hội Tam Hoàng vì họ sợ trả thù. Trong khi đó, một số cảnh sát biến chất còn bắt tay với Hội Tam Hoàng, thông tin cho Hội những kế hoạch triệt hạ xã hội đen của chính quyền để hằng tháng nhận tiền "hụi chết".
Ngày 10.10.1956, tại Cửu Long (Kowloon) và một số khu vực khác ở Hồng Kông xảy ra bạo loạn, có sự tham gia tích cực của Hội Tam Hoàng. Vì vậy, ngay sau khi dập tắt cuộc bạo loạn, chính quyền Hồng Kông đã đề ra những chính sách đặc biệt và thành lập một ủy ban điều tra nhằm trấn áp Hội Tam Hoàng. Trong vòng 10 năm từ 1956 đến 1966, hơn 10.000 thành viên Tam Hoàng bị bắt, buộc tội, truy tố. Thế nhưng, tự mãn với những thành tích đã đạt được, chính quyền Hồng Kông thẳng tay cắt giảm chi phí cho công tác trấn áp nên Hội Tam Hoàng vẫn sống sót.
Tuy nhiên, đó là những chuyện xảy ra ở xứ người. Còn bây giờ, chúng ta hãy quay lại với Thiên Địa hội ở Việt Nam.
Thiên Địa hội ở Việt Nam
Như chúng tôi đã nói ở phần trên, trong số những di dân Trung Quốc bỏ xứ ra đi tìm miền đất mới thì nhiều người là thành viên của Thiên Địa hội. Theo tài liệu của Sở mật thám Đông Dương, dưới thời Pháp thuộc, những năm từ 1914 đến 1918 - là giai đoạn diễn ra Chiến tranh thế giới lần thứ nhất - ở miền Nam Việt Nam (người Pháp gọi là Nam Kỳ) có khoảng 70 đến 80 "hội kín". Mục đích chủ yếu của những hội này là chống Pháp, chống đám quan lại tàn bạo, tham ô, chống sưu cao thuế nặng, cường hào ác bá…
Hầu hết những "hội kín" đều sử dụng tôn giáo và phép thuật để chiêu mộ hội viên. Một báo cáo của Văn phòng mật thám Nam Kỳ viết: "Họ - tức các hội kín - tổ chức cắt ngón tay lấy máu pha rượu, uống để thề trung thành. Có hội phát cho mỗi hội viên một lá bùa với lời tuyên truyền "gươm đâm không thủng, đạn bắn không xuyên".
Có hội cầm đầu bởi một thầy pháp (thầy cúng)… Họ có những dấu hiệu riêng để nhận ra nhau. Trong liên lạc, họ dùng tiếng lóng và những đám giỗ, đám cưới, đám ma là bức bình phong che giấu những cuộc họp. Những địa phương có nhiều hội kín nhất ở Nam Kỳ là Sài Gòn, Chợ Lớn, Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Bến Tre, Bạc Liêu, Châu Đốc, Long Xuyên...".
Không thể đứng ngoài những "hội kín" ấy, Thiên Địa hội vào cuộc. Đầu tiên, họ nhắm đến những người đánh xe ngựa (xe thổ mộ) - là phương tiện giao thông chủ yếu ở Nam Kỳ thời bấy giờ. Để thống lĩnh ngành vận tải thô sơ này, những người cầm đầu Thiên Địa hội tại Sài Gòn lập ra "Hội Vạn Xe", căn cứ đặt ngay bến Bình Đông (nay thuộc quận 8), là nơi ghe thuyền từ các tỉnh miền Tây chở nông sản thực phẩm, hoa quả lên cung cấp cho các chợ đầu mối ở Sài Gòn…

Hội Tam Hoàng và những biến thể ma quái (Kỳ 2): Chiếc vòi bạch tuộc

Không chỉ "làm luật" những gánh hát bội, Thiên Địa hội kiểm soát luôn những động mại dâm, những tiệm hút thuốc phiện để thu tiền bảo kê của gái, của chủ chứa, chủ động. Ai có gan báo mã tà thì sớm muộn gì cũng lãnh đủ bằng nhiều hình thức, chẳng hạn như động chứa gái đột nhiên cháy rụi, tiệm thuốc phiện có cả chục khách vào nhưng chỉ kêu một "bi" thuốc rồi nằm lì từ sáng đến chiều.


   
Đã vậy, Thiên Địa hội còn bày trò "lạc quyên" vào những dịp lễ, tết. Cứ đến tết Đoan Ngọ, tết Trung thu, tết Nguyên đán, những đội múa lân không mời mà gặp, tự động sồng sộc vào cửa nhà người ta, trống gõ thùng thùng, thanh la não bạt chập cheng loẻng xoẻng, con lân chạy tới chạy lui, ông Địa khề khà vẫy quạt một lát rồi… đòi tiền.
Từ hoạt động bảo kê…
Ngược dòng thời gian, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau khi phong trào Cần Vương thất bại và cuộc khởi nghĩa lớn nhất ở 6 tỉnh miền Tây Nam Bộ (lục tỉnh) do Võ Duy Dương và Thủ khoa Huân lãnh đạo bị thực dân Pháp dập tắt thì Thiên Địa hội ở Nam Kỳ bắt đầu phát triển mạnh, nhất là tại Gia Định, Biên Hòa, Trà Vinh, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Bạc Liêu... nơi có nhiều Hoa kiều cư ngụ.
 hoi tam hoang va nhung bien the ma quai (ky 2): chiec voi bach tuoc hinh anh 1
Xe ngựa trước chợ Bến Thành.
Khi ấy, nó gồm 2 nhóm lớn: Nhóm Nghĩa Hưng - hay còn gọi là Đồng Hưng, Nhân Hưng, Kèo Xanh, Kèo Đỏ, chủ yếu là người Hoa gốc Phúc Kiến, hoạt động tại Sài Gòn - Chợ Lớn, có xu hướng hoạt động chính trị rõ rệt. Họ liên kết với quân "Cờ Đen" của Lưu Vĩnh Phúc - là thuộc hạ của tướng Ngô Côn trong phong trào Thái Bình Thiên Quốc, từng phối hợp với quân triều Nguyễn giết chết hai sĩ quan Pháp là Francis Garnier và Henri Rivière. Nhóm thứ hai là Nghĩa Hòa, tức Kèo Vàng của người Hoa gốc Triều Châu, hoạt động chủ yếu ở Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên. Ngoài ra còn nhóm của người Hẹ (Khách trú) nhưng vì ít người nên quy mô tổ chức cũng nhỏ hơn.
Lúc này, số đông người Việt ở Nam Kỳ có tham gia "hội kín" hoặc có cảm tình với các "hội kín" nhìn thấy một sức mạnh tiềm tàng nơi Thiên Địa hội, có thể dựa dẫm được. Phương cách hoạt động thần bí của Thiên địa hội lại rất phù hợp với bản tính liều lĩnh, can đảm, sùng bái thần quyền, ưa phiêu lưu mạo hiểm, tin vào bùa ngải của họ. Vì vậy, khi gia nhập Thiên Địa hội, họ vẫn giữ các truyền thống do người Hoa lập nên, như trộn lẫn phép thuật, bùa chú, uống máu ăn thề với việc dùng tiếng lóng, dấu hiệu riêng để liên lạc…, nhưng thay đổi mục tiêu "phản Thanh phục Minh" của người Hoa thành "phản Pháp phục Nam".
Để chiêu binh mãi mã, khởi đầu những người lãnh đạo Thiên Địa hội ở Sài Gòn, Chợ Lớn nhắm vào số phu xe ngựa và thành lập "Hội Vạn Xe". Theo nhà nghiên cứu Vương Hồng Sển, "vạn" là một hình thức nghiệp đoàn, như "vạn chài", "vạn cấy". Người trong một "vạn" liên kết với nhau rất chặt chẽ dưới sự chỉ huy, điều động của "vạn trưởng". Nếu một người trong "vạn" bị ức hiếp, đánh đập hoặc tài sản bị chiếm giữ thì lập tức cả "vạn" ồ ạt kéo đến bênh vực, trả thù. Khi bị chính quyền Pháp bắt, hầu như họ không bao giờ khai báo về tổ chức của "vạn" hoặc chỉ khai phần ngọn. Nếu phải ở tù, gia đình người tù sẽ được "vạn" giúp đỡ rồi khi ra tù, "vạn" lại tiếp tục giao cho họ công việc và phương tiện mà trước đó họ đã làm.
Địa bàn hoạt động của Hội Vạn Xe khi ấy kéo dài từ bến Bình Đông ra khu vực Phú Lâm, từ đình Minh Phụng sang cầu Xóm Chỉ, từ chợ Nancy xuống khu An Bình, Chợ Lớn. Ở vùng Sài Gòn, Hội Vạn Xe làm chủ rạch Bến Nghé, bến Bạch Đằng, các kho hàng bên Khánh Hội và các con đường nay là Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Đồng Khởi… Sự thống nhất về giá cả, về sự liên kết - nhất là khi một thủy thủ người Pháp say rượu từ đường Lê Lai thuê xe về bến Bạch Đằng, đã chẳng những không trả tiền mà còn tát tai người phu xe khiến cả chục "vạn phu" kéo đến, đánh cho gã thủy thủ một trận thừa sống thiếu chết khiến những "Hộ trưởng" (là người đứng đầu một khu phố - tương tự như chủ tịch phường bây giờ), hoảng hốt. Lập tức, các Hộ trưởng bẩm báo với chính quyền, nhưng người Pháp khi ấy bỏ ngoài tai vì cho rằng "đây chỉ là hành động tự phát của một nhóm phu xe khi thấy đồng nghiệp bị hiếp đáp".
Mặc dù người Pháp cũng mở cuộc điều tra, nhưng chỉ điều tra cho có lệ bởi lẽ họ chẳng khai thác được gì nơi những người "Vạn Xe". Tất cả đều "không biết, không nghe, không thấy, không tham gia". Được nước, Lý Vỹ, kẻ cầm đầu Thiên Địa hội vùng Sài Gòn, Chợ Lớn dấn thêm một bước: Không chỉ phu xe ngựa, Vỹ ra lệnh cho hội viên, bằng hình thức này hay hình thức khác, mỗi người phải kết nạp thêm 3 người trong giới bồi bếp, người phục vụ ở các nhà hàng, quán ăn, công nhân các xưởng sản xuất thủ công, làm thuê cho các hiệu buôn…, những hội viên mới này cứ đóng tiền "hội phí" hằng tháng là được Thiên Địa hội che chở…
Theo báo cáo của mật thám Sài Gòn, cuối năm 1889, số lượng thành viên của Hội Vạn Xe vào khoảng 6.000 người, được tổ chức thống nhất từ trên xuống dưới, đứng đầu là một người Việt tên Bạch - thường được gọi là "Cai" Bạch. Xuất thân từ một phu lục lộ (công nhân làm đường giao thông), do mẫn cán nên Bạch được cất nhắc lên làm "cai", trông coi 1 tổ gồm 40 người, chịu trách nhiệm trong việc rải đá dăm, nấu nhựa đường. Được một người Hoa tên Phóng móc nối, Bạch gia nhập Thiên Địa hội rồi chỉ một thời gian ngắn sau, cả 40 người trong tổ của Bạch cũng trở thành hội viên Thiên Địa hội.
 hoi tam hoang va nhung bien the ma quai (ky 2): chiec voi bach tuoc hinh anh 2
Các hội viên Thiên Địa hội thề trước bàn thờ Ngũ tổ. Ảnh minh họa.
Việc cai Bạch trở thành người lãnh đạo Hội Vạn Xe đã khiến Ngọc "Móng Cái" bất bình. Là người Hoa gốc Nùng, Ngọc từ Móng Cái, Quảng Ninh tha hương vào Sài Gòn làm nghề đánh xe ngựa kiếm sống. Lúc chưa có sự xuất hiện của cai Bạch, Ngọc "Móng Cái" là người cầm đầu hơn 300 phu xe ngựa, xe kéo. Tới hồi bị hất cẳng, lại thêm sự khích bác của đồng nghiệp, Ngọc phát tín hiệu, đề nghị cai Bạch tỉ thí để phân định chủ, tớ.
Trận tỉ thí diễn ra suốt 6 ngày, mỗi ngày đánh nhau 1 tiếng, địa điểm là trước dãy nhà kho bến Hàm Tử trước sự cổ vũ của các phu xe ngựa, xe kéo, công nhân bốc vác. Do cả hai đều giỏi võ nên 5 ngày đầu bất phân thắng bại. Đến chiều ngày thứ 6, bằng một cú đá liên hoàn, cai Bạch dồn Ngọc "Móng Cái" vào vách tường rồi tung ra đòn quyết định là cú đấm móc ngược từ dưới hàm lên. Dính đòn hiểm, Ngọc "Móng Cái" choáng váng. Và khi cai Bạch định kết thúc bằng một cú đấm nữa thì Ngọc giơ tay xin hàng.
Trở thành người lãnh đạo Hội Vạn Xe, theo chỉ đạo của Lý Vỹ, cai Bạch ra lệnh cho các phu xe rằng nếu như trước kia, một cuốc xe từ chợ Nancy đến Nhà hát lớn chẳng hạn, phu xe đòi 2 cắc nhưng sẵn sàng đồng ý 1 cắc rưỡi nếu khách trả giá thì bây giờ, 2 cắc rưỡi là 2 cắc rưỡi, khách không đi thì thôi trong lúc cứ mỗi cuối ngày, phu xe vẫn phải nộp tiền "hụi chết" cho Thiên Địa hội.
Để có tiền nộp, phu xe phải nghĩ ra những trò bất lương như chở khách đi vòng vèo rồi đòi thêm tiền. Nếu khách có nhiều hành lý, giữa đường phu xe than nặng, ngựa kéo không nổi rồi tăng giá. Gặp khách phản ứng, phu xe quăng hết hành lý của khách xuống và đợi một xe khác chạy ngang qua rồi ra dấu là chỉ một lúc sau, sẽ có hàng chục chiếc xe ngựa kéo đến gây áp lực.
Với những người làm nghề bồi bàn, bồi bếp, thợ thủ công, hình thức thu tiền "hụi chết" được Thiên Địa hội nói thẳng với chủ tiệm, chủ nhà hoặc chủ xưởng. Cuối tháng, người của Thiên Địa hội đến gặp chủ tiệm rồi sau khi thu tiền bảo kê cho tiệm, chủ tiệm phải trả luôn tiền bảo kê cho những bồi bàn, công nhân làm trong tiệm, xưởng của mình. Phần tiền này sẽ được trừ vào lương. Ông Nhơn, năm nay 76 tuổi, nhà ở trong một con hẻm trên đường Lê Quang Sung, quận 6 cho biết: "Hồi đó tôi nghe ba tôi kể là mỗi lần đình Minh Phụng có gánh hát bội về hát là Thiên Địa hội cử người đến thu tiền bảo kê. Có lần, một gánh dưới Lục tỉnh lên, nghe Thiên Địa hội đòi tiền thì họ không đưa, mà họ báo "mã tà" (cảnh sát). Tới hồi gần đến giờ mở màn, bà con chuẩn bị vô xem thì ngay ở cửa, hàng chục phu xe ngựa đứng dồn cục, tay cầm roi bện bằng da, cố tình chắn lối. Mã tà chỉ có một người nên bất lực. Cuối cùng, chủ gánh phải bấm bụng xì ra một ít tiền mới xong".
Bảo kê cho người sống chưa đủ, Thiên Địa hội còn bảo kê cho cả… người chết bằng cách lập ra những "hội tương tế" mà thực chất là bán hòm, tổ chức tang ma hậu sự. Một báo cáo của Sở Mật thám Nam Kỳ viết: "Không thể bắt quả tang bọn này vì khi hỏi, gia chủ luôn luôn trả lời là họ tự nguyện chứ không bị ép buộc. Một "lính kín" (nghĩa là người chỉ điểm) của ta cài vào nhóm Thiên Địa hội ở bến Bình Đông suốt 3 tháng không moi được tin tức gì, mà sau đó lại chết đuối(?!). Ở nhiều nơi, dân không nghe theo hội trưởng, mà răm rắp tuân lời chánh hội, phó hội, hương chủ…, là những chức vụ ngầm do Thiên Địa hội đặt ra".
Thế lực ngầm ngày càng phát triển và do không đủ nhân lực nên dần dà, một số người Việt trở thành lãnh đạo Thiên Địa hội, người Hoa chỉ còn đóng vai trò cố vấn, phụ trách nghi lễ. Thành phần tham gia Thiên Địa hội đông nhất là nông dân và dân nghèo thành thị, hầu hết ở tuổi thanh niên. Khi gia nhập hội, họ phải đọc 36 lời thề, nội dung hết lòng với huynh đệ, sống chết không phản bội, không lấy công làm tư, không tham lam gian tà, không dụ dỗ vợ của hội viên khác… nếu sai lời sẽ bị muôn đao phanh thây xẻ xác. Trích máu ăn thề xong, hội viên sẽ được cấp cho một lá bùa "Hồng môn hộ mạng", vừa để bảo vệ thân thể trước súng đạn, lại vừa dễ nhận ra nhau..
Thiên Địa hội ở lục tỉnh Nam Kỳ
"Ở đâu có người Hoa là ở đó có Thiên Địa hội". Báo cáo của Sở Mật thám Đông Dương khẳng định. Nhất là ở những vùng quê, những xóm chợ ven sông, một tiệm thuốc Bắc mà ông thầy xem mạch là người Hoa, hoặc một quán mì, quán trà đều có thể là đầu não chỉ huy hội viên Thiên Địa hội tại vùng đó.
Vai trò của Thiên Địa hội xuất hiện rõ nét nhất là ở tỉnh Bạc Liêu. Lúc ấy, khu vực chợ Bạc Liêu xảy ra bệnh dịch tả nên viên chủ tỉnh (tương tự như chủ tịch tỉnh ngày nay) ra lệnh cho tất cả các tiệm ăn phải quét dọn sạch sẽ và đặc biệt là cấm khạc nhổ, đi tiêu bừa bãi nơi công cộng nếu ai vi phạm sẽ bị phạt. Trước lệnh này, chủ các tiệm ăn, quán trà, chủ các sạp hàng buôn bán trong chợ là người Hoa đồng loạt đóng cửa tiệm, đóng cửa sạp hàng để phản đối. Báo cáo của viên chủ tỉnh gửi Toàn quyền Đông Dương có đoạn viết: "Chúng tôi tịch thu được nhiều loại giấy tờ có đóng dấu đỏ với những ký hiệu rất lạ, với những lời lẽ và con số giống như nói về chuyện tiền bạc. Một lính kín mà chúng tôi cài vào làm công cho tiệm mì Huê Ký ở chợ Bạc Liêu khẳng định rằng đó là lệnh bãi thị của Thiên Địa hội… Gửi trát đòi mấy chủ tiệm người Hoa lên hỏi thì họ trả lời rằng họ không phải là người viết tờ giấy đó, và nội dung của nó chỉ là giấy tính tiền mua hàng ở Sài Gòn mà thôi".
Trước những hoạt động bí ẩn của Thiên Địa hội, người Pháp rơi vào trận hỏa mù. Những tài liệu mật thám Pháp thu được ở Sài Gòn Chợ Lớn, ở các tỉnh miền Tây đều na ná như nhau. Đó là vài thanh gươm, cán có chạm chữ "Thiên", vài bộ truyện Tàu, những tờ giấy "dó" - một loại giấy làm theo phương pháp thủ công trong đó loằng ngoằng những ký tự tiếng Hoa và những con số giống y như đơn đặt hàng hay biên lai tính tiền.
Một báo cáo viết năm 1909 của Henri Dusson, Chánh án Nam Kỳ đã mô tả về sự phát triển Thiên Địa hội ở Long Xuyên như sau: "Khi đưa những người trong phong trào Duy Tân ở Mỹ Tho do Trần Chánh Chiếu cầm đầu ra tòa vào tháng 4.1909, chính quyền thuộc địa đã kết án quá nhẹ. Trần Chánh Chiếu cùng một số đồng phạm khác trắng án khiến dân Long Xuyên tin rằng nếu gia nhập "hội kín" thì chẳng ai làm gì được…".
Theo Vũ Cao (An ninh thế giới)

Hội Tam Hoàng và những biến thể ma quái (Kỳ 3): Những cuộc bạo loạn

Mặc dù đánh giá Thiên Địa hội tại Nam Kỳ chưa đến nỗi nguy hiểm như ở Trung Quốc, nhưng người Pháp thỉnh thoảng cũng tổ chức các cuộc ruồng bố và trục xuất những Hoa kiều không đăng ký trong sổ bộ. Tuy vậy, Thiên Địa hội vẫn không ngừng phát triển. Tháng 5.1882, ở tổng Định Chí, tỉnh Sóc Trăng, tất cả người Hoa, người Minh Hương và người Việt ở 18 làng trong tổng đều theo Thiên Địa hội. Ở Cần Thơ, làng nào cũng có Thiên Địa hội mà người đứng ra tổ chức là những người Hoa từ Chợ Lớn về.


   
Những thế lực ngầm
Như chúng tôi đã nói trong bài trước, ở 6 tỉnh miền Tây Nam Bộ (lục tỉnh), tỉnh nào cũng có Thiên Địa hội nhưng gây được ảnh hưởng lớn nhất vẫn là tại Long Xuyên với hai nhóm là Nghĩa Hưng và Nghĩa Hòa.
Nhóm Nghĩa Hưng hoạt động dưới lớp vỏ bọc thương mại, gọi là Nghĩa Hưng công ty, chuyên vận chuyển lúa gạo, hàng hóa gia dụng bằng những chiếc ghe bầu. Ở cái vành gỗ đầu tiên ngay trước nóc mui ghe, họ cho sơn màu xanh. Vì vậy, dân Long Xuyên thường gọi họ là nhóm "kèo xanh". Bên cạnh đó, họ còn có một số nhà máy xay lúa và một đội ngũ chuyên đi đến những làng mạc xa xôi, thu mua lúa gạo. Ở đâu xuất hiện nhóm thu mua này là ở đó, những thương buôn khác phải tránh xa.
Những người lãnh đạo nhóm "kèo xanh" hầu hết là người Hoa gốc Phúc Kiến. Thời hưng thịnh nhất, nhóm "kèo xanh" có khoảng 60 chiếc ghe bầu, tải trọng mỗi ghe từ 5 đến 8 tấn với nhân lực hơn 1.000 người, kể cả công nhân bốc vác. Gắn động cơ thủy của hãng MEMEs, Pháp, đội ghe Nghĩa Hưng hoạt động khắp lục tỉnh, lên Sài Gòn, đi Biên Hòa và sang cả Phnôm Pênh, Campuchia. Ở Cần Thơ, Nghĩa Hưng có một chi nhánh gọi là Nhơn Hưng còn tại Sài Gòn, chi nhánh là Đông Hưng.
 hoi tam hoang va nhung bien the ma quai (ky 3): nhung cuoc bao loan hinh anh 1
Bia di chỉ nơi Thiên Địa hội ra đời ở Phúc Kiến, Trung Quốc.
Nhóm thứ hai xưng tên Hòa Xuân - dân Long Xuyên gọi là nhóm "kèo đỏ". Về thực chất thì nhóm "kèo đỏ" tách ra từ nhóm "kèo xanh", phần lớn vẫn là người Phúc Kiến. Bởi vậy nên ngoài cái vành mui ghe thứ nhất sơn màu xanh thì vành thứ hai họ sơn màu đỏ.
Cũng như "kèo xanh", "kèo đỏ" hoạt động trong lĩnh vực vận tải đường sông nhưng đội ghe của họ ít hơn "kèo xanh", chỉ có chừng 35 đến 40 ghe, nhân lực khoảng 600 người nhưng ngược lại, một số "hội kín" ủng hộ họ vì họ thường giúp những người bị mật thám Pháp truy nã, ẩn trốn trong ghe dưới dạng làm công.
Thực lực không bằng "kèo xanh, kèo đỏ" nhưng lại nổi danh là nhóm "kèo vàng", tên chính thức là Nghĩa Hòa gồm đa số người Hoa gốc Triều Châu và một số ít là người Minh Hương (là những người theo nhà Minh, khi bị Mãn Thanh cai trị đã bỏ xứ chạy sang Việt Nam rồi thành lập một cộng đồng gọi là Minh Hương). Cũng hoạt động dưới lớp vỏ thuyền buôn nhưng "kèo vàng" chuyên về tổ chức cờ bạc với những sòng me, tài xỉu, xập xám.
Những sòng bạc này mọc lên ở khắp nơi: Từ một manh chiếu trải xuống đất bên cạnh chợ Mỹ Luông chuyên đánh tài xỉu đến những sòng mạt chược lênh đênh trên những chiếc ghe bầu hoặc trong những ngôi nhà cửa nẻo kín mít. Theo ước tính vào đầu thế kỷ XX, hội viên chính thức của nhóm "kèo vàng" chỉ khoảng 300 người nhưng nó chi phối hệ thống cờ bạc từ Cần Thơ xuống Sóc Trăng, từ Bạc Liêu, qua Long Xuyên về Rạch Giá.
Trong một báo cáo viết năm 1879 của Sở Mật thám Nam Kỳ gửi Toàn quyền Đông Dương, họ đã báo động như sau: "Tỉnh Long Xuyên gồm 60 làng nhưng chỉ 5 làng là chưa xác định được có hội kín hoặc có người dân theo “kèo xanh”, “kèo đỏ” hay không. Số còn lại thì 35 làng chịu ảnh hưởng rất nặng của hai nhóm này, 17 làng chịu ảnh hưởng tương đối. Cũng trong 60 làng thì 52 làng có người của "kèo vàng", chuyên tổ chức đánh bạc bằng nhiều hình thức, lôi kéo hàng nghìn con bạc tham gia. Trong số 12.484 dân Triều Châu ở toàn cõi Nam Kỳ - trừ Sài Gòn, Chợ Lớn - thì chỉ riêng tỉnh Sóc Trăng và một phần của Bạc Liêu, tổng số người Triều Châu là 5.300 người - nghĩa là gần một nửa. Ngoài ra, còn có khoảng 6.000 người Triều Châu khác không chịu đăng ký, ghi tên vào sổ bộ…".
Mặc dù sáng lập và xây dựng tổ chức, nhưng là thiểu số nên người Hoa chỉ nắm vai trò lãnh đạo, vạch kế hoạch cho mọi hoạt động của nhóm mình, còn đa số hội viên hoặc những thủ lĩnh cấp thấp là người Việt. Ngay từ năm 1877, mật thám Pháp đã nhận ra sự hoạt động của Thiên Địa hội nhưng thời điểm ấy, họ cho rằng Nghĩa Hưng, Hòa Xuân, Nghĩa Hòa lập ra chẳng qua là để cạnh tranh trong lĩnh vực làm ăn, cờ bạc.
Báo cáo của mật thám Long Xuyên viết: "Sự liên kết giữa người Việt và Hoa kiều nhất định sẽ có hại cho nhà nước thuộc địa, tuy hiện nay chưa thành vấn đề lớn nhưng trong tương lai sự liên kết ấy sẽ mạnh hơn vì có sự thông đồng ngấm ngầm giữa Hoa kiều chủ chứa sòng bạc và bọn công chức An Nam ăn hối lộ…".
 hoi tam hoang va nhung bien the ma quai (ky 3): nhung cuoc bao loan hinh anh 2
Lính mã tà thời Pháp thuộc.
Kéo xanh, kéo vàng đại chiến
Tuy nhiên, từ năm 1880 trở đi, tình hình trở nên biến động khác thường. Nhiều làng xóm liên tục xảy ra những vụ cháy nhà, chặt phá vườn cây ăn trái, đánh bả chó, cắt chân trâu, bò… mà nạn nhân nếu không phải là hội viên của nhóm "kèo xanh" thì cũng là người của "kèo vàng".
Tháng 9.1880, tại Sóc Trăng, lần đầu tiên "kèo xanh", "kèo vàng" dàn quân đánh nhau công khai giữa ban ngày. Tổng cộng hai bên có khoảng 60 người, hầu hết là người Hoa giỏi võ, trang bị gậy gộc chứ không dùng đao kiếm vì không muốn rắc rối với chính quyền thuộc địa, chưa kể hàng trăm người khác của cả hai bên đi theo để cổ vũ tinh thần. Kết quả có 3 người bị thương nặng phải đưa lên Chợ Lớn điều trị.
Khi trận giao tranh xảy ra, theo lệnh của viên chủ tỉnh, hương chức làng và lính mã tà không can thiệp, cũng như không xuất hiện để giải tán hay bắt bớ. Đến tháng 11, hai bên lại đánh nhau nhưng trận đụng độ có quy mô lớn nhất xảy ra vào ngày 17.12.1880. Hơn 400 người thuộc Nghĩa Hưng, Nghĩa Hòa lao vào hỗn chiến ngay trên đường phố cạnh chợ Sóc Trăng. Lần này, theo đề nghị của chủ tỉnh, Thống đốc Nam Kỳ chấp thuận xử phạt, nhưng chỉ phạt bằng tiền.
Nguyên nhân của những xung đột này bắt nguồn từ thời xa xưa, giữa người Hoa gốc Phúc Kiến và người Hoa gốc Triều Châu. Đến khi nhóm Nghĩa Hòa mở ra những sòng bạc, nó đã lôi cuốn không ít "phu thuyền" - là người làm công trên ghe bầu của nhóm Nghĩa Hưng lao vào cuộc đỏ đen, mà thói cờ bạc thì thua nhiều hơn thắng. Để gỡ gạc, "phu thuyền" Nghĩa Hưng ngoài sự chểnh mảng trong công việc, có người còn ăn cắp lúa đem bán lấy tiền. Sau nhiều lần phát tín hiệu cảnh báo nhưng nhóm Nghĩa Hòa vẫn làm lơ, nhóm Nghĩa Hưng quyết định một còn một mất.
Và sở dĩ nổ ra những trận chiến bởi nhóm Nghĩa Hưng xưa nay vẫn thiên về hoạt động chính trị. Dựa vào khẩu hiệu "phản Pháp phục Nam",  những người cầm đầu Nghĩa Hưng toan tính lật đổ chính quyền thuộc địa để thay thế bằng một nền quân chủ phong kiến trong lúc nhóm Nghĩa Hòa lại chủ trương làm ăn kinh tế thông qua cờ bạc, thuốc phiện. Bên cạnh đó, cũng do đa số nông dân, thợ thuyền người Việt ít học, không phân biệt nổi đâu là "kèo xanh", đâu là "kèo vàng", mà họ chỉ gọi chung là "hội kín" khiến thanh danh của Nghĩa Hưng ít nhiều tổn hại nên họ phải đánh để phân định "chính", "tà"!
Mặc dù đánh giá Thiên Địa hội tại Nam Kỳ chưa đến nỗi nguy hiểm như ở Trung Quốc, nhưng người Pháp thỉnh thoảng cũng tổ chức những cuộc ruồng bố và trục xuất những Hoa kiều không đăng ký trong sổ bộ. Tuy vậy, Thiên Địa hội vẫn không ngừng phát triển. Tháng 5.1882, ở tổng Định Chí, tỉnh Sóc Trăng, tất cả người Hoa, người Minh Hương và người Việt ở 18 làng trong tổng đều theo Thiên Địa hội. Ở Cần Thơ, làng nào cũng có Thiên Địa hội mà người đứng ra tổ chức là những người Hoa từ Chợ Lớn về. Chỉ đến khi một "lính kín" phát hiện ra rằng trong một buổi lễ kết nạp hội viên mới, có lời thề "sẽ khởi loạn" thì chính quyền thuộc địa mới thật sự lưu tâm.
Đầu tháng 7.1882, tại một bãi đất hoang vu sát biển thuộc tổng Thạnh Hòa - nay là tỉnh Bạc Liêu, một "lính kín" báo về, rằng một số Hoa kiều dựng lên những căn chòi nằm rải rác, canh gác cẩn mật. Hằng ngày, thường xuyên có chừng 300 đến 400 người lui tới họp hành bàn bạc.
Hai ngày sau đó, một cuộc càn quét được chính quyền thuộc địa tung ra với 12 mật thám, 50 lính mã tà dưới sự chỉ huy của một cai tổng. Nhóm người Hoa chống cự kịch liệt bằng gậy gộc nhưng tre, gỗ làm sao đấu nổi súng đạn. Kết quả 76 người Hoa bị bắt, tất cả đều là dân Triều Châu, trong đó có 19 người bị bắt quả tang đang nấu thuốc phiện lậu cùng một số tài liệu liên quan đến Thiên Địa hội. Qua khai thác, họ nói rằng tất cả mọi hoạt động của họ đều theo sự chỉ đạo từ Chợ Lớn nhưng ai là người trực tiếp chỉ đạo thì họ không biết vì chỉ liên lạc bằng thư.
Ngay lập tức, vùng Sài Gòn, Chợ Lớn bị bố ráp theo lệnh của Thống đốc Nam Kỳ. Tại hai căn nhà liên kế số 127, 129 đường Lareynière, người Pháp thu được nhiều tài liệu quan trọng, chứng minh đây là cơ quan đầu não của Thiên Địa hội. 7 người Hoa gốc Triều Châu bị trục xuất về nước.
 hoi tam hoang va nhung bien the ma quai (ky 3): nhung cuoc bao loan hinh anh 3
Giấy chứng nhận thành viên Thiên Địa hội.
Hội Tam Hoàng dưới thời Việt Nam Cộng hòa
Năm 1954, sau Hiệp định Geneve chia đôi đất nước, miền Nam Việt Nam nằm dưới sự cai trị của chính quyền độc tài, gia đình trị Ngô Đình Diệm. Không khó để nhận ra sự lũng đoạn kinh tế của một nhóm người Hoa có liên quan đến Thiên Địa hội - mà lúc này đã đổi tên thành Hội Tam Hoàng, dưới sự cố vấn của Ngô Đình Nhu, tháng 9.1956, Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật số 53, cấm người nước ngoài (mà thực chất là cấm người Hoa) làm 11 nghề, gồm: buôn bán lúa gạo, in ấn, buôn bán dầu hỏa, than đá, vận tải hành khách… Bên cạnh đó, ông ta ra lệnh cho tất cả mọi người Hoa, nếu ai không nhập quốc tịch Việt thì sẽ bị trục xuất.
Theo một báo cáo của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa, tính đến cuối năm 1961, hơn 1 triệu người Hoa sống ở miền Nam chỉ còn chừng 2.000 người là không chịu đổi quốc tịch, phần lớn là những người đã già. Báo cáo này viết: "Họ - nghĩa là những người Hoa không nhập tịch - đều lớn tuổi, ốm đau bệnh hoạn, sống nay chết mai nên xét thấy không cần thiết phải trục xuất họ"…
Tin vào báo cáo nên anh em Diệm, Nhu không biết rằng trong số những ông già "cận địa viễn thiên" ấy, có người là lãnh đạo tối cao của Hội Tam Hoàng ở miền Nam. Duy nhất chỉ có một nhân vật nhìn ra mối nguy hiểm tiềm tàng này: Đó là Ngô Đình Cẩn.
Là em út trong dòng họ Ngô, Cẩn tuy ít học nhưng lại được trời phú cho một khả năng đặc biệt về những hoạt động ngầm. Bằng cách lập ra "Đoàn công tác đặc biệt miền Trung" do Dương Văn Hiếu và Nguyễn Tư Thái (biệt danh Thái "đen") cầm đầu với mục tiêu "săn lùng và tiêu diệt Cộng sản nằm vùng", Cẩn ra lệnh "làm thịt" luôn những người Hoa theo Hội Tam Hoàng bằng cách vu cho họ là tình báo Trung Quốc. Quá sợ hãi, nhiều người Hoa giàu có ở Huế, ở Đà Nẵng bỏ của chạy lấy thân. Họ vào Sài Gòn, xuống Bạc Liêu, Sóc Trăng… làm lại cơ nghiệp từ đầu và đó cũng là nguyên nhân vì sao đến nay, so với các địa phương khác ở miền Nam thì Huế là nơi có số lượng người Hoa ít nhất.
Trước những biến động ấy, Tam Hoàng ở miền Nam hầu như tê liệt. Nếu như trước kia, Tam Hoàng Chợ Lớn được coi như trung tâm quyền lực đen thứ hai trên thế giới, chỉ sau Singapore còn xếp thứ ba là Hồng Kông thì năm 1960, Tam Hoàng Chợ Lớn xem như biến mất trên bản đồ "hội kín". Thay vào đó, một tổ chức nhỏ hơn, thực lực kém hơn nhưng vẫn do người Hoa sáng lập và điều khiển là "Thanh bang" ngoi lên, tiếp thu và phát triển những ngành nghề kinh tế mà trước đó, nó vốn nằm trong tay các thành viên của Hội Tam Hoàng…
Theo Vũ Cao (An ninh thế giới)

Hội Tam Hoàng và những biến thể ma quái: Không còn đất sống

11:10 26/07/2015

Đêm 14 rạng ngày 15/2/1916, khoảng 300 hội viên Thiên Địa hội ở Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, tất cả đều mặc áo đen, quần trắng, cổ quấn khăn trắng, được uống rượu có pha một lá bùa đã đốt thành tro, cổ đeo dây pháp chú, bí mật dùng ghe, thuyền cập bến neo đậu ở chân cầu Ông Lãnh rồi chia làm ba nhóm. Một hướng về Khám Lớn Sài Gòn cứu Phan Xích Long, một chiếm dinh Thống đốc Nam Kỳ và một đánh phá kho đạn, phá nhà máy điện...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét