Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
KÝ ỨC CHÓI LỌI 105/g
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
-Chiến tranh ai cũng ghét, nhưng nhiều khi chúng ta buộc phải cầm súng vì không còn cách nào khác! -Cuộc sống là vô giá. Không ai đổi cuộc sống lấy anh hùng mà chỉ thành anh hùng khi bảo vệ cuộc sống!
Chẳng phải sông Đà, sông Mã, sông Hồng đôi bờ cát mênh mông,
Thì cũng sông Trà, sông Hương, sông Cửu Long uốn chín đầu rồng
Chẳng phải rộng xa một tầm cò vỗ cánh,
Cũng xinh xinh vài sải chèo quẫy mạnh
Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông
Khi ta bé dòng sông nào cũng rộng
Chiếc thuyền giấy gửi tuổi thơ theo sóng
Một cánh cò vỗ lả xuống lòng ta…
Từ nguồn nào, sông cũng nặng phù sa
Đời ông cha từng cuốc đất, dựng nhà.
Khơi tưởng tượng, những chuyện xưa mẹ kể
Tuổi thơ ngây ngỡ dòng sông nhỏ bé
Cửa quê mình Trần Quốc Toản từng qua…
Rồi biết nghe chuyện anh, chuyện cha
Biết tự hào: Sông đã từng đánh Pháp
Nước lấp mặt những ca nô tan xác
Bãi lau già chuyển cán bộ qua sông…
Những dòng sông ngàn năm ôm cánh đồng
Khi ta vào đời, Đời đã cấy cày chung
Xanh sắc lúa xoá bờ gầy đói khổ
Mặt cánh đồng nhờ mặt người soi hộ
Trên dòng sông – là một tấm gương trong…
Em ta yêu có gì như lòng sông
Một nền xanh tràn xuống chảy theo dòng
Là ruộng đất, anh hiền lành, khoẻ khoắn
Có mía ngọt và bãi hoa mơ mộng…
Đã bao đời gắn bó giữa hai ta,
Sông chia mình thành ngàn nhánh phù sa
Đến bè bạn cùng từng gốc lúa
Trắng lấp lánh là quẫy tung đuôi cá
Xanh mát êm là xoan dọc bờ vùng
Yêu nhau rồi, ta có những vui chung…
Uống bát nước chè bên nòng súng, trưa nắng cháy
Nghe màu xanh bờ bãi mát trong lòng!
Bình tĩnh ngồi bên những trái bom
Đâu trong gió mái chèo xa vọng lại:
Đêm mưa không đèn vững vàng tay lái
Đường dẫn đi như dòng nước tới mênh mông…
Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng?
Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông…
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Từ giảng đường đến chiến trường - Phần 5
Chuyện tình thời chiến: Mối tình day dứt của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm
07:00 27/07/2017
"Em ngã xuống mà tim anh đau suốt bấy năm trường. Khi em còn sống, ta im
lặng. Im lặng thực sự. Khi em chết rồi, ta mới nói thực sự yêu em",
người yêu bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm viết.
Chiến tranh không chỉ có bom đạn, máu đổ và hy sinh, vẫn có những
tình yêu được ươm mầm trong xa cách, chia ly. Những người lính đi chiến
trận không hẹn ngày về và cả người con gái ở hậu phương cũng ngã xuống
vì bom đạn. Chỉ còn những bức thư, những dòng nhật ký lưu lại những
chuyện tình đẹp như cổ tích nhưng đầy day dứt trong khói lửa chiến
tranh. Zing.vn trân trọng giới thiệu đến quý bạn đọc bài cuối
trong "Chuyện tình thời chiến", nhân 70 năm Ngày thương binh liệt sĩ
(27/7/1947 - 27/7-2017).
Gian trưng bày của bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam (Hà Nội) có hai bức
thư được đặt cạnh nhau. Đó là thư của liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm
gửi người yêu có tên là M. Phía bên kia là bài thơ thay lời hồi đáp cho
bức thư của Đặng Thuỳ Trâm. Người con trai đó ký tên là Mộc.
Đừng nói nữa mà lòng anh đau
Bức thư được viết ngày 17/3/1969. 48 năm đã trôi qua, mỗi dòng, mỗi
chữ dường như vẫn thổn thức nhịp đập của người con gái phải yêu trong
day dứt. “M ơi! Ta đã thực sự xa nhau rồi đó ư? Anh Tấn về không đem một
tin nào của anh cả. Anh ở đâu? Sao em vẫn thấy trái tim mình rỉ máu,
vết thương của con tim sao khó lành đến vậy?”.
“Chiều nay ở đây và ở đó ta cùng đang trong cuộc chiến đấu nóng bỏng,
ta cùng chung nhịp thở của những người đồng chí vào sinh ra tử có nhau,
vậy mà... sao lại xa cách đến thế này hở người đồng chí yêu thương?”.
Bức thư của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm gửi Khương Thế Hưng. Ảnh tư liệu.
Bức thư dường như là lời thổ lộ từ những trang nhật ký mà ở đó hình
ảnh của M luôn hiện diện trong cuộc sống nơi chiến trường ác liệt của
Đặng Thuỳ Trâm. Chị nhớ anh ngay cả khi cận kề giữa sự sống và cái chết.
“Có lúc nào đó giữa hai tràng tiếng nổ em nghe tiếng thì thầm của
trái tim... Đó là khuyết điểm không thì tùy người đánh giá... Mong anh
được bình an và khỏe, mãi mãi là người giải phóng quân cầm súng mà tâm
hồn không chỉ có lửa đạn...?”.
Có lẽ một lúc nào đó giữa chiến trường, hai người cùng nghe tiếng bom
rơi xé toạc màn đêm. Người con trai đó nhớ người yêu cả khi khối bộc
phá 10 cân nổ tung thành tiểu khu Quảng Ngãi hất anh bay lên. Trước khi
rơi xuống đất và ngất lịm đi, anh tưởng như vẫn nghe được tiếng hát
người yêu lượn trên sóng biển.
Nhưng đáp lại sự tha thiết của người yêu, anh nén lòng mình lại. Anh viết:
“Không bao giờ anh quên
Lương tâm người cầm súng
Vì niềm vui đất nước
Anh sẵn sàng hy sinh
Vì hạnh phúc của em
Anh chịu phần đau khổ… riêng mình
Chỉ vậy thôi, em ơi!
Đừng nói nữa!
Mà lòng anh đau”.
Bài thơ Khương Thế Hưng hồi đáp người yêu. Ảnh tư liệu.
M hay Mộc là bút danh của một người lính tên Khương Thế Hưng (con
trai nhà thơ Khương Hữu Dụng). Trong những kỷ vật đại tá Khương Thế Hưng
để lại sau khi qua đời (1999) có bức ảnh bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm. Mặt sau
của tấm ảnh là bút tích của Khương Thế Hưng ghi: “7/1971 - Trận càn Lữ
11, Sư đoàn America vào hậu cứ Đức Phổ. Hy sinh ở tuổi 25, người nữ bác
sĩ còn quá trẻ. Nhưng không còn trẻ nữa với người con gái chưa có được
niềm vui của hạnh phúc tình yêu…
Ôi! Nếu mình biết được trong hai ta, người ngã xuống trước lại không
phải là mình, có lẽ mình đã không phạm phải lỗi lầm để biển cả im lặng
không dội lại âm vang của tiếng hát Xa Khơi đêm Thuỳ tiễn mình đi vào
trận đánh Mậu Thân năm 1968… Vậy đó, Thuỳ ơi…”.
Tình yêu day dứt giữa bom đạn
“Những người đi chiến đấu/ Không muốn nặng thêm khẩu súng/ Một mối
tình quá xa? Và nhất là/ Nỗi ân hận quá nhiều/ Bắt một người yêu/ Phải
đợi…”.
Nhà thơ Khương Hữu Dụng, cha của Khương Thế Hưng, đã thay con trai
viết nên những câu thơ trên để lý giải sự im lặng khó hiểu, hay sự tan
vỡ lạ lùng trong tình yêu của anh và bác sĩ Đặng Thùy Trâm.
Đặng Thùy Trâm đã hy sinh, mang theo nỗi đau im lặng của tình yêu.
Khương Thế Hưng còn sống trở về, nhưng tình yêu với người nữ bác sĩ trẻ
mãi là một bí mật trong tâm hồn sâu kín của anh.
Trong cuốn nhật ký nổi tiếng của mình, Đặng Thuỳ Trâm dành cho người
yêu những lời đầy tha thiết. Nhưng đâu đó, chị dường như cũng có những
dự cảm không lành.
"Ngày 5/5/1968... Một cái gì giống như linh cảm bảo với Th. rằng rồi
sẽ không được gặp M. nữa, lần chia tay ấy sẽ là lần cuối cùng. M. đứng
nhìn theo, Th. đi không ngoảnh lại, mặc dù biết rằng một đôi mắt đen
đang dõi theo Th. Những giây ở trong cánh tay người đồng chí thân yêu ấy
chỉ còn là một hình ảnh dĩ vãng xa xưa mà thôi”.
Một bức ảnh của bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm và bút tích của đại tá Khương Thế Hưng. Ảnh tư liệu.
Còn Khương Thế Hưng viết về người con gái anh yêu trong nhật ký: “Làm
sao quên được Thùy Trâm nhỉ! Khi Thùy còn sống, mình tránh nói yêu
Thùy. Nhưng mình rất thương và trọng Thùy. Và hẹn sẽ chờ. Để mãi mãi là
người thân yêu nhất của nhau. Chiến tranh đã cướp đi lời hẹn ấy… Có phải
tại mình không biết thủy chung? Thùy ơi, sẽ không có người con gái nào
giống như Thùy đâu. Trong cuộc sống. Và trong trái tim mình. Nằm yên
nghỉ nơi mảnh đất vùng giáp ranh Đức Phổ, Thùy có nghe lời nói im lặng
nhưng rất vang xa của trái tim mình không? Anh yêu Thùy, vâng, anh yêu
Thùy”.
“Giặc Mỹ bắn vào đúng trái tim em. Em ngã xuống mà tim anh đau suốt
bấy năm trường. Khi em còn sống, ta im lặng. Im lặng thực sự. Khi em
chết rồi, ta mới nói thực sự yêu em”.
Những dòng nhật ký muộn màng đó được viết sau ngày Khương Thế Hưng
biết tin bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm đã hy sinh. Đặng Thuỳ Trâm ngã xuống giữa
chiến trường Đức Phổ với tình yêu day dứt không được đáp lại. Còn tình
yêu và cái chết của chị dường như là tiếng dội đau đớn trong trái tim
Khương Thế Hưng suốt phần đời còn lại sau chiến tranh.
“Em chết đi biến thành ngọn gió lượn trên đầu anh. Trên đời anh.
Thành tiếng gọi đằng trước để anh đi tới...". (Nhật ký Khương Thế Hưng
năm 1973).
Bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm sinh ra trong một gia đình trí thức Hà
Nội. Năm 1966, sau khi tốt nghiệp Đại học Y khoa, Đặng Thuỳ Trâm xung
phong vào chiến trường. Chị công tác tại bệnh viện huyện Đức Phổ (Quảng
Ngãi) và hy sinh ngày 22/6/1970 trên đường đi công tác do bị địch phục
kích. Đặng Thuỳ Trâm là tác giả của cuốn nhất ký nổi tiếng được một cựu
sĩ quan quân báo Mỹ lưu giữ cho đến ngày trao trả lại cho gia đình vào
năm 2005.
Khương Thế Hưng sinh năm 1934, quê tại Hội An, Quảng Nam. Khương Thế
Hưng tham gia chống Pháp rồi tập kết ra Bắc. Năm 1962, anh trở lại chiến
trường. Năm 1965, anh là phái viên chiến trường cho các đơn vị chủ lực
đặc công ở Quảng Ngãi. Khương Thế Hưng mất năm 1999 do di chứng chất độc
da cam và những vết thương thời chiến tranh.
Ngọc Hoa - Hà Hương
Người yêu của chị Đặng Thùy Trâm
16/05/2015 21:33
Hóa ra, người mà chị Trâm yêu tha thiết, yêu đến nỗi xung phong vào
chiến trường Quảng Ngãi ác liệt để tìm bằng được lại là người anh rất
thân thiết với tôi - anh Khương Thế Hưng
Bây giờ thì mọi người đã biết
người yêu của chị Đặng Thùy Trâm là ai nhưng cách đây 10 năm, vào tháng
7-2005, thì rất ít người biết. Khi đó, “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” bắt đầu
được công bố từng phần, sau được in thành sách và trở thành quyển “best
seller” ở Việt Nam từ trước tới nay.
Hồi đó, tôi được tiếp xúc khá sớm với cuốn hồi ký của chị Trâm. Ngay
khi sách được xuất bản, tôi nhận được một cú điện thoại và được biết
người mà chị Trâm gọi trong nhật ký là M. hay N.M. Tôi sửng sốt. Hóa ra,
người mà chị Trâm yêu tha thiết, yêu đến nỗi xung phong vào chiến
trường Quảng Ngãi ác liệt để tìm bằng được và sau đó đã rất buồn vì tình
yêu của mình không toại nguyện, lại là người anh rất thân thiết với tôi
- anh Khương Thế Hưng.
Anh Hưng là con trai nhà thơ Khương Hữu Dụng, một người bác mà tôi
rất yêu kính và cũng rất thân thiết. Từ bác Dụng, tôi đã thân với cả nhà
bác, thân nhất là với anh Hưng - một người lính quả cảm, nhân ái, đầy
lòng yêu thương và vị tha; người tôi coi như một tấm gương để học tập,
như người anh ruột để có thể thổ lộ nhiều tâm tình.
Đoàn cán bộ báo chí TP HCM thăm và thắp
hương tưởng niệm liệt sĩ Đặng Thùy Trâm tại Bệnh xá Đặng Thùy Trâm ở
tỉnh Quảng Ngãi Ảnh: PHAN ANH
Vậy mà, trong suốt thời gian anh em chơi với nhau, tôi chưa lần nào
nghe anh Khương Thế Hưng nhắc tới chị Đặng Thùy Trâm. Dù khi tôi hiểu ra
nhiều chuyện thì cả hai anh chị đã đi về thế giới khác. Chị Trâm hy
sinh năm 1970 còn anh Hưng mất vì di chứng chiến tranh năm 1999, cách
nhau gần 30 năm. Nhưng cho tới bây giờ, tình yêu của họ vẫn là một bí
mật đối với tôi. Tôi không hiểu vì sao trước tình yêu mãnh liệt của chị
Trâm như chị thể hiện trong nhật ký và những bức thư, mà đối lại, anh
Hưng chỉ âm thầm nén chịu, một mình mình biết một mình mình hay như thế!
Đó âu cũng là một bí mật của tình yêu thời chiến tranh, khi anh Khương
Thế Hưng chịu sự ám ảnh quá sâu đậm của hình ảnh “Ruồi Trâu”, còn chị
Trâm lại quá lý tưởng trong tình yêu.
Có thể nói, cả hai người đều đã sống cách thực tế một khoảng; và
khoảng cách ấy là không thể san lấp. Một người yêu mãnh liệt, một người
nén chịu cũng mãnh liệt đến mức sau này phải thốt lên trong nhật ký:
“Anh kiệt sức. Anh đau khổ”. Thật xót xa! Vì sao ông trời không cho họ
đến với nhau, dù sau đó có thế nào, sao họ không “đời” hơn một chút nữa?
Nhưng rồi tôi tự nhủ: Có khi, họ không đến được với nhau trên trần
gian lại là chuyện hay. Vì họ sẽ còn gặp nhau ở một thế giới khác, không
chiến tranh, không ưu phiền, không tuyệt vọng. Còn bây giờ, tình yêu
của họ trong trẻo như những giọt sương là niềm an ủi cho biết bao người
đang yêu nhau trên trần gian này. Nhiều người trẻ giờ đây có thể không
hiểu vì sao hai con người tốt đến như vậy, đẹp đến như vậy lại không đến
được với nhau, dù có thể thâm tâm họ đã thuộc về nhau? Mà như thế mới
là đời, như thế mới là tình yêu, có những điều không thể cắt nghĩa được.
Riêng tôi, tôi ngưỡng mộ và yêu thương cả hai người. Với tôi, họ là
những con người hoàn hảo mà chúng ta thấy được ở cõi đời này. Vừa rồi,
có những người so sánh bản gốc nhật ký Đặng Thùy Trâm với bản in để nói
là bản in đã “sửa chữa nhiều”, không đúng với nguyên bản. Song, cần phân
biệt rằng nhật ký là dành riêng cho người viết, còn khi đã đưa in như
một ấn phẩm thì nếu còn sống, người viết cũng phải điều chỉnh những đoạn
quá riêng tư để phù hợp với một ấn phẩm. Khi người viết đã mất, gia
đình họ (giữ bản quyền) có quyền điều chỉnh những đoạn quá riêng tư để
tác giả nhật ký - dù đã mất - không buồn lòng khi công bố nhật ký của
mình cho nhiều người đọc.
Như tôi đã từng viết: Nếu còn sống, chị Trâm chưa chắc đồng ý cho
công bố quyển nhật ký của mình. Chị sẽ sống lặng lẽ và sẽ rất ít người
biết chị đã sống và chiến đấu như thế nào. Chị là bác sĩ, và chị hy sinh
vì bảo vệ những bệnh nhân của mình - những thương bệnh binh - chứ không
phải hy sinh để thành anh hùng. Và đó mới là người anh hùng thật sự khi
biết hy sinh vì người khác.
Khương Thế Hưng (ảnh; bút danh Nguyên Mộc, Đỗ Mộc) sinh ngày
18-9-1934, quê ở làng Minh Hương, Hội An, Quảng Nam; tình nguyện nhập
ngũ năm 16 tuổi, sau kháng chiến chống Pháp thì tập kết ra Bắc. Chưa kịp
bước vào giảng đường đại học, đầu năm 1962, anh trở lại chiến trường
miền Nam (đi B).
Năm 1965, Khương Thế Hưng làm phái viên chiến trường cho các đơn vị
chủ lực đặc công ở Quảng Ngãi và đến năm 1968 là chính trị viên Tiểu
đoàn 48 lừng danh. Anh bị thương nặng trong một trận đánh vào năm 1970
và phải chuyển ra Bắc. Về sau, anh làm phóng viên Báo Quân đội Nhân dân,
rồi về Ban Ký sự Tổng cục Chính trị. Từ năm 1992, sức khỏe anh yếu dần
và mất ngày 13-11-1999 do di chứng chất độc da cam.
Thanh Thảo
Viết tiếp chuyện bác sĩ - liệt sĩ Đặng Thùy Trâm: Buổi chiều cuối cùng của một thiên thần
Sinh năm 1943, tại Hà Nội tốt nghiệp hạng
ưu Đại học Y khoa Hà Nội 1966, bác sĩ Đặng Thùy Trâm là con gái đầu của
một gia đình trí thức. Bố chị là bác sĩ người gốc Huế, còn mẹ chị là
dược sĩ gốc người Quảng Nam. Tình nguyện vượt Trường Sơn vào công tác
tại chiến trường Quảng Ngãi, từ tháng 4.1967 đến tháng 7.1970, chị Thùy
Trâm là Bệnh xá trưởng Bệnh xá Đức Phổ (Quảng Ngãi). Suốt thời gian ấy,
chị Trâm cùng đồng nghiệp đã cứu chữa cho hàng nghìn thương binh và nhân
dân Đức Phổ.
Hy sinh trên đường công
tác, hai cuốn nhật ký của chị Thùy Trâm đã rơi vào tay lính Mỹ. Và hành
trình kỳ lạ của hai cuốn nhật ký này trước khi nó được trao về cho gia
đình chị Trâm đã được Báo Thanh Niên lần đầu tiên giới thiệu trong một
bài viết kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cảm hóa
chính những kẻ thù đã sát hại mình bằng hai cuốn nhật ký ấy, nữ bác sĩ
Đặng Thùy Trâm đã là biểu tượng cho những gì cao đẹp nhất của người thầy
thuốc Việt Nam trong chiến tranh, và cũng là biểu tượng cho lòng yêu
nước, tinh thần xả thân vì lý tưởng của cả một thế hệ những trí thức yêu
nước trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Chị Thùy Trâm đã nói gì trước lúc hy sinh?
Chị Nguyễn Thị Kim Liên
Chị Nguyễn Thị Kim Liên,
56 tuổi, nguyên học viên lớp y tá Bệnh xá Đức Phổ, người duy nhất chứng
kiến cái chết của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, kể với giọng buồn buồn về buổi
chiều định mệnh ấy. Tiếp chúng tôi tại nhà riêng ở một "nhà không số,
phố không tên" thuộc thị xã Quảng Ngãi, chị Liên nay đã về hưu, có chồng
là thẩm phán tòa án tỉnh, có 3 con, 2 gái 1 trai và đã có đứa cháu
ngoại đầu tiên. Trong buổi sáng, tiếng khóc của đứa trẻ nằm nôi nghe
thật thanh bình. Cháu út của chị sắp tốt nghiệp Cao đẳng Tài chính - Kế
toán, ra chào khách. Khi chúng tôi hỏi cháu định xin việc ở đâu sau khi
tốt nghiệp, chị Liên thật thà: "Khó lắm anh ạ. Tôi giờ về hưu rồi...".
"Nhưng anh chồng chị đương chức, lại là thẩm phán tòa tỉnh, to thế cơ
mà!" - tôi ngạc nhiên. Chị Liên cười cười: "Lại khó nữa.Vì những người
sắp... đứng trước vành móng ngựa rồi mới quan hệ với anh ấy, thì làm sao
nhờ họ xin việc cho con mình được?". Chúng tôi bật cười dù câu chuyện
chịkể sắp đi vào đoạn buồn nhất. Chị Liên chợt
hỏi tôi: "Anh có biết vào buổi chiều ngày 22 tháng 7 năm 1970 ấy, trong
lúc vượt qua ngọn núi giáp ranh xã Phổ Cường và Phổ Ninh, chị Trâm đã
nói gì với tôi không ?". Làm sao tôi biết được, nhưng tôi biết, đó có
thể là câu chuyện cuối cùng, những lời nói cuối cùng của nữ bác sĩ Thùy
Trâm gửi lại thế giới này, cuộc đời này. "Chị Trâm đã kể tôi nghe về
người yêu của chị. Tôi không biết anh ấy là ai, chỉ nhớ chị Trâm đã kể
rất say sưa những kỷ niệm về mối tình đầu của mình. Hai chúng tôi đang
trên đường từ căn cứ sắp chuyển bệnh xá về lại căn cứ cũ. Hai chị em
chúng tôi đi tiền trạm mà. Tôi là y tá tập sự của Huyện đội Đức Phổ được
cử về bệnh xá của chị Trâm để học lớp y tá đợt 2 nhằm nâng cao tay
nghề. Tôi chỉ mới được ở với chị Trâm gần 6 tháng, nhưng thời gian ấy đủ
cho tôi thương mến và cảm phục chị Trâm vô cùng. Chị Trâm không chỉ
được mình tôi thương, dù chị nhận tôi là em nuôi. Chị được tất cả bà con
ở Phổ Cường và Đức Phổ - những nơi chị đã sống, đã lăn lộn trong mấy
năm ác liệt - thương như thương con đẻ hay chị em ruột thịt. Ở trạm xá
trên núi, nhưng chị Trâm thường xuyên nhận được quà của bà con
Ông Ted Engerlmen Cựu chiến binh Mỹ trao đĩa CD lưu giữ cuốn nhật ký cho mẹ bác sĩ Trâm. Ảnh Ngọc Thắng
Phổ
Cường gửi lên cho, từ hộp sữa đến bộ quần áo hay cả chiếc radio bán
dẫn. Tôi nhớ, có lần chị còn khoe tôi chiếc nhẫn vàng bà con gửi cho chị
"làm nhẫn cưới". Anh biết không, tôi chưa thấy một người con gái nào
đẹp, giỏi giang và lại dễ thương như chị Trâm. Người như thế được nhiều
anh để ý hay thầm yêu trộm nhớ cũng là chuyện bình thường. Nhưng trong
thời gian sống bên chị, tôi thấy hình như chị chưa nhắm đến ai trong số
những người mà chúng tôi quen biết. Cả chuyện chị thường xuyên ghi nhật
ký, cũng ít người trong chúng tôi biết, vì chị rất kín đáo. Không hiểu
vì sao, trong buổi chiều cuối cùng ấy, chị Trâm lại kể tôi nghe về người
chị yêu. Hình như mối tình này của chị mãnh liệt lắm, qua cách kể và
giọng kể của chị. Một trong những lý do chị vượt Trường Sơn vào đây là
để được gặp anh ấy". Tôi hỏi chị Liên, có phải hai cuốn nhật ký của bác
sĩ Thùy Trâm bị lính Mỹ thu khi họ đánh vào bệnh xá không ? Chị Liên
khẳng định: “Làm gì có chuyện đó! Mỗi khi chạy càn hay chuyển cứ, chị
Trâm và chúng tôi đều mang theo tất cả tài liệu của bệnh xá và những gì
thiết cốt nhất của cá nhân. Hai cuốn nhật ký mà người Mỹ lấy được của
chị Trâm đã được chị cất trong chiếc bòng (ba lô) mà chị đeo bên mình
khi cùng tôi đi tiền trạm đến căn cứ mới. Sau khi hạ sát chị Trâm, lính
biệt kích Mỹ đã lấy hai cuốn nhật ký này cùng những vật dụng cá nhân
khác của chị Trâm. Chúng chỉ để lại quần áo của chị, sau khi đã xé ra và
treo vắt vẻo trên những cháng cây rừng". Tôi hỏi, trước khi chết chị
Trâm mặc chiếc áo màu gì, chị Liên nói ngay: "Chị mặc áo bà ba đen. Chị
Trâm rất thích mặc áo bà ba, trong ba lô của chị khi ấy vẫn còn vài
chiếc áo bà ba đen. Sau khi chị mất, có một chiếc áo bà ba trong ba lô
chị bị lính Mỹ xé đôi vắt trên cây, tôi đã cầm về vá lại và mặc miết cho
tới sau hòa bình".
Thật tiếc, chị Liên đã
không còn giữ được chiếc áo bà ba đen thương thiết ấy. Nhưng hình ảnh
người nữ bác sĩ can đảm trong chiến đấu, nhẫn nại và chịu đựng đến vô
cùng khi chăm sóc thương binh, hình ảnh người con gái yêu mãnh liệt và
lãng mạn trong câu chuyện cuối cùng vào buổi chiều định mệnh ấy, tôi
biết, mãi mãi còn trong trái tim chị Liên và những đồng đội của bác sĩ
Thùy Trâm.
Chị là thiên thần của chúng tôi
Thùy Trâm cùng mẹ là bà Doãn Ngọc Trâm trước ngày lên đường (ảnh chụp ngày 18/12/1966)
Buổi
chiều ngày 22 tháng 7 của 35 năm trước. Câu chuyện chị Nguyễn Thị Kim
Liên kể bằng giọng nghèn nghẹn: "Có lẽ bọn biệt kích Mỹ nghe giọng nói
của hai chị em chúng tôi. Chúng đã phục lại chờ ngay đỉnh dốc. Mải
chuyện, tới lúc đột nhiên một tên biệt kích Mỹ đen nhô ra, gần như nó đã
nắm được tay chị Trâm. Tôi chỉ kịp hét lên: "Chị Hai, Mỹ!" và vùng
chạy.Hai chị em không có vũ khí, mà thực ra, có
vũ khí lúc ấy cũng không đối phó kịp. Tôi lao mình xuống dốc, và nghe
phía sau mình một loạt tiểu liên đanh gọn. Chúng đã hạ sát chị Trâm ở
một khoảng cách quá gần, chỉ chừng 1 mét. Cái chết của chị Trâm và cây
rừng đã cứu tôi thoát chết". Không chủ định, nhưng bằng cái chết của
mình, chị Thùy Trâm không chỉ cứu sống chị Liên mà còn báo động cho cả
bệnh xá biết sự hiện diện của bọn biệt kích Mỹ. Bệnh xá đã dời đi an
toàn. Đơn vị vũ trang huyện đã bám gần nơi chúng sát hại chị Trâm đúng
một tuần, bọn biệt kích Mỹ mới bỏ đi. Nấm mộ người nữ bác sĩ đã được đắp
cao lên, chứ không thể đào huyệt an táng chị. Ngày ấy, không có hương
hoa, nhưng tất cả những người quen biết và cùng sống cùng chiến đấu với
chị Thùy Trâm mỗi khi qua con dốc này đều đắp thêm cho chị một nắm đất.
Cho tới hòa bình. Trước khi người mẹ thương yêu của chị Trâm vào với
con, suốt một tháng ròng, hương đã được thắp lên trên nấm mộ người con
gái kính thương của hàng nghìn thương binh từng được chị cứu chữa và
chăm sóc. Bao nhiêu nước mắt đã chảy mỗi khi có người nhắc đến tên Thùy
Trâm. Hơn cả anh hùng, Thùy Trâm đã là một thiên thần của thế hệ chúng
tôi, một thế hệ trong sáng hồn nhiên vô tư đến kinh ngạc khi bước vào
cuộc chiến đấu sinh tử. Một thiên thần trong màu áo trắng tinh khiết, dù
trong chiến tranh, chị Trâm nào có điều kiện để mặc chiếc áo blouse
trắng của người bác sĩ. Khi tìm gặp những người đã từng sống với chị
trong 3 năm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh, tôi mới hiểu vì sao chị
Thùy Trâm được chính những người lính Mỹ - những kẻ thù một thời của
chị - yêu mến và kính trọng đến như vậy. Bởi trước hết, chị được chính
những đồng đội của mình yêu thương và kính trọng. Chị được nhân dân của
mình yêu thương và quý trọng. Chị được mảnh đất chiến trường Đức Phổ che
chở và nâng niu cho tới khi chị nhập vào hồn đất ấy. Và ngay khi đã
chết rồi, chị vẫn tiếp tục cải hóa được chính những kẻ thù của mình.
Bằng hai tập nhật ký. Bằng tình yêu thương và sự dâng hiến vô hạn cho
cuộc đời, cho con người, cho lý tưởng. Mới hôm qua thôi, tôi mới biết,
hóa ra, người yêu của chị Thùy Trâm, người một thời đã là thần tượng của
chị - người đi trước chị vào chiến trường với màu áo quân phục giải
phóng - lại là người sau này rất thân với tôi, người tôi kính trọng và
yêu quý như một người anh. Dù chưa một lần tôi nghe anh kể về chị, và có
thể anh mang một nỗi đau, một nỗi dằn vặt nào đó trong mối tình này mà
anh cố giấu, cả chị Trâm cũng vậy, nhưng tôi có thể nói, họ là hai con
người theo đúng nghĩa cao đẹp của từ này. Anh đã qua đời vì những vết
thương và những di chứng chiến tranh, và có thể ở cõi xa xăm ấy, anh đã
gặp lại chị. Mong là như vậy. Xin chị yên nghỉ, chị Thùy Trâm, chị mãi
mãi là niềm tự hào của chúng tôi, là thiên thần của chúng tôi!
Quảng Ngãi, ngày 21/7/2005
Thanh Thảo
Liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm - Người con gái anh hùng của quê hương Thừa Thiên- Huế.
Liệt sĩ-Bác sĩ Đặng Thùy Trâm
Liệt
sĩ-Bác sĩ Đặng Thùy Trâm sinh ngày 26/11/1942, là người con của quê
hương Thừa thiên-Huế nhưng sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Cha là Bác sĩ
ngoại khoa Đặng Ngọc Khuê, mẹ là Dược sĩ Doãn Ngọc Trâm-nguyên là giảng
viên Trường Đại học Dược khoa, Hà Hội. Đặng Thùy Trâm tốt nghiệp Bác sĩ Y
khoa tại Trường Đại học Y khoa Hà Nội năm 1966, sau đó xung phong vào
chiến trường miền Nam làm nhiệm vụ của một người thầy thuốc trong thời
gian chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Bác sĩ Đặng Thùy Trâm công tác tại
bệnh viện huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi, trong khi làm nhiệm vụ tại địa
bàn đã bị địch phục kích và anh dũng hy sinh vào năm 1970 khi còn rất
trẻ, chỉ mới chưa đầy 28 tuổi đời với 3 năm tuổi nghề và 2 năm tuổi
Đảng. Nhân dân địa phương đã an táng Chị ngay tên mãnh đất mà Chị đã hy
sinh và được gia đình cải táng về nghĩa trang Liệt sĩ xã Xuân Phương,
huyện Từ Liêm, Thủ đô Hà Nội.
Trong
hành trang để lại trước lúc hy sinh của Chị là 2 cuốn nhật ký đã được
một cựu chiến binh Mỹ tên là Frederic Whitehurst từng tham chiến tại
chiến trường huyện Đức Phổ tìm thấy và cất giữ. Do khó khăn trong việc
tìm kiếm gia đình của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm và đã tưởng như tuyệt vọng, 2
cuốn nhật ký nầy được Frederic Whitehurst trao tặng cho Viện Lưu trữ về
Việt Nam tại Trường Đại học Tổng hợp Texas, Lubbock lưu giữ và bảo
quản.
Sau bao nhiêu năm tìm kiếm thân thích của gia đình Chị và được sự đồng ý của gia đình, cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” đã
được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn xuất bản và phát hành vào dịp kỷ niệm 30
năm ngày quê hương được hoàn toàn giải phóng và 60 năm ngành thành lập
Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Trong dịp kỷ niệm này, tại nhà
thờ họ Đặng ở 120 Mai Thúc Loan, Thành phố Huế; Ts. Trần Chí Liêm-Thứ
trưởng Bộ Y tế, Đc. Ngô Hòa-Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân, PGs.Ts Nguyễn
Dung-Giám đốc Sở Y tế Thừa thiên-Huế đã tổ chức Lễ Dâng hương tưởng niệm
và phát động phong trào học tập y đức của Liệt sĩ-Bác sĩ Đặng Thùy
Trâm, một thầy thuốc với phẩm chất anh hùng cách mạng của người chiến sĩ
Cộng sản. Bộ Y tế đang trình Nhà nước xét tặng danh hiệu Anh hùng lực
lượng vũ trang nhân dân cho Liệt sĩ-Bác sĩ Đặng Thùy Trâm và có kế hoạch
xây dựng bệnh viện khu vực Đức Phổ-tỉnh Quảng Ngãi, nơi Bác sĩ Đặng
Thùy Trâm đã anh dũng hy sinh trở thành một bệnh viện kiểu mẫu của toàn
quốc và mang tên Bệnh viện Đặng Thùy Trâm.
Ngoài
Liệt sĩ-Anh hùng Lao động-Giáo sư-Đặng Văn Ngữ, ngành y tế Thừa
thiên-Huế còn có anh hùng, liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm đã đi vào lịch
sử. Hàng năm, vào dịp kỷ niệm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, ngày
Thương binh-Liệt sĩ 27/7 và ngày hy sinh của các Liệt sĩ, ngành y tế sẽ
tổ chức viếng thăm và dâng hương trước di ảnh tại các nhà thờ họ tộc để
tưởng niệm.
Bác sĩ Đặng Thùy Trâm: Cuộc đời hiến dâng cho lý tưởng cao đẹp
Đã 47 năm bác sĩ Đặng Thùy
Trâm anh dũng hy sinh nhưng nghị lực và ý chí ngoan cường của chị mãi
tỏa sáng. Nhân kỷ niệm 62 năm Ngày Thầy thuốc Việt Nam 27/2, PNVN xin
giới thiệu về tấm gương anh dũng của người chiến sĩ - bác sĩ ấy.
Liệt sĩ, Bác sĩ Đặng
Thùy Trâm sinh ngày 26/11/1942 trong một gia đình trí thức Hà Nội. Bố
chị là ông Đặng Ngọc Khuê, bác sĩ ngoại khoa; mẹ chị là bà Doãn Ngọc
Trâm, giảng viên trường Đại học Dược Hà Nội. Tuổi thơ của chị trải qua
thời kỳ khốn khó trong những năm kháng chiến. Tháng 4/1952, chị được kết
nạp vào Đội Thiếu niên tháng Tám. Năm 1958, chị cùng gia đình chuyển ra
Hà Nội, vào học cấp 3 tại trường Chu Văn An. Năm 1961, nối nghiệp gia
đình, Đặng Thùy Trâm thi đỗ vào Đại học Y khoa Hà Nội.
Chân dung bác sĩ Đặng Thùy Trâm
Tháng 6/1966, được nhà trường cho tốt nghiệp sớm một năm. Ngay lúc
đó, Thùy Trâm có thể tìm được cho mình một công việc ở Hà Nội theo đúng
ngành nghề. Nhưng theo tiếng gọi thiêng liêng của miền Nam ruột thịt,
người con gái Hà Nội ấy đã xung phong vào miền Nam, nơi những chiến sĩ
của ta đang chiến đấu ác liệt nhất, anh dũng nhất.
Tháng 3/1967 chị vào đến Quảng Ngãi, được phân công phụ trách Trạm xá
Đức Phổ, Quảng Ngãi. Ngày 27/9/1968, chị được kết nạp vào Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Là người yêu thích văn học, Thuỳ Trâm đọc nhiều sách, thuộc nhiều
thơ, bị ảnh hưởng rất lớn bởi tính cách của các nhân vật lý tưởng trong
văn học như Pavel Korchagin trong ‘Thép đã tôi thế đấy’, Ruồi trâu....
Đó là những nhân vật mà chất lý tưởng luôn rừng rực trong trái tim thanh
xuân của họ.
Đặng Thùy Trâm đã ghi trên trang đầu cuốn nhật ký
của mình những dòng nổi tiếng của văn hào N.A.Ostrotsky, thể hiện quan
điểm sống và lý tưởng cách mạng của thế hệ thanh niên thời bấy giờ: '…Đời
người ta chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi phải xót xa ân hận
vì những năm tháng sống hoài, sống phí, … để khi nhắm mắt xuôi tay ta
có thể nói rằng: Cả đời ta, cả sức ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp
nhất trên đời, sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người’.
Với lý tưởng sống đã chọn, Đặng Thùy Trâm đã lao vào công việc với
một nghị lực phi thường. Là người phụ trách bệnh xá huyện Đức Phổ, Quảng
Ngãi - thực chất là một bệnh xá tiền phương, chị đã lăn xả vào cứu chữa
thương binh, chăm sóc thương binh, tổ chức cho đơn vị di chuyển thương
binh, di chuyển địa điểm để chống càn, đi công tác xuống cơ sở...
Giữa một vùng đất hẹp ngập trời bom đạn và hằn dấu giày của những tên
lính xâm lược, chị vẫn kiên cường bám trụ trong nhiều năm.
Bác sĩ Đặng Thuỳ Trâm (bìa phải) cùng các y, bác sĩ tại Trạm xá Đức Phổ, Quảng Ngãi
Nhật ký đơn thuần chỉ là ghi chép hàng ngày của mỗi người, nhưng
những bức thư chị viết trong thời gian công tác ở đây trong ‘Nhật ký
Đặng Thuỳ Trâm’ lại chất chứa biết bao tình cảm, tình yêu trong sáng,
mãnh liệt và thánh thiện cho người bệnh, cho đồng chí, cho đồng bào, cho
Tổ quốc. Chị quan niệm ‘… Nhật ký này đâu phải chỉ là cuộc sống của
riêng mình mà nó phải là những trang ghi lại những mảnh đời rực lửa
chiến đấu và chồng chất đau thương của những con người gang thép trên
mảnh đất miền Nam này’.
Trong nhật ký của chị có một tình yêu rộng lớn, một tình người gắn
với lý tưởng sống, lẽ sống của cuộc đời chị, đó là tình cảm với nhân
dân, với đồng đội. Khi đứng lớp giảng bài cho học sinh của lớp y tá sơ
cấp, xót thương những đứa em và cũng là đồng đội cùng chiến đấu với mình
do hoàn cảnh chiến tranh mà không có điều kiện học tập, chị đã tâm sự:
‘Mình đến với lớp không phải chỉ vì tinh thần trách nhiệm, mà cả bằng
tình thương của một người chị đối với những đứa em đã chịu biết bao
thiệt thòi đau khổ vì bọn bán nước nên không tìm đến với khoa học được’.
Một trang thư có chữ ký của Liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm
Đặc biệt, chị dành cho thương binh một thứ tình cảm như người thân
ruột thịt. Chị đã cứu sống biết bao thương binh, cán bộ và nhân dân
trong vùng... Nhưng chị cũng đã cắn răng bật khóc biết bao lần, tự dày
vò bản thân khi có ca thương binh nặng mà với khả năng và điều kiện của
bệnh xá tiền phương không thể cứu chữa. Chị viết: ‘... Vừa cấp cứu cho
anh nước mắt mình vừa chảy tràn trên mặt. Thương anh vô hạn, muốn tìm
mọi cách cứu anh nhưng không có cách nào. Mình như một chiến sĩ hai tay
đã bị trọng thương, đành nhìn quân thù vũ khí trong tay xông đến giết
mình’. Và biểu hiện cao nhất của Đặng Thùy Trâm về tình đồng đội là chị
xả thân, chấp nhận hy sinh khi nổ súng vào kẻ thù để bảo vệ đồng đội của
mình.
Ngày 22/6/1970, Trạm xá Đức Phổ bị lính Mỹ tập kích. Chị Đặng Thùy Trâm đã anh dũng hy sinh.
Quyển 'Nhật ký Đặng Thùy Trâm' xuất bản năm 2005 gây xúc động lớn cho nhiều độc giả trong và ngoài nước
Đặng Thùy Trâm đã ngoan cường chiến đấu như tinh thần của Mariuyt,
của Gavơrốt trên chiến lũy thành Paris mà chị từng ngưỡng mộ. Chị và thế
hệ cầm súng của chị mãi mãi toả sáng tuổi 20 khi mà chị viết: ‘Cuộc đời
Thuỳ là một cuốn sổ, những dòng chữ ghi trên đó đẹp như một bài ca nhỏ,
xin Thuỳ hãy ghi tiếp những dòng xứng đáng’.
Bác sĩ, Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm là tác giả 2 tập nhật ký được viết từ
ngày 8/4/1968, khi phụ trách bệnh xá Đức Phổ, cho đến ngày 20/6/1970, 2
ngày trước khi hy sinh. Hai tập nhật ký này được Frederic Whitehurst,
cựu sĩ quan quân báo Hoa Kỳ, lưu giữ hơn 30 năm cho đến ngày được trả
lại cho gia đình tác giả vào cuối tháng 4/2005. Sau đó, nhật ký được nhà
phê bình văn học Vương Trí Nhàn biên tập thành sách, được xuất bản tại
Hà Nội trong năm 2005. Tác phẩm có tên là ‘Nhật ký Đặng Thùy Trâm’ (NXB
Hội Nhà Văn Việt Nam). Sách đã lay động lương tâm nhiều người, nhiều độc
giả, nhất là độc giả trẻ tuổi Việt Nam.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét