Bài này trình bầy tại sao GS Frédéric Joliot-Curie là thần tượng của chúng tôi khi còn là sinh viên kỹ sư.
1. Hoạt động khoa học
Jean- Frédéric Joliot sinh năm 1900
trong một gia đình sáu anh em. Từ lúc bé Jean Frédéric đã ham mê khoa
vào L'école de physique et de chimie industrielles de la ville de Paris
học, đặc biệt môn hóa học. Năm 20 tuổi ông đỗ (EPCI, Trường Vật lý và
Hóa học Công nghiệp Thành phố Paris). Trường kỹ sư này nổi tiếng là lò
luyện giải Nobel khoa học của nước Pháp (Pierre và Marie Curie, Frédéric
và Irène Joliot-Curie, Georges Charpak, Pierre Gilles de Gennes).
Sau khi tốt nghiệp thủ khoa EPCI, ông làm thực tập một thời gian ngắn cho một nhà máy luyện kim ở Luxemburg.
Năm 1925, sau thời gian quân dịch, GS
Paul Langevin giới thiệu ông vào làm điều chế viên cho bà Marie Curie ở
Institut du Radium (Viện Radium). Trong viện, ông làm việc chung với một
đồng nghiệp tên là Irène, điều chế viên và cũng là con gái của Marie
Curie. Cả hai dùng hạt nhân của polonium, một nguyên tử do Marie Curie
đã khám phá khi còn trẻ (Xem bài "Chất Phóng Xạ Polonium" đăng trên trạm
Vietsciences.org), để nghiên cứu những tia phóng xạ. Hai người thân
thiện với nhau và, năm 1926, quyết định cưới nhau. Hai vợ chồng sinh
được hai đứa con, cả hai sau này đều là các nhà khoa học lỗi lạc. Jean
Frédéric gắn thêm tên Curie vào tên họ của mình và, từ đó, được biết
tiếng là Frédéric Joliot-Curie.
Năm 1930, Frédéric trình luận án tiến sĩ
và được bổ làm phụ giáo ở Đại học Khoa học Paris rồi, năm 1935, được
thăng giáo viên. Irène cũng theo con đường khoa cử như chồng : tiến sĩ
năm 1925, nghiên cứu viên của Institut du Radium năm 1932. Hai vợ chồng
hợp tác trên những đề tài nghiên cứu như là : kết cấu của nguyên tử,
phát hiện neutron, điện tử dương, photon năng lượng cao,...
Cũng như Pierre và Marie Curie, Frédéric
và Irène được chung giải thưởng Nobel hóa học năm 1935. Giải này thưởng
khám phá phóng xạ nhân tạo của họ.
Năm 1937, Frédéric được bổ làm giáo sư ở
Collège de France (trung tâm nghiên cứu quy tụ những nghiên cứu sư kỳ
cựu nhất của nước Pháp) và Irène được bổ thay chồng làm giáo sư Đại học
Khoa học Paris.
Trào lưu thời đó là tìm kiếm để phát
hiện những hạt nhân mới nặng hơn hạt nhân uranium (transuranian, siêu
uranium) và những tương tác của chúng với những hạt nhỏ alpha, bêta,
electron và neutron.
Cuối năm 1938, Otto Hahn và
Lise Meitner khám
phá phản ứng phân hạch. Họ nhận thấy khi dùng một neutron để phân hạch
hạt nhân uranium thì sinh ra một lượng năng lượng rất lớn so với động
năng của neutron dùng để đập vỡ nó. Lise Meitner và Otto Frisch nêu giả
thuyết lượng năng lượng đó là năng lượng liên kết (binding energy) những
hạt cơ bản cấu tạo hạt nhân uranium.
Đầu năm 1939, mặc dù chưa biết đến giả
thuyết Meitner- Frisch, Frédéric Joliot-Curie chứng minh hiện thực những
phản ứng phân hạch và năng lượng sinh ra khi phản ứng đó xẩy ra. Ông và
học trò của ông, Hans Von Halban và Lew Kowarski, nêu giả thuyết và
chứng minh hiện thực dây chuyền phản ứng phân hạch uranium. Ông nhờ một
đồng nghiệp, Francis Perrin, tính hộ những điều kiện để chuỗi phản ứng
hạt nhân có thể duy trì được.
Nhận thấy tầm quan trọng công nghiệp và
quân sự của phản ứng dây chuyền, Joliot-Curie cùng với Von Halban,
Kowarski và Perrin, nhân danh CNRS (Caisse Nationale de la Recherche
Scientifique, Quỹ Quốc gia Nghiên cứu Khoa học), đăng ký xin cấp bằng
sáng chế về những áp dụng phản ứng dây chuyền hạt nhân. Để tránh quốc xã
Đức có thể lợi dụng sáng chế để sản xuất vũ khí hạt nhân Frédéric
Joliot-Curie yêu cầu CNRS vơ mua tàng trữ tất cả những nguồn uranium và
nước nặng có thể mua được trên thế giới.
Nhóm nghiên cứu này làm việc cật lực cho
tới vài ngày trước khi Pháp thua trận. Hai tuần trước khi Paris thất
thủ, nhóm nghiên cứu vẫn còn đăng ký xin cấp thêm hai bằng sáng chế.
Nhưng Bộ Chiến tranh Pháp không cho công bố hồ sơ xin cấp văn bằng để
không cho địch biết đến.
Trước bước tiến của quân đội Đức,
Frédéric Joliot-Curie tổ chức sơ tán đội nghiên cứu, nhờ học trò ông
mang ra nước ngoài những hồ sơ nghiên cứu và vật liệu phóng xạ có thể
mang theo được, chôn giấu những vật liệu và thiết bị quá nặng hay quá
cồng kềnh. Sau khi lo cho học trò của mình tị nạn sang Anh, ông ở lại
Bordeaux chăm sóc Irène đang bị bệnh rồi trở về Paris để bảo vệ nhân
viên và thiết bị nghiên cứu vẫn còn bị kẹt ở Collège de France.
Chính quyền quân sự Đức cho phép ông
tiếp tục những công trình nghiên cứu không liên quan đến quân khí và ủy
nhiệm Wolfgang Gentner theo giõi mọi hoạt động khoa học của ông. Trước
chiến tranh, Gentner là một nghiên cứu sinh vật lý sang Pháp thực tập ở
Institut du Radium. Vị sĩ quan này kính nể thày cũ Joliot-Curie, giúp
thày xin những đặc ân để cho cộng sự viên của thày sống đỡ thiếu thốn và
lờ qua những hoạt động kháng chiến kín đáo chống Đức của thày.
Ngày 20 tháng tám 1944, khi nhân dân
Paris nổi dậy đánh đuổi quân Đức, Frédéric Joliot-Curie được bổ làm giám
đốc CNRS. Ông bắt tay ngay vào việc tổ chức lại cơ quan này, hội tụ học
đồng nghiệp và trò cũ của mình và đặt nền móng để hồi phục ngành vật lý
hạt nhân cho nước Pháp
Bữa tiệc tại Institut du Radium nhân dịp vợ chồng Joliot nhận giải Nobel hóa học năm 1935 ©ACJC
Ủy hội Năng lượng Nguyên tử CEA năm 1946
Từ trái qua phải, ngồi: : Pierre Auger, Irène Joliot-Curie, Frédéric
Joliot-Curie, Francis Perrin, Lew Kowarski ; đứng : Bertrand
Goldschmidt, Pierre Biquard, Léon Deniwelle, Jean Langevin. ©ACJC
Ngày 18 tháng mười năm đó, tướng De
Gaulle ký sắc lệnh thành lập le Commissariat à l'Energie Atomique (CEA,
Ủy hội Năng lượng Nguyên tử). Năm 1946, ông phong Frédéric Joliot-Curie
làm Cao ủy Năng lượng Nguyên tử và một số vị khác làm Ủy viên, trong đó
có Irène Curie. Cùng lúc, Irène cũng được bổ làm giám đốc Institut du
Radium.
Đội khoa học này xây lò phản ứng hạt
nhân đầu tiên của nước Pháp gọi là Pile Zoe ((Z: zéro, O: oxyde
uranium, E: eau lourde nước nặng. Vàothời đó người ta gọi những bộ phận
sinh ra năng lượng hạt nhân là pin nguyên tử). Cùng lúc đó họ xây dựng
Trung tâm Nghiên cứu Hạt Nhân Saclay, khởi động dự án xây dựng trường
Đaị học Khoa học Orsay và một số trung tâm nghiên cứu khác.
Vì là đảng viên cộng sản, năm 1950,
Frédéric Joliot-Curie bị cách chức Cao ủy Năng lượng Nguyên tử. Irène
cũng mất chức Ủy viên vài tháng sau. Hai vợ chồng trỏ lại với cái ghế
giáo sư của mình: Frédéric ở Collège de France và Irène ở Đại học Khoa
học Paris.
Irène tiếp tục vận động xây dựng Trung tâm Vật lý Hạt nhân ở Orsay. Nhưng bà mất năm 1956 trước khi hòan thành dự án đó.
Cùng lúc giữ ghế giáo sư ở Collège de
France, Frédéric Joliot-Curie thừa hưởng ghế giáo sư của vợ ở Đại học
Khoa học Paris. Ông tiếp tục nghiên cứu, giảng dạy và khai triển dự án
Trung tâm Vật lý Hạt nhân Orsay của vợ cho đến năm 1958 thì mất, hượng
thọ 58 tuổi.
2. Hoạt động chính trị
Ngoài nghiên cứu khoa học, giòng họ Joliot và Curie cũng có truyền thống đấu tranh cho xã hội chủ nghĩa.
Cha của Frédéric là cựu nghĩa quân Công
xã Paris và mẹ là chiến sĩ tranh đấu thiết lập nền cộng hòa dưới triều
hoàng đế Napoleon Đệ tam. Bà Marie Curie là một chiến sĩ giải phóng phụ
nữ.
Năm 1934, trước nguy cơ phát xít hóa,
Frédéric tham gia vào Ủy ban Cảnh giác Những Trí thức Chống Phát xít
(Comite de Vigilance des Intellectuels Antifacistes) Cả hai vợ chồng gia
nhập Đảng Xã hội Pháp và Hội Nhân quyền.
Theo gương mẹ, Irène tham gia những
phong trào giải phóng phụ nữ. Bà là thành viên Ủy ban Trung ương UFF
(Union des Femmes Françaises, Liên hiệp Phụ nữ Pháp). Năm 1936, bà nhận
làm thứ trưởng phụ trách nghiên cứu khoa học trong chính phủ Mặt trận
Bình dân.
Sự tòng quân chính trị đó đã làm gia
đình Joliot-Curie gặp nhiều khó khăn trong đời nghề khi Pháp bị quân đội
Đức chiếm đóng và sau Đệ nhị Thế chiến.
Trong thời kỳ Pháp bị chiếm đóng, Irène
viện cớ bị bệnh không tham gia cộng tác với Đức. Frédéric thì ban ngày
tiếp tục nghiên cứu khoa học và ban đêm tham gia hoạt động kháng chiến.
Cùng với Wolfgang Gentner, ông dùng uy tín cá nhân để xin trả tự do cho
Paul Langevin bị bắt vì hành vi kháng lại chính quyền chiếm đóng. Ông bị
bắt thẩm tra nhiều lần, nhưng nhờ Gentner can thiệp, lần nào ông cũng
được thả ra. Rút cục, ông gửi vợ và hai đứa con sang ẩn náu bên Thụy Sĩ
rồi rút vào hoạt động bí mật với nhóm kháng chiến Front National (Mặt
trận Quốc gia) của Đảng Cộng sản Pháp. Nhân dịp đó, ông xin và được kết
nạp vào đảng chính trị này.
Trong số quân nhân đầu tiên theo tướng
Leclerc vào giải phóng Paris có một số sĩ quan Mỹ đi theo với nhiệm vụ
bắt cóc những nhà khoa học Đức vẫn còn có mặt ở Pháp và cướp những tài
liệu nghiên cứu. Khi họ phỏng vấn Frédéric Joliot-Curie thì ông trả lời
ấm ớ nhất quyết không tố giác đồng nghiệp của mình và không truyền tài
liệu nghiên cứu cho họ.
Sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống
Hiroshima và Nagasaki thì nhiều người trong giới khoa học thế giới kêu
gọi chống vũ khí hạt nhân. Cùng với một số đồng nghiệp, Frédéric
Joliot-Curie thành lập Conseil Mondial de la Paix (Hội đồng Hòa bình Thế
giới) và giữ chức chủ tịch từ 1949 cho tới 1958, năm ông mất. Ông là
trong số những nhà khoa học đầu tiên ký trên Kêu Gọi Stockholm đòi cấm
bom nguyên tử (Stockholm Appeal, năm 1950) và Tuyên ngôn Russell
Einstein cảnh báo rủi ro của vũ khí hạt nhân và kêu gọi giải quyết hòa
bình những tranh chấp quốc tế (Russell–Einstein Manifesto, năm 1955).
Cho tới khi ông mất, ông tham gia vào tất cả các Hội nghị Pugwash về
Khoa học và các Vấn đề Thế giới (Pugwash Conferences on Science and
World Affairs).
Tham gia một đảng chính trị khuynh tả là
xu hướng của giới khoa học Pháp. Người thì theo Đảng Xã hội, người theo
Đảng Cộng sản. Nhưng phần đông lấy thể đảng viên và trả niên liễm cho
có lệ thôi. Chỉ có Frédéric Joliot-Curie là được bầu vào Ủy ban Trung
ương Đảng Cộng sản Pháp năm 1956 và chủ tọa những phong trào của Đảng
đòi hòa bình chống vũ khí hạt nhân.
Ngay sau Đệ nhị Thế chiến, Hoa Kỳ là
nước duy nhất có bom nguyên tử và chiến tranh lạnh đã bắt đầu. Thời đó,
kêu gọi chống vũ khí hạt nhân là bị Hoa Kỳ coi là thân Liên Sô. Frédéric
Joliot-Curie tham gia tất cả những phong trào chống vũ khí đòi hòa
bình, lại là đảng viên ở cấp lãnh đạo của Đảng Cộng sản nên bị coi là
thù nghịch. Người Mỹ cũng nhớ ông đã không hợp tác trong việc đuỏi truy
bắt những nhà khoa học Đức sau Đệ nhị Thế chiến.
Hồi đó Pháp là nước chư hầu của Hoa kỳ
nên chính phủ Pháp yêu cầu Frédéric Joliot-Curie rút ra khỏi Đảng Cộng
sản. Ông không nhượng bộ và hai vợ chồng bị loại ra khỏi những kế hoạch
công nghiệp và quân sự liên quan đến năng lượng hạt nhân.
Hoa Kỳ còn có một lý do khác để loại Frédéric Joliot-Curie. Đó là lý do tài chính.
Theo Công ước Paris về sở hữu công
nghiệp thì một bằng sáng chế cho phép người sáng chế độc quyền khai thác
sáng chế của mình trong một thời hạn từ 15 đến 20 năm, tùy quốc gia. Ở
Pháp, thời hạn đó là 20 năm tính từ ngày đăng ký xin cấp bằng sáng chế.
Đội nghiên cứu do Frédéric Joliot-Curie dẫn đầu đã đăng ký những sáng
chế trong những năm 1939 và 1940. Vậy, theo luật của Pháp thì CNRS, sở
hữu chủ những sáng chế đó, có độc quyền khai thác sáng chế từ 1939/1940
đến 1959/1960. Dựa trên số lò hơi hạt nhân và số bom nguyên tử sản xuất
trong hai chục năm đó thì Hoa Kỳ đáng lý ra phải trả cho CNRS một số
tiền mua quyền sử dụng sáng chế khổng lồ tính bằng chục tỷ đô-la.
Nhưng, ở Hoa Kỳ, thời hạn độc quyền khai
thác 20 năm tính từ ngày công bố sáng chế. Như viết ở trên, đơn xin cấp
những bằng sáng chế của đội nghiên cứu Joliot-Curie bị Bộ Chiến tranh
Pháp niêm phong, nghĩa là không cho công bố. Dựa vào những lý lẽ đó, Hoa
Kỳ không thừa nhận quyền sở hữu công nghiệp của CNRS Pháp.
Để sau này có thể tiếp tục bảo vệ lập
trường đó, khi học trò của Frédéric Joliot-Curie chạy sang Mỹ, các nhà
khoa học Mỹ phỏng vấn họ về nghiên cứu hạt nhân của Pháp rồi đuổi họ
sang Canada. Viện cớ chính phủ Pétain hợp tác với Đức và Frédéric
Joliot-Curie vẫn còn ở Pháp, Hoa Kỳ không cho họ tham gia vào Kế hoạch
Manhattan nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử.
Vào những năm sau Đệ nhị Thế chiến, Pháp
hưởng viện trợ ODA của Kế hoạch Marshall (tên chính thức là European
Recovery Program, Chương trình Khôi phục Âu châu) lại đang muốn xin Mỹ
giúp khí giới để tiếp tục chiến tranh ở Đông Dương nên không dám kiện
Hoa Kỳ.
Những tổ chức gia đình Joliot-Curie tham gia hay do Frédéric chủ tọa đã có những tác động tích cực mà mọi người đều biết.
Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc theo phe thành
lập Đảng Cộng sản vị phe này ủng hộ đòi hỏi độc lập của các nước thuộc
địa. Năm 1933, Chi hội Anh của Hội Nhân quyền đã thành công đòi chính
quyền Anh trả tự do cho ông khi ông bị bắt ở Hong Kong. Năm 1936, Mặt
trận Bình dân đã phóng thích tù nhân chính trị ở Đông Dương. Khi chúng
ta kháng chiến chống Pháp Đảng Cộng sản Pháp và Hội đồng Hòa bình Thế
giới đã tìm đủ mọi cách để cản trở việc gửi vũ khí va đạn dược sang Đông
Dương. Khi chúng ta kháng chiến chống Mỹ thì hai tổ chức này cũng đã
vận động ủng hộ chúng ta về chính trị cũng như về vật chất.
Vào thập niên 1930, ý đồ các trí thức
khuynh tả Pháp là đào tạo trí thức An Nam (tên họ gọi người Việt hồi đó)
để Việt Nam có người lãnh đạo khi Pháp trao trả độc lập.
Khi sinh viên Ngụy Như Kontum hỏi ý kiến
Frédéric Joliot-Curie về việc tiếp tục học ở Pháp thì được ông khuyên
nên về nước như sau : "nước anh cần tới anh nhiều hơn là nước Pháp"
(votre pays aura davantage besoin de vous que la France). Năm 1937, theo
lời thày, sinh viên Kontum về nước, tham gia kháng chiến chống Pháp,
làm giáo sư vật lý và được bổ làm hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp
liên tục từ khi trường được thành lập năm 1956 cho đến 1982, năm cụ về
hưu.
Dân tộc ta thường quý trọng những người
có tài và có đức. Cụ Hồ Chí Minh gọi là hồng và chuyên. Hai vợ chồng
Frédéric và Irène Joliot-Curie rất hồng và rất chuyên.
Chú thích :
Để kiếm tra và bổ túc thông tin chúng tôi đã dùng sách của Pierre Radvanyi : "Les Curie, Pionniers de l'atome", Belin, 2005.
GS Radvanyi là học trò của Frédéric Joliot-Curie.
Về chuyện Frédéric Joliot-Curie khuyên
Ngụy Như Kontum về nước chúng tôi đọc trong sách của Trịnh Văn Thảo :
"Les compagnons de route de Hô Chi Minh", Karthala, 2004.
Vietsicences
"Gia đình Nobel", gia đình huyền thoại
Bước vào đợt trao giải thưởng
Nobel năm 2005, xin trân trọng giới thiệu một gia đình nổi bật nhất
trong lịch sử của giải thưởng danh giá này qua bài viết của tác giả Trần
Thanh Minh.
Chưa có một gia đình nào như gia đình
Curie giữ nhiều kỷ lục về giải Nobel. Danh giá đến vậy: Năm cá nhân. Hai
đôi vợ chồng. Một phụ nữ với “cú đúp” (hai lần nhận giải Nobel)
Sự kiện này, theo tôn chỉ của giải Nobel, phản ảnh rõ rệt sự tỏa sáng
của nhiều ý tưởng siêu việt nhất, sự cống hiến lớn lao nhất của một gia
đình cho sự phát triển của nền văn minh nhân loại, cho hạnh phúc con
người. Pierre Curie và Marie Curie, Irène Curie và Frederic Joliot
Curie, những tên tuổi ấy đã rực sáng trong những thập kỷ đầu của thế kỷ
20, giai đoạn được xem như buổi bình minh của thời đại hạt nhân nguyên
tử ngày nay. Họ đã tạo ra những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho sự
ra đời những ngành khoa học mới hết sức quan trọng, vừa mang tính khoa
học sâu sắc, vừa có tính ứng dụng rộng rãi trong nhiều mặt của đời sống.
SỰ TIẾP NỐI CỦA TÀI NĂNG VÀ NHÂN CÁCH
Nếu
vinh quang lớn nhất trong thiên chức Người Mẹ là sinh thành, giáo dưỡng
con cái, tiếp tục và nâng nghiệp nhà lên tầm cao mới, bà Marie Curie là
một Người Mẹ như vậy. Con gái Irène Joliot Curie và con rể Frederic
Joliot Curie đã tiếp nối xuất sắc tài năng, nhân cách và sự nghiệp của
thế hệ trước, bằng những phát minh tầm cỡ, những hoạt động xã hội vô
cùng phong phú.
Giải Nobel mới, cống hiến mới, thế hệ mới
Phát
minh khoa học đầu tiên và để lại dấu ấn sâu xa nhất của Frederic và
Irène Joliot Curie là tạo thành các đồng vị phóng xạ không có trong tự
nhiên. Joliot và Irène đã tiến hành một loạt thí nghiệm với những ý
tưởng độc đáo và mới mẻ: dùng chùm hạt ion Hêli của máy gia tốc bắn vào
những tấm bia làm bằng những chất như Boron (Bo), Nhôm (Al) và Manhê
(Mg). Các nhà khoa học của thế hệ tiếp nối này đã tạo ra các đồng vị
phóng xạ chưa hề biết, đó là Nitơ (N-13), Phôtpho (P-30) và Nhôm
(Al-28).
Nhý vậy, với phát minh của Joliot và Irène, lần đầu
tiên con người đã chế tạo ra được những nguyên tử hay đồng vị nhân tạo.
Phát minh đó tạo tiền đề chế tạo nhiều đồng vị phóng xạ nhân tạo khác
nhau, thậm chí có thể chế ra được cả vàng bạc như mơ ước của các nhà
luyện đan cổ xưa. Nhiều đồng vị phóng xạ nhân tạo thích hợp có thể đóng
vai trò những "thám tử" theo dõi và điều khiển các qui trình công nghệ,
tìm hiểu sự trao đổi chất trong cơ thể sống của động thực vật v.v....
Vậy
là, tài năng nối tiếp tài năng, sau khi bố mẹ phát hiện ra các nguyên
tố phóng xạ tự nhiên, con cái nhà Curie lại chế tạo được các đồng vị
phóng xạ nhân tạo. Hai thế hệ nhà Curie quả đã "tung hoành" suốt ba thập
kỷ, khám phá hầu hết những hiện tượng mới, khái niệm mới và rất căn
bản, mở ra nhiều bí ẩn trong thế giới vật chất, phát hiện những hiện
tượng và quy luật tự nhiên kỳ thú với những những khái niệm trước đó
chưa hề biết, như: tia bức xạ, sự phóng xạ, phóng xạ tự nhiên và phóng
xạ nhân tạo, phản ứng hạt nhân v.v...Họ giải quyết khá hài hoà trọn vẹn
những câu hỏi hấp dẫn nhất để bước vào kỷ nguyên khai thác năng lượng
hạt nhân nguyên tử.
Điều đặc biệt là những phát minh của cả gia
đình Curie, từ Pierre và Marie đến Frederic và Irène, về tia phóng xạ và
chất phóng xạ, đã mở đường cho sự ra đời của các hướng mới về khoa học
ứng dụng. Ngoài y học phóng xạ là công nghệ chiếu xạ, nông sinh học
phóng xạ, an toàn bức xạ v.v... Cùng với điện nguyên tử, những ứng dụng
kỹ thuật hạt nhân đó có tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế, ảnh
hưởng đến số phận của bao con người. Chúng thiết thực và phổ cập đến
mức, ngày nay có thể nhìn thấy được ở nhiều nơi quanh chúng ta. Một
phòng khám chữa bệnh hiểm nghèo với những những chiếc kim Radium và
nguồn phóng xạ Côban. Giàn khoan dầu khí với máy thăm dò karôta phóng
xạ. Trạm kiểm tra chất lượng công trình bằng thiết bị kiểm tra không hủy
thể dùng tia bức xạ gamma. Phòng thí nghiệm lai tạo giống mới dùng
nguồn phóng xạ để gây đột biến. Một hệ tự động điều khiển dây chuyền sản
xuất sử dụng tia bêta hoặc gamma. Một phòng nghiên cứu sinh học phóng
xạ phục vụ nhu cầu tăng năng suất vật nuôi và cây trồng, v.v...
Tiếp
nối con đường của bậc sinh thành, hai nhà khoa học, đôi vợ chồng danh
tiếng Frederic Joliot và Irène Joliot Curie thật xứng danh "hổ phụ sinh
hổ tử". Cống hiến cho nhân loại một phát minh lớn lao, "Sự tạo thành các
nguyên tố phóng xạ mới (chất phóng xạ nhân tạo)", họ xứng đáng được tôn
vinh cao nhất về mặt khoa học, xứng đáng với giải Nobel về Hoá Học của
năm 1935.
Như vậy, trong lịch sử giải Nobel có 4 đôi vợ chồng
cùng được giải Nobel, gia đình Curie đã chiếm 2 suất. Riêng Frederic
Joliot Curie còn là nhà Nobel trẻ nhất trong lịch sử giải Nobel Hóa học,
ở tuổi 35.
Hai nhà khoa học, hai chiến sĩ, một cuộc đời chung
Frederic
và Irène Joliot Curie, dù tính cách và xuất thân khác nhau; người khuê
các lặng lẽ và người sôi nổi hoạt bát, người sinh ra trong chiếc nôi trí
tuệ danh giá và người tự thân vươn lên, nhưng hai con người cân sắc cân
tài này suốt đời gắn khắng khít với nhau, bổ sung cho nhau và tạo nên
một đôi bạn đời tài ba vẹn toàn, hai người đồng nghiệp luôn có nhau
trong mỗi thành công về khoa học, hai người đồng chí trên mọi hoạt động
xã hội, chính trị với nhân cách cao cả và bầu nhiệt huyết sục sôi.
Cùng
gắn bó với công cuộc đào tạo đại học, Giáo sư Frederic Joliot Curie của
Đại học Paris từng chỉ huy xây dựng những máy gia tốc mới nhất châu Âu,
trong lúc nữ giáo sư Irène Joliot Curie ở Đại học Orsay lại hướng dẫn
xây dựng Phòng Thí nghiệm Vật lý, nay vẫn nổi tiếng là chiếc nôi đào tạo
tài năng.
Cùng say sưa với nghiệp nghiên cứu khoa học, tấm bằng
phát minh đồng vị phóng xạ nhân tạo và giải Nobel hóa học 1935 là kết
quả tuyệt vời của sự kết hợp giữa hai nhà khoa học lớn này.
Không
dừng ở đó, Irène tiếp tục sát cánh Frederic, độc lập với nhiều nhóm
khoa học nổi tiếng cùng thời, như Fermi ở Rome, Hahn ở Berlin v.v...,
lập lại thí nghiệm về phản ứng hạt nhân của mình. Tất cả họ cùng bất ngờ
tạo ra được phản ứng phân hạch hạt nhân. Tức là phản ứng phá vỡ hạt
nhân Uranium thành hai mảnh, bằng chùm "đạn" nơtron, và điều đặc biệt -
một năng lượng lớn được giải phóng. Sự kiện này đã mở ra cuộc cách mạng
về năng lượng trong thế kỷ 20 với sự ra đời của ngành điện hạt nhân
nguyên tử, đồng thời dẫn đến một bước đột biến về tổng quan quân sự trên
thế giới với sự xuất hiện của loại vũ khí hủy diệt kinh khủng mới.
Dựa
vào kết quả đó, bản thân Frederic Joliot Curie, tháng 10/1939 đã thiết
kế về nguyên tắc một lò phản ứng hạt nhân. Nhưng Thế chiến II đã nổ ra.
Bên kia Đại Tây dương, trong sân bóng của Đại học Columbia (Mỹ), Fermi
và các đồng sự được yên bình xây một lò phản ứng. Bên này, ngược lại,
bản thiết kế cùng hoài bão của Joliot được dán kín trong phong bì, nằm
im trong hồ sõ tối mật của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp. Tác giả của nó
cũng từ giã phòng thí nghiệm bước vào cuộc kháng chiến cứu nước, sẵn
sàng nhận bất kỳ công việc nào. Khi thì trong vai một người "giữ kho"
luôn mang bên mình những tài liệu bí mật quan trọng và những bình nước
nặng quý giá để khỏi rơi vào tay quân đội Đức. Lúc khác lại như một kỹ
sư quân giới, tham gia chế tạo thuốc nổ. Ông còn được giao nhiệm vụ là
Tư lệnh quân đoàn hay Chủ tịch của tổ chức kháng chiến "Mặt trận Quốc
gia".
Mãi ngót 10 năm sau, khi chiến tranh kết thúc, ước mơ của
Frederic Joliot Curie mới trở thành hiện thực. Lò phản ứng đầu tiên của
nước Pháp được xây dựng (1948) theo thiết kế và chỉ đạo trực tiếp của
ông.
Nước Pháp từng giành cho cả hai nhà khoa học xuất sắc sự
tin cậy rất cao. Bà được trao chức Bộ trưởng phụ trách khoa học trong
chính phủ bình dân (1936) và là người đầu tiên thành lập Trung Tâm
Nghiên Cứu Khoa Học Quốc Gia (CNRS) của nước Pháp. Ông được giao (1945)
tổ chức Ủy ban Năng lượng Nguyên tử (CEA) và trực tiếp điều hành nó
trong chức vụ Cao uỷ đầu tiên với hàm Bộ trưởng, còn bà là một thành
viên của ban lãnh đạo CEA này. Đổi lại, Frederic kiêm luôn Giám đốc
trung tâm nghiên cứu lớn nhất nước Pháp CNRS do vợ mình đã gây dựng khi
còn là Bộ trưởng khoa học.
Rồi bi kịch đến với ông bà Joliot
Curie. Bi kịch cá nhân này cũng là bi kịch chung của lịch sử thế giới
trong thế kỷ 20. Cả hai người cùng bất ngờ, lần lượt rời cơ quan quan
trọng CEA (1950) với quyết định miễn nhiệm không nêu lý do. Dĩ nhiên ai
cũng hiểu, trong thời kỳ chiến tranh lạnh ấy ông bà không thể tiếp tục
sứ mệnh khi họ là những người cộng sản, đã tham gia hàng ngũ kháng chiến
chống phát xít do đảng CS Pháp lãnh đạo. Đặc biệt, vào giai đoạn đó CEA
có nhiệm vụ đặc biệt hệ trọng chế tạo vũ khí hạt nhân, còn hai nhà khoa
học này lại có quan điểm chống chiến tranh, tham gia phong trào hoà
bình.
Và thực sự họ, ngay sau đó, họ đã tích cực tham gia lãnh
đạo Phong trào Hoà bình Thế giới với cương vị Chủ tịch (ông Joliot
Curie) hoặc uỷ viên (bà Joliot Curie) của hội đồng lãnh đạo.
Trong
khoa học, hai người đã kết hợp tài năng xuất sắc tạo thành sự nghiệp
lớn. Trước bước ngoặc mới của cuộc đời, hai con người với nhân cách cao
cả này lại sát cánh bên nhau vì một lý tưởng lớn, đấu tranh cho hòa bình
và tiến bộ của nhân loại. Họ cùng xông pha, dâng hiến, như những chiến
sĩ ngoài tiền tuyến trong thời chiến tranh cứu nước, cho đến cuối đời.
Ngày
nay, nước Pháp; một cường quốc hạt nhân với 80% điện năng là điện
nguyên tử, hẳn luôn ghi công xứng đáng hai nhà bác học hạt nhân,
Frederic Joliot Curie và Irène Joliot Curie, tác giả chính của lò phản
ứng hạt nhân đầu tiên của nước Pháp, những người khai quốc công thần của
ngành năng lượng nguyên tử Pháp. Họ là niềm tự hào của nước Pháp.
Lời kết
Thật
là không đầy đủ nếu quên rằng, gia đình Curie còn có một thành viên nữa
cũng được trao tặng giải thưởng Nobel. Đó là người con rể, một nhà
ngoại giao người Mỹ tên là H.R.Labouisse, chồng của thứ nữ Eve Curie của
ông bà Pierre. Ông có những đóng góp xuất sắc cho con người trong cưõng
vị Giám đốc Quỷ Trẻ em của Liên Hiệp Quốc. Giải Nobel Hoà bình đã trao
cho ông ở Oslo (Na Uy) năm 1965. Eva Curie không đi theo con đường khoa
học cùng bố mẹ và anh chị, nhưng nàng yêu quý họ, theo dõi họ. Là nhà
văn tên tuổi, bà viết ca ngợi sự nghiệp của họ; đặc biệt người Mẹ vĩ đại
của mình qua cuốn sách nổi tiếng Marie Curie. Với sự nghiệp của người
con rể Labouise, lại một kỷ lục nữa cho nhà Curie: Năm thành viên trong
một gia đình cùng được giải Nobel vinh danh.
Năm cá nhân, Hai
đôi vợ chồng, Một phụ nữ nhận "cú đúp” hai giải Nobel v.v.. Chưa có một
gia đình nào như gia đình Curie giữ nhiều kỷ lục về giải Nobel danh giá
đến vậy. Sự hội tụ những đỉnh cao trí tuệ ấy trong một gia đình Curie
thật là điều kỳ lạ. Kỳ lạ như là một huyền thoại của thế kỷ 20 vậy.
Trần Thanh Minh
Cập nhật: 05/10/2005
Theo VietNamNet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét