Điều “thần kỳ” nào
đã làm thay đổi bộ mặt khoa học và đại học
Hoa Kỳ, qua đó “hích” nền kinh tế
nước này bứt xa các nước khác? Ai là
“kiến trúc sư trưởng” của cú
“hích” đó? Không phải ai
khác, đó chính là Vannevar Bush, một
người đáng ra phải nổi tiếng hơn rất nhiều nếu tính
đến những gì ông đã đóng
góp và cống hiến cho Hoa Kỳ cũng như cho sự
phát triển của khoa học nhân loại nói chung.
Vannevar
Bush sinh ngày 11 tháng 3 năm 1890 và mất ngày 28 tháng 6 năm 1974 đều
tại Massachusets, Hoa Kỳ. Tốt nghiệp kỹ sư tại đại học Tuft và lấy bằng
tiến sỹ về điện tại Học viện Công nghệ Massachusetts (MIT). Trong những
năm cuối chiến tranh thế giới thứ I, V.Bush làm việc cho Ủy ban Khoa học
Quốc gia (NRC), tham gia vào việc chế tạo và cải tiến thiết bị rò sóng
trong lòng biển. Năm 1919, V. Bush quay về MIT và làm giáo sư tại Khoa
Kỹ thuật Điện tử tại đó cho đến năm 1932. Cũng trong quãng thời gian
này, V. Bush cùng với người bạn học trước kia là Laurence
K. Marshall đồng sáng lập ra công ty Thiết bị Hoa Kỳ chuyên kinh doanh
dụng cụ thí nghiệm mang tên S-tube, một thiết bị chuyên dùng để tách
sóng; và thực tế thì Bush đã thu được rất nhiều tiền từ hoạt động thương
mại này. Vào năm 1932, Bush bắt đầu bước chân vào sự nghiệp chính trị
khi nhận chức Phó Giám đốc của MIT. V.Bush đảm nhiệm cương vị này cho
đến năm 1939, trong quãng thời gian này, chính ông là người đã tốn khá
nhiều công sức cho việc ra đời Viện Nghiên cứu Kinh tế Hoa Kỳ, một tổ
chức khoa học độc lập khỏi sự quản lý của Chính phủ. Năm 1939 cũng là
năm đánh dấu một sự kiện quan trọng trong sự nghiệp của V. Bush khi ông
đồng thời nhận 2 nhiệm vụ mới: Giám đốc Học Viện Carnegie tại Washington
và Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Hàng không Quốc Gia (NACA). Ở cương vị lãnh
đạo mới này, V. Bush có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận với các nhà lãnh
đạo trong Chính phủ. Và đến năm 1940, cuối cùng ông cũng thành công
trong việc thuyết phục Quốc hội thành lập Ủy ban Nghiên cứu Quốc phòng
Quốc gia (NDRC). Nói là cuối cùng bởi, ý tưởng này đã nhen nhóm trong
ông từ thời ông đang làm nghiên cứu sinh tại MIT những năm cuối chiến
tranh thế giới thứ I. Ngay từ thời điểm đó, ông đã nhận thấy sự thiếu
liên kết chặt chẽ giữa các nhà khoa học với hệ thống quốc phòng, qua đó,
những lúc cần thiết, Hoa Kỳ đã không thể vận dụng được tối đa các nguồn
lực nội tại của mình. Cho đến những năm 1943,1944, V. Bush với tư cách
là Giám đốc Văn phòng nghiên cứu và phát triển khoa học (OSRD, tên mới
của NDRC) là người lãnh đạo của hơn 30,000 kỹ sư và nhà khoa học, chủ
trì dự án Manhattan (dự án sản xuất bom nguyên tử đầu tiên), đồng thời
tiến hành sản xuất và cải tiến hơn 200 loại vũ khí như sonar, radar, tên
lửa fuze, xe tăng lội nước, bom sáng Norden…. Những vũ khí này được đem
bán cho cả 2 bên tham chiến và, Hoa Kỳ thu được không biết bao nhiêu
lợi ích kinh tế. Cũng chính nhờ điều này, uy tín của V. Bush ngày một
lên cao, và ông chính thức được Tổng thống Roosevelt công nhận làm Cố vấn đặc biệt về khoa học.
Chúng
ta đang ở thời điểm cuối năm 1944, khi đó, nhìn thấy viễn cảnh của việc
sớm kết thúc chiến tranh thế giới, nhận ra đã đến lúc cần phải chuẩn bị
cho một cuộc cải cách về khoa học mới thời hậu chiến, Tổng thống
Roosevelt gửi một bức thư cho V. Bush, với nội dung xung quanh 4 câu hỏi
chính:
1. Hoa
Kỳ phải làm như thế nào để có thể vừa chia sẻ được với nhân loại những
thành tựu của nền khoa học Hoa Kỳ làm được trong suốt thời gian chiến
tranh, mà lại vừa vẫn giữ được sự an toàn quân sự cần thiết cũng như có
thể thuyết phục được giới lãnh đạo quân sự chuẩn y?
2. Rõ
ràng là khoa học có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc chiến chống
lại bệnh tật và liệu Hoa Kỳ phải làm như thế nào, đối với các ngành y,
dược để tiếp tục cuộc chiến đó?
3. Chính
phủ Hoa Kỳ phải làm gì tại thời điểm hiện tại và cả trong tương lai để
hỗ các tổ chức công và tư trong các hoạt động nghiên cứu của họ?
4. Liệu
Hoa Kỳ có thể xây dựng được một chương trình hiệu quả nhằm phát hiện và
phát triển các tài năng trẻ đảm bảo tiếp tục duy trì được trong tương
lai như những thành tựu của khoa học như hiện nay đã thu được trong thời
gian chiến tranh?
Ngay
lập tức V. Bush triệu tập các cộng sự của ông, cũng đều là những nhà
khoa học, lãnh đạo giáo dục hàng đầu thời bấy giờ như James B.Conant,
Giám đốc Đại học Harvard, Karld Compton, Giám đốc MIT, Frank Jewett,
Viện trưởng Viện Hàn lâm Khoa học Quốc Gia để thảo luận những vấn đề
trên.
Vannevar Bush tại một cuộc họp ở Berkeley năm 1940
|
8 tháng sau, vào tháng 7/1945 nhóm của V. Bush đã đệ trình lên Tổng
thống Truman (người thay thế Roosevelt đã mất ngày 12/4/1945) bản báo
cáo mang tên “Khoa học – Biên giới của vô tận” (Science – The Endless
Frontier) trong đó đề ra các giải pháp rất rõ ràng cho các vấn đề mà
Tổng thống Roosevelt đã nêu ra:
An ninh quốc gia,
V. Bush cho rằng rõ ràng, ngay cả trong thời bình thì Chính phủ vẫn
không thể lãng quên việc nghiên cứu khoa học quân sự. Tuy nhiên, để có
hiệu quả tốt hơn, thì công việc này chắc chắn phải được thực hiện bởi
một tổ chức dân sự, có mối liên hệ chặt chẽ với Quân đội và Hải quân,
nhưng lại được Quốc hội tài trợ trực tiếp.
Cuộc chiến chống lại bệnh tật,
V. Bush phân tích rằng mặc dù Hoa Kỳ đã thu được ít nhiều thành quả
trong lĩnh vực này, nhưng còn lâu họ mới với tới được mục tiêu ban đầu;
khi chỉ cần một hoặc hai dịch bệnh bùng phát, là có thể cướp đi nhiều
hơn rất nhiều số sinh mạng mà binh lính nước này đã chết trong chiến
tranh thế giới thứ II. Do vậy, V. Bush đề nghị Chính phủ cần đẩy mạnh
đầu tư hơn nữa vào nghiên cứu Y, Dược cơ bản.
Nghiên cứu và giáo dục đại học,
Bush cho rằng việc đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng là trách nhiệm của
khu vực tư nhân và công nghiệp bởi vì sự cạnh tranh trong cơ chế thị
trường sẽ buộc họ phải làm việc này, nếu họ không muốn tự mình loại khỏi
cuộc chơi. Thế còn khoa học cơ bản? – rõ ràng là phần trách nhiệm của
Chính phủ, bởi nếu Chính phủ không làm, thì sẽ chẳng ai làm điều này cả.
Tiếp theo, V. Bush đặt tiếp câu hỏi: “Thế thì ai sẽ là người thực hiện
việc nghiên cứu”. Tại Liên Xô và Pháp thời ấy (và cho đến tận bây giờ),
đây vẫn được coi là nhiệm vụ của các viện và trung tâm nghiên cứu, được
Chính phủ trực tiếp quản lý và tài trợ, tách rời khỏi các trường đại
học. V. Bush không nghĩ như vậy, với những kinh nghiệm đã thu được trong
chiến tranh thế giới thứ II, V. Bush cho rằng nhiệm vụ nghiên cứu phải
là của các trường đại học. Nhưng để đảm bảo tính trung thực và khách
quan, thì các nghiên cứu này phải được kiểm định thông qua các phản biện
khoa học. Các nhà khoa học có thể đề xuất các ý tưởng mà họ cho là có
giá trị và một nhóm các nhà khoa học hàng đầu trong cả nước sẽ phản biện
để xem nên hay không nên tài trợ cho đề xuất này. Cũng trong vấn đề
này, V. Bush lần đầu tiên nhấn mạnh đến vai trò của việc quốc tế hóa
trao đổi thông tin khoa học. Và theo V. Bush, Chính phủ có thể có rất
nhiều cách để hỗ trợ cho việc này, ví dụ như việc tài trợ cho các Hội
thảo quốc tế, xây dựng cơ chế hợp lý nhằm thu hút các nhà khoa học nước
ngoài có thể đến và ở lại làm việc cho Hoa Kỳ.
Phát hiện và bồi dưỡng các tài năng trẻ,
V. Bush dự báo việc hẫng hụt nhân lực khoa học trong tương lai gần bởi
quá nhiều binh lính hiện nay vốn đã từng là sinh viên và phải bỏ dở việc
học để tham gia quân đội. V. Bush cho rằng việc đào tạo thế hệ khoa học
kế cận là điều không thể bỏ qua. Để hỗ trợ cho việc này, V. Bush đề
nghị phải thành lập ngay các quỹ học bổng tài trợ cho sinh viên đại học,
sau đại học và cho các nhà khoa học trẻ.
Thật
may mắn cho Hoa Kỳ là Truman đã tiếp tục tin tưởng V. Bush đồng thời
chấp nhận thực hiện các đề xuất của ông. Và vào năm 1947, kỳ họp thứ 80
của Quốc hội Hoa Kỳ đã chính thức phê chuẩn sự ra đời của Quỹ Khoa học
Hoa Kỳ (NSF), cơ quan đứng ra thực hiện tất cả các đề xuất mà V. Bush đã
đề ra từ cách đó 2 năm. Và ngay lập tức, những chính sách của V. Bush
đã phát huy tác dụng. Quãng thời gian từ những năm 50-70 của thế kỷ XX
là quãng thời gian đánh dấu sự “nở hoa” của nền khoa học và đại học Hoa
Kỳ. Trong vòng 26 năm từ 1950 đến 1975, cả 26 giải Nobel Vật lý đều có
sự góp mặt của các nhà khoa học Hoa Kỳ; giải Nobel Y – Sinh cũng là giải
thưởng mà các nhà khoa học Hoa Kỳ chiếm ưu thế tuyệt đối (cũng 26
giải); còn đối với ngành Hóa học, trong quãng thời gian này, Hoa Kỳ cũng
có mặt trong 18/26 giải. Giải Nobel Kinh tế được sáng lập năm 1969, và
trong 8 năm đầu, Hoa Kỳ cũng giành tới 6 giải. Đó là trong lĩnh vực
nghiên cứu, còn trong lĩnh vực đào tạo, Hoa Kỳ cũng liên tiếp đạt được
những tín hiệu khả quan. Là nước đầu tiên thực hiện chính sách cởi mở
khi chấp nhận sinh viên tốt nghiệp đại học nước ngoài có thể sang Hoa Kỳ
học tiếp sau đại học, Hoa Kỳ ngay lập tức đã thu hút được rất nhiều
“tinh hoa” trẻ đến từ các châu Lục khác, đặc biệt là từ châu Á, rất
nhiều trong số họ sau khi tốt nghiệp đã quyết định ở lại và trở thành
lực lượng khoa học chủ yếu trong các đại học Hoa Kỳ ngày nay.
Ngày
nay, khi đọc lại cuốn “Khoa học: Biên giới của vô tận” của V. Bush,
chúng ta có thể thấy những khái niệm, những ý tưởng, những đề xuất tưởng
chừng như trở nên rất phổ biến như: đại học nghiên cứu, Chính phủ tài
phải tài trợ cho khoa học cơ bản, học bổng dành cho sinh viên….Nhưng,
chúng ta cũng cần phải nhớ rằng, V. Bush đã viết ra tất cả những điều đó
từ cách đây hơn 60 năm, tại thời điểm mà tri thức và sự phát triển của
khoa học thua xa hiện nay rất nhiều lần; và quan trọng hơn nữa là ông đã
biến những ý tưởng đó thành hiện thực. Cũng có thể, nhiều ý tưởng của
V. Bush tại thời đó, hiện nay cũng không còn thật đúng nữa; hay cũng có
khi, có người lại phê phán V. Bush đã lãng quên hoàn toàn vai trò của
các ngành Khoa học Xã hội và Nhân văn trong các đề xuất của ông. Lại có
trường hợp, người ta kết tội V. Bush là người phải chịu trách nhiệm
chính trong việc chế tạo ra bom nguyên tử gây nên thảm họa tại Nhật Bản
năm 1945; nhưng rõ ràng, với những gì đã làm được cho Hoa Kỳ và cho sự
phát triển của khoa học, V.Bush đáng lẽ ra phải được biết đến nhiều và
cần được lịch sử nói nhiều đến hơn là thực tế. Còn một chi tiết nữa cũng
vô cùng quan trọng trong cuộc đời của V. Bush, vào năm 1930, chính ông
là người đầu tiên đề xuất ra ý tưởng Memex mà về sau đã được phát triển
thành hệ thống Internet mà chúng ta vẫn sử dụng ngày nay. Không còn nghi
ngờ gì nữa, V. Bush xứng đáng được tôn vinh như nhà cải cách giáo dục
và khoa học vĩ đại nhất thế kỷ XX.
Tài liệu tham khảo
Atkinson
and Blanpied, “Research Universities: Core of the U.S Science and
Technology System”, Research & Occasional Paper Series: CSHE, University of California, Berkeley, 2007.
Atkinson,
“The role of Research in the University of the future”, report in The
United Nations University Tokyo, Japan, November, 1997.
Vannevar Bush, wikipedia
Vannevar Bush, “Science The Endless Frontier”, A report to the President, July, 1945
Trong lịch sử phát triển của bất cứ lĩnh vực khoa học nào, có tác
giả và công trình đánh dấu bước ngoặt, đột phá để rồi tạo dựng cho việc
ra đời một ngành khoa học mới. Công trình ngắn gọn, vẻn vẹn có mười
trang in với nhan đề "As We May Think" (Tạm dịch: Như cách con người suy
nghĩ) của Vannevar Bush được công bố vào năm 1945 trên Tạp chí
"Atlantic Monthly" của Hoa Kỳ là một trong số các công trình như vậy.
Được
đánh giá là một trong số các nhà khoa học hàng đầu của nửa sau thế kỷ
XX, V. Bush (1890-1974) - GS của Học viện công nghệ Massachusetts (MIT) -
Viện Đại học bậc nhất của Hoa Kỳ về khoa học - công nghệ, nơi có cả
chục người nhận giải thưởng Nobel, người từng giữ cương vị là Cục trưởng
Cục nghiên cứu và phát triển, điều hành trên 6000 nhà khoa học hàng đầu
của Hoa Kỳ trong thời gian thế chiến thứ II, có nhiều đóng góp cho sự
phát triển của KH, KT và giáo dục. Ông là một trong số các nhà KH tiên
phong đã tham gia vào việc thiết kế và sử dụng máy tính để giải quyết
các vấn đề toán học và kỹ thuật, là một trong số ít các nhà khoa học
tiên đoán khả năng máy móc có thể “suy nghĩ”. Đối với cộng đồng khoa
học, ông và các công trình của mình có ảnh hưởng sâu sắc tới việc ra đời
hai lĩnh vực: khoa học thông tin (Information Science) và khoa học máy
tính (Computer Science). Cách đây 15 năm, trong cuốn sách nổi tiếng “Từ
Memex tới Hypertext: Vannevar Bush và cỗ máy suy nghĩ” các nhà khoa học
quốc tế cũng đã có những bài viết về ông từ nhiều phía. 60 năm đã trôi
qua, thời gian đủ để có thể nhìn lại, chiêm nghiệm và để đánh giá đầy đủ
hơn những ý tưởng và dự báo khoa học táo bạo của ông.
1. “Bùng nổ thông tin” - vấn đề của thế kỷ XX
Vào
những năm 30 của thế kỷ XX, vấn đề tăng trưởng tài liệu trong khoa học
nói riêng và trong xã hội nói chung đã trở thành lực cản trong các hoạt
động xã hội. Các nhà khoa học sau đó gọi hiện tượng này là “Bùng nổ TT”,
để vào năm 1963 được khái quát và tổng hợp lại trong công trình của nhà
khoa học luận nổi tiếng Derek J.de Solla Price “Khoa học bé, khoa học
lớn”. Nhiều nhà khoa học đã phát hiện vấn đề TT và dành những nỗ lực để
nghiên cứu bản chất của hiện tượng TT và tìm các công cụ để hy vọng kiểm
soát và quản trị được các dòng tin đó. Năm 1934, S.C Bradford - nhà hoá
học và thư mục học người Anh, đã dành gần chục năm để nghiên cứu hiện
tượng tản mạn và sự trù mật trong phân bố của thông tin trên các ấn
phẩm. Định luật Bradford ra đời giúp
cho giới thông tin - tư liệu có cái nhìn khoa học hơn trong việc tổ chức
vốn thôn tin tài liệu. Muộn hơn, nhiều nhà khoa học tìm ra quy luật
tăng trưởng TT theo hàm mũ vốn được coi là tác nhân chính cản trở việc
giao lưu TT. Năm 1948, ngay cả Viện sĩ V.V Vavilov - nhà vật lý học Xô
Viết lỗi lạc, Chủ tịch Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô, đã phát biểu:
“Đứng trước dãy Hymalaya sách vở; con người ngày nay rất khó để tìm cho
mình những TT cần thiết. Người tìm tin như người đãi cát tìm vàng - tìm
hạt vàng nhỏ bé trong biển cát mênh mông”. Trong khi, cho tới tận đến
những năm 60, các nhà khoa học nhìn vấn đề thông tin mới chủ yếu từ
phương diện các hiện tượng, triệu chứng bên ngoài mà trong đó tác nhân
chính ở phần phát triển về lượng, có tính “bùng nổ” của TT, thì vào đúng
thời điểm thế chiến thứ II vừa kết thúc, Vannevar Bush nhìn vấn đề TT
từ một phương diện khác, phương diện cơ chế tư duy, suy nghĩ của con
người.
Khi
Norbert Wiener (1948) công bố cuốn sách: “Xibecnetic: hay điều khiển và
liên lạc trong cơ thể sống và máy móc”, Claude Shannon, Warren Weaver
(1949) với cuốn “Lý thuyết toán học của liên lạc” mà sau đó được gọi là
“Lý thuyết thông tin”, không ít các nhà khoa học sớm lạc quan tưởng
rằng, vấn đề cơ bản của thông tin đã được giải quyết. Song với thời
gian, vấn đề TT không dừng ở đó. Phạm vi thông tin lan toả tới và thực
sự nằm ở phần nội dung, ý nghĩa và giá trị của nó... Ngay cả Warren
Weaver (cũng là GS của MIT) cũng đã cảnh báo rằng, lý thuyết thông tin
của Claude Shannon không phải là học thuyết về thông tin mà chỉ đề cập
tới vấn đế kỹ thuật - làm thế nào để các tín hiệu liên lạc được truyền
chính xác. Các vấn đề khác của thông tin liên quan tới phương diện ngữ
nghĩa (Semantics) – làm thế nào để các tín hiệu liên lạc truyền được ý
nghĩa và ngữ dụng (Pragmatics) - làm thế nào để người nhận được ý nghĩa
của các tín hiệu liên lạc truyền đến có lợi nhất vẫn còn là ẩn số của
khoa học thông tin.
2. Tổ chức thông tin và tìm tin - yêu cầu của thời đại
Trong
các công trình của mình, V. Bush trình bày ý tưởng về việc lưu giữ một
lượng lớn thông tin và cơ chế tìm kiếm, truy cập thông tin và làm sao
đưa thông tin trở thành tri thức. Ông dự báo về sự thay đổi công nghệ
trong các lĩnh vực cấu trúc tổ chức thông tim, tìm tin, nhận dạng tiếng
nói, dịch tự động, sao ảnh. Các quan điểm cơ bản trên đây của ông là
những đóng góp lớn lao trong lĩnh vực khoa học thông tin hiện đại.
Vừa
kết thúc chiến tranh, V. Bush đã nhìn nhận vấn đề tổ chức khoa học qua
việc tổ chức tri thức. Ông hình dung, một thư viện với một triệu cuốn
sách có thể tổ chức gọn; trên hệ thống thiết bị vi phim. Thiết bị đặc
biệt có tên gọi Memex được ông đề xướng thực sự là nguyên mẫu của một hệ
thống dùng để lưu trữ và tìm kiếm TT, thông qua đó con người có thể lưu
trữ tất cả các kiến thức và sau đó tìm các TT cần thiết. Dưới sự lãnh
đạo của ông, phòng thí nghiệm nghiên cứu điện tử của MIT đã hoàn thành
việc thiết kế và đưa vào sử dụng máy tìm tin vi phim đầu tiên với tên
gọi “Rapit Selector”. Xa hơn, V. Bush cũng đã trình bày ý tưởng liên kết
giữa các trường đoạn tri thức từ các lớp văn bản khác nhau mà ông tự
đặt tên bằng thuật ngữ “trails” (vết), nhờ thông tin cấu trúc “trails”
được giấu trong văn bản, người dùng tin có thể truy cập tới các trường
đoạn TT khác nhau trong không gian TT rộng lớn. Sau này, công cụ đó được
các nhà khoa học phát triển hoàn thiện với tên gọi siêu liên kết
“hyperlinks” và trang web. V. Bush là người đầu tiên nhìn vấn đề TT từ
phương diện tư duy của con người. Ông chỉ ra rằng, cách tìm tin hiện tại
trong các kho TT truyền thống dựa trên lôgíc hình thức và trật tự tuyến
tính là không phù hợp với lối suy nghĩ, bản chất liên tưởng đan xen
phức tạp trong suy nghĩ và tư duy của con người. Phân tích bản chất của
bài toán tìm tin, ông cho rằng ngôn ngữ tự nhiên ở dạng nguyên gốc không
thích hợp cho bài toán tìm tin ngữ nghĩa bằng cách cơ giới hoá và vì
thế, việc giải quyết vấn đề không đơn giản chỉ là ở phần trang thiết bị.
Vào thời kỳ đó, các tổ chức TT tuyến tính và đơn diện, thủ tục để tìm
tin theo các yêu cầu là rất phức tạp và quy trình tìm tin theo bước tuần
tự bị kéo dài. Theo cách hiểu của ông, bộ óc con người tư duy theo
nhiều chiều, theo các trục liên tưởng, khi nhận được TT, con người ngay
tức thì xuất hiện thông tin khác, theo cách liên lập nhờ mạng các quan
hệ giữa các tế bào não. Ông cho rằng, không thể hoàn toàn bắt chước quá
trình trên song cần phải học và biết cách mô phỏng. Các gợi ý của ông đã
là các ý tưởng khoa học tuyệt vời để chuẩn bị ra đời một loạt các thay
đổi có tính cách mạng trong vấn đề tổ chức và tìm tin. Theo đề nghị của
ông, từ những năm 50 Quỹ khoa học quốc gia Hoa Kỳ (NSF) đã tài trợ cho
nhiều nhà khoa học nhập cuộc để nghiên cứu vấn đề tìm tin. Đầu tiên phải
kể tới Cavin Mooes người đầu tiên nêu khái niệm khoa học về “Tìm tin”,
lúc đó đã xác định khá rõ “Tìm tin liên quan tới các khía cạnh trí lực
(intellectual aspects) liên quan tới việc trình bày, xử lý, lưu giữ và
truy cập TT mà hệ thống, kỹ thuật hoặc máy móc có thể thực hiện thay cho
con người”. Tiếp theo là các hội nghị và diễn đàn về tìm tin văn bản
(TREC - Text Retrieval Conference) với chương trình đánh giá hoạt động
của các hệ thống tìm tin dưới tên gọi Dự án Cranfiel do C.W. Cleverdon
chủ trì được thực hiện vào cuối những năm 50 và nửa đầu những năm 60 tại
Anh và Hoa Kỳ. Trong những năm 60-80, chương trình nghiên cứu về hệ
thống tìm tin văn bản tự động SMART của Đại học Cornell do GSTS Gerard
Salton (1927-1995), người mà sau khi qua đời, tên ông được chọn làm tên
gọi cho một giải thưởng tại Hoa Kỳ dành cho các công trình xuất sắc
trong lĩnh vực tìm tin, đã thu được nhiều thành công.Nhiều nhà khoa học
có lý khi họ khẳng định rằng, V. Bush chính là người nhìn thấy trước
công nghệ siêu văn bản và đa phương tiện. Cũng nhờ các ý tưởng này, một
loạt các dịch vụ TT giá trị gia tăng theo kiểu các TT dự báo và đánh giá
ra đời: bác sỹ có thể chẩn đoán bệnh dựa trên tri thức về triệu chứng
và bệnh học, chuyên gia có thể tư vấn trên các hệ tri thức... Mặc dù các
ý tưởng này thời ông cũng không được hiện thực hoá, song cũng tại đây,
V. Bush lần đầu tiên đã trình bày và sử dụng khái niệm về tổ chức thông
tin (organize information), các vấn đề trí lực và công nghệ đương thời.
Ông đã tiên đoán rằng, máy tính và trí tuệ máy sẽ đóng vai trò quan
trọng trong cuộc sống trí tuệ của xã hội loài người. Rất nhiều điều về
Memex sau này liên quan tới máy tính tương tự, máy tính số hiện đại. Một
ảnh hưởng quan trọng khác là lĩnh vực công nghệ siêu văn bản
(Hypertext). Tại Hội nghị quốc tế về Hypertext được tổ chức tại Chapel Hill
vào năm 1987, các nhà khoa học đánh giá cao các ý tưởng của V. Bush.
Năm 1993, Hartigan đã phân tích sâu sắc trên 30 năm phát triển công nghệ
đa phương tiện (Multimedia) trong đó chỉ ra rằng, các ý tưởng khoa học
của V. Bush có ảnh hưởng rất lớn tới các thành tựu đương đại của lĩnh
vực TT như: tìm tin, công nghệ siêu văn bản (Hypertext), thư viện điện
tử... Ngay cả các nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực này như Doug
Engebart và Ted Nelson đều thừa nhận các kết quả khoa học của họ là sự
nối tiếp những ý tưởng của V. Bush. Vào những năm cuối của thế kỷ XX,
nhà Thông tin học Linda Smith đã thực hiện việc phân tích trích dẫn để
xem và xác định mức độ ảnh hưởng của công trình của V. Bush. Kết quả
phân tích thông tin trích dẫn thu được cũng khẳng định V. Bush có ảnh
hưởng rất lớn tới lĩnh vực thông tin học, tìm tin, tin học, công nghệ
Hypertext, thư viện điện tử.
3. Nghề thông tin: cơ hội và thách thức
Với
đầu óc thiên tài, V. Bush cũng là người tiên phong nhìn thấy trước sự ra
đời và tương lai của một dạng nghề nghiệp mới trong khoa học: nghề
thông tin. Ông đã viết những dòng ý tưởng dự báo tuyệt vời: “Trong lãnh
địa khoa học sẽ có một nghề mới với nhiệm vụ thiết lập các mối quan hệ
hữu ích trong hàng hà sa số các dữ liệu. Di sản của các nhà khoa học
không chỉ thể hiện ở cả kho tàng tri thức, mà còn ở việc xây dựng các
“miệt rừng” ở đó các lớp kế tiếp có thể tham gia vào phát triển toà lâu
đài đó. Khoa học phải nghiên cứu các phương thức để con người có thể sản
xuất, bảo tồn và sử dụng có lợi các tri thức đó”. Rất nhiều ý tưởng về
ngành thông tin của V. Bush đã được hiện thực hoá với các bước phát
triển diệu kỳ trong suốt 60 năm qua. Cộng đồng khoa học thông tin ngày
nay có nhiều các cơ sở khoa học và dịch vụ thông tin, nhiều tạp chí khoa
học chuyên ngành thông tin tên tuổi, nhiều cơ sở đào tạo các cán bộ
thông tin chuyên nghiệp từ trình độ cử nhân tới bậc tiến sỹ khoa học,
một nền kinh tế thông tin sôi động đang nổi lên và quan trọng hơn nhân
loại đang thực sự bước vào “xã hội thông tin toàn cầu” với các cơ hội
rộng mở cho mọi quốc gia và cho mọi người. Nhân lực thông tin chiếm tỷ
lệ quan trọng và đang tạo ra các giá trị ngày càng lớn trong xã hội. Đầu
tư cho hoạt động thông tin đích thực là đầu tư có hiệu quả. Song hoạt
động thông tin ngụy tạo và kém tính toán cũng dễ làm thất thoát các
nguồn lực và đưa đến không ít mất mát. Tạo lập và làm chủ môi trường
thông tin lành mạnh là đòi hỏi của cuộc sống, là thách thức song cũng là
cơ hội phát triển khi chúng ta thực sự hội nhập.
Ngay
từ đầu năm 1970 tại Moskva, tại giảng đường Hội “Znania” (Tri thức) dưới
sự chủ trì của Viện sỹ A. A Doronhixin, Giám đốc trung tâm tính toán
thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (sau này Viện sỹ đó sang Việt Nam
giúp Uỷ ban KH&KT nhà nước triển khai các chương trình trong lĩnh
vực khoa học tính toán) đã có các buổi thuyết trình khoa học về các
chương trình nghiên cứu trong lĩnh vực thông tin đang được thực hiện tại
Liên Xô, Hoa Kỳ, Nhật Bản... Ở đó công trình của Vannevar Bush đã được
đánh giá rất cao. Gần 30 năm sau, tháng 10 năm 1999, ở Hà Nội trong buổi
thuyết trình về khoa học thông tin tại Trung tâm thông tin KH và CN
Quốc gia, GS. TS. R. S Giliarevxkii, nhà hoạt động KH công huân của CHLB
Nga, Trưởng bộ môn Thông tin Đại học Tổng hợp Quốc gia Lômônôxốp
(Moskva), Tổng biên tập Tạp chí Thông tin cũng đã tái khẳng định, V.
Bush là nhà sáng lập ngành Thông tin học hiện đại.
Sự kỳ
diệu của con người có trong các phát kiến, ý tưởng khoa học. Trong một
xã hội thông tin đang hiện hữu sinh động trên hành tinh chúng ta, có
những người khai đường, trong đó Vannevar Bush thật sự là một sai mai
toả sáng của bầu trời thông tin.
__________
* Bài
viết được hoàn thành nhân kỷ niệm 35 năm ngày tác giả được nghe buổi
thuyết trình về Vannevar Bush và kỷ niệm 10 năm ngày tác giả trình đề án
đào tạo bậc đại học ngành Thông tin học và QTTT ở Việt Nam để từ năm
học 1996-1997 đề án này đã được hiện thực hoá bắt đầu từ Trường Đại học
Đông Đô.
Nguồn: T/c Thông tin và phát triển, số 2, 9/2006, tr 15
Tác giả bài viết: PGS. TS Nguyễn Hữu Hùng
110 |
|
Orville and Wilbur Wright
1867-1912 Mỹ Phát Minh |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét