Thứ Năm, 11 tháng 10, 2018

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 40 (Phạm Ngọc Thảo)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Giải Mật PHẠM NGỌC THẢO - Con Át Chủ Bài Trong DINH ĐỘC LẬP
 Cho đến nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là một bí ẩn khó có thể giải mã. Không phải vì xung quanh ông vẫn còn những bí mật QS , cũng không phải xung quanh ông có những điều “nhạy cảm” khó nói. Khó giải mã là do tầng tầng lớp lớp những biến cố lịch sử cuộc sống nhưng nằm ngoài sách vở và các bản tổng kết. Sau khi bộ phim nổi tiếng Ván bài lật ngửa bắt đầu công chiếu từ năm 1982, khi biết nhân vật Nguyễn Thành Luân được nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng dựa trên nguyên mẫu là Phạm Ngọc Thảo, những giai thoại về Phạm Ngọc Thảo dần dần lưu truyền rộng rãi trong dân chúng.

Giải mật tài liệu của CIA về huyền thoại tình báo Việt Nam


Giải mật tài liệu của CIA về huyền thoại tình báo Việt Nam

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Thảo là người đã dựng ngọn cờ binh biến tại Sài Gòn trong nửa đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX tới khi hy sinh ở tuổi 43.

Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phạm Ngọc Thảo (Chín Thảo, Albert Thảo, 1922-1965) xuất thân trong một gia đình trí thức tôn giáo, cựu học viên Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn, Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 trong kháng chiến chống Pháp.
Trong kháng chiến chống Mỹ, ông được giao một nhiệm vụ chưa có tiền lệ trong lịch sử tình báo: Luồn sâu, hoạt động đơn tuyến, lợi dụng mâu thuẫn để đánh địch từ trong ra. Phạm Ngọc Thảo đã dựng ngọn cờ binh biến tại Sài Gòn trong nửa đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX tới khi hy sinh ở tuổi 43.
Giải mật tài liệu của CIA về huyền thoại tình báo Việt Nam
Phạm Ngọc Thảo (cầm mi-crô), tháng 2-1965. Ảnh: Tạp chí Life
Phương Tây biết đến Phạm Ngọc Thảo khá sớm, qua bài viết "Chiến tranh du kích ở Đồng bằng sông Mê Công tháng Chạp 1961: Cuộc chiến trên đồng lúa" của Man-côm Brao-nơ (Malcom Brown). Trong bài, Phạm Ngọc Thảo được đặc tả trên cương vị Tỉnh trưởng Kiến Hòa (tên Diệm đặt cho Bến Tre), là "một sĩ quan cấp tá dáng dấp như con mèo, tóc húi cua, với cái nhìn gây nao núng". Brown cho biết, ông Thảo từng là cựu sĩ quan Việt Minh, nay là "biểu tượng của tinh thần chiến đấu" của Sài Gòn. Bài viết của Brown là đợt sóng ngầm, báo động về thực tế ở Nam Việt Nam: Ban ngày "thuộc về" chính quyền Sài Gòn tồn tại nhờ viện trợ Hoa Kỳ, ban đêm do cách mạng kiểm soát…
Một viên kim cương
Trong bài "Sự sụp đổ của dòng họ Ngô Đình" (Báo The Saturday Evening Post, 21-12- 1963), Stan-lây Các-nâu (Stanley Karnow) viết: "Viên trung tá sáng giá Phạm Ngọc Thảo… một trong những người trung thành nhất, gần gũi nhất với Diệm, đã miễn cưỡng nhập vào hàng ngũ chống đối. Ông Thảo đã bị thuyết phục rằng, chỉ có lật đổ chế độ Diệm mới cứu được đất nước".
Trong Chiến thắng bị bỏ lỡ (Lost Victory, NXB Contemporary books, 1989, trùm CIA W. Côn-bai (Colby) cũng đôi lần nhắc đến Phạm Ngọc Thảo, và muốn gây cảm tưởng rằng Mỹ đã "mô phạm" trong việc ông Thảo bị sát hại. Trang 173 sách này viết: Mãi đến 1976, người Mỹ mới hay tin Phạm Ngọc Thảo từng "làm việc cho Cộng sản". Nhưng lưu trữ được giải mật gần đây lại cho thấy, tình báo Mỹ đã rất sớm "quan tâm" đến Phạm Ngọc Thảo.
Chuyên gia lật đổ
Hàng chục tài liệu của CIA đả động đến Phạm Ngọc Thảo đã được giải mật sau chiến tranh. Ngày 11-9-1963, CIA soạn thảo Những bước tiến của Huỳnh Văn Lạng và Phạm Ngọc Thảo đối với mưu đồ đảo chính (Progress of Huynh Van Lang and Pham Ngoc Thao with plans for coup d'etat). Tài liệu nêu tên các tướng tá Sài Gòn liên đới gồm: Phạm Ngọc Thảo, Nguyễn Khánh, Dương Văn Minh, Huỳnh Văn Cao, Nguyễn Khắc Bình và… Nguyễn Hữu Hạnh.
Lưu trữ của Mỹ cho biết tiếp về Kế hoạch của Thủ tướng Nguyễn Khánh nhằm làm Hoa Kỳ dính líu vào Bắc Việt Nam (Prime Minister Nguyen Khanh's plan to involve the United States in North Vietnam), 22-7-1964. Theo tài liệu này, ông Thảo được Mỹ đề nghị nhận định về khả năng đảo chính lật Nguyễn Khánh.
Chính lúc này, Oa-sinh-tơn (Washington) cần gấp một hậu phương ổn định ở miền Nam để đổ quân Mỹ vào, cũng như dựng đầu cầu đánh ra miền Bắc, sang Lào. Nhưng Điều tra về cơ may đứng vững của chính quyền Sài Gòn (Chances for a stable government in South Vietnam) của SNIE (cơ quan tình báo Hoa Kỳ làm chức năng dự báo chiến lược) đề ngày 8-9-1964 lại viết: "Sân khấu chính trị-xã hội miền Nam Việt Nam rúng động, Việt Cộng ngày càng mạnh lên, ý thức chống Mỹ sâu sắc hơn, mâu thuẫn của chính quyền quân phiệt với các bộ phận dân cư tăng lên, chia rẽ đảng phái, sắc tộc, giáo phái sâu hơn, và nhất là phe Phạm Ngọc Thảo và một số sĩ quan đang mưu đồ đảo chánh…". Các cuộc đảo chính sẽ được báo chí gán cho người này, người khác cầm đầu. Nhưng trong ống kính tình báo Mỹ, chỉ hội tụ cái tên Phạm Ngọc Thảo. Tướng Oét-mô-len (Westmoreland) trong hồi ký của mình đã gọi Phạm Ngọc Thảo là "nhà đảo chính chuyên nghiệp".
Giải mật tài liệu của CIA về huyền thoại tình báo Việt Nam
Trang đầu bức điện Đại tá Phạm Ngọc Thảo của William Colby gửi từ Sài Gòn cho McGeorge Bundy, Cố vấn an ninh của Tổng thống Johnson, 4-6-1965. Giải mật 12-8-1987. Nguồn: 00780 Col. Pham Ngoc Thao (June 4, 1965) Memorandum; SECRET; SANITIZEDDeclassified: September 1, 1987
Theo tài liệu Kế hoạch đảo chính của Đại tá Phạm Ngọc Thảo (Plans of Col. Pham Ngoc Thao to mount a coup, 28-8-1964), Mỹ cho rằng nếu cuộc đảo chính nổ ra, Trần Thiện Khiêm sẽ không trở tay kịp; chính phủ mới, nếu phe đảo chính lên nắm quyền sẽ gồm: Phạm Ngọc Thảo làm Thủ tướng, Dương Văn Minh hoặc Phan Khắc Sửu sẽ được đôn làm Quốc trưởng…
Hôm sau, 29-8-1964, CIA ra liền hai báo cáo nhan đề Phạm Ngọc Thảo: Tóm tắt lý lịch và phân tích về nhân sự này và Phạm Ngọc Thảo tìm cách giành sự ủng hộ cho cuộc đảo chính, theo đó, CIA mong rằng Phạm Ngọc Thảo sẽ khó nhận được sự hỗ trợ của không lực Việt Nam Cộng hòa (cầm đầu là Nguyễn Cao Kỳ). Ngày 30-8-1964, theo điện mật Các phe phái đều chuẩn bị đảo chính, sắp có đảo chính khả thi (!), một khi cả phe Phạm Ngọc Thảo và phe các tướng thuộc Đảng Đại Việt đều chuẩn bị đảo chính. Ngày 1-9-1964 là lúc người Mỹ thấy cần phải điều tra, khảo sát các chỉ huy quân Sài Gòn và khả năng thành bại của một cuộc đảo chính, nếu xảy ra (Tài liệu Loyalties of the Armed Forces commanders and the possibility of success if a coup d'etat is attempted: Situation appraisal as of 31 August 1964). Trong 30 tướng tá cao cấp, Phạm Ngọc Thảo vẫn ở tiêu điểm: Tên ông đứng thứ hai, sau Nguyễn Khánh.
Nhưng cuộc đảo chính 19-9-1964 dẫn đến Nguyễn Khánh phải từ nhiệm ngày 23-10, theo phát hiện của CIA, chính là kế hoạch cướp chính quyền bất thành của Việt Cộng (điện mật Mưu toan lật đổ 13-9, Attempted coup on Sept.13). Chính giới Sài Gòn không thể không nhận thấy rằng, cuộc đảo chính hôm 19-9, tuy bất thành, đã làm đổ bể lễ ký kết thỏa thuận đổ quân vào miền Nam và giội bom miền Bắc của trục Oa-sinh-tơn - Sài Gòn, dự định vào ngày 20-9-1964.
Ngày 4-3-1965, Oa-sinh-tơn lại được tin về âm mưu đảo chính (Coup rumors in Saigon, 4-3-1965). "Bọn tiểu tướng hung hăng": Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi, Đặng Văn Quang, Lê Nguyên Khang, Vĩnh Lộc, Dư Quốc Đống… bắt đầu thục mạng chọi nhau giành ngôi chủ soái, nhân Nguyễn Khánh bị đẩy đi lưu vong. Tháng Năm đến, Nguyễn Văn Thiệu, mới chỉ định dạng trong hồ sơ của CIA năm 1964, đã bẩm báo cho chủ Mỹ về một âm mưu đảo chính của Phạm Ngọc Thảo trong công văn Mật vụ dự báo cho Bộ trưởng Quốc phòng Nguyễn Văn Thiệu về một mưu đồ đảo chính vào 20-5, cùng các biện pháp đối phó của chính phủ. Theo điện mật này: Cuộc đảo chính sẽ do Phạm Ngọc Thảo chỉ huy, với hiệp trợ của Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn và Nhóm tướng Đà Lạt, tức là Mai Hữu Xuân, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính, Nguyễn Văn Vỹ; cuộc đảo chính sẽ do Đảng Cần Lao nhân vị tài trợ. Phe của Thiệu sẽ đối phó bằng lực lượng phản đảo chính và sự chiêu hàng các phần tử nổi loạn…
Thánh tử vì đạo
Bị kẻ địch phản kích quyết liệt, cuộc binh biến tháng Năm của ông Chín Thảo bị dập tắt. Bản thân bị truy nã, mọi phương tiện của ông Thảo cạn kiệt, quân sĩ tan tác. Nhưng khi nhiệm vụ còn dang dở, Phạm Ngọc Thảo quyết không rời trận địa.
Tài liệu Đại tá Phạm Ngọc Thảo (Colonel Pham Ngoc Thao, 4-6-1965), đánh số 00780, do William Colby, Phó giám đốc về kế hoạch cơ quan CIA ở Sài Gòn viết như sau:
1. Đã phát hiện được Phạm Ngọc Thảo tung tăng lượn phố (circulating freely) giữa Sài Gòn, và giúp đỡ chủ bút của một tờ báo bí mật.
(Hai đoạn số 2 và 3 bị CIA xóa khi giải mật!!!).
4. Vấn đề này quả là nghiêm trọng, trên hai phương diện. Thứ nhất, chính quyền hiện hành của Việt Nam Cộng hòa vẫn ngại ngùng, không có chủ trương bắt và hành hình Phạm Ngọc Thảo. Còn rất ít nghi ngờ về chỗ ẩn nấp của Thảo ở Sài Gòn, cũng như một kế hoạch phối hợp cảnh sát để bắt giữ Thảo. Chính quyền Sài Gòn lại luận giải một cách chắc chắn rằng Thảo là một biểu tượng của người Công giáo, tới mức, việc bỏ tù/thủ tiêu Thảo trong tình hình như thế này sẽ gây bùng nổ. Cách suy luận như thế của Thủ tướng Quát lại được dung túng bởi công văn số 4003 ngày 2-6 của Sứ quán Mỹ từ Sài Gòn, theo đó đại sứ Taylor báo cáo rằng Quát đã nhất trí để cho Thảo và một số người khác bí mật rời đất nước, cho dù chính Quát hiểu rằng cần có một kỷ luật cấp quốc gia cao hơn.
5. Vấn đề thứ hai là cốt cách của Thảo. Ông ta tin vào sứ mạng cứu nhân độ thế, xả thân vì dân tộc mình, như một thiên sứ. Ông ta biết rõ mình phải làm gì. Lung lạc được Thảo bởi tiền tài hay hình phạt, kể cả tử hình, để ông ta ngừng tạo ra tình thế chỉ có lợi cho một mình Việt Cộng, rõ ràng là điều không thể. Việc Thảo không sợ bị trừng phạt còn do ông ta được bảo trợ bởi các thủ lĩnh quân sự Công giáo. Cũng không có bằng chứng rõ rệt rằng, Thảo đang không được Việt Cộng hỗ trợ một cách bí mật…
Vì chính phủ Phan Huy Quát chần chừ trong khủng bố, đàn áp, Mỹ quyết định đôn lên nhóm tay sai khát máu hơn. Ngày 24-6-1965, lý lịch kẻ giúp Mỹ đàn áp Phạm Ngọc Thảo trong chính biến tháng Năm, Nguyễn Văn Thiệu, được CIA trình thượng cấp. Được thăng chức "Chủ tịch Ủy ban lãnh đạo quốc gia", Thiệu lập tức lùng bắt Phạm Ngọc Thảo để thủ tiêu. Ngày 16-7, an ninh quân đội Sài Gòn vây ông Thảo ở Tam Hiệp, Biên Hòa. Bị trọng thương, Chín Thảo bị bắt ngay hôm sau. Kẻ thù đã dùng cực hình man rợ đến cực điểm để tra tấn ông Thảo cho đến chết ngay trong đêm đó. Ngay sau đó, tin ông Thảo từ trần trong một tai nạn đã được tung lên các báo Sài Gòn.
Trở lại công văn Đại tá Phạm Ngọc Thảo 4-6-1965, Colby viết tại điểm 7: "Chúng tôi nhận thức rõ sự cần thiết của việc không được làm cho Thảo, về mặt chính trị, trở thành vị thánh tử vì đạo (political martyr)". Nhưng mưu đồ này đã thất bại. Các nguồn tin ở Sài Gòn sau đó cho biết, chịu mọi cực hình tàn khốc đến chết, ông Thảo đã không hé môi về bất cứ quân nhân hay chính khách của chế độ Sài Gòn, từng là đồng minh trong đảo chính của ông, hay bất kỳ một thông tin gì khác. Theo chuẩn mực tôn giáo, ông đã trở thành bậc Thánh, chịu thống khổ để cứu nước nhà. Danh hiệu này, cùng chữ martyr (thánh tử vì đạo), vô hình trung, đã được CIA dùng chỉ ông Thảo trong công văn ngày 4-6-1965 nói trên.
 
theo Quân đội nhân dân

SỰ THẬT VỀ CÁI CHẾT CỦA ĐẠI TÁ PHẠM NGỌC THẢO


Trở lại Việt Nam
Tháng 2 năm 1965 tình hình Việt Nam lại rối ren do vì Nguyễn Khánh đã bỏ qua lời khuyến cáo của Đại sứ Taylor mà bắt giam Thượng hội đồng Quốc gia và Tướng Đỗ Mậu.  Lại còn buộc Chính phủ Hoa Kỳ phải triệu hồi Đại sứ Maxwell Taylor.
Một lần nữa Đại tá Phạm Ngọc Thảo về nước nhưng ông đi âm thầm.  Đại sứ Trần Thiện Khiêm không thông báo cho Sài Gòn biết.  Và trên nguyên tắc Bộ ngoại giao Hoa Kỳ cũng không biết vì không được Đại sứ Khiêm thông báo.
Khi được Lãnh sự quán của VNCH tại Hồng Kông cho biết Đại tá Thảo đang trên đường về nước thì Tướng Khánh ra lệnh chận bắt tại phi trường Tân Sơn Nhất nhưng không kịp ( Hồi ký của Tướng Trần Văn Đôn, trang 360 ).  Trong khi đó CIA đã báo trước cho một số phóng viên ngoại quốc nên họ có dịp chụp hình, phỏng vấn Đại tá Thảo ngay khi ông vừa bước xuống máy bay với cặp kiếng đen che gần hết khuôn mặt.
http://www.gstatic.com/hostedimg/ea16d51d04e858dd_large
Trưa ngày 19-2-1965, khi Đại tá Thảo bắt đầu cuộc đảo chánh ở Sài Gòn thì tại Washington Tướng Trần Thiện Khiêm tuyên bố với báo chí rằng ông ủng hộ cuộc lật đổ Nguyễn Khánh và ông lên máy bay về Việt Nam;  nhưng khi đến Phi Luật Tân thì nghe tin cuộc đảo chánh không thành nên ông quay trở lại Hoa Kỳ.  Điều này chứng minh việc làm của ông Đại sứ Khiêm và ông Tùy viên Phạm Ngọc Thảo đều có sự sắp đặt của Washington.
Cuộc đảo chánh của Đại tá Thảo bất thành vì nhóm “tướng trẻ” cứu nguy cho Nguyễn Khánh trong phút chót.  Sau đó Tướng Khánh phát lệnh truy lùng băng nhóm Phạm Ngọc Thảo nhưng nhóm tướng trẻ không đồng ý, trái lại họ buộc Nguyễn Khánh phải lưu vong.
Nhóm tướng trẻ VNCH
Sau khi Nguyễn Khánh Lưu lưu vong, quyền lực của quốc gia tập trung trong tay của nhóm “tướng trẻ”, cầm đầu là các tướng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Chánh Thi và Chung Tấn Cang.  Nhưng từ thời còn Tướng Khánh nhóm tướng trẻ đã bất mãn thái độ chủ nhân ông của Đại sứ Maxwell Taylor. Theo hồi ký của ông Bùi Diễm thì có sự căng thẳng nặng nề giữa nhóm tướng trẻ với Maxwell Taylor.
http://www.gstatic.com/hostedimg/149ebed38b7b71f0_large
Mặc dầu Nguyễn Khánh đã lưu vong nhưng PNT vẫn tiếp tục trốn lánh, không ra trình diện Hội đồng tướng lãnh.  Đã vậy  Đại tá Thảo lại còn liên lạc với các tướng tá như Cao Hảo Hớn, Bùi Dzinh, Đỗ Văn Diễn, Nhan Minh Trang, Dương Hiếu Nghĩa, Huỳnh Văn Tồn… âm mưu làm đảo chánh một lần nữa vào ngày 20-5-1965 để đưa Tướng Khiêm trở về.
Nhóm tướng trẻ cho rằng như vậy là HK đã can thiệp quá đáng vào nội tình VNCH nên quyết định quyết định bắt 17 sĩ quan đang âm mưu đảo chánh và truy lùng Phạm Ngọc Thảo.  Công việc truy lùng và thanh toán Phạm Ngọc Thảo được giao cho Giám đốc Tổng nha cảnh sát quốc gia là Trung tá Phạm Văn Liễu và Giám đốc Nha An ninh quân đội là Đại tá Nguyễn Ngọc Loan.  Ông Liễu là đàn em thân tín của Tướng Nguyễn Chánh Thi và ông Loan là đàn em thân tín của Tướng Kỳ.
Sau đó nhóm tướng trẻ họp Tòa án Quân sự mặt trận, tuyên án Tử hình khiếm diện các Đại tá Phạm Ngọc Thảo, Huỳnh Văn Tồn, Nhan Minh Trang và Trung tá Dương Hiếu Nghĩa.  Nhưng các ông Tồn, Trang, Nghĩa được ông trùm cảnh sát Phạm Văn Liễu nuôi trong nhà riêng của ông, mấy tháng sau thì được miễn tố, trả tự do ( Hồi ký của Đại tá Phạm Văn Liễu ).
Còn Đại tá Thảo cùng Đại tá Bùi Dzinh và Đại tá Đỗ Văn Diễn cùng trốn lánh trong một làng Công giáo ở Hố Nai, nghĩ rằng tạm lánh một thời gian cho mọi việc lắng xuống thì ra mặt trở lại.  Không ngờ Cảnh sát đặc biệt của Trung tá Phạm Văn Liễu biết được chỗ trú của các ông nên tổ chức bắt.  Đại tá Dzinh và Đại tá Diễn được đưa về Sài Gòn an toàn và sau đó được miễn truy cứu;  riêng Đại tá Thảo bị giết trên đường giải về Sài Gòn.
Về cái chết của Phạm Ngọc Thảo
 Ngày PNT bị giết là thời Nguyễn Văn Thiệu làm Lãnh đạo quốc gia và Nguyễn Cao Kỳ làm Thủ tướng.  Ngoài ra người đứng đầu cơ quan mật vụ lúc đó là Phạm Văn Liễu và Nguyễn Ngọc Loan.  Ông Thảo đã chết dưới tay của một trong hai ông trùm mật vụ: ông Loan, hoặc là ông Liễu.   Nhưng dư luận ( mà đại diện là Đặng Văn Nhâm ) và hồi ký của Phạm Văn Liễu đều ghi nhận mới đầu PNT bị Phạm Văn Liễu bắt, nhưng cuối cùng PNT chết tại Nha An ninh quân đội.
Có một bức thư của con trai Tướng Bùi Dinh gởi đi từ Pháp cho biết Bùi Dinh, Phạm Ngọc Thảo và Đỗ Văn Diễn cùng lẫn trốn trong một nhà thờ xứ đạo tại Hố Nai.  Sau đó Cảnh sát đặc biệt của PhạmVăn Liễu nhờ theo dõi các chuyện đi thăm nuôi của vợ Đại tá Diễn mà tìm ra chỗ trú ngụ của 3 ông.
Trên đường giải 3 ông về Sài Gòn thì nhân viên của ông Liễu nhận được lệnh thủ tiêu PNT, bắn bằng súng ruleau 38, từ màng tang trổ xuống quai hàm trái, xong rồi đạp xác xuống ngang một rừng chồi ở Thủ Đức,  bắn ban đêm.  Sáng hôm sau Đại tá Liễu được thuộc hạ báo cáo rằng đã giết PNT thì ông vội cho người lên xác minh lại nhưng không tìm thấy xác PNT, chỉ còn lại dấu máu ( Hồi ký Phạm Văn Liễu ).
Liễu báo động cho Nguyễn Ngọc Loan vào trưa hôm đó ( Thiếu tá “Hùng sùi” đã kể cho nhà báo Đặng Văn Nhâm ).  Cũng sáng hôm đó, một tài xế xe lam tìm thấy PNT bị thương nặng bên vệ đường nên chở ông vào một trạm xá ở Biên Hòa.  Tại đây PNT dùng viết cho biết mình là Phạm Ngọc Thảo, yêu cầu báo cho Tỉnh trưởng Biên Hòa biết.  Nhằm đánh động dư luận để người ta không thể thủ tiêu ông.
Tỉnh trưởng Biên Hòa là em của Tướng Cao Văn Viên nên báo về Tổng tham mưu cho Tướng Viên và Viên báo cho Nguyễn Ngọc Loan.  Loan lên Biên Hòa đem Thảo về Nha ANQĐ.   ( Nếu lúc đó tỉnh trưởng Biên Hòa báo cho báo chí quốc tế hoặc thông tin kịp thời cho CIA thì PNT không chết ).
Theo như Thiếu tá “Hùng sùi” kể cho Đặng Văn Nhâm (có thâu băng) là chính ông ta đã làm cho PNT chết nhưng ông ta không thể nói làm bằng cách nào ( Vì lịch sự khi trả lời trước công chúng ).  Nhưng trước đó, khi hay tin PNT là VC ( do tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngữa của Trần Bạch Đằng ) thì Hùng sùi có nói cho mọi người rằng chính ông ta đã bóp “dế” PNT.
Tất cả những nhân vật dính líu trong vụ giết PNT đều không có gì thù oán riêng với PNT.    Phạm Văn Liễu, Nguyễn Ngọc Loan làm theo chỉ thị của đàn anh của mình là Tướng Nguyễn Chánh Thi và Tướng Nguyễn Cao Kỳ.  Suy ra ông Kỳ và ông Thi và ông Thiệu, ông Viên cùng đồng lòng giết PNT trong khi các ông thừa biết Thảo là siêu điệp viên của HK.  Hồi ký của Phạm Văn Liễu cho biết chính quyền (Thiệu, Kỳ) đã treo giải thưởng 3 triệu cho ai chỉ điểm hay  bắt đựơc PNT.
Có nhiều cách để chứng minh Phạm Ngọc Thảo không phải là người của CSVN
Thứ nhất, tại sao sau khi bị chính phủ VNCH truy lùng, Phạm Ngọc Thảo không trốn luôn về vùng của CSVN mà lại cứ trốn quanh đến nỗi cuối cùng bị giết.
Thứ hai, theo cựu Giám  đốc Phủ đặc ủy trung ương tình báo VNCH Trần Kim Tuyến thì chính Thảo báo cho Tuyến biết về thời gian và địa bàn hoạt động của Lê Duẩn.  Sau khi công an Long Xuyên bắt hụt Lê Duẩn, các kiểm chứng sau đó cho thấy tất cả các tin báo của Phạm Ngọc Thảo là chính xác.  Theo ông Trần Kim Tuyến thì người điệp viên có thể báo cáo một số bí mật của phe mình cho đối phương để lấy lòng tin cậy nhưng không thể nào báo cáo cho người ta bắt lãnh tụ tối cao của mình ( Vĩnh Phúc, Những Sự Thật Và Huyền Thoại Về Chế Độ Ngô Đình Diệm, trang 192 ).
Thứ ba, nếu quả thực Phạm Ngọc Thảo là điệp viên của CSVN thì thời đó Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Ngọc Loan, Phạm Văn Liễu không tội gì mà không tri hô lên rằng Phạm Ngọc Thảo là Cọng sản.  Và rồi khi cuốn tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngữa của ông Trần Bạch Đằng cho rằng Phạm Ngọc Thảo là điệp viên cao cấp của CSVN thì tại Hoa Kỳ các ông cũng không hề nhân đó để thanh minh rằng giết Thảo là đúng.
Thứ tư, gia đình của Phạm Ngọc Thảo được đưa đi Hoa Kỳ sinh sống từ năm 1965 nhằm bảo đảm an toàn, tránh chuyện đặc công CS thanh toán gia đình PNT để trả thù.  Đủ rõ PNT là người của bên nào.  Sau 1975 gia đình PNT không thèm biết đến chế độ CSVN, trái lại còn nhờ Đặng Văn Nhâm thanh minh rằng PNT không phải là VC.
Thứ năm, người phụ trách siêu điệp viên tại Miền Nam  thời chiến tranh 1954-1975 là ông Mai Chí Thọ và Cao Đăng Chiếm.  Nhưng hồi ký của Mai Chí Thọ cho biết chỉ có Lê Hữu Thúy là điệp viên của ông.  Không hề đề cập tới thành tích hoạt động của Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn hay Vũ Ngọc Nhạ.
Thứ sáu, sau khi ông Trần Bạch Đằng chết vào năm 2007 và ông Võ Văn Kiệt chết vào năm 2008;  tháng 9 năm 2009 tài liệu CIA and The Generals của CIA cho biết năm 1967 Trần Bạch Đằng lén Hà Nội bắt tay với CIA để CIA thả vợ của Đằng là bà Mai Thị Vàng. Hóa ra người điệp viên Cọng sản làm việc với CIA ( Nhân vật Nguyễn Thành Luân ) là ông Trần Bạch Đằng chứ không phải Phạm Ngọc Thảo. Trong khi trước đó mọi tin đồn PNT là VC đều xuất phát từ tiểu thuyết của Trần Bạch Đằng mà ra.
Cuối cùng, sau khi dư luận đã rõ Nguyện Thành Luân chính là Trần Bạch Đằng; tháng 12 năm 2012, báo Thanh Niên tại Sài Gòn đã đăng bài phỏng vấn ông Đặng Quốc Tuấn, cựu Giám đốc Đài phát thanh phát hình tỉnh Bến Tre.  Ông Tuấn cho biết ngày 26-10-1961 ông và ông Ngô Văn Thiều nhận được lệnh ám sát Phạm Ngọc Thảo bằng lựu đạn, hai ông đả thảy vào chỗ đứng của Phạm Ngọc Thảo 2 trái lựu đạn MK.2.  Nhưng xui xẻo là cả 2 trái đều không nổ.  Sau đó cả hai bị bắt và bị kết án mỗi người 20 năm tù.
Ông Tuấn khẳng định là thời đó Tỉnh ủy Bến Tre ( Bà Nguyễn Thị Định ) quyết định giết Thảo thật, vì thành tích thu phục nhân tâm của Thảo, chứ không phải là ám sát giả :
“…theo nhận định của Tỉnh ủy lúc đó thì khi phong trào Đồng khởi đang lên mà ông Thảo lại thả tù, người mới bắt thì đối xử tử tế, gom vào sân vận động giải thích rồi cho về hết, làm nhụt ý chí chiến đấu của quần chúng. Đó là tên tỉnh trưởng mỵ dân rất nguy hiểm, cần phải trừ khử”.
Nhân vật Nguyễn Thành Luân
Năm 1982 tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngữa của ông Trần Bạch Đằng được in thường kỳ trên báo Thanh Niên mà trong đó nhân vật chính là siêu điệp viên Nguyễn Thành Luân.  Mở đầu tiểu thuyết là chuyện Nguyễn Thành luân được ông Võ Văn Kiệt trình diện ông Lê Duẩn để làm nội gián trong dinh Độc Llập vào năm 1954(sic). Lúc đó Luân mới chỉ là một tiểu đoàn trưởng Việt Minh đang phải sống trốn tránh vì không tập kết ra Bắc, không có một điều kiện nào để có thể lọt được vào dinh Độc Lập.
Khi đoạn đầu của tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngữa mới được tung ra thì ông Đặng Thanh, cựu Bộ trưởng Công an thời Việt Minh, tác giả của truyện trinh thám “X.30 Phá Lưới”, cáo buộc ông Trần Bạch Đằng đã nhái nhân vật Nguyễn Thành Luân giống y như nhân vật siêu điệp viên X.30 của ông Đặng Thanh ( Nhân vật X.30 có thật, do ông Thanh gài vào cạnh Tổng thống Diệm vào năm 1954 ).  Ông Trần Bạch Đằng không lên tiếng trước cáo buộc của Đặng Thanh..
Đến năm 1985 tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngữa được quay thành phim, dư luận hùa theo Đặng Thanh công kích Trần Bạch Đằng.  Ông Đằng lên đài phát thanh cho biết nhân vật Nguyễn Thành Luân là kết hợp của 5 siêu điệp viên;  trong đó có X.30, Phạm Ngọc Thảo ( Đại tá VNCH, du học Hoa kỳ ), Vũ Ngọc Nhạ.  Ông không nói về 2 nhân vật còn lại, nhưng sau khi ông qua đời, CIA cho giải mật tài liệu thì lòi ra hai nhân vật còn lại là Phạm Xuân Ẩn và Trần Bạch Đằng.
Vậy thì trong 5 nhân vật tạo thành Nguyễn Thành Luân thì chỉ có X.30 là điệp viên CSVN;  còn Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn là điệp viên của HK;  Trần Bạch Đằng cọng tác với CIA; và Vũ Ngọc Nhạ chỉ là người môi giới tiếp xúc.
BÙI ANH TRINH

Anh hùng tình báo Phạm Ngọc Thảo: Chìm nổi một cuộc đời


Ngày 28/8, Tỉnh ủy Bến Tre tổ chức lễ công bố quyết định xếp hạng di tích quốc gia đối với nơi ở và hoạt động của đại tá tình báo Phạm Ngọc Thảo.
Ngôi nhà tọa lạc tại số 146 Hùng Vương, phường 3, TP.Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Đây là nơi ở và hoạt động của đại tá Phạm Ngọc Thảo từ năm 1960 đến 1962, với cương vị là Tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre).
Làm tỉnh trưởng, bị ám sát nhầm
Phạm Ngọc Thảo sinh ngày 14/2/1922, trong một gia đình trí thức giàu có ở Vĩnh Long, theo đạo Công giáo.
Sau khi đỗ tú tài ở Sài Gòn, ông ra Hà Nội học, tốt nghiệp bằng kỹ sư công chánh năm 1942 và về làm việc tại Sài Gòn từ năm 1943. Ông tham gia Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ngay từ những ngày đầu.
Năm 1946, ông được cử đi học Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn ở Sơn Tây. Sau khi tốt nghiệp khóa 1 ở trường này, ông lập tức trở về miền Nam chiến đấu và đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng của kháng chiến: Tiểu đoàn trưởng, Trung đoàn phó, Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ (chức vụ tương đương Trung đoàn trưởng).
Năm 1946 đồng chí Lê Duẩn được Trung ương cử vào Nam làm Bí thư Xứ ủy Nam bộ. Khi quân Pháp đổ bộ vào miền Nam, giữa sự vây ráp ráo riết của địch, chính Phạm Ngọc Thảo là người trực tiếp bảo vệ, đưa ông Lê Duẩn từ Phú Yên, nơi đóng trụ sở Ủy ban Hành chính kháng chiến miền Nam Việt Nam, về chiến trường Nam bộ để lãnh đạo kháng chiến.
Anh hung tinh bao Pham Ngoc Thao: Chim noi mot cuoc doi hinh anh 1
Ông Phạm Ngọc Thảo thời trẻ.
Hiệp định Genève được ký kết, Phạm Ngọc Thảo được đích thân Bí thư Xứ ủy Lê Duẩn chỉ định ở lại miền Nam, với nhiệm vụ chiến lược là thâm nhập vào hàng ngũ cấp cao của chính quyền Sài Gòn để “phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước”.
Nhờ trí thông minh và kiến thức uyên bác, Phạm Ngọc Thảo được trí thức Sài Gòn hoan nghênh và anh em Ngô Đình Diệm tin dùng. Chính Ngô Đình Diệm đích thân phong tặng Phạm Ngọc Thảo cấp bậc trung tá và cử làm Tỉnh trưởng Bến Tre, để trắc nghiệm chương trình Bình định.
Trước khi nhận nhiệm vụ mới, ông đề nghị trực tiếp với Ngô Đình Diệm 3 yêu cầu:
- Một là ổn định tình hình Bến Tre không phải bằng bạo lực mà là chính trị, vì ông không thể hành động như những quân nhân võ biền khác. Mục đích của ông là không phải đàn áp phong trào đấu tranh của Bến Tre đang lên cao độ.
- Hai, nếu bắt được Việt Cộng, có đủ bằng chứng, cho lập phiên tòa xét xử. Với yêu cầu này, Phạm Ngọc Thảo sẽ có cớ để trừng trị bọn đầu hàng, chỉ điểm.
- Ba, Tỉnh trưởng Bến Tre được đặc cách chỉ báo cáo với Tổng thống, không qua một ban, bộ nào. Như vậy, Phạm Ngọc Thảo sẽ tránh được những kẻ gièm pha, ton hót.
Ngô Đình Diệm đã chấp thuận cả 3 yêu cầu đó. Về làm Tỉnh trưởng Bến Tre một thời gian, ông đã ký quyết định thả 2.000 tù nhân chính trị đang bị giam giữ, trong đó có ông Võ Viết Thanh, sau này là Chủ tịch UBND TP HCM và lập tòa án trừng trị bọn phản bội, đầu hàng. Nhiều phản ứng của phía chính quyền và quân đội Sài Gòn đều được Phạm Ngọc Thảo bác bỏ, rằng Ngô Tổng thống đang thí nghiệm một luận thuyết mới: Luận thuyết thân dân, phải có thì giờ để kiểm nghiệm.
Có thể nói, chính sách không cho phép quân lính thuộc quyền đàn áp dân chúng của Phạm Ngọc Thảo đã góp phần cho các cuộc nổi dậy của quân và dân Bến Tre đạt được nhiều thắng lợi hơn.
Ông Đặng Quốc Tuấn (Tư Tuấn), sau này là Tỉnh ủy viên, Bí thư Tỉnh đoàn, rồi làm Giám đốc Đài phát thanh - truyền hình tỉnh Bến Tre cho đến khi về hưu, nhớ lại: Hôm đó là ngày Quốc khánh VNCH 26/10/1961, một cuộc mít-tinh lớn biểu dương lực lượng được tổ chức tại Quảng trường An Hội, ngay khu Vườn Hoa 3 con chim câu bây giờ.
Ông Hai Trung, Tỉnh ủy viên phụ trách Thị ủy, đã giao nhiệm vụ trực tiếp cho ông Thiều phá cuộc mít-tinh này với 5 trái lựu đạn, 3 trái nội hóa, 2 trái MK2 của Mỹ. Ông Thiều giao nhiệm vụ lại cho ông Tư Tuấn, lúc đó 17 tuổi, đang học đệ tam (lớp 10). Mỗi ông cầm 1 trái lựu đạn MK2, 3 trái kia để ở nhà ông Thiều.
Ông Thiều đứng tại vị trí ngay trụ sở Báo Đồng Khởi ngày nay, còn ông Tư Tuấn đứng cách 10m. Theo bàn bạc, ông Thiều ném lựu đạn trước, ông Tư Tuấn ném tiếp theo, xong chạy về tập kết tại nhà ông Thiều ở thị xã.
Ông Tư Tuấn kể: “Sau khi ông Thảo đọc diễn văn, lúc đó khoảng 8 giờ 30, tới phần diễu hành, tất cả quan khách đứng lên. Ông Thiều liệng 1 trái lựu đạn rơi cách ông Thảo 1 mét rưỡi, không thấy nổ. Tôi liệng tiếp 1 trái cách ông Thảo 5 mét rồi bỏ chạy, cũng không nổ luôn. Lúc đó bọn tôi bỏ chạy không để ý, sau giải phóng chị Nhiệm vợ ông Thảo về Bến Tre gặp chúng tôi có nói lại mới biết, lúc đó ông Thảo chụp trái lựu đạn đang xì khói, lúng túng không biết xử lý làm sao. Nếu liệng ra bên ngoài thì chết dân, liệng bên phải bên trái thì chết dàn thiếu nhi nhà thờ. Đang không biết làm sao thì thấy khói dần dần mỏng ra, ổng biết lựu đạn lép, nên nắm chặt luôn.
Tôi chưa biết ông Thiều bị bắt tại chỗ, nên chạy về nhà ông Thiều định lấy tiếp 3 trái còn lại. Rủi cho tôi, tại nhà ông Thiều đã có mật báo dẫn người lên ém. Tôi đến bọn chúng giữ lại, chưa bắt ngay. Chúng vô nhà xét, lấy 3 trái lựu đạn và chiếc cặp da đi học tôi để ở nhà ông Thiều. Vì cái cặp da có giấu cây súng trước đây tôi để trong cặp, nên tôi bị bắt, bị đánh tại chỗ.
Anh hung tinh bao Pham Ngoc Thao: Chim noi mot cuoc doi hinh anh 2
Đại tá tỉnh trưởng Phạm Ngọc Thảo  tiếp xúc với người dân ở Bến Tre.
Một tuần sau khi hai ông bị bắt, ông Thảo có đến gặp ông Tuấn và ông Thiều. Lần đó, một cố vấn Mỹ thẩm vấn, ông Thảo làm phiên dịch. Hỏi: “Tại sao là học sinh mà đi ám sát Tỉnh trưởng ngay tại ngày Quốc khánh? Có phải Cộng sản giao việc không? Ai là người giao việc?”. Trả lời: “Do chính quyền độc ác, đàn áp ức hiếp giết hại dân. Chúng tôi học tập gương của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học đứng lên đấu tranh, không liên quan gì tới Cộng sản, không có ai giao việc cả”.
Ông Thảo dịch như thế nào ông Tư Tuấn không biết, ông Thảo chỉ nói với hai ông: “Các em còn nhỏ, phải lo chuyện học hành, chính trị là chuyện của người lớn, sau này lớn lên muốn làm gì thì làm”. Lần thứ hai, ông Thảo đến hỏi thăm trước khi cả hai bị đưa về Chí Hòa.
Hai ông bị kết án mỗi người 20 năm tù, sau đó đưa ra Côn Đảo. Ông Thiều được trao trả năm 1973, thoát ly lên chiến khu, sau giải phóng làm cán bộ Ban Tổ chức Thành ủy TPHCM, qua đời năm 1984 vì bệnh. Còn ông Tư Tuấn đến ngày giải phóng mới về.
Vang dội các cuộc đảo chính
Cuối năm 1963, cao trào chống đối Ngô Đình Diệm dâng cao, nhưng các tướng, tá còn nghi ngờ lẫn nhau nên chưa đứng vào một nhóm để hợp lực hành động. Tháng 9/1963, Trần Kim Tuyến - trùm mật vụ và Phạm Ngọc Thảo bí mật làm cuộc đảo chính. Do bị lộ, Tổng thống Diệm đã cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng Lãnh sự ở Ai Cập.
Ngày 1/11/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ do một nhóm tướng lĩnh khác. Chính làn sóng của Đài Phát thanh Sài Gòn, do trung tá Phạm Ngọc Thảo điều động, đã góp phần lớn vào việc tác động tinh thần quân đội và quần chúng ngoài phạm vi Sài Gòn trong cuộc đảo chính. Nên sau khi đảo chính, ông được nhóm sĩ quan cầm đầu thăng quân hàm đại tá.
Sau đó ông được tướng Nguyễn Khánh mời làm phát ngôn viên báo chí trong “Hội đồng quân nhân Cách mạng”. Khi Trần Thiện Khiêm được bổ nhiệm làm Đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ, ông được cử làm tùy viên báo chí và quân sự của Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa tại đây.
Đầu năm 1965, ông bị gọi về nước, vì chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ phát hiện ông hoạt động cho đối phương. Biết bị lộ, ông tìm cách trốn tránh và móc nối với các lực lượng đối lập khác như tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát để lật đổ chế độ.
Một kế hoạch chi tiết được vạch ra cho cuộc đảo chính với tên là Chiến dịch Nguyễn Huệ như sau: đại tá Phạm Ngọc Thảo chiếm 2 mục tiêu chính: Tư dinh của Nguyễn Khánh ở bến Bạch Đằng và Đài Phát thanh Sài Gòn với các lực lượng thiết giáp; thiếu tướng Lâm Văn Phát sẽ chiếm sân bay Biên Hòa với thiết giáp và bộ binh tại Thủ Đức; đại tá Bùi Dzinh chiếm Bộ tư lệnh biệt khu Thủ đô tại trại Lê Văn Duyệt với lực lượng bộ binh trung đoàn 46...
Cuộc đảo chính nổ ra trưa 19/2/1965 ở Sài Gòn chỉ làm chủ Đài Phát thanh trong một thời gian ngắn, nhưng mục tiêu quan trọng hàng đầu là bắt sống Nguyễn Khánh đã không thực hiện được. Trong tờ Việt Tiến (in ronéo, phát bí mật) với bút hiệu Lê Minh, đại tá Phạm Ngọc Thảo đã viết: “Chúng tôi vì không muốn đổ máu mà hơn nữa ngay từ phút đầu đã thấy có sự chia rẽ và tranh giành nhau, nên tôi đã cho lệnh chấm dứt cuộc chính biến vào lúc 20h ngày 19/2 và coi như 20 giờ làm chủ thủ đô đã chấm dứt”.
Không đầy ba tháng sau đó, đại tá Phạm Ngọc Thảo bị An ninh quân đội Sài Gòn truy bắt tại Tam Hiệp, Biên Hòa khi ông đã bị thương và bị sát hại dã man vào ngày 17/7/1965. Đã 50 năm, đại tá tình báo Anh hùng Phạm Ngọc Thảo anh dũng ngã xuống cho tự do, độc lập của Tổ quốc.
Những năm 1988, 1989 bà Phạm Thị Nhiệm, phu nhân ông Thảo định cư ở Mỹ, có về thăm tỉnh Bến Tre và An Giang. Ông Dương Văn Ẩn (Mười Ẩn) - nguyên Chủ tịch HĐND tỉnh (cùng chung Tiểu đoàn 410 lừng danh của Phạm Ngọc Thảo những năm 1948 - 1949, lúc hoạt động ở Đồng Tháp Mười) đã đưa bà Nhiệm đi thăm Dinh Tỉnh trưởng, nơi ông làm việc ngày trước và một số người thân quen. Bà hỏi chú em chọi lựu đạn ám sát ông Thảo ngày đó bây giờ ra sao?
Ông Mười Ẩn liền cho gọi Tư Tuấn (Đặng Quốc Tuấn) lại Dinh Tỉnh trưởng gặp bà. Bà Nhiệm thăm hỏi Tư Tuấn trong niềm vui vô hạn, rồi bảo anh gửi cho bà tấm ảnh khi còn là học sinh Kiến Hòa, để về treo bên cạnh ảnh ông Thảo làm kỷ niệm. Bà kể: “Hồi đó, ông Thảo vẫn thường nhắc chúng mầy”...
Đại tá Phạm Ngọc Thảo được truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang và được đặt tên cho một con đường tại TP HCM.
http://congan.com.vn/tin-chinh/anh-hung-tinh-bao-pham-ngoc-thao-chim-noi-mot-cuoc-doi_6665.html
Theo Huỳnh Thanh Văn/Công an TP HCM
(An ninh Quốc phòng) - Phạm Ngọc Thảo – Oanh liệt trong thầm lặng
“Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng”
“Trong lịch sử tình báo ta, câu chuyện ly kỳ như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo Việt Nam” (Lời tướng Nguyễn Đức Trí (Sáu Trí), nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo Miền)
Tấm hình đăng kèm theo đây do nhà báo Chin Kah Chong của hãng tin Pan-Asia Newspaper Alliance (PANA News) của Nhật Bản chụp Phạm Ngọc Thảo mang lon đại tá quân đội Sài Gòn lúc chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh. Ông Chin đã gửi tặng tấm hình cho chúng tôi trong dịp sang lại Việt Nam cách đây không lâu. Ông bảo ông đã hai lần gặp Phạm Ngọc Thảo, ông kể lại không khí của cuộc đảo chính mà ông trực tiếp chứng kiến hồi đó, nhưng ông không lý giải được về hoạt động của vị đại tá này dù ông rất ngưỡng mộ.
Cho đến nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn còn là một bí ẩn khó có thể giải mã. Không phải vì xung quanh ông vẫn còn những bí mật quân sự, cũng không phải xung quanh ông có những điều “nhạy cảm” khó nói. Khó giải mã là do tầng tầng lớp lớp những biến cố lịch sử, những quan hệ, sự thiên biến vạn hóa của chiến lược, chiến thuật, kỹ thuật, nghệ thuật chiến tranh tồn tại trên chiến trường, trên chính trường và trong cuộc sống nhưng nằm ngoài sách vở và các bản tổng kết.

Đại tá quân đội Sài Gòn Phạm Ngọc Thảo chỉ huy cuộc đảo chính ngày 19.2.1965 lật đổ chính quyền Nguyễn Khánh - Ảnh: Chin Kah Chong
Sau khi bộ phim nổi tiếng Ván bài lật ngửa bắt đầu công chiếu từ năm 1982, khi biết nhân vật Nguyễn Thành Luân được nhà văn Trần Bạch Đằng xây dựng dựa trên nguyên mẫu là Phạm Ngọc Thảo, những giai thoại về Phạm Ngọc Thảo dần dần lưu truyền rộng rãi trong dân chúng. Nhà văn – nhà cách mạng Trần Bạch Đằng từng là Bí thư Đặc khu ủy Sài Gòn – Gia Định trong kháng chiến chống Mỹ, là một trong số rất ít người biết rất rõ Phạm Ngọc Thảo, nhưng Ván bài lật ngửa vốn là một cuốn tiểu thuyết được dựng thành phim, tất nhiên Nguyễn Thành Luân dù mang dáng dấp Phạm Ngọc Thảo nhưng vẫn là một nhân vật hư cấu. Lúc ấy ngôi mộ của Phạm Ngọc Thảo vẫn chỉ là một nấm mồ vô danh.
Mãi đến ngày 30.8.1995, đại tá QĐND Việt Nam, liệt sĩ Phạm Ngọc Thảo mới được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Lý do của sự chậm trễ này chưa bao giờ được công bố chính thức.
Sau năm 1987, báo chí trong nước có viết một số bài về Phạm Ngọc Thảo, nội dung còn sơ lược, chủ yếu dựa vào lý lịch và bản thành tích được công bố. Trong khi ở nước ngoài, nhiều người từng ở “phía bên kia” quen biết Phạm Ngọc Thảo cũng viết về ông, bên cạnh việc thuật lại các góc độ khác nhau những sự kiện mà họ chứng kiến là những phỏng đoán, nhất là sự phỏng đoán xung quanh 2 vấn đề mà họ không giải thích được: Vì sao mãi tới 12 năm sau ngày hòa bình Nhà nước Việt Nam mới chính thức công nhận Phạm Ngọc Thảo là “người của mình”? Nếu Phạm Ngọc Thảo là tình báo “Việt cộng” thì khi cuộc đảo chính tháng 2.1965 thất bại, ông hoàn toàn có thể chạy ra căn cứ một cách an toàn, nhưng vì sao ông không đi mà ở lại tại một xứ đạo để cuối cùng phải chết một cách bi thảm?
Không thể đem những lý lẽ thông thường để luận giải cuộc đời bi tráng của người anh hùng phi thường này. Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn giết, bên trái thì ta cũng muốn giết. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng. Địch coi ông là tên “Việt cộng” nằm vùng nguy hiểm, ông không ngại, thậm chí còn viết báo công khai ca ngợi tinh thần vì dân vì nước của Quân đội nhân dân Việt Nam trong chống Pháp. Ngại nhất là ta, bởi vì ngay tại Sở Chỉ huy của kháng chiến cũng chỉ vài người được biết ông là người của ta, nên khi ông thả hàng ngàn tù chính trị, cơ quan chỉ huy kháng chiến cấp dưới lập tức kết luận ông là tên tỉnh trưởng mị dân nguy hiểm nhất cần phải trừ khử. Ông đã nhiều lần thoát chết, không phải do sự nương tay của ta, mà do may mắn.

Phạm Ngọc Thảo, Ông là ai ?
Sinh thời cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt bao giờ cũng rơm rớm nước mắt mỗi khi nhắc đến Phạm Ngọc Thảo. Ông bảo Phạm Ngọc Thảo do đích thân ông Lê Duẩn giao nhiệm vụ ở lại miền Nam làm tình báo chiến lược, không phải để cung cấp tin tức, mà đi sâu vào hàng ngũ cao cấp của chính quyền Sài Gòn nhằm xoay chuyển thời cuộc, chuẩn bị cho sự nghiệp thống nhất đất nước. Đối với ông Võ Văn Kiệt, Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo kiệt xuất, là người anh hùng hội đủ nhân, trí, dũng. Ông vẫn tiếc là không cứu được Phạm Ngọc Thảo mặc dù ông đã làm hết cách.
Còn ông Mười Hương thì vừa nói đến Phạm Ngọc Thảo đã khóc như một đứa trẻ. Lần đầu gặp ông, khi chúng tôi hỏi vì sao Phạm Ngọc Thảo được công nhận liệt sĩ và phong anh hùng chậm như vậy, ông nức nở: “Phong anh hùng 10 lần cho Phạm Ngọc Thảo cũng xứng đáng, nhưng chưa thể được, vì vợ con Thảo đang ở Mỹ. Khi chiếu phim Ván bài lật ngửa, tôi gọi cho ông Trần Độ (lúc ấy làm Trưởng ban Văn hóa Văn nghệ T.Ư – TN) bảo hãy cấm cái phim đó đi, đừng làm hại vợ con Phạm Ngọc Thảo”. Ông Phạm Xuân Ẩn từng nói với chúng tôi rằng, sau khi Phạm Ngọc Thảo bị giết chết, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã đề nghị chính quyền Mỹ trục xuất vợ con ông Thảo, lúc đó ở Mỹ có một cuộc vận động bảo vệ vợ con ông Thảo, ngay cả những nhà báo Mỹ chống cộng cũng phản đối sự trục xuất này, vì vậy mà vợ con ông Thảo vẫn bình an vô sự cho đến bây giờ.
Sự lo xa của ông Mười Hương là tình nghĩa rất đáng trân trọng. Giọt nước mắt của ông đủ để giải thích lý do vì sao Phạm Ngọc Thảo chậm được thừa nhận một cách công khai. Quốc gia đại sự không bao giờ bỏ sót cái tình, và suy cho cùng cũng vì cái tình mà có quốc gia đại sự.
Trước khi viết loạt bài này, ngoài việc nghiên cứu những tài liệu ghi chép từ các nhà tình báo lão thành hoạt động trong mạng lưới tình báo Miền, chúng tôi đã có dịp tiếp xúc với ông Mười Hương (Trần Quốc Hương), nguyên Bí thư T.Ư Đảng, người trực tiếp tổ chức hoạt động cho những nhà tình báo lừng danh Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ… sau Hiệp định Genève, trao đổi với cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, với ông Sáu Trí, ông Mười Nho (người phụ trách công tác tình báo đặc khu Sài Gòn – Gia Định đầu những năm 1960), chúng tôi còn gặp 1 trong 2 nhân vật được Tỉnh ủy Bến Tre giao nhiệm vụ ám sát Phạm Ngọc Thảo. Chúng tôi cũng đã có dịp nói chuyện với cựu Phó tổng thống chính quyền Sài Gòn cũ Nguyễn Cao Kỳ, người lên chức Chủ tịch Ủy ban Hành pháp T.Ư (Thủ tướng) ngay sau khi cuộc đảo chính năm 1965 thất bại. Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo nhiều tài liệu liên quan đến ông Thảo trên báo chí Sài Gòn trước năm 1975.
(còn tiếp)
HHV (TN)

Phạm Ngọc Thảo, Ông là ai ?


Tôi quen Phạm Ngọc Thảo từ năm 1939. Lúc ấy tôi mới nhập học Quốc Học Khải Định sau khi đậu bằng Thành Chung ở Thanh Hóa. Lớp có cả thẩy 40 học sinh, 33 Nam và 7 nữ gồm đủ thành phần đến từ nhiều nơi nhưng đều là người Trung chỉ trừ có Nguyễn Khắc Hoạch là cháu họa sỹ Mai Trung Thứ dậy vẽ ở đây và anh chàng cù-không-cười Nguyễn Khải Tạo, có nét mặt tưng tửng mỗi khi lên bảng làm cả lớp khúc khích, là dân Bắc Kỳ rau muống. (Tiến Sỹ Văn Chương Nguyễn Khắc Hoạch là Khoa Trưởng Văn Khoa Sài Gòn. Sau này ông trở thành Viện Trưởng Viện Việt Học thay thế Giáo Sư Nguyễn Đình Hòa).
Được ba ngày sau Censeur Giamachi dẫn vào lớp một học sinh mới trông hơi khác lạ, có cái tên Tây Albert Phạm Ngọc Thuần, nước da mai mái đậm đà và có cái mắt trái lác xệch. Anh là người độc nhất Nam Kỳ, mặc quần short đến đầu gối để lộ cặp giò khẳng khiu. Anh được xếp ngồi cạnh tôi, ăn nói nhỏ nhẹ vói một giọng miền Nam trầm bổng và hay chêm tiếng Tây vào câu chuyện. Trong nội trú anh cũng nằm giường cạnh tôi, luôn luôn tĩnh lặng củ mỉ cù mì giữa một đám ồn ào nhất quỷ nhì ma. Những ngày cuối tuần anh thường rủ tôi đi thăm Hồ Tĩnh Tâm ngồi trầm ngâm ngắm sen thơm ngát và nói toàn chuyện cách mạng Pháp. Anh ta rất ghét cái dữ tợn của Robespierre và Marat và yêu tư tưởng xã hội Rousseau và Voltaire. Anh cũng bàn về cái quá khích và vô nhân bản của Marx-Lenin với chủ trương bạo lực quá độ và duy trì chính quyền bằng bạo lực.
Cuối năm học không thấy Albert trở lại, nghe nói đã được gia đình gửi qua Pháp du học. Mãi đến tháng Mười 1945 tôi mới tình cờ gặp lại anh mà lại ở Hà Nội? Hôm ấy khoảng 10 giờ tối, đã có sương mù giầy đặc và khí hậu bắt đầu xe lạnh, tôi đang đứng trước thềm nhà A thì Albert hiện ra như trong phim trinh thám. Tôi không nhận ra vì anh mặc bộ bà-ba đen, cổ quấn chiếc khăn rằn ri mầu hồng thẫm của dân miệt vườn Nam Kỳ. Đầu anh đội chiếc mũ vải mềm mầu nâu mà vành uốn lượn lên cụp xuống, chân anh đi đôi dép quai chéo, đế bằng vỏ lốp xe hơi. Anh hấp tấp bắt tay tôi và nói thẳng một lèo, “Moi mới ra vội vã lắm để dự khoá họp Quốc Hội đầu tiên trong phái đoàn Nam Bộ; đêm nay người ta xếp cho cả bọn ở đây và mai phải đi rất sớm”! Là một thanh niên chỉ biết yêu nước và ghét ngoại bang đô hộ, tôi chả có chú ý gì đến chính trị và những khúc mắc về cơ cấu chính quyền nên tôi đã không níu kéo anh vài phút để ít nhất biết phái đoàn có những ai và làm công việc gì? Như vậy cuộc gặp gỡ sau sáu năm chỉ có không đầy năm phút mà thôi.
Rồi thời gian qua với trận Điện Biên Phủ đánh dấu sự chia cắt đất nước Bắc Nam. Tôi vào làm việc tại Sài Gòn rồi nhập ngũ qua học ở trường Không Quân Pháp Salon de Provence. Khi trở về thì miền Nam đã có chính thể Cộng Hoà của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong khi trái lại Bắc Kỳ đã thành Cộng Hòa Nhân Dân Mác Xít. Vào khoảng 1955 nghe nói đến một cán bộ hồi chánh tên là Phạm Ngọc Thảo về làm việc tại Viện Hối Đoái. Về sau y được Bộ Nội Vụ cho đeo lon Đại Úy và giao làm với Bảo An Tỉnh Đoàn Vĩnh Long. Rồi được bổ Tỉnh Trưởng Bến Tre. Bến Tre mà tên cũ là Thủ Đầu Một là một tỉnh trù phú và Việt Minh dùng làm nơi dưỡng quân. Tỉnh Trưởng mới hết sức năng động, hay đứng giữa công chúng diễn giảng và lập lại hoàn toàn an ninh địa phương. Một thời gian sau tỉnh trưởng được thay thế vì đã hoàn tất nhiệm vụ.
Năm 1960 sau vu đảo chính nhẩy dù với Vương Văn Đông, Nguyễn Triệu Hồng đã lắng thì một hôm tôi đang ngồi ngáp ruồi ở Bộ Tư Lệnh Không Quân bỗng nhiên điện thoại reo. Uể oải nhấc máy lên thì đầu giây bên kia một giọng Nam chay nói, “Tôi là Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, tôi muốn gặp Đại Úy Trần Đỗ Cung”. Tôi vội trả lời, “Vâng thưa tôi đây nhưng Trung Tá cần gì và Trung Tá là ai”? Thì được trả lời ngay, “Albert Phạm Ngọc Thuần bạn học anh ở Lycée Khải Định đây, còn nhớ không”? “Nhớ chứ, nhưng anh đổi tên từ hồi nào và tôi nghe nói anh làm Tỉnh Trưởng Bến Tre kia mà”? Thảo nói, “Xong việc rồi, giờ moi ngồi tại văn phòng cố vấn chánh trị trên đường Hồng Thập Tự, xế cửa Cercle Sportif. Có rảnh thì ghé lại chơi, chúng mình sẽ nói nhiều kỷ niệm thời 1-S năm xưa Cung nhé”!
Một hôm nhân đi tập với Maitre Vatin tôi ghé lại. Cũng hơi khớp vì nghĩ là mình sẽ vào hang hùm đây. Tôi dựa chiếc Velo Solex vào giá và một lính gác mặt lạnh như tiền bước đến. Sau khi xem giấy tờ hắn khám người tôi cẩn thận và hướng dẫn tôi đến bàn giấy Trung Tá Thảo. Tôi thấy anh không khác xưa mấy, cũng nước da mai mái, cũng cái mắt lác xệch, cũng dáng người mảnh khảnh, có chăng là bây giờ anh không mặc quần short nữa mà đóng bộ quân phục gọn gàng với hai đôi hoa mai bạc. Thảo bắt tay chặt chẽ và mời tôi ngồi, sai lính đem cho tôi một ly soda. Chúng tôi chuyện trò cả nửa giờ, hết các thầy rồi qua các chị, cảm động với bao nhiêu kỷ niệm hồi tuổi trẻ trong trắng hồn nhiên. Tôi đứng dậy đi qua Cercle Sportif cho kịp lớp thể dục tập thể. Thảo tiễn tôi ra đến cửa và nói bâng quơ, “không biết còn bao nhiêu bạn cũ ở Sài Gòn, nếu gặp nhau một bữa thì chắc vui lắm nhỉ”! Tôi chỉ gật gù qua loa đồng ý.
Trong lúc tập thể dục và nhất là khi đi tắm tôi nghĩ đi nghĩ lại lời nói bâng quơ của bạn và chợt nghĩ đến bạn Phạm Qụy, một Luật Sư nổi tiếng, có tư gia sang trọng ở số 132 Dường Công Lý. Có thể nếu anh ta nhận lời đứng tổ chức một bữa ăn tối thì hay quá. Sáng hôm sau tôi điện thoại cho Qụy và Qụy hết sức hoan nghênh ý kiến. Được vài hôm anh ấy liên lạc được vài bạn cũ và mời đến dùng cơm tối. Tối hôm ấy có độ mười người như Hải Quân Trung Tá Võ Sum, chị Ngọc Trâm tức ca sỹ Minh Trang, Phó Tổng Giám Đốc Điện Lực Tôn Thất Uẩn, Phó Tổng Giám Đốc Quan Thuế Đoàn Hòa, Trần Ngọc Nhụy em Tổng Giám Đốc Nông Tín Cuộc Trần Ngọc Liên, Hồ Tường, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo, tôi Đại Úy Không Quân và anh chị Phạm Quỵ.
Bữa cơm đặc Huế ngon miệng do bàn tay khéo léo của bà chủ nhà kéo dài mấy tiếng đồng hồ, ai nấy tranh nhau kể lại các chuyện vui thời học trò vô tư và vô sự. Nào là nét cá biệt của mỗi thầy, những đặc tính của một vài bạn. Trên lầu nội trú, Trần Kế Tạo anh ruột chị Qụy lẻn vào phòng thầy Quốc đổ đầy nước ướt sũng rương quần áo của giám thị. Sự ẩu đả giữa Tôn Thất Uẩn và Hoàng Tuệ lăn cù xéo nát mấy luống rau cải vì “hai con gà cồ” tức nhau tiếng gáy Ngọc Trâm. Đến đây thì chị Trâm trố mắt nói tôi không biết chuyện ấy và Tôn Thất Uẩn đỏ mặt bảo đâu có. Chuyển qua chuyện chị Trâm lấy thầy Quả và được đích người đẹp nói là tuổi trẻ quá bồng bột mà Thầy Quả thật có duyên. Những tiếng cười vang với những tràng vỗ tay bôm bốp kéo dài cho đến mười một giờ đêm thì chia tay, tiếc một đêm họp mặt mau tàn.
Sau khi hai phi công Quốc và Cử dội bom dinh Độc Lập vị Tư Lệnh đương nhiệm dẫn toàn thể sỹ quan tham mưu lên trình diện Tổng Thống tại Dinh Gia Long để nghe ông Ngô Đình Diệm đơn ca hiểu thị với giọng Huế đặc xệt mà không nhìn thẳng vào mặt cử tọa đứng cứng ngắc. Về đến Tân Sơn Nhất thì Tư Lệnh “mặt đỏ xần mũ đội lệch” cho gọi tôi vào hất hàm nói, “Đại Tá Đỗ Mậu gọi, anh đi trình diện lập tức”! Lên an ninh quân đội có nghĩa là nhìn thấy cơ nguy tra khảo đánh đập nên tôi hết sức rét. Nhưng không ngờ tôi lại được vị Đại Tá “mặt sắt đen xì” tiếp một cách rất thân tình và thông báo sẽ ký giấy thuận cho lên Thiếu Tá. Trở về bàn giấy ngáp ruồi văt để được Tư Lệnh dằn mặt, “Anh tưởng anh được ông Đỗ Mậu che chở mà xong hả?” thì điện thoại lại reo vang. Đầu giây bên kia Phạm Ngọc Thảo nói “moi đang theo học Anh Ngữ bên này để sửa soạn đi học tham mưu Fort Leavenworth; Cung có rảnh thì sang đây ăn cơm trưa và mình sẽ ghé qua đón”?
Đúng 12 giờ trưa Thảo lái xe Jeep qua và tôi theo anh ta qua Tổng Tham Mưu, định tâm sẽ cùng anh ghé ăn trưa tại Câu Lạc Bộ Sỹ Quan. Nhưng Thảo quẹo trái ngay khi qua cổng, đậu xe trước giẫy nhà hai từng của các Tướng. Tôi đi theo anh lên lầu, quẹo phải đến căn áp chót của Đại Tá Đỗ Mậu , kế cận căn của Trần Thiện Khiêm và anh thản nhiên mở cửa cho tôi cùng vào. Tôi gặp một Trung Tá lục quân lạ mặt thì được Thảo giới thiệu là Trung Tá Phạm Đăng Tấn, phụ tá của Đại Tá Đỗ Mậu. Trung Tá Tấn mở tủ lạnh đem ra bàn ăn các đồ nguội jambon-saucisse, bánh mì và xếp đặt bàn cho ba người cùng ngồi ăn. Thảo mở đầu ngay, nói về tình hình chính trị rối ren nguy hiểm và cần thay đổi để cứu vãn vì ta đang đương đầu với bọn cộng sản mưu mô và xảo quyền với tổ chức Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam của chúng.
Một cuộc đảo chính đang được hình thành hầu xoay lại tình thế trước đe dọa gia tăng của cộng sản. Đại Tá Đỗ Mậu cũng như ông bên cạnh Trần Thiện Khiêm đã đồng ý và đã có nhiều đơn vị cùng các Tướng Lãnh sẵn sàng tham gia. Tôi ngồi nghe chăm chú, suy nghĩ cho bản thân đang bị trù dập bởi cánh Cần Lao. Bỗng Thảo nhìn thẳng mặt tôi hỏi, “Cung, toi phải nắm lấy Không Quân. Chỉ cần toi cho vài chiếc máy bay lên bay vè vè và đưa ra một số ít binh sỹ đứng các ngả đường huy trương thanh thế, không cần biết bắn cũng được. Đã có kế hoạch đối với Hải Quân, có thêm Không Quân thì hoàn toàn”.
Tôi nói ngay, theo tập quán trong quân chủng người chỉ huy cần phải là phi hành mà tôi chỉ là dân kỹ thuật bò sát nên không làm được. Tấn hỏi ngay, “anh có thể đề nghị một tên không”? Tấn nắm vững tình hình các sỹ quan nên đã cùng tôi duyệt đủ tên chỉ huy trong Không Quân. Nhìn đi nhìn lại, nào Võ Dinh, nào Nguyễn Ngọc Oánh, Võ Xuân Lành rồi Nguyễn Huy Ánh, Võ Công Thống, thấy chẳng ai có thể thích hợp nên tôi nẩy ý kiến đề nghị Nguyễn Cao Kỳ đang bị thất sủng mất chức chỉ huy Liên Phi Đoàn Vận Tải và có lệnh đổi ra Nha Trang làm huấn luyện viên bay. Tấn nói hay lắm và anh có thể móc nối Kỳ được không?
Tôi nói ngay sẽ cố gắng tuy nhiên sự giao hảo giửa tôi với Kỳ không tốt đẹp lắm. Tôi kể lại hồi làm với Trần Văn Hổ tôi hay mò sang đơn vị của Kỳ mỗi buổi trưa, leo lên phi cơ và rút túi chiếc mouchoir trắng tinh ra tuốt các giây cable điều khiển đuôi và bánh lái. Khi tôi thấy hầu hết các cables có các sợi nhỏ bị tưa đứt vướng các sợi chỉ trắng nên tôi đề nghị ông Hổ cho ngưng bay tất cả các C-47 chờ thay cables mới. Trong buổi họp trên bộ Tư Lệnh Kỳ nổi sùng chỉ mặt tôi nói, “kể từ nay tôi không muốn ông Đại Úy Cung leo lên phi cơ của tôi mà không có phép của tôi”. Trung Tá Hổ liền ôn tồn nói, “Ông Đại Úy Cung làm là thay mặt cho tôi”. Và Kỳ im bặt rồi từ đó chúng tôi rất lạnh nhạt với nhau. Cả Tấn và Thảo đều đồng thanh nói, “chuyện vặt mà, anh Cung cứ cố gắng”! Tôi thêm “Kỳ là một thứ Don Quichote, hùng hổ nhưng trí đoản và liều mạng. Và anh ta đang bất mãn lắm”!
Về đến nhà tôi mở tủ lấy ra một chai Johnny Walker Black Label trong số rượu quý mà học trò ngoại quốc biếu tôi và bỏ vào túi giấy. Sáng hôm sau tôi qua bàn giấy Kỳ thì thấy anh ta đang lúi húi dọn dẹp các ngăn kéo ý chừng để bàn giao cho chỉ huy trưởng mới. Tôi để túi đựng chai rượu lên bàn và nói, “Tôi có nhiều rượu quý học trò ngoại quốc biếu mà không biết uống; nay thấy anh sắp đổi nhiệm sở tôi đem sang làm quà để anh thưởng thức”. Kỳ rút chai rượu ra ngắm nghía, xiết chặt tay tôi và cám ơn.
Trưa tôi về nhà vừa sửa soạn ngồi vào bàn ăn thì xe Jeep Kỳ xịch tới. Anh ta chậm rãi bước lên thềm và ngồi vào sofa. Tôi chạy đến ngồi cạnh thì Kỳ nói, “Moa cám ơn toa cho moa chai rượu ngon. Nhưng moa thắc mắc mãi, phải đến hỏi toa có cái gì đằng sau vậy”?
Kể ra thì cũng tinh khôn thật. Tôi liền nói chuyện này rất nguy hiểm
anh phải giữ kín như bưng. Kỳ gật gù và tôi kể buổi họp với Tấn và Thảo trong căn nhà của Đỗ Mậu. “Nếu anh đồng ý thì họ sẽ liên lạc phối hợp thẳng với anh. Nhưng phải hết sức kín nếu không cả anh và tôi sẽ toi mạng”! Kỳ không nói đi nói lại, chỉ xiết tay tôi thật chặt và thêm vắn tắt, “OK”!
Tôi thông báo cho Tấn và Thảo thì họ mừng lắm và Thảo bảo tôi liên lạc thường xuyên với anh tại tư gia số 51 Đường Tự Đức, căn dặn nên cẩn thận, dùng Taxi trả tiền trước đề phòng con mắt của Mật Vụ. Một lần tôi đến nhà Thảo trong một biệt thự công có lính gác. Hôm ấy vào khoảng đầu tháng Mười 1962 tôi ngồi với Thảo ở chiếc bàn gỗ dưới dàn cây leo. Thảo cho tôi biết qua loa kế hoạch, khi nổ súng thì hai chúng tôi đều mỗi người ngồi trên một xe thiết giáp của Dương Hiếu Nghĩa tiến về dinh Gia Long. Vậy tôi phải liên lạc mật thiết với Thảo để biết ngày N, giờ G và địa điểm thiết giáp. Lúc đầu dự trù vào ngày 26 tháng Mười nhưng vì kế hoạch Bravo và Anti Bravo của ông Nhu nên phải hủy bỏ.
Một hai lần khác đến tôi mới biết là Thảo đã cho vợ con qua Mỹ trước và tôi được gặp một hai cấp chỉ huy quan trọng mà tôi không nhớ tên, ăn mặc thường phục. Lần cuối cùng tôi đến nhà Thảo là sáng ngày 29 tháng Mười. Tôi mới mua một chiếc xe Morris 1100 mới toanh, đậu bãi trước Sở Thú và trả tiền bao thuê taxi đến 51 Tự Đức. Khi Taxi vừa đậu trước cổng và tôi nhận chuông thì anh lính gác mở hé lỗ vuông cổng sắt rồi nói vắn tắt “có mật vụ”. Liếc mắt qua bên kia đường thì thấy hai nhân viên nhà đèn mặc áo liền quần xanh đang lúi húi ghi chép. Tôi nhẩy phắt lên taxi về Sở Thú. Khi đi ngang một nhà có bảng SỞ XÃ HỘI PHỦ TỔNG THỐNG thì thấy bóng một xe Jeep phóng ra. Tôi vội vã lái xe mình trực chỉ Tân Sơn Nhất, vượt qua cả đèn đỏ nhưng qua kính chiếu hậu không thấy xe đuổi theo. Về đến nhà tôi lo lắng nghĩ rằng chỉ nội đêm nay hay mai chúng sẽ đến tìm mình và không dám ra khỏi cổng Phi Long, vợ con chẳng biết mô tê gì hết!
Bởi vậy khi nổ súng tôi đã không có mặt trên xe thiết giáp chỉ định mà tôi ngồi ở bàn giấy thường lệ, hai chân gác lên mặt bàn thoải mái, với một cái radio nhỏ vặn vừa nghe. Mấy sỹ quan Không Quân có lẽ cho rằng tôi là người biết chuyện, luôn ghé lại hỏi thăm tình hình. Độ bốn giờ sáng thì Nguyễn Cao Kỳ ghé qua với bốn năm thủ túc súng ống đầy mình. Họ đều mặc quần áo bay xám, riêng Kỳ trưng một bộ màu cam của Hải Quân Mỹ. Kỳ nói với tôi bằng một dọng khẩn cấp, “Cung, toa ở đây lo Không Quân để moa đi bắt thằng Hiền rồi thằng Sang”. Huỳnh Hữu Hiền mới được bổ nhiệm thay Nguyễn Xuân Vinh đi Mỹ còn Phạm Ngọc Sang thì luôn luôn lái máy bay cho Tổng Thống. Cả hai đều là người Nam, tính tình hiền lành vô sự. Tôi tự nghĩ mình lo Không Quân thế quái nào được, chẳng có đàn em thân tín nào mà cũng chưa bao giờ đụng đến súng.
Hơn nữa tên Tham Mưu Trưởng Đỗ Khắc Mai, Cần Lao Gộc sờ sờ ra đấy mà Kỳ đã vô tâm không cô lập. Bởi vậy trong lúc nhốn nháo Mai điện thoại cho các Tướng phúc trình, “Thưa Không Quân yên tĩnh, em chu toàn mọi viêc ở đây”. Do đó các Tướng làm lệnh cử Mai Tư Lệnh Không Quân và Kỳ bị hất cẳng. Ngay hôm sau có giấy Đỗ Mậu gửi sang thăng cấp Đại Tá cho tôi vì có công với cách mạng. Mai đưa tôi xem rồi xin để Không Quân đề nghị lên hầu giữ hệ thống chỉ huy. Ngay hôm sau có lệnh cho Mai đi Tùy Viên Quân Sự ở Bonn, Kỳ nắm lấy Tư Lệnh Không Quân và sự việc bị chôn vùi. Tôi chẳng để ý gì cái vặt ấy vì trong thâm tâm chỉ muốn xuất ngũ. Hơn nữa mình đâu có nghĩ là có công cán gì với cách mạng? Khi Tướng Đỗ Mậu được chỉ định chức Ủy Viên Văn Hóa cho gọi tôi và Thảo lên làm việc với ông ta, tôi cũng lờ như không biết.
Tình hinh chính trị Sài Gòn trở nên lộn xộn khi các Tướng trong Hội Đồng Quân Lực chia chác quyền hành và thi nhau gắn lon gắn sao cho đồng bọn. Cái bát nháo này làm cho Mỹ điên đầu và Hà Nội thấy cơ hội ngàn năm một thuở đã đến. Trong thời kỳ này Nguyễn Khánh đã bứng Trần Thiện Khiêm đi làm Đại Sứ tại Washington đem theo tùy viên báo chí Phạm Ngọc Thảo. Nguyễn Khánh cho lệnh gọi Thảo về nhưng Khiêm đã lo giấy tờ cho Thảo đi Hồng Kông rồi bí mật quay về Sài Gòn qua ngã Nam Vang liên lạc với Lâm Văn Phát tổ chức đảo chính.
Nguyễn Khánh đã thoát nạn nhờ Nguyễn Cao Kỳ lái C-47 bốc đi Vũng Tầu trước khi Kỳ bay về Biên Hoà trong căn cứ không quăn cấm trại nghiêm ngặt. Tại đây một phòng Hành Quân Đặc Biệt được thiết lập và trên không phận một phi tuần AD-6 bao vùng ầm ì trên không trung. Rồi Phạm Văn Liễu đi với Tướng cố vấn Không Quân Roland chở Lâm Văn Phát trên một chiếc C-123 của Mỹ đáp xuống Biên Hòa để điều đình. Anh hề Nguyễn Khánh bị Hội Đồng Quân Lực chỉnh lý cho làm Đại Sứ Lưu Động đi không biết ngày về mang theo một túi plastic đựng bụi đất Việt Nam.
Đêm hôm ấy căn cứ không quân Tân Sơn Nhất lại cấm trại trăm phần trăm. Tôi với Nguyễn Tấn Hồng mặc quân phục lái xe Jeep ra phố vắng tanh qua các chốt gác đến nhà Bùi Diễm trên đường Charner thì biết cả Diễm lẫn Đặng Văn Sung và Nguyễn Đình Tú đã ẩn trốn trên trần nhà. Lâm Văn Phát đi trốn bị Tòa Án Quân Sự xử tử hình khiếm diện và Phạm Ngọc Thảo bị tâm nã gắt. Tuy nhiên có một sự điều đình để Tòa bỏ vụ án Lâm Văn Phát.
Khi ấy tôi đang làm Đổng Lý Văn Phòng cho Tổng Trưởng Thanh Niên Nguyễn Cao Kỳ trong chính phủ Trần Văn Hương. Tổng Trưởng Kỳ chì đến bộ đúng một lần bằng trực thăng đáp xuống sân cỏ bộ dưới sự vỗ tay thán phục của công chức nam nữ. Tổng Trưởng cũng không thèm đi họp hội đồng nội các và Đổng Lý thay thế để nhìn thấy Thủ Tướng lẩm cẩm trong khi Phó Thủ Tướng Nguyễn Xuân Oánh ngồi dũa móng tay lơ đãng.
Môt buổi sáng vào khoảng 9 giờ, có một em bé độ mười lăm đến bộ xin gặp tôi. Khi được đưa vào bàn giấy tôi, cô bé ấy đưa cho tôi một bức thư nhỏ viết tay nói là của ông Phạm Ngọc Thảo, “Nhờ Cung liên lạc với ông chủ giúp đỡ và em bé có thể cho biết số điện thoại và chỗ của tôi”. Tôi biết danh từ ông chủ ám chỉ Nguyễn Cao Kỳ. Tôi hỏi cô bé thì biết là Thảo hiện ẩn trốn trên trần tiệm bán đồ thể thao Émile Bodin ở đường Bonard. Tôi quay số điện thoại mà cô bé cho tôi thì Thảo trả lời bóng gió, “Tôi ở miệt vườn lên đây. Độ này thất bát quá, gạo khan hiếm nên nhà máy chỉ chạy cầm chừng. Tôi bị đau mắt chói lắm, đầu tóc lo nghĩ bạc phơ nên trông kỳ lắm. Ông có rảnh thì chở tôi lên ông chủ xin giúp đỡ cho qua lúc nầy. Nếu được thì xin ông đón tôi lúc 1 giờ hôm nay ở Givral”!
Tôi hiểu ra là Thảo ngụy trang đeo kính đen đàu đội mũ tùm hụp. Tuy nhiên vừa lúc ấy có tin là chính phủ dân sự Phan Huy Quát đã thành hình mà ông Quát là chỗ đàn anh thân tình và đứng đắn nên tôi đắn đo suy nghĩ mình có nên tiếp tay phá thối nữa không? Bởi vậy tôi đã không đến điểm hẹn Givral. Về sau có tin là Thảo đã mò về khu vực họ đạo Hố Nai rồi bị an ninh mai phục bắn vỡ hàm tưởng chết bỏ nằm trên bờ suối. Thảo tỉnh lại viết lên cát “xin gọi Phan Xi Cô cứu” và được một linh mục đem về chăm nom. Rồi an ninh đến chở bằng trực thăng về cơ quan, tra tấn tàn nhẫn. Nghe nói Thiếu Tá Nguyễn Mộng Hùng tức Hùng Xùi, một Biệt Động Quân được Nguyễn Ngọc Loan xin biệt phái qua Cảnh Sát, không ưa cái mắt lác của Thảo mà tra khảo và bóp dái đến chết tuốt.
Tôi vừa được Yung Krall tức Đặng Mỹ Dung cho biết là khi cô ta lên Sài Gòn có đến thăm ông Thảo tại nhà gần Sở Thú. Rồi khi bà Thảo và các con đi Mỹ thì cô Kim chị của Dung cũng được đi Mỹ và đã lần hồi tới gặp bà Thảo xin một chỗ dậy tiếng Việt tại Fort Bliss ở El Paso Texas. Lúc ấy ông Thảo đã bị giết rồi. Năm 1997 Yung Krall có đến thăm bà Thảo cùng gia đình ở Escondido và bà còn giữ mối hận thù nói rằng, “Thằng giết chồng tôi, tôi và con cái sẽ tìm để giết nó”! Mỹ Dung cố khuyên giải, “Nên để cho các em sống bình an; bác trai làm chính trị mà chính trị thì tàn ác mưu mô nhiều lắm”, nhưng bác gái một mực vẫn căm thù không đội trời chung.
Theo tôi suy nghĩ thì câu chuyện xẩy ra đã lâu quá rồi. Đống tro tàn nguội lạnh từ lâu có lẽ cũng lần hồi cuốn theo chiều gió. Vả lại bà Thảo nay cũng lớn tuổi mà lại vừa trải qua một trường hợp giải phẫu thập tử nhất sinh. Thôi thì ân chưa trả, oán chưa báo cũng nên phú cho số mệnh!
Bây giờ nghĩ lại tôi thấy hối hận. Nếu tôi đến đón Thảo tại Givral chở gặp Nguyễn Cao Kỳ thì chắc là Thảo chưa chết thảm. Tuy nhiên con người ta thay đổi vì hoàn cảnh, Kỳ đang say sưa trong vị trí mới chắc đâu sẽ làm gì cho Thảo. Mà tôi lại bị mắc kẹt vào một hoàn cảnh khó khăn không lường đuợc, trong thời kỳ Sài Gòn bát nháo với các Tướng Tá kèn cựa, tiêm nhiễm ích kỷ và tham vọng. Thì hãy đổ cho số phận vậy!
Tôi vẫn không cho Thảo là cộng sản nằm vùng mặc dầu sau khi chúng chiếm được Sài Gòn chúng đã dàn dựng tuyên dương anh là anh hùng nhân dân như chúng đã từng dàn cảnh mọi việc có lợi cho bài bản tuyên truyền của chúng, theo đúng sách vở của Marx, “la fin justifie le moyen và mentez mentez toujours et les gens finiront par le croire”. Tuy nhiên có lẽ ý kiến của tôi là do những cảm nhận chủ quan riêng mà tôi dành cho anh trong những tiếp xúc lúc còn trẻ. Và theo lời kể lại của Nguyễn Trung Trinh hiện ở Paris thì vào cuối năm 1946 Trinh gặp Thảo ở Thị Nghè lúc anh đang chỉ huy một tiểu đội phục kích Pháp. Thảo dụ Trinh nhập bọn đánh Tây nhưng khi thấy bạn do dự thì anh nói ngay, “Moa biết toa có nhiều quen biết phía bên kia; vậy toa cứ đi công chuyện của toa và chúng mình vẫn là anh em bạn thân nhé”! Thật là trung hậu và quảng đại!
Hơn nữa nếu anh là một điệp viên nhị trùng quý báu của Hà Nội thì tại sao họ không cứu anh ra bưng để khai thác thêm tin tức. Ngay khi anh về trú ẩn tại Hố Nai thì con đường về mật khu thật là gần xịt, tại sao anh không dọt lẹ để bị bắn và bắt giết. Một yếu tố nữa là anh đã cho vợ và sáu con nhỏ qua Hoa Kỳ trước? Bảo vệ gia đình mình tại một nơi chốn tự do xa lánh hẳn môi trường xã hội chủ nghĩa mà anh đã cho là không thích hợp? Hoặc giả vì anh đã bỏ bên kia hồi chánh nên không dám trở về bưng để bị các đồng chí cũ xử giảo thảm khốc? Hơn nữa ngay cả Bác Sỹ Trần Kim Tuyến sau này cũng nói ông không tin là Thảo trá hàng. Tất cả chỉ là những suy nghĩ vẩn vơ không có một dữ kiện xác thực chứng minh. Nhưng trong cõi đời này có cái gì là hoàn toàn thực chất đâu, Đức Phật đã chẳng giảng là “sắc sắc không không” hay sao?
Prunedale, 15 December 2006
Trần Đỗ Cung

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét