KÝ ỨC CHÓI LỌI 105/e
-Chiến tranh ai cũng ghét, nhưng nhiều khi buộc phải cầm súng vì không còn cách nào khác!
-Cuộc sống là vô giá. Không ai đổi cuộc sống lấy anh hùng mà chỉ thành anh hùng khi bảo vệ cuộc sống!
-Những Dòng Sông
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Đến niên học 1969- 1970, anh Thạc học lớp 10, đoạt giải Nhất trong cuộc thi Văn miền Bắc, Như Anh cũng đoạt giải Nhất Văn và giải ba Sử thành phố Hà Nội. Đến năm học sau, Như Anh chuyển lên học ở quận Hoàn Kiếm, còn anh Thạc vào Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Bà Như Anh bảo, trong suốt cuộc tình, bà và Nguyễn Văn Thạc chỉ gặp nhau được 5 lần, lần nào cũng ngắn ngủi. “Lần đầu tiên hẹn hò, chúng tôi đều háo hức chờ đợi, nhưng cũng ngượng ngùng lắm. Tôi nhớ như in nụ cười thân thương của Thạc trong cái lần gặp đầu tiên ấy. Lần đó, khi chia tay, tôi tặng Thạc cuốn “Một cơn giông”, tác phẩm đầu tay, do NXB Kim Đồng ấn hành năm 1971. Còn Thạc tặng tôi huy hiệu Đoàn Thanh niên”, bà Như Anh nhớ lại.
Còn lần gặp thứ hai, họ cũng hẹn nhau ở trước cổng Thư viện Hà Nội, cũng bối rối và ngắn ngủi như lần trước. Khi chia tay, Như Anh tặng anh Thạc một đoá quỳnh, Thạc không muốn nhận vì sợ những điều chẳng lành. Như Anh đã giận, định không gặp Thạc nữa, nào ngờ, càng muốn xa thì càng nhớ. Cuối cùng Như Anh đành phải viết thư, nói rằng: “Như Anh không muốn và không thể rời xa Thạc...”. Lần gặp thứ ba (1/7/1971) thì hai người đã “mạnh mẽ” hơn, tay trong tay, hai con tim đập loạn xạ. “Đã hơn 40 năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ được cảm xúc của lần gặp này”, bà Như Anh nói.
Lần thứ tư, Như Anh đến ký túc xá gặp người yêu, đây là một lần gặp rất buồn bởi Như Anh nhận được giấy báo đi học ở Liên Xô. Lần gặp cuối cùng là tối ngày 26/7/1971 (ngày hôm sau Như Anh bay sang Liên Xô học). Như Anh và anh Thạc hẹn gặp tại con phố nhỏ cạnh Văn Miếu. Khi gặp nhau, Thạc muốn giấu việc mình sắp lên đường nhập ngũ (ngày 6/9/1971) để Như Anh khỏi buồn, nhưng rồi anh cũng không giấu được. Lúc chia tay, Như Anh nắm tay Thạc và dặn: “Hãy là một sự tuyệt đối!”. Thạc hỏi lại: “Như Anh có sẽ là một sự tuyệt đối không?”. Như Anh gật đầu, nước mắt lưng tròng rồi lên xe đi. Một cơn gió chợt ùa đến khiến cô rùng mình, Như Anh linh cảm đây sẽ là lần gặp cuối cùng của hai người, tuy nhiên cô cố gắng xua ra khỏi đầu ý nghĩ đáng sợ này.
Lời “tiên tri”
Như Anh vô tình thấy lá thư đó. Thư chỉ hỏi thăm sức khoẻ, động viên học hành mà khiến cô thấy nao nao, tuy vậy cũng chỉ giữ trong lòng. Mãi đến 4/3/1971, Như Anh mới hồi âm cho Thạc. Bức thư đó đến ngày 9/3 anh mới nhận được. Trong nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” của Nguyễn Văn Thạc có nhắc đến chi tiết này: “Mình đã bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào? Có lẽ từ 9/3/1971, tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước...”.
Theo bà Như Anh, có nhiều bức thư mà Nguyễn Văn Thạc viết, sau này ngẫm lại bà thấy dường như anh đã “tiên đoán” được nhiều sự kiện. Ví dụ trong lá thư của Như Anh ngày 24/4/1971, Như Anh có kể cho anh Thạc nghe về một buổi học Nga văn, mọi người có đặt ra câu hỏi: “Hạnh phúc là gì?”. Như Anh cho rằng: “Hạnh phúc không như những niềm vui bình thường, nó là cái gì đó lớn hơn và khó tìm thấy!”.
Lá thư cuối cùng Nguyễn Văn Thạc gửi cho Như Anh đề ngày 11/7/1972, như một lời từ biệt: “Chiến tranh đã và sẽ lấy đi nhiều hơn của Thạc. Chả có gì là bi kịch đâu. Trong cuộc sống cái đổ vỡ, cái bi thảm thường sâu thẳm hơn niềm vui nông nổi”. Và từ đó, Như Anh không nhận được thêm bức thư nào nữa. Ngày 30/7/1972, người lính trẻ Nguyễn Văn Thạc đã hy sinh trong mùa hè đỏ lửa ở thành cổ Quảng Trị.
Bức thư thất lạc sau 33 năm
Trong nhiều bức thư, anh Thạc dặn Như Anh giữ gìn kỷ niệm “máu thịt”, nếu sau này có đến với ai thì đừng để họ đọc thư, bởi họ sẽ không thể không ghen trước tình yêu của hai người. Như Anh đã làm đúng lời Nguyễn Văn Thạc dặn, bà cất giữ các bức thư như báu vật. Cho đến trước khi cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” xuất bản, chưa một ai ngoài Như Anh được đọc những lá thư này, kể cả người chồng ngoại quốc của Như Anh, dù rằng người này rất giỏi tiếng Việt.
Ngay cả việc in cuốn nhật ký cũng nằm ngoài dự định của bà Như Anh. Bà chỉ quyết định công bố các bức thư này (qua cuốn nhật ký), sau khi gặp bà Năm Nghĩa, một nhà ngoại cảm ở Bà Rịa – Vũng Tàu. Qua bà Năm Nghĩa, Liệt sĩ Thạc đã “chuyển lời” đến Như Anh rằng: “Hãy viết tiếp cho Thạc những trang Nhật ký, Như Anh muốn là Thạc muốn đấy, Như Anh cứ làm đi, đó là cần thiết, Thạc luôn luôn ở bên Như Anh!“.
Cũng may là Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hay nhà ngoại cảm đã nói vậy, để chúng ta được chứng kiến những trang viết rung động lòng người. Gặp tôi ở Huế, bà Như Anh xúc động cho hay mình vừa hoàn thành cuốn “Thư tình thời hoa lửa”. Bà bảo, qua cuốn sách này hy vọng người đọc sẽ biết rõ hơn không chỉ về một mối tình cảm động, mà hơn thế còn biết về lý tưởng, sự hy sinh của những thế hệ “Mãi mãi tuổi hai mươi”. Nhờ có họ, đất nước mới có ngày sạch tiếng đạn bom.
-
Hình ảnh về tôi trong cách nhìn nhận của Thạc khi ấy là "một cô bé cao
lêu nghêu, có hai cái tóc đuôi gà ngắn cũn cỡn". Khi ấy tôi cũng là Bí
thư chi đoàn và hoạt động Đoàn rất tích cực, vậy mà "chỉ là những cảm
giác" mà Thạc "phê" tôi: "Từ trước đến nay mình vẫn suy nghĩ tốt về Như
Anh, một cô bạn gái học giỏi, nhiều năng lực, có quyết tâm cao. Có lúc
Như Anh là thần tượng, là mức phấn đấu của bọn mình phải tiến đến. Nhưng
bên cạnh đó một ý nghĩ còn ám ảnh mình, cách đối xử của Như Anh đã thật
chân thành, thật bình đẳng, thật tình đồng chí chưa. Cách sống của Như
Anh đã thật hòa hợp với các bạn chưa... Có lúc Như Anh trong ký ức của
mình hiện ra thật giản dị, đáng yêu, đáng quý, nhưng có lúc bạn lại thể
hiện những nét chẳng Như Anh chút nào...". Đó là bức thư đầu tiên Thạc
viết cho tôi ngày 8.11.1970, nhưng lá thư đã "rơi" vào tay bố tôi...
Lá
thư cuối cùng anh viết cho chị ngày 30.5.1972, nhưng phải chờ đợi
đến... 33 năm mới đến tay chị, do một người bạn thân tình cờ mượn cuốn
sách có kẹp bức thư của anh gửi qua gia đình cho chị. Trong thư, anh
Thạc viết: "Thạc của Như Anh đang trải qua những ngày gian khổ nhất kể
từ khi đi bộ đội đến nay. Hai đêm hành quân suốt đến sáng. Mắc võng vội
vàng và ngủ như chết. Nước mưa rừng làm ướt hết võng. Vắt bám chi chít
có biết gì đâu... Thạc đã đến Quảng Trạch, Quảng Bình. Đêm nay qua đường
22 pháo địch thả đỏ cả đất trời mà xe vẫn đi... Thạc đã gặp nhiều bạn
cùng lớp đánh ở Quảng Trị bị thương đi xe ra Bắc. Chúng nó gào lên, sao
vào chậm thế, chỉ còn ống bơ thôi. Vào giải phóng Huế nhé, làm bọn Thạc
cứ nao cả người lên, vừa vui vừa buồn... Chỉ nay mai thôi Thạc sẽ được
vào giải phóng thành phố mơ mộng của Như Anh, được tròng AK trước ngực
và gõ cửa ngôi nhà chúng ta chưa hề biết nhưng vô cùng thân thuộc...".
(Tặng Như Anh - tác giả của 12 bài thơ Đêm)
Đêm trắng trong là đêm của em
Đèn thành phố và sao trời lẫn lộn
Đêm của anh xếp kín đầy bom đạn
Pháo sáng chập chờn trộn trạo với sao sa.
"Đêm trắng trong như màu sắc thiên nga
Đêm âu sầu như ngôi nhà đổ nát
Đêm đen ấy mà vô cùng dịu mát..."
Bâng khuâng gì trong ban đêm em ơi?
Đêm của anh trong tầm bom rơi
Không thể ngủ nên đêm thành đêm trắng
Đêm bão thép chất chứa nhiều sâu lắng
Bà mẹ sinh con trai trong mờ tối căn hầm.
Những ban đêm thành cột mốc tháng năm
Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng
Đêm thao thức đón chờ ánh sáng
Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời.
Quảng Bình, 11-7-1972
Cứ mỗi lần hành quân qua đây
Lòng tôi lại nhớ em da diết
Màu tím hoa mua chẳng phải chưa hề biết
Nhưng đến giờ tôi mới hiểu màu hoa
Chẳng giấu lòng, chẳng phải giấu lòng ta
Tôi biết cô gái nào chẳng khóc
Khi đưa tiễn người con trai thân nhất
Hoa tím chín chiều nói hộ với lòng anh.
Không dừng lại đâu giữa đất nước mông mênh.
Tôi cúi xuống với cành hoa lặng lẽ
Màu hoa tím chưa bao giờ tím thế
Cánh mỏng cánh mềm mát ngón tay ta.
Những điều lớn lao trên đất nước bao la
Vẫn không quên niềm riêng nhỏ nhất
Chung thuỷ nhất là mối tình của đất
Mỗi màu hoa đều thấm đượm tình người.
Tôi đã đi rất xa em rồi
Chẳng dễ về thăm em trong phố nhỏ
E ấp cánh hoa mua vào trong sổ
Tím lòng mình và tím cả lòng em.
Đường tôi hành quân trong đêm
Hoa đã lẫn vào màu trời tím biếc
Có nhìn thấy hoa đâu mà tôi vẫn biết
Hoa mùa hè nhuộm tím cả trời mây.
Em ở đâu rồi, Bâng khuâng kẽ tay
Tháng 5, tháng 5 hẹn về thăm vườn nhỏ
Câu thơ chép tay nôn nao ý nghĩ
Hoa tím chẳng lắm lời như những dòng thơ.
Tiếng hát ai đằng sau bâng quơ
Tôi ngoái lại chào hoa lần nữa
Rừng vắng lặng... mà tôi cứ ngỡ
Có đôi bạn nào mới đón đưa nhau.
17/5/1972 - Quảng Bình
Ngày
2-10-1971, 28 ngày sau khi nhập ngũ, Nguyễn Văn Thạc ghi những dòng
nhật ký đầu tiên. Cho đến tháng 5-1972, trong suốt tám tháng vừa hành
quân vừa ghi chép, anh viết được 240 trang sổ tay. Những “câu văn vội
vàng và bụi bặm”, anh viết vậy.
Yên
Sở ơi, ta yêu Yên Sở như làng quê ta vậy. Nơi trú quân đầu tiên của đời
ta. Nơi ta gọi bạn của mình là đồng chí. Nơi em thơ gọi ta là chú bộ
đội, và những cô gái làng gọi ta: Chào các anh bộ đội.
Đêm
ấy, thật đau lòng. Hồi chiều, bị ném 40 quả bom. Điện bị đứt lung tung.
Làng xóm chìm trong tang tóc và bóng đêm. Ở ngay trước ngõ là một bát
hương hiu hiu khói. Anh Phúc bị bom tiện đứt cả chân tay, nằm trong
chiếc quan tài đỏ, ngọn đuốc nứa thổi phừng phừng, cái xe bò lăn lộc
cộc... Sao giống “chiếc quan tài” như thế.
Bắt
đầu vào làng, chỗ này là Đông Du thì phải. Dân thưa thớt và bộ đội thì
đông hơn dân nhiều. Có người tính tỉ lệ 9/10. Kể thì hơi ngoa. Nhưng
cũng có lý đấy. Tiểu đoàn trưởng đứng đợi dưới một gốc tre. Cán bộ của
mình cũng chẳng khác gì chiến sĩ, cũng balô, cũng gạo và súng. Chỉ khác,
các đồng chí đó đi thẳng người và bước vững vàng hơn lính nhiều. Cũng
phải thôi, đánh Pháp rồi đánh Mỹ, bao nhiêu năm đi trên con đường lửa,
con đường lớn của dân tộc.
2-12-1971Chưa bao giờ mình xa nhà lâu như thế này, chưa bao giờ nhớ cha mẹ, anh em và bè bạn như bây giờ...
24-12-1971Gấp cuốn sách vào và suy nghĩ về Paven (nhân vật chính trong Thép đã tôi thế đấy - TT).
Những trang cuối của tiểu thuyết để lại cho mình nhiều chấn động mạnh
hơn cả. Mình chú ý nhiều đến bức ảnh Paven ngồi như một ông già nhưng
sôi sục ngọn lửa sống. Lúc ấy ở bên bờ biển và ánh nắng đã nhạt dần...
18
năm rồi ư? Từ ngày chiến thắng Điện Biên lừng lẫy địa cầu. Những ngày
đó mình mới chỉ là đứa bé lên 2. Đã biết gì đâu. Người ta bảo rằng không
ai khi nằm trong bụng mẹ đã hỏi được hoàn cảnh xuất thân của mình.
Không thể hỏi được mình đã sinh ra trong gia đình thế nào, tư sản hay
địa chủ cường hào!
Nồng
nàn, trìu mến, những linh cảm buồn, và lời hẹn 30-4 cứ trộn lẫn vào
nhau trong những trang thư Nguyễn Văn Thạc gửi cho người bạn gái Phạm
Thị Như Anh. Những bức thư này, nhà thơ Đặng Vương Hưng gửi cho Tuổi Trẻ, không có trong nhật ký...
Những
trang nhật ký mà chúng ta vừa được đọc chỉ là một phần của cuốn sách
dày 320 trang in. Bản thảo gốc là một cuốn sổ tay khổ nhỏ, bìa bọc
nilông màu xanh, với tổng cộng 240 trang chép tay, chữ nhỏ li ti, đều
tăm tắp, rất ít gạch xóa, được viết bằng mực xanh và đen.
Trong
một trận đánh ác liệt bên thành cổ Quảng Trị sáng 30-7-1972, chiến sĩ
thông tin Nguyễn Văn Thạc được giao nhiệm vụ bảo đảm liên lạc cho trung
đoàn 101, sư đoàn 325...
-Cuộc sống là vô giá. Không ai đổi cuộc sống lấy anh hùng mà chỉ thành anh hùng khi bảo vệ cuộc sống!
-Những Dòng Sông
Sinh ra ở đâu, mà ai cũng anh hùng?
Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông…
Chẳng phải sông Đà, sông Mã, sông Hồng đôi bờ cát mênh mông,
Thì cũng sông Trà, sông Hương, sông Cửu Long uốn chín đầu rồng
Chẳng phải rộng xa một tầm cò vỗ cánh,
Cũng xinh xinh vài sải chèo quẫy mạnh
Quê hương Việt Nam mườn mượt những cánh đồng
Mỗi con người gắn bó một dòng sông
Khi ta bé dòng sông nào cũng rộng
Chiếc thuyền giấy gửi tuổi thơ theo sóng
Một cánh cò vỗ lả xuống lòng ta…
Từ nguồn nào, sông cũng nặng phù sa
Đời ông cha từng cuốc đất, dựng nhà.
Khơi tưởng tượng, những chuyện xưa mẹ kể
Tuổi thơ ngây ngỡ dòng sông nhỏ bé
Cửa quê mình Trần Quốc Toản từng qua…
Rồi biết nghe chuyện anh, chuyện cha
Biết tự hào: Sông đã từng đánh Pháp
Nước lấp mặt những ca nô tan xác
Bãi lau già chuyển cán bộ qua sông…
Những dòng sông ngàn năm ôm cánh đồng
Khi ta vào đời, Đời đã cấy cày chung
Xanh sắc lúa xoá bờ gầy đói khổ
Mặt cánh đồng nhờ mặt người soi hộ
Trên dòng sông – là một tấm gương trong…
Em ta yêu có gì như lòng sông
Một nền xanh tràn xuống chảy theo dòng
Là ruộng đất, anh hiền lành, khoẻ khoắn
Có mía ngọt và bãi hoa mơ mộng…
Đã bao đời gắn bó giữa hai ta,
Sông chia mình thành ngàn nhánh phù sa
Đến bè bạn cùng từng gốc lúa
Trắng lấp lánh là quẫy tung đuôi cá
Xanh mát êm là xoan dọc bờ vùng
Yêu nhau rồi, ta có những vui chung…
Uống bát nước chè bên nòng súng, trưa nắng cháy
Nghe màu xanh bờ bãi mát trong lòng!
Bình tĩnh ngồi bên những trái bom
Đâu trong gió mái chèo xa vọng lại:
Đêm mưa không đèn vững vàng tay lái
Đường dẫn đi như dòng nước tới mênh mông…
Sinh ra ở đâu mà ai cũng anh hùng?
Tất cả trả lời: Sinh bên một dòng sông…
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Lính sinh viên kể chuyện chiến trường Quảng Trị - Phần 3
Ký ức hứng bom
Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc và chuyện tình chưa kể
GiadinhNet - Bà Phạm Như Anh - người con gái trong tim của Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc bảo, trong những bức thư mà Nguyễn Văn Thạc viết có chứa đựng những lời “tiên tri”, một trong số đó là việc 4 năm trước khi hy sinh, anh đã nói về ngày 30/4/1975.
5 lần hẹn hò ngắn ngủi
Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc.
|
Nếu tính theo tuổi ta thì bà Phạm Như Anh vừa tròn
sáu mươi tuổi, dù vậy bà vẫn giữ được những nét thanh tú của thời con
gái. Định cư nhiều năm ở trời Tây, nhưng bà vẫn rất giản dị. Nhắc về ký
ức tuổi thanh xuân, bà Như Anh không kìm được cảm xúc.
Bà bảo mình đón nhận tình yêu của Nguyễn Văn Thạc
như một món quà của tạo hoá. Năm 1968, Như Anh vào học lớp 8 (hệ 10 năm)
của trường cấp 3 Yên Hoà B ở Cầu Giấy, Hà Nội, lúc này anh Thạc là Phó
bí thư đoàn trường. Ngay năm đầu tiên, cô lớp trưởng Như Anh đã là học
sinh giỏi, được mang danh hiệu A1 (giỏi toàn diện). Như Anh đã viết một
số truyện ngắn và được in. Cô còn tham gia công tác trong Ban Thường vụ
Đoàn trường. Họ quen nhau từ đó, song chưa thân.
Đến niên học 1969- 1970, anh Thạc học lớp 10, đoạt giải Nhất trong cuộc thi Văn miền Bắc, Như Anh cũng đoạt giải Nhất Văn và giải ba Sử thành phố Hà Nội. Đến năm học sau, Như Anh chuyển lên học ở quận Hoàn Kiếm, còn anh Thạc vào Đại học Tổng hợp Hà Nội.
Bà Như Anh bảo, trong suốt cuộc tình, bà và Nguyễn Văn Thạc chỉ gặp nhau được 5 lần, lần nào cũng ngắn ngủi. “Lần đầu tiên hẹn hò, chúng tôi đều háo hức chờ đợi, nhưng cũng ngượng ngùng lắm. Tôi nhớ như in nụ cười thân thương của Thạc trong cái lần gặp đầu tiên ấy. Lần đó, khi chia tay, tôi tặng Thạc cuốn “Một cơn giông”, tác phẩm đầu tay, do NXB Kim Đồng ấn hành năm 1971. Còn Thạc tặng tôi huy hiệu Đoàn Thanh niên”, bà Như Anh nhớ lại.
Còn lần gặp thứ hai, họ cũng hẹn nhau ở trước cổng Thư viện Hà Nội, cũng bối rối và ngắn ngủi như lần trước. Khi chia tay, Như Anh tặng anh Thạc một đoá quỳnh, Thạc không muốn nhận vì sợ những điều chẳng lành. Như Anh đã giận, định không gặp Thạc nữa, nào ngờ, càng muốn xa thì càng nhớ. Cuối cùng Như Anh đành phải viết thư, nói rằng: “Như Anh không muốn và không thể rời xa Thạc...”. Lần gặp thứ ba (1/7/1971) thì hai người đã “mạnh mẽ” hơn, tay trong tay, hai con tim đập loạn xạ. “Đã hơn 40 năm trôi qua nhưng tôi vẫn nhớ được cảm xúc của lần gặp này”, bà Như Anh nói.
Lần thứ tư, Như Anh đến ký túc xá gặp người yêu, đây là một lần gặp rất buồn bởi Như Anh nhận được giấy báo đi học ở Liên Xô. Lần gặp cuối cùng là tối ngày 26/7/1971 (ngày hôm sau Như Anh bay sang Liên Xô học). Như Anh và anh Thạc hẹn gặp tại con phố nhỏ cạnh Văn Miếu. Khi gặp nhau, Thạc muốn giấu việc mình sắp lên đường nhập ngũ (ngày 6/9/1971) để Như Anh khỏi buồn, nhưng rồi anh cũng không giấu được. Lúc chia tay, Như Anh nắm tay Thạc và dặn: “Hãy là một sự tuyệt đối!”. Thạc hỏi lại: “Như Anh có sẽ là một sự tuyệt đối không?”. Như Anh gật đầu, nước mắt lưng tròng rồi lên xe đi. Một cơn gió chợt ùa đến khiến cô rùng mình, Như Anh linh cảm đây sẽ là lần gặp cuối cùng của hai người, tuy nhiên cô cố gắng xua ra khỏi đầu ý nghĩ đáng sợ này.
Lời “tiên tri”
Bà Như Anh thời trẻ.
|
Bà Như Anh nói rằng, “định mệnh” mối tình của bà và
Nguyễn Văn Thạc là từ những bức thư. “Lẽ ra bức thư đầu tiên của anh
Thạc không đến được tay tôi bởi bố tôi rất nghiêm khắc, tất cả thư từ
bạn trai gửi, ông thường bỏ đi ngay. Nhưng với bức thư của anh Thạc
(ngày 8/11/1970), ông mở ra xem rồi không biết vì sao lại cất vào ngăn
tủ”, bà Như Anh kể lại.
Như Anh vô tình thấy lá thư đó. Thư chỉ hỏi thăm sức khoẻ, động viên học hành mà khiến cô thấy nao nao, tuy vậy cũng chỉ giữ trong lòng. Mãi đến 4/3/1971, Như Anh mới hồi âm cho Thạc. Bức thư đó đến ngày 9/3 anh mới nhận được. Trong nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” của Nguyễn Văn Thạc có nhắc đến chi tiết này: “Mình đã bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào? Có lẽ từ 9/3/1971, tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước...”.
Theo bà Như Anh, có nhiều bức thư mà Nguyễn Văn Thạc viết, sau này ngẫm lại bà thấy dường như anh đã “tiên đoán” được nhiều sự kiện. Ví dụ trong lá thư của Như Anh ngày 24/4/1971, Như Anh có kể cho anh Thạc nghe về một buổi học Nga văn, mọi người có đặt ra câu hỏi: “Hạnh phúc là gì?”. Như Anh cho rằng: “Hạnh phúc không như những niềm vui bình thường, nó là cái gì đó lớn hơn và khó tìm thấy!”.
Trong thư hồi âm, anh Thạc viết: “Hạnh phúc của
Thạc và Như Anh chỉ có thể gắn chặt với niềm vui chung của dân tộc mà
thôi. 4 năm nữa, biết bao nhiêu sự kiện đã xảy ra. 30/4/1975, thì Như
Anh và Thạc đang ở trong tình trạng nào? Như Anh ơi, hứa với Thạc đi,
30/4/1975, dù chúng ta có thể giận, ghét nhau đến đâu đi nữa, dù thế nào
cũng sẽ viết cho nhau những dòng chữ “Hạnh phúc là thế nào” nhé!”.
Trong nhiều bức thư khác, anh Thạc nói mình mơ ước viết được một tác
phẩm để đời, kiểu như “Chiến tranh và Hoà bình”, nhưng anh cũng viết:
“Như Anh ngày mai làm tiếp cho Thạc, những điều Thạc còn bỏ dở, Như Anh
là ngày mai, là tương lai của Thạc”.
Lá thư cuối cùng Nguyễn Văn Thạc gửi cho Như Anh đề ngày 11/7/1972, như một lời từ biệt: “Chiến tranh đã và sẽ lấy đi nhiều hơn của Thạc. Chả có gì là bi kịch đâu. Trong cuộc sống cái đổ vỡ, cái bi thảm thường sâu thẳm hơn niềm vui nông nổi”. Và từ đó, Như Anh không nhận được thêm bức thư nào nữa. Ngày 30/7/1972, người lính trẻ Nguyễn Văn Thạc đã hy sinh trong mùa hè đỏ lửa ở thành cổ Quảng Trị.
Bức thư thất lạc sau 33 năm
và bây giờ.
|
Có một chi tiết thú vị là sau 33 năm sau, bà Như
Anh lại nhận được một bức thư nữa của Nguyễn Văn Thạc. Thư đề ngày
30/5/1972, khi ấy thư được gửi đến địa chỉ của gia đình Như Anh. Em gái
của Như Anh nhận được, cài vào một cuốn truyện. Một người quen của gia
đình tình cờ mượn cuốn sách đó đọc, thấy bức thư viết hay quá nên giữ
lại. Đến năm 2005, khi đọc nhật ký “Chuyện đời” (tức là cuốn “Mãi mãi
tuổi hai mươi”), người này mới biết Nguyễn Văn Thạc đã hy sinh nên vào
tháng 7/2005, bà đã trao bức thư đó cho Như Anh.
Trong nhiều bức thư, anh Thạc dặn Như Anh giữ gìn kỷ niệm “máu thịt”, nếu sau này có đến với ai thì đừng để họ đọc thư, bởi họ sẽ không thể không ghen trước tình yêu của hai người. Như Anh đã làm đúng lời Nguyễn Văn Thạc dặn, bà cất giữ các bức thư như báu vật. Cho đến trước khi cuốn nhật ký “Mãi mãi tuổi hai mươi” xuất bản, chưa một ai ngoài Như Anh được đọc những lá thư này, kể cả người chồng ngoại quốc của Như Anh, dù rằng người này rất giỏi tiếng Việt.
Ngay cả việc in cuốn nhật ký cũng nằm ngoài dự định của bà Như Anh. Bà chỉ quyết định công bố các bức thư này (qua cuốn nhật ký), sau khi gặp bà Năm Nghĩa, một nhà ngoại cảm ở Bà Rịa – Vũng Tàu. Qua bà Năm Nghĩa, Liệt sĩ Thạc đã “chuyển lời” đến Như Anh rằng: “Hãy viết tiếp cho Thạc những trang Nhật ký, Như Anh muốn là Thạc muốn đấy, Như Anh cứ làm đi, đó là cần thiết, Thạc luôn luôn ở bên Như Anh!“.
Cũng may là Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc hay nhà ngoại cảm đã nói vậy, để chúng ta được chứng kiến những trang viết rung động lòng người. Gặp tôi ở Huế, bà Như Anh xúc động cho hay mình vừa hoàn thành cuốn “Thư tình thời hoa lửa”. Bà bảo, qua cuốn sách này hy vọng người đọc sẽ biết rõ hơn không chỉ về một mối tình cảm động, mà hơn thế còn biết về lý tưởng, sự hy sinh của những thế hệ “Mãi mãi tuổi hai mươi”. Nhờ có họ, đất nước mới có ngày sạch tiếng đạn bom.
>>> Liệt sỹ Nguyễn Văn Thạc sinh ngày
14/10/1952 ở Bưởi, quê xã Cổ Nhuế, Từ Liêm, Hà Nội, mất ngày 30/7/1972,
tại Quảng Trị. Ngày 6/9/1971, anh Thạc nhập ngũ, ngày 9/4/1972 vào chiến
trường, ngày 30/7/1972 anh hy sinh, sau 10 tháng tuổi quân và 20 tuổi
đời.
>>> “Nếu như số phận không cho Như Anh gặp Thạc, thì Như Anh hãy tin rằng, Thạc mang Như Anh trong tim theo suốt cuộc đời này. Cuộc đời mà Thạc biết Thạc sẽ sống vĩnh viễn, dù trong giây lát”.
(Trích trong bức thư thất lạc 33 năm của Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc)
>>> Ông ngoại bà Phạm Như Anh là Tiến sỹ, luật sư Hồ Đắc Điềm, từng làm Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Phó chủ tịch Ủy ban hành chính TP Hà Nội. Cha của bà Như Anh là luật sư Phạm Thành Vinh, nguyên Chủ tịch Hội Sinh viên Đông Dương, nguyên Chánh văn phòng Bộ quốc phòng, là cháu ruột của Liệt sỹ Phạm Hồng Thái. Mẹ bà Như Anh (bà Hồ Thị Thể Tần) là một cô giáo dạy văn, đồng thời là một dịch giả. Năm 1971 bà Như Anh sang Liên Xô học Đại học Tổng hợp thành phố Minsk, năm 1977 bà tốt nghiệp bằng đỏ, năm 1985 bảo vệ thành công luận án Tiến sỹ tại CHDC Đức – cũng là nơi ở của gia đình bà hiện nay. Năm 2005, bà Như Anh là một trong hai người sáng lập Quỹ Mãi mãi tuổi hai mươi. |
Bình Gianh
Kỳ lạ lời “tiên tri” bất hủ của các liệt sĩ
(Kiến Thức) - Viết thư tả nơi mình được
chôn cất trong khi vẫn còn sống, liệt sĩ Lê Văn Huỳnh được cho là có khả
năng tiên tri hiếm có.
Nhân kỷ niệm 69 năm Ngày thương binh, liệt sỹ (27/7/1947 –
27/7/2016), cùng Kiến Thức điểm lại những câu chuyện đầy ý nghĩa về các liệt sĩ Việt Nam.
Bức thư viết bằng dự cảm
Nếu ai đã đọc nhiều ký sự, truyện
chiến tranh hẳn không thấy lạ khi một người lính có những biểu hiện khác
thường hoặc có linh cảm trước khi chết. Tuy nhiên, trường hợp có thể
viết thư cho gia đình báo việc mình chết từ trước 3 tháng thậm chí chỉ
rõ cả nơi mình được đồng đội chôn cất thì có lẽ liệt sĩ Lê Văn Huỳnh là
duy nhất.
Anh Huỳnh sinh năm 1949, trong một gia
đình nông dân ở Thái Bình. Đang học năm thứ 4 trường đại học Xây dựng
thì chiến dịch xuân hè 1972 nổ ra ác liệt. Như bao bạn bè sinh viên
khác, anh Huỳnh xung phong nhập ngũ vào Quảng Trị chiến đấu bảo vệ thành
cổ.
Vào tháng 9/1972 đơn vị Huỳnh đang ở bên này sông Thạch Hãn thì
được lệnh vượt sông sang thành cổ. Trong 81 ngày đêm ở thành cổ, tướng
lĩnh ta sau này thống kê trung bình mỗi ngày ta mất khoảng 1 đại đội. Sự
khốc liệt như thế nên vào giữ thành cổ là xác định khó có ngày về. Bởi
vậy anh Huỳnh đã viết thư về vĩnh biệt gia đình.
Anh viết: “Quảng Trị, ngày 11 tháng 9 năm 1972. Hôm nay con ngồi
đây biên những dòng chữ cuối cùng, phòng khi đã "đi nghiên cứu bí mật
dưới lòng đất" thì gia đình khỏi thấy đó là điều đột ngột.
Mẹ kính mến!... Con đi, mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu. Coi như con lúc
nào cũng nằm bên mẹ. Mẹ đừng buồn cho linh hồn con được thoải mái bay
đi. Bố con đã đi xa, để lại cho mẹ bao khó nhọc. Nay con đã đến ngày
khôn lớn thì... Thôi nhé, mẹ đừng buồn, coi như con đã sống trọn đời cho
Tổ quốc mai sau!”.
Điều đặc biệt nhất trong lá thư của anh Huỳnh là anh đã dự cảm
chính xác ngày mình hy sinh là ngày 2/1/1973 và còn hướng dẫn tỉ mỉ cho
vợ mình đường đi để tìm hài cốt anh về nếu sau này có điều kiện. Trong
lá thư cho người vợ là Đặng Thị Xơ, anh viết: “Em sẽ đọc bức thư này cho
mọi người trong gia đình nghe trong buổi lễ truy điệu anh. Cho anh gửi
lời chúc sức khỏe những người thân thuộc trên quê hương trong buổi lễ
truy điệu lịch sử này.
…Thôi nhé em đừng buồn, khi được sống trong hòa bình hãy nhớ tới
anh. Nếu thương anh thực sự thì khi hòa bình có điều kiện vào Nam lấy
hài cốt anh về.
Đường đi như sau: Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn
là nơi anh đã hi sinh khi đưa hàng qua sông. Từ thị xã qua cầu ngược trở
lại hỏi thăm về Nhan Biều 1, sẽ thấy tấm bia ghi dòng chữ tên anh đục
trên mảng tôn. Thôi nhé, đấy là có điều kiện, còn không thì em cứ làm
tốt những điều anh dặn ở trên là tốt rồi...".
Nhờ những hướng dẫn đó, sau này gia đình đã tìm thấy mộ liệt sĩ
Huỳnh. Về phần bức thư, phải 3 năm sau ngày anh Huỳnh mất mới về tới
đích. Ngày 5/3 vừa qua, Trung tâm bảo tồn di tích – danh thắng tỉnh
Quảng Trị đã thông báo phục chế thành công bức thư này và hiện tại nó
được trưng bày tại Bảo tàng thành cổ Quảng Trị.
Lời "tiên tri" thống nhất
Liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã được đông đảo nhân dân ta biết đến sau khi cuốn nhật ký "Mãi mãi tuổi hai mươi"
của anh được xuất bản. Anh quê ở làng Bưởi, Hà Nội. Khi nhập ngũ anh
đang là sinh viên khoa Toán – Cơ trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Vào
thời điểm đó chiến tranh đang bước vào giai đoạn mới. Hàng ngàn sinh
viên các trường đại học đã xếp bút nghiên để ra chiến trường bổ sung lực
lượng cho quân đội. Trong phong trào chung của sinh viên, Nguyễn Văn
Thạc nhập ngũ ngày 6/9/1971.
Sau 6 tháng huấn luyện, đơn vị Thạc lên đường đi B (tức vào Nam
chiến đấu) vào tháng 4/1972. Anh bắt đầu viết cuốn nhật ký "Chuyện đời”
từ ngày 2/10/1971 tức là gần một tháng sau ngày nhập ngũ. Cuốn nhật ký
dừng lại ở thời điểm ngày 3/7/1972 khi đơn vị anh hành quân vào chiến
trường Quảng Trị. Tại ngã ba Đồng Lộc, Nguyễn Văn Thạc đã gửi cuốn nhật
ký cùng nhiều thư từ cá nhân trong thời gian quân ngũ về cho anh trai
mình. Hơn 1 tháng sau, anh đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị khốc
liệt.
Vào năm 2005, tác giả Đặng Vương Hưng được sự đồng ý của gia đình
Nguyễn Văn Thạc và bà Phạm Như Anh (người bạn gái thời học sinh của
Thạc) đã tổng hợp cuốn nhật ký cùng hàng trăm lá thư của Thạc thành cuốn
"Mãi mãi tuổi hai mươi". Cuốn sách được nhà xuất bản Thanh
Niên ấn hành đã trở thành một sự kiện văn học trong năm và sách được tái
bản nhiều lần với số lượng kỷ lục thể hiện sự quan tâm của độc giả.
Qua cuốn "Mãi mãi tuổi hai mươi", chúng ta ngạc nhiên biết rằng từ ngày 18/9/1971 nghĩa là chỉ sau 12 ngày nhập ngũ, liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc
đã viết thư cho người bạn gái Như Anh với một câu chuyện đặc biệt. Thạc
viết: “Bất kỳ một vinh quang nào cũng cần phải trả bằng mọi giá. Và khó
khăn gian khổ càng nhiều, thử thách càng nhiều, sự vinh quang đó càng
trở nên rực rỡ. Chúng ta đừng đi tìm những chân lý sâu xa đơn thuần qua
những áng văn và những bài thơ, bài toán. 30/4/1975 Thạc sẽ trả lời cho
P. (tức Như Anh - NV) câu: hạnh phúc là gì?...”.
Phải chăng Nguyễn Văn Thạc đã dự báo tương lai đất nước thống nhất
một cách chính xác như vậy từ trước đó 4 năm? Nếu đúng như vậy thì quả
là một sự "tiên tri" kỳ lạ.
Và lịch sử đã chứng minh, hạnh phúc mà Thạc nhắc đến trong thư
không chỉ là hạnh phúc tình yêu cá nhân mà đã trở thành hạnh phúc của cả
dân tộc khi non sông thống nhất.
Gặp bạn gái của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc: Mãi xanh những lá thư tình...
Khi cuốn Nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi
của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đến tay các bạn đọc trẻ tuổi, rất nhiều
người trong số họ đã gọi điện đến NXB Thanh Niên với một câu hỏi: Người
con gái "đánh thức trong ta những niềm xao xuyến đã chết lặng và làm cho
hồn ta, trái tim ta tràn đầy hạnh phúc..." (trích Nhật ký liệt sĩ
Nguyễn Văn Thạc) là ai ? Người con gái đã đi vào giấc mơ màu xanh của
liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc có cái tên như tiền định: Như Anh, Phạm Thị Như
Anh. Thanh Niên cuối tuần đã gặp gỡ và trò chuyện với chị ...
Cách đây hơn 35 năm, có
một cuộc gặp gỡ giữa cô con gái rượu của luật sư nổi tiếng Phạm Thành
Vinh (nguyên Chủ tịch Hội Sinh viên Đông Dương, nguyên Chánh văn phòng
Bộ Quốc phòng), là cháu ngoại cụ Hồ Đắc Điềm (nguyên Chủ tịch Hội Luật
gia Việt Nam, nguyên Phó chủ tịch đầu tiên của Ủy ban Hành chính Hà
Nội), với anh học sinh nhà nghèo ở làng Bưởi Nguyễn Văn Thạc. "Khi đó
Thạc học lớp 9, tôi học lớp 8 cùng Trường Yên Hòa B. Khi ấy Thạc là Bí
thư Đoàn trường, còn tôi cũng là một trong những học sinh A1 (giỏi toàn
diện) của trường. Năm 15, 16 tuổi tôi có viết một số truyện ngắn và được
NXB Kim Đồng in. Thạc để ý đến tôi từ khi đó nhưng cũng để ý thế thôi.
Trong trường, Thạc nổi tiếng học giỏi văn, khi biết tin anh đoạt giải
nhất cuộc thi học sinh giỏi văn toàn miền Bắc năm học 1969-1970, chúng
tôi phục lăn"...
* Đã bao giờ chị tự hỏi anh Thạc thích... rồi yêu chị từ lúc nào chưa?
![]() |
Cắt ngang câu chuyện,
chị Như Anh khệ nệ bê ra một chiếc cặp đen nặng trĩu để lấy bức thư.
Trong một chiếc cặp nhựa màu xanh, chị từ từ rút ra hai tập thư dày cộp
ngả màu được cất giữ cẩn thận. Có điều lạ, hai chồng thư của anh Thạc và
chị Như Anh lại được viết cùng một kiểu chữ. "Tôi luyện chữ theo anh
Thạc đấy!" - chị Như Anh cười giải thích.
* Sau đó điều gì đã xảy ra?
- Bình thường bố tôi sẽ
xé ngay bức thư hoặc viết thư trả lời thay tôi vì không cho tôi nhận thư
con trai, nhưng lần này ông lại cất bức thư. Đến tháng 12 tôi mới tìm
được lá thư, ngày 4.3.1971 tôi viết trả lời anh: "Hôm nay thức học
khuya, tôi bỗng nhớ đến Thạc, không có chút gì lãng mạn đâu. Trời mưa,
khó mà định nghĩa được mưa xuân, mưa thu hay mưa đông... Cơn mưa quyến
rũ tôi đến mức tôi phải mở cửa đi ra đường. Không còn ai nữa. Mặt hồ đen
lặng lẽ và mênh mông. Những cơn gió lạnh se se và những giọt mưa nhớ
mong. Một sự nhớ nhung kỳ quặc sau những gì xa xăm, mơ hồ... Thạc ơi,
Thạc ở đâu, tôi đắm mình trong những tiếng thầm thì xao động của những
câu văn của Thạc trong hai bài văn năm ngoái (bài văn anh Thạc đoạt giải
nhất miền Bắc). Thạc viết câu ngắn, nhẹ nhàng, thường buông dấu chấm
lửng. Thạc ơi, phút giây này tôi mới thấy cần Thạc biết chừng nào, dường
như chúng ta đã nói chuyện được với nhau nhiều lắm. Tôi khát khao muốn
viết lại những cảm xúc của mình. Nhớ đến Thạc và viết cho Thạc là hơn
cả... Thạc là người tôi rất cảm phục và rất quý tuy ít gần gũi trong môi
trường phổ thông, nhưng tôi ít tìm được một người nào đó tin tưởng và
cảm phục như Thạc. Có thể nói là chưa có ai...". Thạc đã viết câu thơ
bên lề bức thư này của tôi: "Trời có mưa không mà mưa mưa, gió gió/Có lẽ
nào trăng ở giữa mùa đông".
* Trong nhật ký của
mình anh Thạc viết "Không biết từ khi nào tôi cảm thấy có trách nhiệm
với đời từ cái ngày 9.3", đó có phải là ngày anh nhận được bức thư này
của chị không ?
- Đúng đấy. Ngay sau đó
anh viết một lá thư rất tình cảm: "Nhận được thư của bạn chiều nay, chao
ôi cái nắng chạng vạng của buổi chiều cũng run lên... Mình bồi hồi, xao
xuyến như gặp một điều gì từ lâu lắm đã nằm sâu trong kỷ niệm ngọt ngào
của tâm hồn mình...". Sau đó Thạc viết thư liên tục cho tôi. Số thư
Thạc viết cho tôi cũng bằng cuốn nhật ký của anh.
* Trong nhật ký anh Thạc rất nhiều lần nhắc đến màu xanh. Đó có phải là màu anh chị cùng yêu thích?
- Anh ví tôi như màu
xanh của bầu trời, người ta vừa có thể nhìn thấy được nhưng lại không
nắm bắt được. Có bức thư Thạc viết: "Như Anh có biết câu thơ này của
Bằng Việt không nhỉ: Mùi hương mật lẫn mùi hương cỏ đắng, bay thì thào
trong không gian xanh". Thư của Như Anh chính là không gian xanh ấy...
Như Anh đem lại cho Thạc một điều gì thật ngọt ngào như mùi hương cỏ
đắng... Ngoài vòng tay ôm ấp của mẹ, Thạc chưa bao giờ được những vòng
tay vỗ về, an ủi của một người con gái... Biết bao nhiêu người con gái
mình đã quen biết nhưng tâm hồn họ chưa có được những sợi tơ tâm hồn
thật mảnh khiến Thạc quý trọng. Thư của Như Anh đã bù lại sự trống trải
trong tâm hồn mình...".
* Tại sao trong cuốn nhật ký, có lúc anh Thạc viết những dòng chữ yêu thương cho Như Anh, khi lại viết cho P...?
- P là Phạm, họ của tôi.
Chúng tôi thường phải viết tắt, Thạc hay lấy tên con gái là Lan,
Thảo... Thư từ chúng tôi gửi cho nhau qua bạn bè vì sợ gia đình biết.
* Trong những bức thư gửi chị, có vẻ như anh Thạc có đôi chút tự ti về hoàn cảnh gia đình?
- Trước khi tham gia
cách mạng, ông ngoại tôi từng làm Tỉnh trưởng Hà Đông. Gia đình tôi khá
giả và phong kiến. Tôi từng nói với anh, tôi rất cảm phục anh. Trong
hoàn cảnh gia đình khó khăn, lại đông con (Thạc là con thứ 10 trong số
14 anh em), nhưng anh vẫn học rất giỏi. Tôi tự hào được anh yêu và không
thấy có khoảng cách nào giữa chúng tôi. Chỉ có anh thấy tự ti và hay
buồn bã.
oOo
![]() |
Tháng 9.1973, gia đình
sợ chị quá đau buồn chỉ báo tin anh Thạc bị mất tích... Chị vẫn viết thư
đều cho anh, những bức thư không bao giờ gửi vì không có địa chỉ. Ngày
dài lê thê và buồn bã trên xứ người, chị vẫn mòn mỏi viết, viết thay cho
những dòng nước mắt đã cạn khô vì nhớ anh, viết cho niềm hy vọng một
ngày mai anh sẽ trở về trong vòng tay yêu thương khắc khoải của chị:
"... Tất cả mọi ý nghĩ cứ cháy trong đầu không nằm, không ngủ được...
Chúng ta phải sống, Thạc phải sống. Cuộc sống đang ở phía trước, tất cả
đang chờ đợi chúng ta. Thạc, Như Anh yêu Thạc hơn tất cả mọi thứ trên
đời. Thạc là cuộc sống, là hy vọng, là tất cả những gì tốt đẹp nhất mà
cuộc đời trao cho Như Anh... Không biết đến một lúc nào đó trái tim Như
Anh có chứa đựng nổi tình yêu của Như Anh đối với Thạc không... Chưa bao
giờ và chưa ai Như Anh yêu đến thế... Yêu Thạc hết cả cuộc đời này
không đủ. Yêu Thạc, yêu anh bộ đội, yêu dũng sĩ đâm lê dịu dàng của
em...".
Thu Hồng
Đêm trắng
Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Văn ThạcĐêm trắng trong là đêm của em
Đèn thành phố và sao trời lẫn lộn
Đêm của anh xếp kín đầy bom đạn
Pháo sáng chập chờn trộn trạo với sao sa.
"Đêm trắng trong như màu sắc thiên nga
Đêm âu sầu như ngôi nhà đổ nát
Đêm đen ấy mà vô cùng dịu mát..."
Bâng khuâng gì trong ban đêm em ơi?
Đêm của anh trong tầm bom rơi
Không thể ngủ nên đêm thành đêm trắng
Đêm bão thép chất chứa nhiều sâu lắng
Bà mẹ sinh con trai trong mờ tối căn hầm.
Những ban đêm thành cột mốc tháng năm
Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng
Đêm thao thức đón chờ ánh sáng
Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời.
Quảng Bình, 11-7-1972
Màu tím hoa mua
Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Nguyễn Văn Thạc
Đăng bởi Hằng Shine vào 30/01/2016 22:13
Lòng tôi lại nhớ em da diết
Màu tím hoa mua chẳng phải chưa hề biết
Nhưng đến giờ tôi mới hiểu màu hoa
Chẳng giấu lòng, chẳng phải giấu lòng ta
Tôi biết cô gái nào chẳng khóc
Khi đưa tiễn người con trai thân nhất
Hoa tím chín chiều nói hộ với lòng anh.
Không dừng lại đâu giữa đất nước mông mênh.
Tôi cúi xuống với cành hoa lặng lẽ
Màu hoa tím chưa bao giờ tím thế
Cánh mỏng cánh mềm mát ngón tay ta.
Những điều lớn lao trên đất nước bao la
Vẫn không quên niềm riêng nhỏ nhất
Chung thuỷ nhất là mối tình của đất
Mỗi màu hoa đều thấm đượm tình người.
Tôi đã đi rất xa em rồi
Chẳng dễ về thăm em trong phố nhỏ
E ấp cánh hoa mua vào trong sổ
Tím lòng mình và tím cả lòng em.
Đường tôi hành quân trong đêm
Hoa đã lẫn vào màu trời tím biếc
Có nhìn thấy hoa đâu mà tôi vẫn biết
Hoa mùa hè nhuộm tím cả trời mây.
Em ở đâu rồi, Bâng khuâng kẽ tay
Tháng 5, tháng 5 hẹn về thăm vườn nhỏ
Câu thơ chép tay nôn nao ý nghĩ
Hoa tím chẳng lắm lời như những dòng thơ.
Tiếng hát ai đằng sau bâng quơ
Tôi ngoái lại chào hoa lần nữa
Rừng vắng lặng... mà tôi cứ ngỡ
Có đôi bạn nào mới đón đưa nhau.
17/5/1972 - Quảng Bình
Mãi mãi tuổi hai mươi
Tuổi Trẻ trích đăng. Sách do NXB Thanh Niên phát hành tháng 5-2005
09:16' CH - Thứ ba, 21/02/2012
Chỉ
mới cách ta vài ba thế hệ, muôn vạn con người giống thanh niên chúng ta
đã vô tư chiến đấu và hy sinh với những điều đẹp nhất của tuổi thanh
xuân để lại tương lai tốt đẹp hơn cho thế hệ sau (nay sự hy sinh đó đi
vào trong thinh lặng cho dù truyền thông hô hào về kế tục truyền
thống...)
1. Vào bộ đội
2-10-1971
Nhiều
lúc mình cũng không ngờ nổi rằng mình đã đến đây. Không ngờ rằng trên
mũ là một ngôi sao. Trên cổ áo là quân hàm đỏ. Cuộc đời bộ đội đến với
mình tự nhiên quá, bình thản quá và cũng đột ngột quá.
Thế
là thế nào? Cách đây ít lâu, mình còn là sinh viên. Bây giờ thì xa vời
lắm rồi những ngày cắp sách lên giảng đường, nghe thầy Đường, thầy
Đạo... Không biết bao giờ mình sẽ trở lại những ngày như thế. Hay chẳng
còn bao giờ nữa! Có thể lắm. Mình đã lớn rồi. Học bao lâu mà đã làm được
gì đâu, đã sống được gì đâu? Chỉ còm cõi vì trang sách, gầy xác đi vì
mộng mị hão huyền.
Hai mươi tám ngày trong quân ngũ
mình hiểu được nhiều điều có ích. Sống được nhiều ngày có ý nghĩa. Dọc
đường hành quân, có dịp xem lại lòng mình, soát lại lòng mình.
Mình
bắt đầu sống có trách nhiệm từ đâu, từ lúc nào? Có lẽ từ 9-3-1971,
tháng ba của hoa nhãn ban trưa, của hoa sấu và hoa bằng lăng nước.
Những
người bạn thân yêu của mình đã lần lượt đi học xa hết cả rồi. Mỗi người
một phương. Các bạn đã đi lên phương Bắc. Còn mình, sẽ đi về phương
Nam...
Đêm Hà Bắc thật thanh bình. Thèm quá, nghe
một tiếng thì thào của cánh gió trên đồi bạch đàn... Mình đã sống trên
20 ngày bên hồ cá Yên Duyên, Yên Sở. Ở đó có những đường cây đẹp tuyệt.
Mình đã chụp tấm ảnh bộ đội đầu tiên dưới một gốc dừa, sau lưng là hồ
cá. Hoàng hôn thong thả thay màu nước. Và ngôi sao Hôm trầm tư, kiêu
hãnh đã mọc trên trời. Cuộc đời bộ đội đâu dễ dàng như thế.
Mình
đã khóc, nước mắt giàn giụa, khi các bạn tiễn mình đi, khi buổi lễ kết
thúc, khi bài Quốc ca rung bầu không khí trong lành trên Trường Tổng
hợp. Bản nhạc này đây, bao lần mình đã nghe, đã cúi đầu suy nghĩ. Nhưng
hôm nay mới thực hiểu, thực cảm một điều giản dị: Bài Quốc ca của ta,
của ta!
Khóc, không phải vì hèn yếu, không phải vì
buồn bã, mà vì xúc động. Vì buổi chia tay này thiêng liêng quá. Những
người bạn thân yêu nhất của mình không thể tiễn mình đi được. Và bàn tay
ấy, và đôi mắt ấy, giọng nói ấy... Lên xe rồi, xe nổ máy. Xe VN sản
xuất, tiếng động cơ như tiếng tim mình vậy.
Nghẹn
thắt vì một cảm giác khó tả, mình ngước nhìn lần cuối cùng cánh cửa sổ,
nơi hằng ngày mình bò ra, nhìn xuống lòng đường. Khoảng trời nhỏ của
riêng mình đó. Một hôm nào, những hôm nào mình mong chờ nhìn thấy bạn
của mình đạp xe qua, để mình gọi... Bây giờ, là chia tay, xe lăn bánh,
êm ru, xe đi êm, mà bọn mình xô vào nhau, chen nhau thò tay ra cửa.
Xe ơi, lao nhanh hơn, cho ta chóng tới gia đình lớn. Nơi ta gửi gắm cả thời thanh xuân của mình...
Hơn
cả khi trên tay phập phồng tờ quyết định. Vui sướng, tự hào, cảm động
làm sao khi trên người ta là bộ quân phục xanh màu lá. Anh sinh viên
quen màu trắng áo của cánh cò, quen màu xanh da trời tháng nắng... Mình
trút bỏ không thương tiếc, và trìu mến khoác lên mình màu xanh ấy. Màu
xanh của núi đồi và thảo nguyên, của ước mơ và hi vọng. Màu xanh bất
diệt của sự sống.
9g30 phải vào màn, nhưng ta thức
trọn một đêm, với bốn bề đang rạng sáng, mặt trời mọc, và em bé đã ríu
rít ở hàng ô rô xén gọn. Một tiếng võng kêu, một vệt nắng kẻ ở ngoài
hiên, một con nhện giăng tơ trên cành ổi... Có gì khác với nơi ta ở, nơi
ta gửi gắm tuổi thơ.
Ta đã bao lần đi bên sông Tô
Lịch, trước kia ta khó chịu vì mùi bùn oi nồng... Ta đã mấy lần hành
quân bên sông Tô Lịch, ta yêu sông vì bọt tăm sủi, vì màu xanh non, tươi
trẻ có công vun đắp của dòng sông. Có phải lòng sông đã quên mình nhơ
bẩn, đã chịu lòng mình mang mùi vị ấy để đem cho đời những cọng rau
muống tươi kỳ lạ, để đem màu hồng tươi cho thành phố. Sông Tô ơi, mai
trở về, ta khơi lại dòng sông, cho tuổi thơ vẫy vùng, cho con thuyền anh
chở em đi, đi vòng quanh thành phố...
Hôm nay, đi
bên sông, dưới cái nắng chang chang, trên vai là balô con cóc của Trường
Sơn. Không thể nói là nhẹ được. Quai đeo thít vào vai, ép lồng ngực
lại. Đau và bỏng rát, khó thở. Đè lên hông, ép vào lưng, ướt đầm đìa là
mồ hôi ta đấy. Ta đặt balô, và cười luôn được. Ừ, cuộc đời ta là thế.
Phải cười và phải vui. Bài hát ta yêu là Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây...
Nguyễn Văn Thạc sinh năm 1952 tại làng Bưởi, Hà Nội trong một gia đình thợ thủ công.
Năm
lớp 10 (niên học 1969-1970), Nguyễn Văn Thạc đã đoạt giải nhất cuộc thi
học sinh giỏi văn toàn miền Bắc. Với thành tích học tập kể trên, Thạc
đã được ban tuyển sinh Hà Nội xếp vào diện đi đào tạo tại Liên Xô. Nhưng
theo chủ trương chung, phần lớn những nam học sinh xuất sắc năm đó đều
phải ở lại để tham gia quân đội.
Trong khi
chờ gọi nhập ngũ, Thạc đã xin thi và đỗ vào khoa toán - cơ của Trường
ĐH Tổng hợp Hà Nội. Vừa học năm thứ nhất, anh vừa tự học thêm để hoàn
thành chương trình năm thứ hai và được nhà trường đồng ý cho lên học
thẳng năm thứ ba...
Nhưng đó cũng là thời
gian cuộc kháng chiến chống Mỹ đang bước vào giai đoạn mới. Chiến trường
miền Nam ngày càng gay go và ác liệt. Hàng ngàn SV các trường đại học
phải tạm ngừng việc học tập để bổ sung lực lượng chiến đấu cho quân đội.
Nguyễn Văn Thạc đã nhập ngũ ngày 6-9-1971...
Trích lời tựa của nhà thơ ĐẶNG VƯƠNG HƯNG
(người sưu tầm - giới thiệu) |
Em
đừng cười anh vì bộ quân phục thùng thình. Mẹ ta nghèo, rau cháo nuôi
ta, đau khổ bốn nghìn năm, chắt chiu từng hạt gạo nuôi ta. Để bây giờ ta
lớn. Phải lớn lên, phải to ra cho kịp tầm cao của lịch sử. Cánh tay này
sẽ bóp nghẹt cổ quân thù.
Hành quân từ 5 giờ chiều
đến 9 giờ đêm, đẹp lắm. Trăng đầu tháng còn đỏ quạch, cứ gợi cho ta nhớ
một cánh buồm. Đấy, cánh buồm đỏ thắm, đựng đầy gió, gió cuốn những ngôi
sao đêm, ùa vào lòng thuyền và đẩy thuyền trôi trong tâm tưởng... Ngủ
bên bờ một dòng sông, có những đường dừa thật đẹp.
Trời
trong quá, dây điện chăng như những dòng kẻ của một trang vở học trò.
Đừng bấm đèn trêu họ, cứ để họ nói chuyện với nhau. Anh con trai sắp xa
người bạn của mình. Cô ta lại về trường học tiếp. Chỉ còn vài tiếng nữa
thôi là còi tàu, là chuyển bánh. Anh dặn gì cô ấy, có lẽ chẳng dặn gì
đâu, và chỉ mỉm cười... Cậu nào đã cất tiếng hò:
“Tiếng ai như tiếng chuông vàng
Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh...”
Tiếng ai như tiếng cô nàng của anh...”
Còn tiếng này thì đúng là giọng anh Châu rồi, anh “Mộng Châu”:
“Anh yêu em lắm em ơi,
Nhưng anh chẳng dám ngỏ lời với em...”
Nhưng anh chẳng dám ngỏ lời với em...”
Lính
khoái, cười khúc khích... Những vì sao dưới sông cũng va vào nhau...
Những cánh dừa cũng nắm tay nhau tinh nghịch bay qua bầu trời thanh
bình. Tiếng động cơ như xay lúa.
Đêm đẹp vô cùng,
ta lắng nghe đất thở. Anh bạn nằm bên rọi đèn pin tìm gì, có phải anh
tìm con dế đang cần cù dạo bản nhạc đêm của Pritsvin? Không cưỡng nổi,
ta lấy giấy và viết thư cho Như Anh...
4-10-1971
“Anh
hẹn em cuối tuần/Chờ nhau nơi cuối phố/Biết anh thích màu trời/Em đã
bồi hồi, chọn màu áo xanh/Sáng chủ nhật trời trong/Nhưng trong lòng dâng
sóng/Chẳng thấy bóng anh sang/Đêm thứ hai thu vàng/Đêm thứ ba thu
tàn/Mùa đông thứ tư sang...”
Bạn, đừng hát nữa,
mà làm nao lòng bộ đội. Ta bước trên đồi bạch đàn, dưới chân là đá
sỏi... Chao ôi, bầu trời xanh quá, màu áo thân yêu của ta đã xếp lại nơi
nhà...
... Có phải đời ta là cầm AK đánh giặc. Đứng
trên đồi phun lửa vào kẻ thù, dạn dày, thầm lặng... chẳng cần ai biết
đến đâu. Rồi lúc nào ta chết, chỉ cầu xin một điều, trên nấm mồ của ta
là cây bạch đàn; cây bạch đàn mảnh dẻ...
Nằm trong lòng đất, giá còn được nghĩ, ta sẽ làm thơ, ừ, làm thơ, làm toán... Chà, lập dị, lập dị, ngớ ngẩn đến thế nữa cơ.
Sao bây giờ ghét đời sinh viên đến thế. Thõng thẹo và ọp ẹp. Phải sống khỏe mạnh, dữ dội trong lửa đạn.
Dân
quý anh bộ đội. Bọn mình đi xin tre về làm nhà ở. Tre đấy, ngoài vườn,
anh cứ ra mà chặt. Tre đực, tre cái, tre bánh tẻ đan lóng đôi, lóng mốt,
đan sọt đeo đá sau lưng. Cây tre VN, lòng bà mẹ VN, có phải bây giờ ta
mới hiểu đâu. Nhưng bây giờ ta mới được nhìn, được thấy...
Một
thế hệ đã ra đi như thế, phơi phới một niềm tin. Cảm xúc trữ tình tràn
ngập trên những trang ghi chép của chàng trai Hà Nội. Nhưng cuộc sống
gian khó cũng theo bước chân anh. Và con người lãng mạn ấy đã có lần
giật mình đau đớn trước một sự dửng dưng...
2. Chuyện đau lòng
Thằng
Mỹ, nó là cái gì mà mơ hồ như thế? Đi bộ đội, mình cảm thấy hơi mông
lung trong việc nhìn nhận kẻ thù. Hố bom còn toác ra ở trên đồi. Và cảnh
làng xóm tiêu điều, bị tàn phá ngày 29-2-1968, ta đâu có quên. Mặt mũi
thằng Mỹ thế nào? Hẳn đó cũng là khuôn mặt người bị bóp méo xộc xệch.
Hẳn đó là bộ mặt nhăn nhúm trước ánh sáng mặt trời.

Ta ngồi
đây, thanh bình như thế. Nhưng ở cuối trời Tổ quốc, bao nhiêu người con
ưu tú của dân tộc đang đổ máu, đang giập gãy từng khúc xương, đang bị kẻ
thù đày đọa và các đồng chí của ta, anh giải phóng quân kiên cường đang
nín thở đợi giờ xung trận, đang đói rét và đau nhói vết thương trên một
cánh rừng già.
Vậy mà, lại đến giờ đi ngủ. Những
cơn gió liu riu trên cành tre đưa ta vào cơn mơ - Ta lại trở về với cái
ngõ nhỏ của mình... Lạc lõng ư? Có lẽ nào!
Ta biết
giấu mặt vào đâu, vào gấu quần hay gấu áo, khi đường Trường Sơn không có
dấu chân ta? Khi cả cuộc đời ta chưa có cái niềm vui mãnh liệt của
người chiến thắng, cắm cờ Tổ quốc trên cả nước thân yêu.
26-11-1971
Cột
cây số chỉ Bắc Giang 22km. Tiến về phía đó... 600 con người gò lưng và
bước. 30kg trên lưng, đường bụi... Phải, lần nào hành quân cũng vậy.
Không còn nghĩ ngợi được gì nữa. Thiên nhiên thu hẹp bằng nắp vung dưới
gót chân người đi trước. Không gian như co, như dồn, như ép, ép mạnh vào
khắp cơ thể, vào cổ, vào vai, vào lưng, vào chân. Mệt lắm, nặng lắm. Sự
thật gồ ghề biết chừng nào.
Ta như lần tay trên cạnh sắc lạnh của cuộc đời, và nhớ da diết đến P. (*);
dường như đối lập với cái khô khỏng và dữ dội ấy là hạnh phúc êm đềm
khi đứng bên P.. Ôi, đôi vai tròn, nhỏ nhắn, gò má và đôi mắt mềm đằm
thắm biết chừng nào... Nhìn mãi, nhìn mãi mà không thấy P. đâu. Chỉ thấy
bụi, cát, ồn ào và nặng nề, mỏi mệt. Chỉ thấy gánh nặng của đời đè gí
hai vai.
Nặng quá và xa lắm. Được nghỉ là ngã luôn
xuống vệ đường, không đủ sức tháo người ra khỏi balô nữa. Nếu như có P. ở
đây, P. sẽ nghĩ gì ? Có thương mình không nhỉ? P. sẽ nghĩ gì khi người
bạn của riêng P. nằm há hốc mồm mà thở, rời rã chân tay và ngủ thiếp đi
trên cánh đồng khô đầy bụi và chang chang nắng... Nhưng nếu có P. ở đây
có lẽ mình cũng không nằm thế và sẽ đi bắt chuồn chuồn!
29-11-1971
![]() |
Ngày lên đường nhập ngũ của sinh viên Trường ĐH Tổng hợp (ảnh đăng trên báo Nhân Dân) |
Sao con đường dài thế, dài mãi.
Đến
ngã ba, chưa gặp giao liên, bộ đội ùn lại và cúi gập người cho balô đỡ
siết vào vai. Khát quá, nhưng chỉ có nước ao. Biđông chưa được phát.
Dường như cấp trên cố ý tạo ra tình huống này - “Rèn”! Chao ôi, cái chữ
đáng ghét thế!
Thôi, đây rồi, tụi quỉ, tiền trạm gì
mà “hậu” thế! Mãi bây giờ mới gặp. Và thế là “chỉ còn 3km”. Quên đi, cái
balô ác nghiệt trên vai, cái nắng trên đầu, cái nóng, cái mệt trong
người và hãy nghĩ đến cái dịu dàng, thắm thiết của đôi mắt N. Anh, của
đôi vai N. Anh, của hai bàn tay thấm mát hơi xuân...
Đỉnh
dốc là chỗ ở, vậy mà 2/3 quân số nằm lăn ở chân đồi, cúi mãi, cúi mãi,
tưởng như muốn đi bằng cả hai tay và hai chân. Bò lên, bò lên!
Nhưng,
thế còn sung sướng lắm. Thế mới chỉ là cái vất vả, cái gian khổ về cơ
thể, về vật chất. Còn cái khổ hơn, cái đau đớn về tinh thần là sự thờ ơ
của bà con trong xóm đồi.
Thấp thoáng trong nhà lưng
chừng dốc là những cặp mắt nghi ngờ, hơi xa lạ. Ta tự hỏi: Họ là ai, có
phải là bà mẹ Việt Nam từ ngàn đời thương anh bộ đội? Có phải các cháu
nhỏ, các em thơ ríu rít quấn lấy tay anh? Mà sao bàng quan thế, dửng
dưng thế... Ôi chao là buồn...
Họ nhìn quanh, lạnh lẽo và thụt vội vào nhà trong, cánh cửa tre hạ xuống, chó sủa ran...
Bọn mình mệt quá rồi, không đủ sức đứng dậy vào nhà nữa và nằm lăn dưới bóng tre mà nghỉ và kiếm cách vào nhà.
Không
gian im ắng quá. Và chẳng thấy lũ trẻ chơi trong ngõ nhỏ. Xung quanh
chỉ toàn cây, tre, chay, cây đen, cây mít. Cây um tùm như an ủi, phải,
cây lá này vẫn cây lá quê hương. Nó đâu lạnh lùng với anh bộ đội...
Nghỉ
chán, bọn mình chia nhau vào các gia đình vận động. Bẩn quá, bẩn quá,
nhà cửa có một thứ mùi chua, mốc, mùi thời gian quá dài chưa quét dọn.
Nét đặc trưng là lắm ruồi và nhiều “tàu há mồm” quá. Nhà nào ít nhất
cũng năm đứa trẻ dưới 10 tuổi! Ồn ào và luộm thuộm, chứng tỏ mức độ giác
ngộ của dân chưa cao lắm.
Vào nhà nào họ cũng
đuổi. Lắm lý do đến thế, nào là : Đợi ông ấy về... Tệ hơn, có gia đình
không thèm tiếp và trả lời: Gia đình tôi chưa có ai đi bộ đội nên không
biết đối xử với các chú như thế nào!
Bọn mình không biết nói sao nữa. Ra ư, thì chỉ có bụi tre và đỉnh đồi thôi. Phải bám vào dân mà sống! Bám lấy dân.
Thế
là chưa được cơm cháo gì, bụng đói, mệt, bọn mình vào nhà, giúp gia
đình quét dọn, gánh nước, xe tơ. Nhà ở trên đồi nên nước hiếm hoi. Phải
xuống chân dốc và ở đó có cái giếng chung của cả làng.
Vừa
làm vừa trò chuyện, vừa xin vào ở một góc nhà đặt balô thôi. Mãi đến
chiều họ mới cho vào nhà, cho giường chiếu hẳn hoi và giục “các chú nấu
cơm ăn”.
Khi đó mới biết đơn vị trước ở đây làm mất
uy tín ghê quá, toàn đánh nhau, cãi nhau, đánh cắp của nhau. 3/4 số
xoong quân dụng bị mất, rồi quân trang, quân dụng mất lung tung. Tệ quá.
Bậy
bạ thế thì thôi. Nhưng hậu quả lại dồn lên đầu bọn mình. Ngay đêm, đại
đội họp cấp tốc trên thửa ruộng còn trơ chân rạ. Phải gấp rút khôi phục
uy tín của quân đội.
Gia đình mình ở có chín người.
Bác chủ nhà 55 tuổi rồi và ngày ngày vác thuyền nan đi đánh lưới trên
sông. Tụi nhóc còn nhỏ, cô gái thứ hai tên là Thà, 17 tuổi, đi làm suốt
ngày và ban đêm cũng chẳng về. Nhưng nếu cô ta về thì cả nhà biết ngay
vì cái mồm to và liến thoắng của cô. Cái giọng chan chát nghe đến chói
tai. Khổ cho anh chàng nào vớ phải cô ấy suốt đời có lẽ chẳng được nghe
cô ấy thì thầm (!).
Còn tụi nhóc thì bẩn, bẩn lắm.
Chân tay bọc một lớp đất đen như da cóc. Toàn uống nước lã và không bao
giờ rửa tay cả. Đêm đi ngủ thì tót lên giường, sáng dậy lấy khăn mặt còn
ướt của người lớn lau cuống quít và thế là mở đầu một ngày!
Mình
rất không thích cái tò mò, cái ưa lục lọi của tụi nhóc ấy. Đặt balô
xuống là sà đến và nắn cái nọ, sờ cái kia, chẳng ra làm sao cả. Nhất là
thằng Hành, học vỡ lòng, hư lắm.
Tế bảo: “Phải rèn
bọn này mới được”. Bỏ một buổi rủ chúng nó đi chơi và dặn dò: “Các chú
để súng đạn trong balô, đừng đụng gì đến nó nổ”...
Thế là ổn. Còn phải vệ sinh vệ sống cho các ngài nữa chứ. Rõ khổ.
Nhưng
cũng thấy thương gia đình và các cháu. Lỗi ấy đâu phải vì bố mẹ hay vì
bản thân chúng. Mà vì thằng đế quốc, vì lụt lội. Vì kẻ thù của dân tộc ở
bên kia bờ Thái Bình Dương...
Tuổi 20 nồng nàn
và hăng hái ấy cứ nhớ đi nhớ lại một nỗi xao xuyến khi người con gái anh
yêu nhẹ nhàng đặt bàn tay mềm dịu lên bờ vai anh...
Đó
là buổi tối cuối cùng của họ. Xa nhau rồi, anh ngơ ngác tự hỏi có lẽ
nào tất cả chỉ là như thế, vĩnh viễn cũng chỉ là như thế. “Có lẽ nào đó
là tột cùng của hạnh phúc?”.
Nỗi xúc động đau đớn bỗng trào lên trong lòng người đọc hôm nay...
3. Nhớ Hà Nội, nhớ một người
![]() |
Như Anh (ảnh chụp tại Liên Xô năm 1971) |
Bọn
nó trốn về nhiều, có lẽ vì không chịu được cái cảnh nhớ nhung đáng sợ
này. Từ đây ra đường 18 chỉ có một khoảng đồng. Ở xa này, nhìn ôtô, xe
đạp lăn từ tốn qua các thân cây mà muốn chạy vù xuống đó.
Rồi
Hà Nội, gia đình, đường Nguyễn Ái Quốc và phố Nguyễn Du... Bao nhiêu
điều hứa hẹn còn bỏ dở, bản nhạc dừng lại ở âm da diết nhất... N. Anh,
giữ ngón tay yêu dấu ấy ở phím đàn và đừng buông ra, đừng buông, nghe
thấy không, N. Anh, đừng mỏi mệt...
Không ai muốn
cuộc đời mình phải buồn bã cả, nhưng rất ít người trên đời này đạt được
điều mình mong muốn. Mất mát nhiều, nhưng cố gắng làm sao cho mình khỏi
thất vọng, khỏi mất nghị lực luôn hun cháy lòng mình. Đó mới là điều
quan trọng.
Thư cho Phong, mình viết: “Còn nhớ không Phong, dạo lớp 10, Phong đọc trước lớp bài Đường chúng ta đi
khiến hai đứa mình cảm động. Ở cái cành ổi đã nhẵn bóng vết tay mình,
Phong với mình ao ước được sống những giờ phút như thế. Giờ phút Phong
bảo con người với đất nước là một và người lính trở thành con người lý
tưởng của thời đại”.
Mình gửi cùng lá thư là những đoạn Đường chúng ta đi
học thuộc từ hồi đi học. Phong có nhận được không, qua Trường Sơn, qua
dốc Bà Định, dốc Nguyễn Chí Thanh, qua chặng đường quyết thắng. Và trong
bom đạn, Phong có trả lời câu hỏi mà cuộc sống đặt ra...
Thường
khi, do tác động tích cực của văn học và sách báo tuyên truyền, người
ta có suy nghĩ và cảm xúc tiến bộ, khá mãnh liệt đằng khác. Nhưng ít ai
kiểm tra mình xem tình cảm và suy nghĩ đó có thật là bản chất của mình
hay không.
Có thật nó bắt nguồn rễ sâu xa từ tận
cùng cảm nghĩ, từ đáy lòng mình? Có ai tự kiểm tra mình, tự kiểm tra
cảm xúc và suy nghĩ của mình, xem bản thân mình có lấy những rung cảm
tốt đẹp đó làm quan niệm sống, chứ không phải làm một thứ đồ trang sức
rủng roẻng?
Chính trị viên Các hỏi mình thích đi
đâu. Mình chỉ thích bộ binh, đánh nhau thế mới khoái và ít bị phụ thuộc
vào máy móc. Vả lại, đi bộ binh gần dân hơn, biết nhiều điều thú vị
hơn.
3-12-1971
Vẫn như hôm qua, ngủ và chơi bời lêu lổng. Chán ngán lắm rồi, bắt đầu đi lùng trong xóm.
Hết
mía lại sắn, sắn ăn chóng no, chóng chán. Ở đây chỉ có thế. Và nếu chán
thì chịu, dân đi làm đồng hết cả rồi, chẳng có ai ở nhà mà nói chuyện.
Quanh quẩn với cái sân phơi rơm rạ, với cái vại chỉ hai gánh nước là
đầy. Ngủ chán rồi lại thức, lại nóng ruột.
Lại thêm ba người nữa “tút” về Hà Nội. Họ không chịu nổi tình trạng nằm đợi ghê sợ này.
Lê
Như Thanh và Đỗ Thành xin mãi cũng được về. Thanh nó khoái lắm và vanh
vách kể cho mình cuộc sống đang phát triển của thủ đô. Nó không dám đến
trường vì sợ xúc động. Thanh bảo không dám kể tình hình thật của đơn vị
cho gia đình vì nó sợ gia đình không yên tâm. Toàn bốc phét nào là tập
ít, ăn khỏe, sướng, vui... rồi triển vọng binh, quân chủng cao xa...
Còn
Thành thì khác. Anh ta tưởng bà mẹ “bôn” lắm. Thế là kể ráo. Bà ngồi
yên lặng nghe đứa con trai nhỏ của mình thủ thỉ. Suốt bữa cơm bà không
nói không rằng. Và khi con đi, bà òa lên khóc, đứng chắn ở cửa nhất định
giữ nó ở nhà.
Thế đấy, mẹ mình chắc là không thế.
Mẹ mình chưa khóc bao giờ trong những lần tiễn con đi. Mình lại nhớ câu
thơ của Trần Vàng Sao, đại ý: Bao nhiêu nước mắt mẹ thấm vào vạt áo, để
đường con đi không bị ướt... Mẹ mình dũng cảm lắm, biết hi sinh lắm.
Nghĩ
về Hà Nội là nghĩ về N. Anh, nghĩ đến những ngày bên nhau đi trong
hương đêm mùa hè, của đêm mùa thu... Ta gặp nhau làm gì nhỉ? Ta nắm tay
nhau làm gì nhỉ? Ta siết chặt trong nỗi xúc động làm gì... N. Anh bé nhỏ
yêu dấu đêm nay ở đâu... Thương N. Anh thật nhiều mà không biết nói
sao, không biết làm sao cả.
Tội nghiệp N. Anh, cứ
phải buồn mãi, buồn dai dẳng... Sao không vui với bạn bè mỉm cười. Mùa
xuân... đâu rồi? Đêm gần nhau nhất lại là đêm chia tay. Hạnh phúc thả
những đốm sáng bay lơ lửng trên trời. Vũ trụ bao la quá mà tay N. Anh
nhỏ nhắn chừng nào...
Bao nhiêu đêm nằm mơ, mình trở
lại buổi tối cuối cùng, khi N. Anh dừng xe ở đằng sau và đặt nhẹ bàn
tay lên vai trái. Mình ngoảnh lại... thế rồi không còn mơ được gì nữa,
cứ trượt theo những đường cong mềm mại... Mai, ta xa nhau rồi, vậy mà có
ai nói được với ai điều gì đâu, cứ mặc làn gió thơm mùi đồng nội vuốt
ve mái tóc...
Mới đó mà ta xa nhau, thật là kinh
khủng. Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế. Có lẽ nào tất cả chỉ là như thế
và vĩnh viễn cũng chỉ là như thế. Có lẽ nào đó là tột cùng hạnh phúc?
Còn sau này chỉ là đau khổ và mòn mỏi, hối tiếc...
Phải
chi đừng gặp N. Anh thì bây giờ đỡ hối hận biết bao. Dẫu có phải mất đi
những tháng năm đẹp đẽ ấy cho N. Anh bình yên và hạnh phúc.
Tội
lỗi đó không bao giờ mình có thể tự tha thứ cho được. Càng nghĩ nhiều
càng thấy mông lung và thương N. Anh, thương cả mình nữa. Trái tim ơi,
vỡ ra và đừng bao giờ rung nữa. Cho ta thảnh thơi, cho N. Anh hạnh
phúc... Buồn lắm, cuộc sống riêng của mình. Càng nghĩ càng buồn, nhất là
trong những ngày này.
Bao giờ mình mới thoát khỏi sự chờ đợi đáng ghét như hôm nay? Đi chiến đấu chắc say sưa và hào hứng hơn chăng?
Thông
bảo mình đi hỏa lực bộ binh. Mình thích lắm. Nhanh nhanh mà đi B chứ
không thì hết địch đến nơi. Nghe phong thanh trên bộ lấy lính lái xe
tăng, tụi nó thích lắm. Thích gì cái con rùa thép ấy, chỉ oai ở ngoài
này thôi chứ khó mà được vào trong ấy.
Đại đội
trưởng Châu mới về, trẻ măng, 24 tuổi. Anh là biệt động của Quảng Ngãi.
Nghe kể dạo tổng tiến công mà tiếc đứt ruột. Dạo ấy mình lớp 8 nhỉ, còn
nhỏ quá.
7-12-1971
... Không ai phút này cảm thấy cô đơn
Nhưng da diết vẫn gợi về Hà Nội!
Phố nhỏ se se đang mùa gió nổi
Có chút gì xúc động mãi theo đi...
Nhưng da diết vẫn gợi về Hà Nội!
Phố nhỏ se se đang mùa gió nổi
Có chút gì xúc động mãi theo đi...
Bằng Việt nhỉ, ừ, Bằng Việt, trong một Mùa xuân xa Hà Nội.
Nhưng bây giờ lại đang là mùa đông. Lẽ ra đang lạnh. Vậy mà chưa. Năm
nay rét muộn nên rét dữ. Không biết bao giờ mới như Trường Phước Mãi hôm nay mới thực đông về...
Hôm 5-12, được về qua Hà Nội mấy tiếng đồng hồ, mới cảm thấy hết hạnh phúc đơn sơ mà ngày thường không để ý.
Xe dừng lại ở bến Nứa, mình vội đến luôn nhà các bạn, đến trường...
Trường
Tổng hợp như hẹp hơn hôm qua, ít gặp người quen thuộc. Dừng lại dưới
chân cầu thang, bùi ngùi và buồn vô hạn... Tất cả như vụt đứng dậy! Vụt
ào ra, ôi, kỷ niệm... Và đậm đà là bóng dáng N. Anh, hôm qua, hôm qua,
đứng gõ cửa thật nhẹ...
Vụt ào ra, như cửa sông,
thời sinh viên say mê, hồ hởi... Giật mình, sờ lên vai áo, cổ áo. Cuộc
sống vẫn như xưa, ồn ào, nghịch ngợm. Nhà cửa vẫn bẩn và ngọn đèn vẫn
trải vô vàn đường sáng.
Dắt Hải đi chơi, một lát,
chia tay ở gốc cây thứ ba, nơi nửa năm trước, ngày 30-5, chia tay N.
Anh.. “Hải có biết tại sao mình chia tay với Hải ở đây không? Ở gốc cây
thứ ba này, mình đã chia tay với bạn thân yêu nhất của mình...”. Chỗ ấy,
cái miếu nhỏ, ngã tư, Văn Miếu...
Lại đi trên đường
Nguyễn Ái Quốc. Thú vị vô cùng, chỉ thiếu N. Anh. Nhưng, không sao cả,
“hạnh phúc bắt đầu từ chỗ biết xa nhau”...
Quả thật,
về nhà, ở bên bố mẹ, gia đình sao thanh thản lạ. Suốt đêm không ngủ,
không muốn ngủ tí nào. Nằm nhìn đỉnh màn và nghe tiếng thở của gia đình.
Tự dưng thấy mình lớn lên nhiều. Tưởng chừng có thể che chở cho cả gia
đình.
Bố mẹ yếu đi nhiều, gầy đi nhiều. Nhà cửa bề
bộn lắm. Bao nhiêu điều phức tạp giày vò bố mẹ mình. Không thanh thản
như mọi người, không sung sướng và nhàn hạ như bố mẹ người. Vì sao? Vì
sao?
Câu hỏi trả lời dễ và khó. Song ta biết cách trả lời.
Cái ôtô lăn bánh qua cầu Long Biên. Lại xa Hà Nội. Sông Hồng ơi, sông Hồng...
Bè nứa phơi trên cát bãi sông Hồng
Nơi tuổi nhỏ ta đi câu cá
Những chiếc xà lan ngày ấy nông nổi quá
Nay trầm tĩnh ngược sông chở đá chữa cầu...
Nơi tuổi nhỏ ta đi câu cá
Những chiếc xà lan ngày ấy nông nổi quá
Nay trầm tĩnh ngược sông chở đá chữa cầu...
Qua
cửa kính mờ bụi, ta bối rối chào dòng sông đỏ và nhẩm đọc vần thơ Lưu
Quang Vũ. Thế là lại xa Hà Nội, lại xa thủ đô và biết đến bao giờ?
Tạm
biệt ngôi nhà, tạm biệt con người, đường phố và những dòng cây xanh
chảy trên vỉa hè thành phố. Tạm biệt đôi mắt đen ở chân trời.
Tâm
hồn nhạy cảm ấy, dễ vui hơn mà cũng dễ buồn hơn trước cuộc đời. “Sự
thật gồ ghề biết chừng nào”, một lần anh thanh thản viết vậy. Nhưng khi
sự gồ ghề ấy đến với chính cuộc đời anh!?
Hơn 30 năm đã trôi qua, nỗi đau đớn của một tuổi trẻ trong veo như vẫn còn làm đau người đọc...
4. Những ngày buồn
![]() |
Gia đình (ảnh chụp tại Cổ Nhuế năm 1971) |
Cái gì nấp đằng sau con người ấy? Cái gì làm nên nghị lực phi thường và dễ hiểu của Paven? Thật dễ hiểu.
Mình
thèm khát được sống như thế. Sống trọn vẹn cuộc đời mình cho Đảng, cho
giai cấp. Sống vững vàng trước những cơn bão táp của cách mạng và của
cuộc đời riêng.
Hôm nay, lần đầu tiên trong đời mình
cảm thấy hổ thẹn với mọi người, hổ thẹn với Paven, Pavơlusa thân yêu.
Mình chưa phải là một đảng viên!
Buổi chiều, đang
họp A, anh Lộc gọi ra sân và hỏi mình có giấy cảm tình Đảng không. Lúc
đó, chỉ hơi thoáng qua một ý nghĩ còn mờ nhạt. Sao mình tới giờ vẫn chưa
thấy gần gũi với Đảng của Bác Hồ? Anh Lộc bỏ đi khi mình lắc đầu. Mình
như có lỗi gì đó, cái lỗi rất lớn mà bấy lâu mình không biết.
Sao
trước kia mình không hề lúc nào nghĩ đến điều đó cả? Có phải vì mình
thấy Đảng quá cao siêu và mình không thể nào với tới? Có phải vì mình
kém nghị lực chiến đấu; kém tinh thần vươn lên và cam chịu sống cuộc đời
riêng biệt, tẻ nhạt với những rung động êm đềm? Có phải vì mình thấy
trước được những trở ngại không thể nào vượt qua được mà cảm thấy phiền
lòng?
10-1-1972
Năm ơi! Năm đang ở đâu rồi?
Thật
không ngờ chiều qua lại là lần cuối cùng hai đứa ở bên nhau. Còn bây
giờ, xa lắm rồi, xa lắm, nếu Năm không quay trở về đội ngũ.
Đảo ngũ! Thật không thể tưởng tượng được.
Đêm
nay bơ vơ ở đâu, ở trên một chặng đường xe lửa hay một con đường lay
lứt? Năm có cảm thấy lạnh lùng, trống rỗng hay không? Chắc mày trách tao
lắm hả, ừ, tao tự trách mình nhiều lắm, sao để mày như thế, sao để mày
như thế...
Sao trước kia không thương mày nhiều hơn
nữa, không gần gũi mà hiểu mày hơn nữa. Giấy truy nã mày tao cầm trong
tay đây. Sớm mai sẽ có người xa lạ nào cầm đọc, người ta sẽ nguyền rủa
mày, khinh bỉ mày Năm ơi!
Năm ơi, quay trở lại đi,
quay lại và rủ thằng Thỏi nữa, đồng đội và tao đang chờ mày. Cái giường
ọp ẹp vẫn dành chỗ ấm nhất cho mày đó. Sao mày lại bỏ đi mà ngủ trên một
quãng đồng trống trải, lạnh lùng... Năm à, quay lại đi!
4-3-1972
12 giờ 15
Cứ
mỗi lần bỏ cái mũ ra, người ta lại ồ lên kinh ngạc vì mái đầu bạc của
tôi! Sao người ta tàn nhẫn thế hở những người xung quanh? Thử giật một
sợi tóc vô tình, phần lớn là tóc bạc, những sợi tóc trong trẻo, trắng
muốt thế, mà lại là nỗi buồn êm dịu, nỗi buồn dai dẳng, đau đớn và dữ
dội của lòng tôi ? Chẳng lẽ tôi đã già đi như vậy? Già trước tuổi, già
trước tất cả những gì tôi đã trải qua và chưa hề trải qua?
Tôi
lo lắng chút gì về bản thân, lo nhiều vì tôi chưa làm việc ra hồn, lo
nhiều vì thời gian trôi đi nhanh và mất hút sau lỗ rách của mái lều...
Đừng
ai xem những dòng này. Vả lại cuốn nhật ký này chắc cũng chẳng bao giờ
có ai xem được. Tôi sẽ chỉ giữ những cảm xúc này cho tới lúc vĩnh biệt
miền Bắc thân yêu đi chiến đấu, và sẽ biến những trang giấy vô duyên này
thành ngọn lửa hun cay sè mắt tiễn biệt tôi. Vì chắc chắn chẳng có ai
tiễn đưa tôi cả. Tôi đi và gửi tấm thân này ở một miền đất nào đấy mà
tôi biết hoặc chưa thể biết tên.
25-3-1972
Thạc
đừng kéo Như Anh lại nữa. Thạc để Như Anh đi đi. Thạc sống một mình như
vậy nhé. Hạnh phúc của đời chỉ dành cho Thạc thế mà thôi.
Phải,
giờ đây tôi ân hận rất nhiều. Tôi tự trách mình sao đã tìm đến Như Anh.
Phải, bao nhiêu lần tôi nhủ Như Anh đừng chờ tôi làm gì nữa. Nhưng
chính lúc tôi nói những điều ấy trong thư, thì tâm hồn và trái tim tôi
bàng bạc một dòng tha thiết: chờ Thạc, Như Anh nhé. Chờ Thạc, như cô gái
VN chung thủy trọn đời với người yêu đi chiến đấu. Chờ Thạc, như cô gái
trong bài thơ của Tế Hanh: Em chờ anh không biết có thời gian...
7-5-1972
Người nhà Nguyễn Văn Thạc kể lại, trước Cách mạng tháng 8-1945 Thạc có người bác họ làm phó lý ở quê.
Trong cải cách ruộng đất, ông này bị quy là thành phần “địa chủ, cường hào” (sau này ông đã được “sửa sai” và mất vì tuổi già).
Thêm nữa, bố mẹ Thạc từng có một xưởng nhuộm và dệt thủ công, với khoảng 15 người làm, toàn con cháu trong nhà.
Dù
phương tiện máy móc của cái xưởng nhỏ này đã bị “sung công” vào hợp tác
xã, khi xảy ra chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ và gia đình đã bị
phá sản, nhưng bố mẹ Thạc vẫn được coi là “tiểu chủ”...
ĐẶNG VƯƠNG HƯNG
|
Từ rất lâu rồi mình vẫn mơ hồ về gia
đình của chính mình. Những người khác, những người bạn khác của mình họ
thường tự hào về hoàn cảnh xuất thân của họ. Tự hào về các anh chị và
các em, ông bác, ông chú xa xa, gần gần của họ. Rồi còn vô vàn cái để họ
tự hào nữa. Mỗi khi nhắc đến lý lịch là người ta lại cảm thấy trào dâng
lên một niềm vui, một nỗi sung sướng pha chút gì kiêu ngạo. Có lẽ bởi
vì con người họ không có chút gì đáng tự hào nên họ phải làm như thế
chăng?
Cũng phải thôi, vì bản thân họ rất sung sướng
được sống và sinh ra trong một gia đình cách mạng, cha mẹ, ông bà họ là
những người đã đổ xương máu cho dân tộc, cho giai cấp. Và giờ đây, Đảng
đặt lòng tin vào con em các bậc tiền bối cách mạng ấy.
Chao ôi, bao nhiêu lần mình ao ước có được hạnh phúc xa vời ấy, được Đảng tin và trao cho những nhiệm vụ nặng nề.
Khi
còn ở trường phổ thông, dẫu sao quan hệ chính trị cũng còn bằng lặng.
Tuổi thơ trong sáng biết chừng nào, nó chưa bị vết đen của quá khứ gia
đình đè trĩu hai vai. Người ta hoàn toàn được bình đẳng với nhau trong
mọi quan hệ. Chỉ vì hơi gợn một chút qua thái độ của cô hiệu phó cấp III
một ít. Song, còn thoải mái lắm.
Ở trường đại học,
nhất là Trường Tổng hợp, nhà trường chú ý nhiều đến chuyên môn và ít chú
ý đến chính trị mấy. Người ta lao vào học tập, vào những cuốn sách, và
cứ nghĩ rằng đó là chống Mỹ cứu nước rồi. Không nhiều lắm những người
chỉ thích đi làm cán bộ lớp, cán bộ Đoàn như kiểu Thuỵ, Qui... Vả lại,
trong trường ĐH, con em gia đình không cơ bản không phải là ít. Đầy rẫy
ra đấy. Mà phần lớn lại là những đứa học giỏi, rất giỏi của lớp!
Còn
giờ đây thì khác nhiều rồi. Đâu ra đấy cả. Cùng là hai người không hề
khác nhau gì về bản thân họ nhưng lý lịch trong sạch, nhất là đỏ thực
sự, là khác nhau lắm rồi.
Rất nhiều khi đứng nhìn
đoàn bộ đội đi qua, mình cũng thấy lẻ loi, lẻ loi quá đi mất! Khuôn mặt
nào cũng đẹp, mình cứ nghĩ chỉ có những người cộng sản thực sự mới sinh
ra được đoàn quân ấy. Họ đi, họ đi... và có lẽ họ chẳng biết rằng họ
đang được hưởng một gia sản quí báu mà ông cha ruột thịt của họ mang
lại.
Cứ mỗi lần khai lý lịch, mình lại buồn, buồn
tận sâu xa. Anh Thục cảm tình Đảng từ lâu rồi mà chưa được kết nạp. Và
cứ càng về sau, nói chuyện với anh, mình lại cảm thấy anh cứ đuối dần,
cứ đuối dần. Anh cứ thất vọng dần.
8-5-1972
Thực
tình đã có dấu hiệu gì chứng tỏ mình “bị loại ra khỏi đội ngũ” đâu!
Nhưng linh tính cứ cho mình biết rằng mình không thể trở thành một đảng
viên được. Mơ hồ thấy rằng khó khăn đến với mình sẽ nhiều đây.
Không
sao hết! Miễn rằng anh sống thực sự như một đảng viên, thế đã tạm đủ
rồi. Vào Đảng để làm gì nhỉ? Khi người ta đã sống và làm việc như một
đảng viên rồi! Không nên suy nghĩ gì về chuyện ấy hết. Đảng khắc sáng
suốt và dìu dắt mình. Điều cơ bản nhất, gia đình mình là gia đình lao
động, cha mẹ mình là người lao động và hoàn toàn giác ngộ. Mình luôn
luôn tin là thế.
“Hạnh phúc là gì, bao lần ta lúng túng/hỏi nhau hoài mà nghĩ mãi chưa ra/cho đến ngày cất bước đi xa/Miền Nam gọi...”.
Một thế hệ đã đi tìm câu trả lời ở nơi đầu sóng ngọn gió.
Hạnh
phúc là gì? Hai người yêu nhau ở đây cũng đã hỏi nhau như thế. Thư gửi
cho người yêu, anh Thạc bảo sẽ trả lời vào ngày 30-4-1975. Những lá thư
của năm 1971...
5. Bức thư tình và lời hẹn hò lớn lao
![]() |
Như Anh (ảnh chụp năm 1972) |
30-4-1971
...Bốn năm nữa Như Anh “đã trở thành con người hoàn chỉnh”, đã có thể trả lời câu hỏi: “Hạnh phúc là gì?”.
Chao
ôi, Như Anh, Như Anh bé bỏng của Thạc. Sao câu trả lời của Như Anh lại
hay và đẹp đẽ thế. Ừ, phải rồi, khi nào “trở thành người lớn thực sự,
khi nào đóng góp được cho Tổ quốc, khi đấy ta mới trả lời được, hạnh
phúc là gì!”. Cám ơn thầy Nga văn ngộ nghĩnh của Như Anh đã giúp cho
Thạc hiểu được khía cạnh đẹp đẽ ấy của tâm hồn bạn.
...Bốn
năm nữa biết bao sự kiện sẽ xảy ra. 30-4-1975 thì Thạc và Như Anh đang ở
trong tình trạng nào? Như Anh ơi, hứa với Thạc đi, 30-4-1975, dù chúng
ta có thể giận, ghét nhau đến đâu đi nữa, dù thế nào cũng sẽ viết cho
nhau những dòng chữ “hạnh phúc là thế nào” nhé! Thạc sẽ nhớ lời hứa này
và sẽ chuẩn bị “ý tứ” cho bức thư ngày ấy bằng cuộc sống bốn năm sắp
tới.
Phải, thời gian sẽ là người chứng kiến cuộc
sống của chúng ta. Có thể nhiều biến cố và thử thách sẽ đến. Nhất định
thế, vì Như Anh hãy nhớ rằng: đời Thạc, một cuộc đời đầy rẫy mâu thuẫn
và đau khổ, đầy ước mơ và rạo rực, đầy những dằn vặt và thử thách lớn
lao. Thạc sống không bình thường và không muốn sống bình thường.
Muốn
có nhiều thử thách, nhiều “lang bạt”, muốn như cánh chim đại bàng đứng
trên đỉnh núi cao, nhìn ra bốn phía, nơi nào có bão táp, có mưa, có gió
là nơi Thạc sẽ đến. Thạc sẽ không chỉ đơn thuần là một sinh viên tổng
hợp toán. Như Anh hãy nhớ thế. Đừng một lúc nào nghĩ Thạc là một “ngài
sinh viên” nhé! Không, Thạc không chỉ tầm thường là một ngài sinh viên
đâu. Thạc đã và sẽ sống hai, ba cuộc sống gian khổ, phức tạp. Cho đến
khi nào Thạc không còn tồn tại, khi đó mới hết những cơn giông tố.
...
Như Anh chưa thể hiểu được câu Thạc viết: “Như Anh là một điều đau buồn
của Thạc... Như Anh là màu xanh da trời kỳ dị... Như Anh là trái mơ
chua (!)...”.
Phải, Như Anh chính là vậy. Như Anh sẽ
là điều đau buồn của tâm hồn Thạc, vì Như Anh sẽ chẳng ở lâu với Thạc.
Như Anh sẽ xa và quên Thạc, sẽ để lại cho Thạc một khoảng trống mênh
mông, sẽ lấy đi của Thạc một nguồn động viên an ủi, một âm thanh, không,
cả thế giới âm thanh, cả một khu rừng muôn vàn cây lá, muôn vàn tiếng
chim lích tích, lích tích, lảnh lót và ngân dài... Sẽ lấy của Thạc cả
một dòng sữa và một dòng ánh sáng.
Màu xanh da trời
kỳ dị kia. Ừ, cũng là Như Anh đấy, quen thuộc và gần gũi, thân yêu và
trong sáng, giản dị nhưng vô cùng độc đáo và đẹp đẽ, nên thơ, rất cao và
rất gần, rất rộng nhưng nó nằm trọn vẹn trong ánh mắt. Màu xanh da
trời, chao ôi, không bao giờ người ta có thể nắm lấy nó, để bàn tay trên
nó, chưa bao giờ được thực sự “gần gũi” nó cả. Cái màu xanh ấy, màu
xanh da trời kỳ dị, nó ở xa, rất xa và ở trên rất cao. Lúc nào và hôm
nào ta cũng thấy, cũng ngưỡng mộ. Nhưng nó là màu sắc của bầu trời...
Cám ơn Như Anh đã gửi Núi đồi - thảo nguyên
cho Thạc, câu chuyện làm xao động tâm hồn Thạc nhiều. Và cái quạt nữa
(chỉ tiếc, nếu dùng luôn thì một lúc nào đó sẽ rách). Như Anh tặng Thạc
cái gì giữ được ấy, chứ quạt thì khó giữ lắm, mà rách thì rất tiếc.
...Thư
dài rồi mà chẳng nói được gì cả. Như Anh sẽ trả lời Thạc chứ! Không
biết thư này đem đến cho Như Anh niềm vui hay sự phiền toái. Thạc chỉ
muốn như Anđecxen, đem cho Như Anh quả thông và lá cỏ, đem đến cho Như
Anh những câu chuyện có thực mà như một giấc mơ...
4-9-1971
Như Anh yêu dấu,
Sáng nay, buổi cuối cùng ở nhà. Bạn của L. (*)
đang ngồi ngoài kia, song toàn bạn gần nhà nên L. “được phép” vào viết
thư cho Như Anh. L.muốn viết, muốn tặng Như Anh những giây phút quí giá
mà L. đang còn là “tuổi nhỏ”. Ngày mai, những con chim câu vĩnh viễn bay
vào khoảng trời đầy nắng gió kia...
Thật đáng tiếc
biết bao, những ngày này trăng rắc bụi vàng trên các nẻo đường Hà Nội.
L. của Như Anh đi cô độc và bình thản dọc theo hướng gió, gió lướt thướt
kéo qua L. những lời quyến rũ, không, chẳng có gì quyến rũ nơi L. đâu.
Gió, gió ơi, gió biết chăng ở thủ đô của xứ Mônđavi mùa đông phủ đầy
tuyết trắng, có một bông hoa xanh màu ngọc bích, có một tia nắng của bầu
trời, một làn gió nhớ thương, có một bài thơ, một trang cổ tích...
Gió
có biết câu chuyện về bà chúa tuyết? Và gió hãy tìm đến ngôi nhà mà ta
đề ngoài phong bì ấy, tìm gặp người nào cao cao, thanh mảnh, tìm đến đôi
mắt nào đẹp nhất, tìm đến cái tên nào đẹp nhất, cái tên mà ta hay nhắc
nhở trong những giấc mơ buồn, trong những giấc mơ vui, cái tên đẹp như
ánh sáng xanh mà Sôlôkhôp thường ca tụng...
Gió hãy
thầm thì thay ta nhé, nói gì cũng được, miễn là gió đem đến cho người
ta yêu dấu hương vị nồng nàn, thanh bạch của trăm loại hương hoa, miễn
là gió đem đến cho tâm hồn tuyệt đẹp của ta màu đỏ của lá phong mùa thu,
và cánh chim câu bay đi từ ga Hà Nội...
Ừ, rồi đây
cuộc sống sẽ khác xa, L. chưa hình dung nổi cuộc đời bộ đội của mình.
Gian khổ, khó khăn, vất vả, chết chóc, hi sinh, tàn phế... Ba từ đầu sẽ
đến với L., còn từ sau, không biết sẽ chọn lấy từ nào? Bàn tay nào, bàn
tay của kẻ nào bên kia đại dương sẽ nhằm vào L. của Như Anh?...
Ngày
mai, nếu ta chẳng gặp nhau, Như Anh đi trên những nẻo đường của ký ức,
Như Anh nhìn vào đôi mắt nào gần gũi hay xa lạ với L., hãy nhớ L. một
chút. Hãy nhớ rằng, ừ, có một người tên là L. đấy, đã chết rồi. Nhưng
trước khi chết, người ấy đã sống và đã ghép tên Như Anh với vô vàn tính
từ âu yếm...
Ở đâu L. cũng không quên Như Anh. Nhưng
Như Anh nhớ nhầm rồi, L. bảo ngày 30-4-1975 mới trả lời câu “Hạnh phúc
là gì?” cơ mà, chứ có phải 11-4-1975 đâu?
L. bỗng nhớ câu thơ của Phạm Tiến Duật:
Dân tộc ấy có gì kỳ lạ
Một nước bao nhiêu là đá vọng phu
Những năm tháng đợi chờ
Chỉ một là người, hai là hóa đá
Dân tộc ấy có gì kỳ lạ...
Một nước bao nhiêu là đá vọng phu
Những năm tháng đợi chờ
Chỉ một là người, hai là hóa đá
Dân tộc ấy có gì kỳ lạ...
Hôm
nay, 4-9-1971, buổi sáng cuối cùng trên quê hương, lúc này là 11g trưa,
nắng đỏ hồi, đỏ lửa... Lát nữa, 2g L. tập trung, chẳng có ai ra tiễn
cả, kể cả gia đình, L. đi như đi học, thanh thản và nhẹ nhàng... Ừ, L.
đi học, trường đại học cộng sản Như Anh nhé, chờ L. nhé...
18-9-1971
... Lecmôntôp, với câu thơ nổi tiếng mà Như Anh chép cho Thạc bỗng dưng lại trở về bên Thạc: Thuyền cần gió táp mưa sa...
Bất
kỳ một sự vinh quang nào cũng cần phải trả bằng một giá, và khó khăn
gian khổ càng nhiều, và thử thách càng nhiều, sự vinh quang đó càng trở
nên rực rỡ.
Chúng ta đừng đi tìm những chân lý sâu
xa đơn thuần qua những áng văn và những bài thơ, bài toán. 30-4-1975,
Thạc sẽ trả lời cho Như Anh câu: Hạnh phúc là gì? Khi Như Anh chào cờ,
khi điệu nhạc quốc ca hùng tráng trỗi lên, Như Anh chắc rất xúc động,
nhưng khi tiễn ở trường, Thạc đã khóc và tất cả 300 con người sắp vào bộ
đội đã khóc. Ôi chao, buổi đó thật là xúc động. Cả người run lên, rờn
rợn. Thế là từ nay trong khúc nhạc này, có một phần mồ hôi, xương máu
của đời mình.
Chống Mỹ cứu nước, thời đại bão táp
đó không kéo dài đâu. Buổi bình minh của cách mạng, phải không Như Anh?
Ai sẽ là người đi vào mờ sáng? Đó là Thạc và 300 con người ở Trường Tổng
hợp này.
Ai sẽ là người chết lúc bình minh? Không biết, nhưng nếu được xung phong, chắc không ai là người chùn bước!
26-3-1972
Như Anh yêu dấu của Thạc,
...Như
Anh biết không, khi được tin Thạc không còn trong danh sách lưu học
sinh nữa, lúc ấy Thạc buồn không thể nào tưởng được. Từ trước vẫn ao ước
được đi học nước ngoài, ở đó Thạc sẽ tiếp thu những kiến thức hiện đại
nhất của khoa học. Thạc sẽ học thật chăm, thật giỏi... Nhưng Thạc phải ở
nhà và chuẩn bị đi bộ đội. Lúc đó buồn và nản hết sức, không muốn gặp
ai cả.
Ra ga tiễn các bạn đi, vừa tủi thân vừa có
chút gì xấu hổ (ôi chao, cái thời vừa chập chững vào đời ấy, có gì đáng
trách đâu Như Anh nhỉ?). Thế rồi, suốt cả vụ hè, thở ngắn than dài. Mùa
hè ấy Thạc đã đọc rất nhiều tác phẩm văn học. Lần đầu tiên đọc trọn ba
tập tiểu thuyết tự thuật của M.Gorki, Thạc hiểu rằng không thể nào làm
được điều gì lớn lao nếu cuộc sống của mình không thực sự lớn lao.
Chẳng
gì có thể ngăn cản được con người khi bản thân họ nung nấu trong lòng
một nghị lực phi thường không gì dập tắt nổi. Khi bản thân họ đang nuôi
một ước mơ chân chính: trở thành người có ích cho đất nước. 17-7-1970
thi đại học thì 15-7 Thạc mới đi vào ôn thi. Hai ngày thôi, chỉ có hai
ngày mà Thạc của Như Anh ôn xong hoàn chỉnh cả toán, lý và hóa. Và với
lòng tự ái ít nhiều, Thạc của Như Anh đã làm tốt nhất hai bài lý và hóa,
với điểm toán thấp nhất là 7.
Bây giờ đây Thạc muốn
nói với Như Anh điều mà Thạc còn e ngại mãi: chờ Thạc, Như Anh nhé! Chờ
Thạc đi chiến đấu trở về. Chắc không còn lâu nữa chiến tranh sẽ kết
thúc thôi. Thạc sẽ trở về và lại đi học tiếp. Thạc lại mặc chiếc áo xanh
da trời xanh màu thương nhớ. Lại hò hẹn Như Anh, vì chúng ta gặp nhau ở
cái cửa sổ sơn xanh của thư viện nhân dân.
Thôi
nhé, bắt tay cô sinh viên nào. Vui và khỏe nhé. Học giỏi nhé, thỉnh
thoảng nhớ Thạc chụp ảnh và viết thư gửi về cho Thạc nhé. Cứ nhé mãi
thôi. Đừng “ghét Thạc” nhé!
Xiết chặt Như Anh. Thạc của Như Anh.
Thạc
của Như Anh đã không trở về! Không về được, dù lời hẹn hò của đôi lứa
yêu nhau đã như lời tiên tri cho ngày đoàn tụ của cả dân tộc...
Trong
một trận đánh ác liệt bên thành cổ Quảng Trị, một loạt đạn pháo của kẻ
thù đã rơi trúng chỗ chiến sĩ thông tin Nguyễn Văn Thạc... Hôm đó ngày
30-7-1972.
6. Chuyện chưa kể trong nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi
![]() |
Tác giả bài viết và ông Nguyễn Văn Thục (phải) bên mộ của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc tại nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm, Hà Nội
|
Cuộc hành trình 33 năm của cuốn sổ tay
Cuốn
sổ nói trên được Nguyễn Văn Thạc gửi về nhà từ Kỳ Anh (Hà Tĩnh), trước
khi vào mặt trận và hi sinh sau đó gần hai tháng. Tuy nhiên, do điều
kiện thời chiến, bưu điện phải gửi giấy báo tới lần thứ ba, gia đình anh
mới có người ra nhận. Chỉ chậm một hai ngày nữa là bưu phẩm có thể bị
trả lại và chắc chắn sẽ bị thất lạc vì người gửi đã ra mặt trận và hòm
thư đơn vị cũng thay đổi.
Ông Nguyễn Văn Thục (anh
ruột của Nguyễn Văn Thạc) là người đầu tiên đọc những trang ghi chép nêu
trên. Ông cho rằng người giữ cuốn sổ thiêng liêng này không ai xứng
đáng hơn là chị Phạm Thị Như Anh. Cũng giống như bao cô gái khác, lúc
đầu chị Như Anh không tin người bạn trai thân thiết của mình đã chết.
Nhưng
sự thật phũ phàng đã khiến chị sụp đổ, chán chường và buông xuôi số
phận. Như Anh đã “xé rào” để kết hôn với một người Đức (thời đó ở miền
Bắc, chuyện “lấy Tây” là rất ầm ĩ và không chấp nhận được!). Và cuốn sổ
ghi chép của Nguyễn Văn Thạc đã theo TS Phạm Thị Như Anh đi định cư tại
nước ngoài...
33 năm sau cuộc chiến đẫm máu ở Quảng
Trị, người anh ruột của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc đã tiết lộ với tôi về
cuốn sổ nhật ký nêu trên. Ông nói: “Nếu muốn công bố thì phải được sự
đồng ý của Như Anh. Đã từ lâu gia đình tôi coi em nó như dâu con trong
nhà”.
Qua địa chỉ e-mail và cả điện thoại, đã nhiều
lần chúng tôi liên lạc với TS Phạm Thị Như Anh, một Việt kiều đang định
cư tại Hannover (CHLB Đức), để thuyết phục chị. Tháng 12-2004, chị Như
Anh đã bay về nước và mang theo cuốn sổ nói trên. Ngồi trong phòng làm
việc của tôi, người đàn bà nổi tiếng là nghị lực và thông minh này đã
vừa khóc vừa kể lại những kỷ niệm của mình với liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc.
Chị bảo chính linh hồn của Thạc đã thúc giục chị phải trao “số phận” của
cuốn nhật ký này cho một nhà thơ như tôi.
Và Mãi mãi tuổi hai mươi đã ra mắt bạn đọc như chúng ta đã biết.
Ngày cuối cùng của người lính Nguyễn Văn Thạc
Nhật ký, trang cuối cùng
...Kẻ
thù không cho tôi ở lại. Phải đi. Tôi sẽ gửi về cuốn nhật ký này, khi
nào trở lại, khi nào trở lại tôi sẽ viết nốt những gì lớn lao mà tôi đã
trải qua từ khi xa nó, xa cuốn nhật ký thân yêu của đời lính.
Ừ,
nếu như tôi không trở lại, ai sẽ thay tôi viết tiếp những dòng sau này?
Tôi chỉ ao ước rằng, ngày mai, những trang giấy còn lại đằng sau sẽ
toàn là những dòng vui vẻ và đông đúc. Đừng để trống trải và bí ẩn như
những trang giấy này.
Một ngày cuối tháng 5-1972, Hà Tĩnh
Anh lính binh nhì
|
Sau này, một chiến sĩ cùng tiểu
đội với anh là Nguyễn Quang Minh đã kể lại: Loạt đạn pháo của địch rơi
đúng chỗ Thạc. Khi những tiếng nổ dữ dội vừa dứt, khói và bụi còn chưa
hết, Minh và một chiến sĩ nữa là Chương cùng chạy ra thì đã thấy Thạc
nằm đó. Một mảnh pháo chém ngang hai đùi của anh, máu chảy ướt đẫm ống
quần.
Chương hốt hoảng hỏi:
- Thằng Thạc chết rồi à?
Mắt Thạc nhắm nghiền. Anh rên khe khẽ và nói trong đau đớn:
- Không, Thạc vẫn còn sống mà, chưa chết đâu.
Máu
ra nhiều lắm. Mấy anh em vội xúm lại băng bó rồi khiêng Thạc lên trạm
phẫu tiểu đoàn, với hi vọng “còn nước còn tát”. Các giấy tờ, sổ sách,
quần áo của Thạc được anh em nhét chung vào balô của anh Y, một thương
binh khác (nhưng khi ra tới Quảng Bình thì anh Y đã hi sinh, balô đựng
di vật liệt sĩ bị thất lạc...; cùng ngày hôm đó, tiểu đội của Thạc hi
sinh bốn người: Y, Bình, Được và...).
Minh chạy theo cáng thương, rơm rớm nước mắt động viên Thạc:
- Cố lên Thạc nhé. Gắng điều trị cho nhanh khỏi, hòa bình rồi có điều kiện ghé qua nhà mình chơi...
Thạc nói khẽ, thều thào trong hơi thở đứt quãng:
- Không... Mình tỉnh thế này tức là... sắp chết rồi... Chỉ tiếc là không còn chiến đấu được nữa... Bao dự định còn dang dở...
Kể
từ đó Thạc không nói thêm được câu nào nữa. Anh đã tắt thở trong vòng
tay của đồng đội. Như nhiều người lính hi sinh ngoài chiến trường, thi
hài của anh được bọc trong một tấm tăng nilông và chôn cất ngay tại mặt
trận.
Ở nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm...
Trong
một lá thư viết năm 1973 gửi cho gia đình liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, một
đồng đội của anh là Đặng Trực Ngôn (hiện là đại tá, chỉ huy trưởng căn
cứ hải quân 696) đã thông báo địa điểm chôn cất Thạc.
Cuối
năm 1976, Công ty 16 của Bộ Giao thông vận tải được giao nhiệm vụ khôi
phục tuyến đường Hiền Lương - Dốc Miếu sau chiến tranh. Với cương vị phó
chủ nhiệm (như phó giám đốc hiện nay) ông Nguyễn Văn Thục đã báo cáo cơ
quan, xin phép được vượt sông Thạch Hãn đi tìm mộ em trai mình.
Hồi
đó, mộ liệt sĩ còn nằm rải rác khắp mặt trận, trong mấy ngày liền, anh
xã đội trưởng xã Triệu Long đã nhiệt tình dẫn ông Thục đi bộ khắp địa
phương và cả vùng lân cận. Họ cùng xem xét hàng ngàn ngôi mộ nhưng không
thấy có tên Nguyễn Văn Thạc. Tưởng đã hết hi vọng thì anh này chợt nhớ
ra ngay sau vườn nhà mình còn ba ngôi mộ nữa... Ông Thục mừng rưng rưng
nước mắt khi thấy một bia mộ có tên em trai mình. Ông định bốc một nắm
đất mang về Hà Nội để thờ nhưng sau lại thôi vì chợt nảy ra ý định khác.
Một tháng sau, ông Thục trở lại Triệu Long cùng
chiếc vali mới và đồ cúng lễ mua ở chợ Đông Hà. Ông đề nghị chính quyền
địa phương và bà con trong thôn giúp đỡ để đưa hài cốt em trai về quê.
Khi ngôi mộ được đào lên, người anh trai đã không cầm được nước mắt vì
nhận ra em mình: mái tóc cắt ngắn với rất nhiều sợi bạc, hai đùi vẫn còn
nguyên cả garô vết thương...
Khi đưa được hài cốt
em trai về tới Hà Nội thì vẫn còn dở chuyến công tác, ông Thục chưa muốn
cho ai biết nên đành giấu chiếc vali lên gác. Nhưng được đôi ngày, sợ
người nhà tò mò mở vali tình cờ phát hiện, ông phải đưa nó vào tủ quần
áo của mình và khóa lại. Mãi 10 ngày sau, đã 28 tết âm lịch, mới có thời
gian rảnh, ông Thục tự đi liên hệ chỗ chôn cất rồi thông báo cho cả gia
đình biết.
Một đám tang lặng lẽ, đầy nước mắt diễn
ra âm thầm ngay tại nghĩa trang liệt sĩ Từ Liêm. Tự tay người cha già,
cụ Nguyễn Văn Huệ, đã chuyển từng phần hài cốt của liệt sĩ Nguyễn Văn
Thạc từ chiếc vali sang tiểu sành, rồi rắc nắm đất đầu tiên, đắp mộ cho
con trai mình. Người con trai mãi mãi 20 tuổi...
ĐẶNG VƯƠNG HƯNG
NGUYỄN VĂN THẠC
Đêm trắng
(Tặng Như Anh - tác giả của 12 bài thơ Đêm)
Đêm trắng trong là đêm của em
Đèn thành phố và sao trời lẫn lộn
Đêm của anh xếp kín đầy bom đạn
Pháo sáng chập chờn trộn trạo với sao sa.
Đèn thành phố và sao trời lẫn lộn
Đêm của anh xếp kín đầy bom đạn
Pháo sáng chập chờn trộn trạo với sao sa.
“Đêm trắng trong như màu sắc thiên nga
Đêm âu sầu như ngôi nhà đổ nát
Đêm đen ấy mà vô cùng dịu mát...”
Bâng khuâng gì trong ban đêm em ơi?
Đêm âu sầu như ngôi nhà đổ nát
Đêm đen ấy mà vô cùng dịu mát...”
Bâng khuâng gì trong ban đêm em ơi?
Đêm của anh trong tầm bom rơi
Không thể ngủ nên đêm thành đêm trắng
Đêm bão thép chất chứa nhiều sâu lắng
Bà mẹ sinh con trai trong mờ tối căn hầm.
Không thể ngủ nên đêm thành đêm trắng
Đêm bão thép chất chứa nhiều sâu lắng
Bà mẹ sinh con trai trong mờ tối căn hầm.
Những ban đêm thành cột mốc tháng năm
Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng
Đêm thao thức đón chờ ánh sáng
Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời.
Đêm xanh vợi cũng trở thành đêm trắng
Đêm thao thức đón chờ ánh sáng
Đêm của chúng ta ấp ủ những mặt trời.
Quảng Bình, 11-7-1972
--------------
(Đây là bài thơ cuối cùng Nguyễn Văn Thạc gửi cho người thân. 19 ngày sau anh hy sinh - Đ.V.H.)
Nhận xét
Đăng nhận xét