Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
ĐỐ TƯ DUY (Đăng lại)
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
Giới hạn của thời gian. Sẽ ntn nếu thời gian trôi nhanh hơn hay chậm hơn?
Thời gian ta không thể chạm vào, không thể nhìn thấy, mỗi chúng ta đều
nhận thức rằng thời gian đang trôi. Nhận thức về thời gian định hình tầm
nhìn của ta về thế giới. Nhưng chuyện gì xảy ra nếu ta mở rộng tầm
nhìn đó bằng cách điều khiển thời gian? Thế giới sẽ trông như thế nào
nếu thời gian trôi nhanh? Ta sẽ thấy gì nếu thời gian trôi chậm lại? Bây
giờ ta có thể làm thế này và quan sát cuộc sống quen thuộc theo các
cách mới đáng kinh ngạc. Ta sắp tiến vào một thế giới kì lạ, một nơi
vượt trên thường thức, nơi mà ta có thể thấy các sự việc bình thường bị
che giấu, một vài sự việc là do chúng ta quá chậm, dường như không bao
giờ thay đổi. Và vài sự việc thì quá nhanh, chúng kết thúc trong nháy
mắt.
ĐỐ TƯ DUY
Ngồi buồn trơ trọi giữa không gian
Đem đố giương ra nhử thời gian
Bày binh bố trận, che mình lại
Khuây khỏa tháng ngày chí dọc ngang
Cái gì lớn nhất, lớn vô cùng
Vừa rộng vừa sâu đến mịt mùng
Chẳng cản, tung hoành, cho mặc sức
Lệch méo vuông tròn, thảy bao dung
Cái gì dài nhất, mút ngọn nguồn
Chuồi theo một hướng: hướng mông lung
O ép tử sinh không hề mệt
Dể lầm, dễ lẫn với Hóa Công.
Tách riêng hai cái, đứng bất bình
Giao hợp mới nên cái kỳ quan
Xưa kia cứ ngỡ không chung chạ
Bây giờ mới biết chúng tình tang
Hai cái quyện nhau như bóng hình
Khi co khi duỗi, ưỡn cong mình
Giở trò bất minh trong ánh sáng
Cho cái tư duy trố mắt nhìn. Trần Hạnh Thu
Đời gọi em biết bao lần - Khánh Ly
Các nhà khoa học đi tìm bản chất của thời gian và không gian
Một
số nhà nghiên cứu đã khám phá ra mối liên hệ tiềm tàng giữa thuyết
tương đối tổng quát và cơ học lượng tử. Khám phá này có thể buộc các nhà
vật lý phải suy nghĩ lại về bản chất của không gian và thời gian.
Bản chất của không gian và thời gian
Năm 1915, Albert Einstein công bố Thuyết tương đối tổng quát, trong
đó mô tả lực hấp dẫn là một thuộc tính cơ bản của không-thời gian. Ông
đã đưa ra một tập hợp các phương trình mô tả sự biến dạng của không-thời
gian liên quan đến năng lượng và động lượng
Theo Einstein thì trọng lực không phải chỉ là một lực thông thường,
như những gì nhà vật lý Isaac Newton khám phá ra nó. Trọng lực có thể
được coi như là một độ cong của không-thời gian do khối lượng của các
đối tượng gây ra.
Lý thuyết của Einstein cũng giải thích tính chất của các hố đen vũ
trụ, nơi mà có lực hấp dẫn lớn đến mức ánh sáng không thể thoát ra khỏi
nó. Cũng theo thuyết tương đối thì lực hấp dẫn cũng làm biến dạng thời
gian, nơi có lực hấp dẫn càng lớn thì thời gian trôi qua càng chậm.
Vào những năm 1970, hai nhà vật lý Stephen Hawking và Jacob
Bekenstein đã lưu ý về mối liên hệ giữa diện tích bề mặt của các hố đen
và cấu trúc lượng tử siêu nhỏ của chúng. Điều này đánh dấu những nhận
thức đầu tiên về sự liên kết giữa lý thuyết tương đối rộng của Einstein
với cơ học lượng tử.
Chưa đầy ba thập kỷ sau đó, nhà vật lý lý thuyết Juan Maldacena quan
sát thấy một liên kết khác giữa trọng lực và thế giới lượng tử. Sự kết
nối đó dẫn đến việc tạo ra một mô hình với ý tưởng rằng: không - thời
gian có thể được tạo ra hoặc phá hủy bằng cách thay đổi sự vướng víu
giữa các vùng bề mặt khác nhau của một vật thể. Nói cách khác, điều này
ngụ ý rằng không - thời gian là một sản phẩm của sự vướng víu giữa các
vật thể.
Có mối liên hệ giữa thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử (Ảnh: Internet)
Để tìm hiểu thêm, nhà nghiên cứu ChunJun Cao và Sean Carroll của Viện
Công nghệ California đã tiến hành một số thử nghiệm. Họ muốn xem thử
liệu họ có thể thu được những đặc tính của lực hấp dẫn (như đã biết
trong thuyết tương đối rộng) bằng cách sử dụng một khuôn mẫu, trong đó
không - thời gian phát sinh ở ngoài sự vướng víu lượng tử hay không?
Nghiên cứu của họ đã được xuất bản gần đây trên arXiv.
Sử dụng một khái niệm toán học trừu tượng gọi là không gian Hilbert,
Cao và Carroll đã tìm thấy sự tương đồng giữa các phương trình điều
khiển sự vướng víu lượng tử và các phương trình của thuyết tương đối
rộng của Einstein. Điều này ủng hộ ý tưởng rằng không - thời gian và
trọng lực xuất hiện từ sự vướng víu.
Carroll cho biết, bước tiếp theo trong nghiên cứu là để xác định tính chính xác của các giả định mà họ thực hiện. Ông nói: "Một
trong những điều hiển nhiên nhất là kiểm tra xem liệu sự đối xứng của
thuyết tương đối có xuất hiện trong khuôn mẫu này không - đặc biệt là ý
tưởng rằng các quy luật vật lý không phụ thuộc vào tốc độ di chuyển của
chúng ta qua không gian.” Lý thuyết của vạn vật
Ngày nay, hầu hết mọi thứ chúng ta biết về các khía cạnh vật lý của
vũ trụ đều có thể được giải thích bằng lý thuyết tương đối rộng hoặc cơ
học lượng tử. Lý thuyết tương đối rộng đã thể hiện hoàn hảo vai trò của
mình trong việc giải thích hoạt động của các vật thể trên quy mô rất
lớn, chẳng hạn như các hành tinh hoặc thiên hà. Trong khi đó cơ học
lượng tử giúp chúng ta hiểu được những điều rất nhỏ, chẳng hạn như các
nguyên tử và các phân tử nguyên tử.
Tuy nhiên, hai lý thuyết dường như không tương thích với nhau. Điều
này đã khiến các nhà vật lý cố gắng tìm một “lý thuyết vạn vật” – đây là
khuôn mẫu duy nhất có thể giải thích tất cả, kể cả bản chất của không
gian và thời gian.
Các nhà khoa học suy nghĩ lại về bản chất của thời gian và không gian (ảnh: Internet)
Bởi vì trọng lực và không - thời gian là một phần quan trọng của "mọi
thứ", cho nên Carroll tin rằng nghiên cứu mà ông và Cao thực hiện có
thể thúc đẩy việc theo đuổi một lý thuyết hòa hợp giữa thuyết tương đối
tổng quát và cơ học lượng tử. Tuy nhiên, ông lưu ý rằng đây là một công
việc đầy thách thức. "Nghiên cứu của chúng tôi vẫn chưa nói được gì nhiều về các lực
lượng tự nhiên khác, vì vậy chúng tôi vẫn còn ở cách xa kết quả cuối
cùng", ông Carroll nói. Tuy nhiên, nếu chúng ta có thể tìm ra một
lý thuyết như vậy, chúng ta có thể trả lời một số câu hỏi lớn nhất mà
các nhà khoa học đang phải đối mặt. Chúng ta có thể hiểu được bản chất
thật sự của vật chất tối, năng lượng tối, hố đen và các vật thể bí ẩn
khác của vũ trụ.
Hiện tại, các nhà nghiên cứu đang khai thác khả năng của thế giới
lượng tử để cải tiến hệ thống máy tính và một lý thuyết về mọi thứ có
thể đẩy nhanh tiến trình bằng cách tiết lộ những hiểu biết mới trong một
lĩnh vực vẫn còn mơ hồ.
Theo nhà nghiên cứu Carroll, trong quá trình các nhà vật lý lý thuyết
theo đuổi một lý thuyết về vạn vật thì mỗi nghiên cứu mới - dù hiệu quả
hay không - vẫn giúp chúng ta tiến lại gần hơn những bí ẩn của vũ trụ.
Thời gian là một khái niệm đơn giản, như ngày
tháng, giờ phút và giây. Tuy nhiên để hiểu rõ bản chất của thời gian và
những mối liên quan của nó với không gian hay những lý thuyết khác lại
là điều khá phức tạp.
Thời gian là một khái niệm đơn
giản, như ngày tháng, giờ phút và giây. Tuy nhiên để hiểu rõ bản chất
của thời gian và những mối liên quan của nó với không gian hay những lý
thuyết khác lại là điều khá phức tạp. 1. Hiện tượng giãn nở thời gian
Thời gian dường như là một đại lượng tuyệt đối và hướng về phía
trước, tuy nhiên trên thực tế nó bị ảnh hưởng rất lớn bởi hai yếu tố là
tốc độ và trọng lực. Minh chứng dễ thấy nhất là hiện tượng thời gian bị
kéo dãn khi có lực hấp dẫn rất lớn, như gần một hố đen vũ trụ. Lực hấp
dẫn càng lớn, thời gian càng bị làm chậm.
Các vệ tinh GPS bay trên quỹ đạo của Trái đất được trang bị các đồng
hồ nguyên tử vô cùng chính xác. Tuy nhiên do lực hấp dẫn yếu hơn so với
mặt đất, các vệ tinh này sẽ trải qua thời gian ít hơn trên Trái đất,
khoảng 7 micro giây với mỗi giây trên Trái đất. Do đó mà các đồng hồ
nguyên tử luôn phải điều chỉnh để bù lại khoảng thời gian này nếu không
muốn xảy ra các vấn đề về định vị GPS.
Hiện tượng này được các nhà khoa học gọi là giản nở thời gian. Tốc độ
cũng là một yếu tố có thể gây ra hiện tượng giản nở thời gian, thậm chí
gây ra giãn thời gian tuyệt đối nếu như chúng ta có thể tiếp cận tới
vận tốc ánh sáng. Lúc đó thời gian có thể sẽ dừng lại. 2. Suy nghĩ về thời gian
Trong cuốn sách The Principles of Psychology, tác giả William James
đã nhận thấy rằng con người không có cách nào để tập trung hoàn toàn vào
hiện tại. Luôn có những ám ảnh trong suy nghĩ của chúng ta về quá khứ
và tương lai, bất chấp chúng ta có cố gắng tập trung, thiền hay loại bỏ
những suy nghĩ đó.
Tâm trí của chúng ta luôn hối tiếc về những việc đã làm trong quá
khứ, cũng như mong chờ một tương lai có thể sẽ không bao giờ đến. Nhưng
vẫn có cách để chúng ta loại bỏ những suy nghĩ đó, theo William James đó
chính là thiền.
Thiền đã được chứng minh là có thể làm chậm nhận thức của chúng ta về
thời gian, giúp giảm lo âu và trầm cảm. Vì vậy nếu bạn đang gặp vấn đề
về những suy nghĩ về quá khứ hay tương lai, hãy cố gắng ngồi thiền để
lấy lại cân bằng. 3. Năm nhuận
Năm nhuận là một khái niệm khá quen thuộc, tuy nhiên có thể nhiều
người chưa hiểu rõ về nó. Năm nhuận xảy ra mỗi 4 năm, khi chúng ta có
thêm một ngày vào tháng 2. Vì thực tế một năm của cúng ta không phải 365
ngày chẵn, mà là xấp xỉ 365,242 ngày.
Do đó nếu không tính năm nhuận thì mỗi năm chúng ta sẽ bị mất đi
khoảng 6 giờ. Điều này sẽ dẫn tới sự không chính xác của lịch hiện đại
mà chúng ta sử dụng.
Điều đáng nói ở đây là rất nhiều nơi không chấp nhận ngày 29 tháng 12
như một ngày trong năm. Các bệnh nhân nhập viện ngày này không được lập
hồ sơ, bạn cũng không thể mở tài khoản ngân hàng vào ngày này vì các hệ
thống máy tính không nhận diện được năm nhuận. 4. Một phút ở New York
Người ta đã định nghĩa một phút ở New York là khoảng thời gian từ khi
đèn giao thông chuyển từ đỏ sang xanh và chiếc xe phía sau thì bấm còi
inh ỏi. Điều đó có nghĩa là một phút ở New York diễn ra quá nhanh đến
mức mà chúng ta không kịp nhân ra.
Khái niệm này được gọi là “nhận thức thời gian”, khi chúng ta cảm
nhận thời gian trôi qua mà không đong đếm bằng đồng hồ. Khi đó, chúng
ta sẽ cảm nhận thời gian trôi qua hoàn toàn khác tại những địa điểm khác
nhau. Tất nhiên đó chỉ là cảm nhận của từng người chứ không phải thực
tế.
Nhận
thức thời gian tại các thành phố lớn trôi qua nhanh hơn khá nhiều so
với các vùng quê hẻo lánh, do mắt của chúng liên tục cập nhật những hình
ảnh và sự kiện mới. Nhiều người cho rằng một phút tại thành phố New
York bằng 5 phút ở những nơi khác. 5. Âm nhạc và thời gian
Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng có cảm giác như thời gian đang ngừng
trôi khi đắm mình vào một bản nhạc hay. Đó là một hiện tượng tâm lý đã
được khoa học giải thích, mà trong đó âm nhạc hoàn toàn có thể điều
khiển sự nhận thức thời gian của chúng ta, giống như khái niệm đã đề cập
ở trên.
Các bản nhạc cổ điển không có một tốc độ nhịp điệu cố định. Không ai
biết được Mozart sáng tác bản Concerto số 24 giành cho piano với nhịp
điệu nhanh hay chậm. Âm nhạc cổ điển cho phép người biểu diễn thể hiện
bản nhạc theo nhịp điệu mà họ cảm nhận, có thể là rất chậm (largo), hơi
chậm (larghetto) hoặc nhịp điệu nhanh và sôi động (Allegretto).
Chính yếu tố này khiến âm nhạc có thể điều khiển sự nhận thức giới
gian của chúng ta. Khi nghe một bản nhạc quen thuộc có tiết tấu chậm,
bạn sẽ cảm thấy thời gian như trôi chậm lại và ngược lại với một bản
nhạc có tiết tấu nhanh và sôi động. (Còn tiếp ...)
Trong phần tiếp theo này chúng ta sẽ tiếp tục khám
phá những điều bí ẩn thú vị khác về thời gian, khái niệm tưởng chừng đơn
giản những có nhiều khía cạnh rất phức tạp.
Trong phần trước của bài viết,
chúng ta đã tìm hiểu một số khái niệm về nhận thức thời gian cũng như
sự kéo dãn thời gian và các ảnh hưởng của môi trường, âm nhạc lên sự
nhân thức đó. Trong phần tiếp theo này chúng ta sẽ tiếp tục khám phá
những điều bí ẩn thú vị khác về thời gian, khái niệm tưởng chừng đơn
giản những có nhiều khía cạnh rất phức tạp. 6. Chất kích thích và thời gian
Các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu rất kỹ về tác động của chất
kích thích với cơ thể của chúng ta, một trong số đó là làm thay đổi nhận
thức về thời gian. Đặc biệt ma túy hay các chất kích thích gây ảo giác
làm cho nhận thức về thời gian của chúng ta chậm lại rất nhiều.
Tác giả cuốn sách Lời thú tội của một kẻ nghiện thuốc phiện, Thomas
De Quincey cho biết ông đã từng cảm thấy một ngày trôi qua dài như 70
năm khi sử dụng thuốc phiện. Các nhà khoa học lý giải rằng chất kích
thích khiến cho bộ não hoạt động mạnh hơn, suy nghĩ nhanh hơn và do đó
sự cảm nhận thời gian trôi qua sẽ chậm lại.
Một thử nghiệm cũng được tiến hành trên loài chuột. Khi những con
chuột được tự động cho ăn mỗi 13 giây, sau khi làm quen với điều này
những con chuột có cảm nhận khá chính xác về khoảng thời gian sắp được
cho ăn. Tuy nhiên sau khi tiêm một liều methamphetamine, những con chuột
này mất đi cảm nhận về thời gian. Chúng có xu hướng đòi ăn sớm hơn vì
lúc này mỗi giây trôi qua với chúng đều cảm nhận thấy dài hơn. 7. Tuổi tác và thời gian
Khi nhìn lại những sự việc xảy ra cách đây rất lâu, đôi khi chúng ta
cảm thấy những sự việc đó mới chỉ xảy ra ngày hôm qua. Hiện tượng này đã
được các nhà khoa học nghiên cứu và rút ra khái niệm “lồng thời gian”.
Xảy ra do sự khác biệt giữa cách đo thời gian thông thường và mốc thời
gian chủ quan của chúng ta.
Các nhà khoa học cũng thấy rằng ở những người già, nhận thức của họ
về quãng thời gian trước đó là trôi qua rất nhanh. Vì bộ não của chúng
ta có cơ chế chọn lọc, nó sẽ bỏ qua những chi tiết lặp đi lặp lại và
không quan trọng.
Cũng giống như khi chúng ta đi trên một quãng đường từ nhà đến
trường, cho dù quãng đường đó khá xa những sau một thời gian quen với
việc đi trên con đường đó thì chúng ta sẽ cảm thấy đi đến trường nhanh
hơn. Trong khi nếu đi cùng khoảng cách đó trên một con đường hoàn toàn
xa lạ sẽ có cảm giác lâu hơn rất nhiều. 8. Vòng lặp thời gian
Theo như những quan niệm hiện nay thì thời gian là tuyến tính hướng
về phía trước và không thể quay trở lại. Sẽ chỉ có một thế kỷ 21 và một
năm 2014, chúng ta cũng không thể quay ngược trở lại để sửa chữa những
sai lầm trong quá khứ. Thậm chí du hành xuyên thời gian về quá khứ cũng
được các nhà khoa học chứng minh là điều không thể.
Tuy nhiên trong vụ trụ, có một giả thuyết mà các nhà khoa học đặt ra
đó chính là vòng lặp thời gian. Vì không thể giải thích được sự hình
thành của vũ trụ là từ đâu và từ bao giờ, các nhà khoa học cho rằng vụ
trụ của chúng ta là một vòng lặp.
Nó được gọi là mô hình Baum-Frampton, trong đó tính từ khi vụ nổ Big
Bang xảy ra, vũ trụ mở rộng đến một mức độ nào đó và sau đó nó lại sụp
đổ vào chính lõi của vụ nổ Big Bang và tạo ra một vụ nổ giống như ban
đầu. Đó là một vòng lặp không có khởi đầu hay kết thúc. 9. Chiều sâu của thời gian
Có thể nói khái niệm chiều sâu của thời gian gần giống như trường
phái trừu tượng trong hội họa, vì nó vượt quá khả năng hiểu biết của con
người. Chúng ta vẫn có những ghi chép lịch sử hàng nghìn năm trước,
nhưng lịch sử của Trái đất đã bắt đầu từ 4 tỷ năm trước, trong khi lịch
sử của vụ trụ bắt đầu từ 13,7 tỷ năm trước.
Đó là theo dấu mốc khách quan của chúng ta, vậy thời gian từ 14 tỷ
năm trước khi vũ trụ của chúng ta chưa hình thành là gì? Đó là bí ẩn mà
cho đến nay các nhà khoa học vẫn chưa thể lý giải được. Liệu có phải
trước đó vũ trụ của chúng ta đang bắt đầu quá trình tạo một vòng lặp mới
và thời gian cũng được reset lại, hay khi chưa có vật chất thì thời
gian là khái niệm vô định.
Cũng có nghĩa là trước khi vũ trụ hình thành, không có khái niệm về
thời gian. Vậy tức là mọi thứ đều dừng lại tại một thời điểm cố định và
không có một sự kiện nào diễn ra. Vậy tại sao vũ trụ lại có thể hình
thành? 10. Thời gian vĩnh cửu
Từ khi có khái niệm về thời gian, thì đây là thứ duy nhất vĩnh cửu và
tồn tại mãi mãi. Ngay cả Mặt Trời và Trái đất của chúng ta cũng sẽ kết
thúc vào một ngày nào đó trong tương lai, khi nguồn năng lượng trong lõi
bị cạn kiệt.
Mặc dù chúng ta không thể tồn tại mãi mãi cùng thời gian, nhưng các
nhà khoa học cũng đưa ra khái niệm về sự vĩnh cửu. Đó không phải là tồn
tại mãi mãi, mà là một vòng lặp không có kết thúc. Nó giống như là biểu
tượng số 8 nằm ngang tượng trưng cho sự lặp lại, giống như khái niệm
vòng lặp của vũ trụ.
"Thời gian là thứ giữ cho mọi việc chỉ xảy ra một
lần" là câu tổng kết về chức năng của thời gian trong tiểu thuyết khoa
học viễn tưởng “The Girl in the Golden Atom" năm 1922.
"Thời gian là thứ giữ cho mọi việc chỉ xảy ra một lần" là câu tổng
kết về chức năng của thời gian trong tiểu thuyết khoa học viễn tưởng
“The Girl in the Golden Atom" năm 1922 của nhà văn Ray Cummings, được
đông đảo mọi người tán đồng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra ở đây là: Thời
gian làm việc đó như thế nào và Cơ chế nào giúp thời gian tiến về trước,
nhưng không lùi lại phía sau?
Trong một nghiên cứu mới được đăng tải trên tạp chí Physical Review
Letters, một nhóm chuyên gia vật lý lý thuyết đã tái kiểm tra "Mũi tên
thời gian" - một khái niệm miêu tả việc tiến về phía trước không ngừng
nghỉ của thời gian, và làm nổi bật một cách xem xét khác đối với cơ chế
tự bộc lộ của thời gian theo các phạm vi phổ quát.
Theo truyền thống, thời gian được mô tả trong "giả thuyết quá khứ"
là, bất kỳ hệ thống cho trước nào bắt đầu trong một trạng thái entropy
thấp (entropy là đơn vị đo nhiệt năng phát tán, hấp thụ khi một hệ vật
lý chuyển trạng thái tại một nhiệt độ tuyệt đối xác định - PV) và sau đó
dưới sự thúc đẩy của nhiệt động lực học, entropy của nó tăng lên. Nói
một cách ngắn gọn: quá khứ là entropy thấp và tương lai là entropy cao,
một khái niệm được biết đến với tên gọi "sự mất đối xứng thời gian nhiệt
động lực học".
Trong trải nghiệm hàng ngày, chúng ta có thể tìm thấy nhiều ví dụ về
sự gia tăng entropy, chẳng hạn như một chất khí lấp đầy một căn phòng
hoặc một viên đá tan chảy. Ở những ví dụ này, chúng ta có thể quan sát
được sự tăng entropy và do đó cả sự rối loạn không đảo ngược được.
Nếu giả thuyết trên được áp dụng ở một quy mô phổ quát, chúng ta sẽ
rút ra rằng, vụ nổ Big Bang đã tạo ra vũ trụ ở một trạng thái entropy,
chẳng hạn như một trạng thái entropy tối thiểu. Qua các thời đại, khi vũ
trụ giãn nở và dịu mát đi, entropy của hệ thống quy mô lớn này đã tăng
lên. Do đó, theo giả thuyết, thời gian thực chất có liên quan đến mức độ
entropy hay sự rối loạn trong vũ trụ của chúng ta.
Dẫu vậy, có nhiều vấn đề với ý tưởng trên. Ngay sau vụ nổ Big Bang,
nhiều bằng chứng quan sát được đã chỉ ra môi trường Big Bang nóng và vô
cùng hỗn loạn của các hạt nguyên thủy. Khi vũ trụ trưởng thành và dịu
mát đi, trọng lực kế tục và khiến vũ trụ trở nên trật tự hơn và phức tạp
hơn, từ các đám mây khí dịu mát, các ngôi sao hình thành và các hành
tinh tiến hóa từ sự sụp đổ trọng lực. Rốt cuộc, đặc tính hóa học hữu cơ
trở nên khả thi, tạo điều hình thành sự sống và con người. Do đó, trên
một quy mô phổ quát, sự rối loạn đã giảm xuống, không phải tăng lên như
"giả thuyết quá khứ" đã nêu.
Vấn đề trên có thể liên quan đến cách entropy được đo lường, theo
chuyên gia Flavio Mercati đến từ Viện Vật lý lý thuyết Perimeter
(Canada). Ông Mercati cho rằng, do entropy là một đại lượng vật lý với
các kích thước (giống như năng lượng và nhiệt độ), nên cần phải có một
khung tham chiếu bên ngoài để có thể đo lường nó.
Vậy nếu không phải là entropy, thứ gì có thể đang thúc đẩy thời gian phổ quát tiến về phía trước?
Sự phức tạp là một đại lượng không có kích thước, và ở dạng cơ bản
nhất, mô tả mức độ phức tạp của một hệ thống Vì vậy, nếu xem xét vũ trụ
của chúng ta, sự phức tạp liên quan trực tiếp tới thời gian Khi thời
gian trôi đi, vũ trụ ngày càng trở nên có cấu trúc
"Câu hỏi chúng tôi tìm cách trả lời trong nghiên cứu của mình là: cái
gì đã đặt các hệ thống này vào trạng thái entropy rất thấp trước tiên?
Câu trả lời của chúng tôi là, trọng lực và xu hướng tạo nên trật tự và
cấu trúc (sự phức tạp) từ hỗn loạn của nó", ông Mercati nói
Để kiểm chứng quan điểm này, ông Mercati và các cộng sự đã tạo ra
những mô hình máy tính cơ bản để mô phỏng các hạt trong một vũ trụ đồ
chơi. Họ phát hiện, dù mô phỏng được tiến hành như thế nào, sự phức tạp
của vũ trụ luôn tăng lên, không bao giờ giảm xuống, theo thời gian.
Từ Big Bang, vũ trụ bắt đầu ở trạng thái phức tạp thấp nhất (món
"súp" nóng gồm năng lượng và các hạt rối loạn). Sau đó, khi vũ trụ dịu
mát tới một trạng thái trọng lực bắt đầu tiếp quản, các khí kết tụ với
nhau, các ngôi sao hình thành và các thiên hà tiến hóa. Vũ trụ trở nên
phức tạp hơn theo một cách không đảo ngược được và trọng lực là thế lực
thúc đẩy sự gia tăng tính phức tạp này.
Ông Mercati nói thêm rằng, các hệ thống phụ trở nên đủ biệt lập để
các lực khác tạo ra những điều kiện phù hợp cho mũi tên thời gian "chính
thống" thống trị các hệ thống phụ entropy thấp. Trong những hệ thống
phụ này, chẳng hạn như cuộc sống hàng ngày trên Trái đất, entropy có thể
tiếp quản, tạo ra một "mũi tên nhiệt động lực học thời gian".
Trong các quy mô toàn vũ trụ, nhận thức của chúng ta về thời gian
chịu sự dẫn dắt của tính phức tạp phát triển không ngừng, nhưng trong
những hệ thống phụ, entropy thống trị. "Phỏng đoán của chúng tôi là,
nhận thức của con người về thời gian là kết quả của một quy luật xác
định sự phát triển không thể đảo ngược của sự phức tạp", trích thông cáo
báo chí của nhóm nghiên cứu.
Bước tiếp theo, nhóm nghiên cứu hy vọng sẽ thu được các bằng chứng quan sát vũ trụ học để xác thực quan điểm trên.
Theo Vietnamnet
Tài liệu
Những lý giải mới về thời gian và bản chất của ánh sáng từ thí nghiệm của Michelson-Morley, phần I
Giới thiệu
Bài viết này được tổng hợp và
rút gọn các ý kiến của tôi từ diễn đàn được mở ra sau bài viết “Thời
gian có thực sự co dãn” và “ Cái hố “không gian cong” và sự tưởng tượng
phi thực tế của Einstien”. Với số lượng khá lớn các ý kiến trao đổi được
đưa lên diễn đàn, một số vấn đề bất cập từ thuyết tương đối hẹp đã lộ
ra và cần được làm rõ hơn, đặc biệt là một số thực nghiệm nhằm kiểm
chứng thời gian dãn ra lại thể hiện rằng không phải thời gian dãn ra mà
có nguyên nhân khác. Do phần phản hồi của khoahoc.com không hỗ trợ việc
chuyển tải hình ảnh nên tôi đưa các vấn đề đó lên VLOS để các thành viên
VLOS thảo luận để đi đến sự nhận thức đúng hơn về thế giới tự nhiên.
Giả thiết mới về sự di chuyển của ánh sáng
Nửa cuối thế kỷ 19, các nhà
khoa học tin rằng họ đã mô tả được vũ trụ một cách đầy đủ, không gian và
thời gian là tuyệt đối, không gian được lấp đầy bởi một loại vật chất
là liên tục và đàn hồi gọi là ether tạo nên một môi trường cho ánh sáng
và sống điền từ truyền tải các tín hiệu vô tuyến lan truyền trong đó.
Một số nhà khoa học tin rằng ánh sáng chuyển động với một tốc độ nhất
định trong ether và nếu một người chuyển động cùng hướng với ánh sáng
thì sẽ thấy tốc độ ánh sáng chuyển động chậm hơn và ngược lại.
Năm 1887, Michelson và Morley
đã thực hiện thí nghiệm so sánh tốc độ của hai chùm sáng vuông góc với
nhau. Thí nghiệm được tiến hành trong một căn hầm và dụng cụ thí nghiệm
được đặt trên một bàn đá nặng, bàn đá lại được đặt nổi trong một bể thuỷ
ngân nhằm loại trừ hết mọi chấn động có thể ảnh hưởng đến kết quả thí
nghiệm. Dụng cụ thí nghiệm là một bộ giao thoa kế. Dưới đây là sơ đồ thí
nghiệm.
là sơ đồ thí nghiệm của Michelson-Morley
Với giả thiết rằng môi trường
ether là đứng yên và do trái đất di chuyển trong không gian nên có thể
coi thí nghiệm được thực hiện trong một hệ quy chiếu chuyển động so với
môi trường, bàn đá có thể quay trong bể thuỷ ngân để đổi hướng ánh sáng
so với hướng di chuyển của trái đất, khoảng cách từ gương bán mạ G đến
các gương phản xạ G1 và G2 bằng nhau với độ chính xác cao thì kết quả
thí nghiệm sẽ cho phép quan sát thấy vân giao thoa của hai tia sáng
trong giao thoa kế K. Nhưng với việc
thực hiện thí nghiệm nhiều
lần bao gồm cả việc đổi hướng tia sáng, các tác giả của thí nghiệm vẫn
không thấy xuất hiện vân giao thoa và không có sự khác nhau giữa các kết
quả của các lần thí nghiệm, thời gian của tia sáng đi từ G đến G1 và G2
sau đó phản xạ và quay về G là bằng nhau. Kết quả này dẫn đến nhận định
ánh sáng truyền với tốc độ như nhau theo mọi phương mà không phụ thuộc
vào tốc độ và hướng di chuyển của người quan sát. Dựa trên kết quả này,
Lorentz- một nhà vật lý người Hà lan cho rằng mọi vật di chuyển trong
môi trường ether sẽ co ngắn lại và thời gian dãn ra. Sự co lại của
khoảng cách và chậm lại của đồng hồ sẽ làm cho việc đo tốc độ ánh sáng
sẽ như nhau mà không phụ thuộc vào tốc độ và hướng di chuyển của người
đo. Còn Einstien thì cho rằng không hề có cái gọi là ether, khái niệm
ether là không cần thiết khi người ta không thể biết mình di chuyển như
thế nào. Einstien đã đưa ra giả thuyết các định luật là như nhau trong
mọi hệ quy chiếu quán tính, tốc độ ánh sáng là độc lập với mọi hệ quy
chiếu và như nhau theo mọi hướng. Trên cơ sở các giả thuyết đó, Einstien
xây dựng nên thuyết tương đối hẹp. Thuyết tương đố hẹp ra đời đã giải
quyết được nhiều vấn đề mà cơ học cổ điển không giải quyết được, nhưng
nó cũng chưa lý giải được một số vấn đề như bản chất ánh sáng là gì, mặt
khác, với việc loại bỏ môi trường ether, Einstien đã cho rằng ánh sáng
là sự di chuyển của các hạt photon hay ánh sáng không di chuyển dưới
dạng sóng. Nhưng có một thực tế là ánh sáng dù di chuyển trong những
quãng đường rất dài ( như ánh sáng mặt trời chiếu xuống trái đất) nó vẫn
thể hiện tính sóng, còn khi đã coi sự di chuyển của ánh sáng là hạt thì
không thể bỏ qua quán tính của hạt để coi tốc độ di chuyển là một hằng
số. Nói cách khác, trong giả thiết của Einstien đã chứa đựng những mâu
thuẫn không thể lý giải được. Để có thể hé mở được những lý giải mới,
chúng ta bắt đầu từ thí nghiệm của Michelson –Morley với một số giả
thiết:
1.Trong vũ trụ tồn tại một
môi trường đàn hồi để cho ánh sáng và sóng điện từ có thể di chuyển
được. Nhưng khác với ether, môi trường này được tạo bởi một loại hạt, do
đó môi trường là không liên tục,không cố định, mật độ hạt có thể thay
đổi bởi một tác động nào đó hoặc xen kẽ với các loại môi trường khác và
có thể tách rời một phần môi trường này. Do có cấu trúc hạt nên các hạt
của môi trường này có thể xuyên hoặc không xuyên qua được một loại cấu
trúc vật chất nào đó.
2.Sự di chuyển, sự thay đổi của mật độ môi trường đều có ảnh hưởng tới sự di chuyển của ánh sáng.
3.Ánh sáng di chuyển dưới dạng sóng, trong môi trường truyền sóng ánh sáng đồng nhất tốc độ ánh sáng là một hằng số.
Những lý giải mới về thời gian và bản chất của ánh sáng từ thí nghiệm của Michelson-Morley, phần II
Lý giải mới về thời gian
Chúng ta sẽ lần lượt kiểm chứng các giả thiết trên đây và qua đó xem xét đến vấn đề thời gian có co dãn được hay không:
1.Ánh sáng có thể di chuyển trong
những khoảng cách rất lớn dưới dạng sóng, đây là điều quan sát được, vì
vậy có thể khẳng định môi trường đàn hồi để cho ánh sáng và sóng điện từ
di chuyển là thực tế tồn tại bới sóng không thể di chuyển được nếu
không có môi trường đàn hồi. Sóng chỉ có thể di chuyển trong môi trường
vật chất đàn hồi là nguyên lý cơ bản của vật lý. Sự di chuyển của sóng
là sự di chuyển không có quán tính, vì vậy tốc độ di chuyển của sóng là
một hằng số.
2.Sóng ánh sáng có thể bị khúc xạ,
nhiễu xạ, tán xạ chứng tỏ rằng môi trường truyền sóng là không đồng
nhất. Sự không đồng nhất này chỉ có thể được lý giải bằng cấu trúc hạt
của môi trường chịu một tác động nào đó làm cho thay đổi mật độ môi
trường truyền sóng.
Để kiểm chứng các giả thiết khác,
chúng ta so sánh kết quả thí nghiệm của Michelson-Morley với kết quả
tính toán dựa trên các giải thiết đã đưa ra.–
Xét sự di chuyển của ánh sáng trong
thí nghiệm của Michelson-Morley như trên hình1.1: Một tia sáng đơn sắc
từ nguồn N có phương trùng với phương di chuyển của trái đất chiếu vào
gương bán mạ G, tại đây nó bị tách làm hai: tia S1 bị phản xạ theo
phương vuông góc với phương di chuyển tới đập vào gương G1 đặt song song
với phương di chuyển của trái đất, phản xạ trở lại và đi vào giao thoa
kế K, tia S2 đi qua G tới gương G2 đặt vuông góc với phương di chuyển
của trái đất phản xạ trở lại gặp G và phản xạ vuống góc với phương di
chuyển để vào giao thoa kế K. Với khoảng cách từ G tới G1 và G2 là bằng
nhau nên chỉ cần có sự sai khác về thời gian của hai tia sáng khi chúng
đi vào giao thoa kế là xuất hiện sự giao thoa.
Để so sánh các kết quả, các giả
thiết được xét trơng hai trường hợp : 1. Coi trái đất là đứng yên và
chọn hệ quy chiếu là gương M với điều kiện M không bị dịch chuyển trong
quá trình làm thí nghiệm so với trái đất và : 2.Chọn một điểm được coi
là đứng yên trong vũ trụ.
Trường hợp 1 : chọn hệ quy chiếu là
gương G. Do khối hạt tạo môi trường truyền sóng ánh sáng theo giả thiết
trên là có thể tách ra một phần nên khối hạt trong thí nghiệm sẽ di
chuyển cùng với gương G và không có ảnh hưởng tới tốc độ của tia sáng.
Các gương G1 và G2 cũng đứng yên so với gương G cho nên hai tia S1 và S2
đi trên hai quãng đường bằng nhau với cùng tốc độ. Thời gian của chúng
đi từ gương G tới G1 và G2 phản xạ lại G sẽ là :
T1 = T2 = 2L/c (1.0)
Nói cách khác, nếu coi trái đất là hệ quy chiếu đứng yên thì thời gian đi về của hai tia sáng là bằng nhau.
Trường hợp 2: Chọn một điểm đứng yên
trong vũ trụ làm hệ quy chiếu, quy ước chọn một điểm trùng với gương G
tại thời điểm tia sáng từ nguồn N tới chạm vào gương G.
Khi chọn hệ quy chiếu này và với
giả thiết sự di chuyển của môi trường truyền sóng có ảnh hưởng tới sự di
chuyển của tia sáng, đường đi và tốc độ của tia sáng sẽ có những thay
đổi so với trường hợp coi trái đất là đứng yên. Cụ thể:
Xét tia S2 có phương di chuyển cùng phương của trái đất.
Vế phải của (1.3) và (1.4) bằng
nhau, có nghĩa là T1 = T2 , kết quả của thí nghiệm Michelson – Morley
cho kết quả không có vân giao thao nào xuất hiện trong giao thoa kế hay
thời gian của hai tia sáng là bằng nhau, điều này đã chứng minh các giả
thiết đã nêu là đúng đắn và chứng minh cho nhiều điều khác, cụ thể:
1.Tính không liên tục của môi trường truyền sóng và một phần của môi trường có thể tách ra được.Chữ xiên
Quả vậy, thí nghiệm của
Michelson-Morley được tiến hành trong hầm kín, môi trường truyền sóng
ánh sáng trong và bên ngoài không liên hệ với nhau và không có ánh hưởng
tới nhau, hầm kín trở thành một toa tàu Galileo chuyển động đều mà
người quan sát trong đó sẽ không phát hiện được sự khác biệt với các tốc
độ của tàu khác nhau. Chúng ta có thế thấy điều này khi kết quả thí
nghiệm cho thấy trong hệ thức tính thời gian đi từ gương G đến G1 hoặc
G2 đều không xuất hiện tốc độ của hệ di chuyển và bằng thời gian trong
hệ đứng yên. Đây là sự chứng minh cho tiên đề 1 của thuyết tương đối;
2.Tốc độ di chuyển của ánh sáng chịu ảnh hưởng của tốc độ di chuyển môi trường truyền sóng
Điều này có nghĩa là bất kỳ một sự
di chuyển nào chiụ sự tác động của sự di chuyển khác thì sự di chuyển đó
sẽ có tốc độ tổng hợp từ tốc độ của bản thân nó và tốc độ của sự di
chuyển đã gây nên tác động đó. Kết quả này cho thấy có sự di chuyển lớn
hơn tốc độ ánh sáng ( sự lạm phát của vũ trụ ngay sau thời điểm xảy ra
vụ nổ bigbang có thể là minh chứng cho điều này). Do không thực hiện
phân tích diễn biến của sự di chuyển tia sáng trong thí nghiệm
Michelson-Morley cho nên các tác giả của thí nghiệm và các nhà nghiên
cứu sau đó đã không thấy được ảnh hưởng của sự di chuyển môi trường đã
tác động lên tốc độ của tia sáng như thế nào. Mặt khác, thí nghiệm cho
tia sáng đi theo hai chiều nên ảnh hưởng của tốc độ di chuyển của môi
trường tới tốc độ ánh sáng có tính chất bù trừ và bị triệt tiêu trong
kết quả cuối cùng nên dễ đưa đến những nhận định khác. Như vậy, công
thức hợp tốc của Galile vẫn có giá trị trong trường hợp này, nhưng nó
chỉ có giá trị trong phạm vi của hệ, khi tia sáng đi ra ngoài hệ di
chuyển thì nó đã thuộc vào hệ mới và tốc độ của nó phụ thuộc tính chất
môi trường của hệ mới, điều này có nghĩa là quan sát sự chuyển động của
tia sáng trong vũ trụ từ trái đất cũng tương tự như quan sát tia sáng
trong một hầm kín đang di chuyển, tốc độ của bản thân tia sáng là không
đổi, sự quan sát thấy tốc độ của nó cao hơn từ các hệ quy chiếu khác
nhìn vào hệ quy chiếu đang chuyển động là do ngoài tốc độ của nó còn có
tốc độ di chuyển của môi trường mà nó đang di chuyển, sự thay đổi tốc độ
ánh sáng trong hệ quy chiếu là do sự thay đổi tốc độ của hệ, khi người
quan sát đứng trong hệ quy chiếu đang di chuyển và không nhận thấy sự di
chuyển của hệ thì cũng không nhận thấy tác động của sự di chuyển của hệ
lên mọi sự di chuyển trong hệ đó. Nói cụ thể hơn: nếu một người đang ở
trong một hệ quy chiếu chuyển động và quan sát hai tia sáng có cùng
chiều di chuyển, trong đó một tia ở trong hệ di chuyển và một tia ở
ngoài hệ và chọn lấy một điểm trong hệ quy chiếu đang di chuyển để xem
xét thì sẽ thấy tốc độ của hai tia sáng là khác nhau. Việc không thấy
được sự thay đổi tốc độ tia sáng trong thí nghiệm của Michelson-Morley
trước đây là do các nhà nghiên cứu đã không phân biệt tia sáng trong hệ
và tia sáng ngoài hệ di chuyển ( tức là tia sáng chịu hay không chịu tác
động của hệ di chuyển) và chỉ chú ý đến kết quả cuối cùng mà không chú ý
đến các diễn biến trong quá trình thí nghiệm do với tính chất bù trừ
của sự di chuyển theo hai chiều mà các sự thay đổi trong diễn biến bị
triệt tiêu. Trong thực tế, tia sáng trong thí nghiệm Michelson-Morley là
tia sáng thuộc hệ đang di chuyển chứ không phải là tia sáng đang di
chuyển trong vũ trụ và nó chịu ảnh hưởng của sự di chuyển trái đất, còn
tia sáng di chuyển song song với trái đất là không quan sát được. Sự
nhầm lẫn này dẫn đến nhận định thời gian dãn ra và tốc độ tia sáng là
một hằng số trong chân không. Thí nghiệm Michelson-Morley chỉ xác định
tốc độ tia sáng theo mọi hướng trong một hệ quy chiếu chứ không so sánh
được tốc độ của hai tia sáng trong hai hệ quy chiếu khác nhau. Tốc độ
tia sáng không độc lập với hệ quy chiếu khi hệ quy chiếu đó di chuyển và
kéo theo môi trường truyền tia sáng đó ( thí nghiệm Fizeua chứng minh
cho điều này) và độc lập với hệ quy chiếu khi hệ quy chiếu không có ảnh
hưởng tới tia sáng đang xem xét.
Khi một vật thể di chuyển nó có thể
làm biến đổi môi trường xung quanh hoặc kéo theo một phần môi trường đó
giống như các ngôi sao hoặc các hành tinh kéo theo bầu khí quyển ( mà
chúng có) trong quá trình di chuyển của chúng. Vì vậy việc tiến hành thí
nghiệm trong lòng hay trên bề mặt của vật thể cũng có thể cho kết quả
giống hoặc gần giống nhau.
3. Không thể làm tăng tốc độ cho tia sáng bằng cách gia tăng năng lượng cho nó.
Sự gia tăng năng lượng cho tia sáng chỉ có thể làm tăng tần số dao động
của các hạt photon và do đó làm giảm chiều dài bước sóng, dấu ấn di
chuyển của hệ quy chiếu lên ánh sáng khi nó đi từ trong hệ đó ra ngoài
được quan sát từ các hệ quy chiếu khác là hiệu ứng Doppler. Cần có sự
phân biệt rõ giữa sự di chuyển dưới dạng sóng và sự di chuyển dưới dạng
hạt (hay sự di chuyển phi quán tính và sự di chuyển quán tính, sự di
chuyển phi quán tính là sự di chuyển không có khối lượng vật chất đi
cùng, còn sự di chuyển quán tính là sự di chuyển có kèm theo sự di
chuyển của khối lượng vật chất.) Việc không phân biệt rõ giữa hai sự di
chuyển này dẫn đến việc cho rằng tốc độ ánh sáng trong chân không ( di
chuyển dưới dạng hạt) là hằng số và là giới hạn tốc độ của mọi sự di
chuyển. Einstien đã chuyển tính chất của chuyển động sóng cho chuyển
chuyển động hạt
4.Ánh
sáng di chuyển theo một đường thẳng trong một hệ quy chiếu có mật độ
môi trường truyền sóng đồng nhất với tốc độ như nhau theo mọi hướng và
với sự quan sát trong hệ đó.
Với ánh sáng, chúng ta có hai hệ
quy chiếu: 1. tạo ra một khoảng không gian mà môi trường truyền sóng có
thể di chuyển và 2.: toàn bộ vũ trụ là một hệ quy chiếu. Hệ quy chiếu
thứ nhất đã được xét trong thí nghiệm Michelson-Morley. Hệ quy chiếu thứ
hai: khi chúng ta quan sát vũ trụ từ trái đất hay bất kỳ một vị trí nào
trong vũ trụ thì cũng giống như khi chúng ta đứng tại một vị trí nào đó
trong hầm thí nghiệm của Michelson-Morley, chúng ta sẽ thấy tia sáng di
chuyển với tốc độ như nhau theo mọi hướng.
5.Thời gian không dãn ra trong các
hệ quy chiếu chuyển động như đã nêu trong thuyết tương đối hay thời gian
là đồng bộ trong mọi hệ quy chiếu.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét