Thứ Ba, 25 tháng 6, 2019

BÍ ẨN LỊCH SỬ 100/a


(ĐC sưu tầm trên NET)

                                      
                                 Con đường di sản Óc Eo - Tập 1: Một vương quốc bị lãng quên
 
Con đường di sản Óc Eo - Tập 2: Khi cổ vật lên tiếng


Con đường di sản Óc Eo - Tập 3: Bài học từ tiền nhân



Phù Nam: Huyền thoại và những vấn đề lịch sử


Print Friendly, PDF & Email

Tác giả: Vũ Đức Liêm
Bất cứ quốc gia dân tộc hiện đại nào cũng tìm kiếm cho mình một nền văn hóa, văn minh, hay một vương quốc khởi đầu qua việc kết nối với một thực thể mờ ảo trong quá khứ. Đó là nơi huyền thoại dựng nước bắt đầu, và cũng là nơi chứng kiến sự va chạm giữa các diễn ngôn lịch sử. Phù Nam là một câu chuyện như thế ở Đông Nam Á.
Trong số các nền văn hóa kim khí quan trọng trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó phát triển các xã hội phức tạp và hình thành nhà nước: Đông Sơn/ Cổ Loa, Sa Huỳnh/Champa, Óc Eo/ Phù Nam, thì Phù Nam ít được chú ý hơn cả. Bao trùm lên nó là huyền thoại về vương quốc được hình thành đầu tiên ở Đông Nam Á, với cảng thị sầm uất như Óc Eo, trung tâm tôn giáo, chính trị như Angkor Borei. Dù chỉ tồn tại khoảng từ thế kỷ I đến thế kỷ VII CN, vương quốc này không chỉ là trung tâm của kết nối giao thương giữa các cộng đồng khu vực với Ấn Độ, Trung Hoa mà còn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong diễn ngôn chính trị-lịch sử ở thời kỳ hiện đại bởi vì dựa vào những cứ liệu lịch sử không rõ ràng của giai đoạn này mà chủ nghĩa dân tộc Campuchia tìm cách khẳng định sự hiện diện của dân tộc Khmer hàng nghìn năm trước ở vùng hạ lưu Mekong.
Bài viết này lập luận rằng Phù Nam không thể là sản phẩm chiếm hữu, độc quyền của một quốc gia dân tộc nào cả. Thực tế, nó là một thực thể lịch sử đứng giữa các đường biên hiện đại ở hạ lưu Mekong mà một phần di sản của nó đã trở thành bộ phận không tách rời của nước Việt Nam. Thực tế lịch sử đó cần phải được tôn trọng. Lịch sử của Phù Nam cũng chính là một phần của lịch sử Việt Nam.
Các huyền thoại về Phù Nam
Sau hơn nghìn năm bị “lãng quên”, người đầu tiên đưa Phù Nam trở lại là học giả Pháp Paul Pelliot (1903: Le Fou-Nan, BEFEO). Ông sử dụng tư liệu Trung Hoa để phác họa lịch sử vương quốc mà ông cho là bắt đầu từ thế kỷ I CN đến khoảng thế kỷ VI-VII CN. Những nghiên cứu sau đó sẽ khảo sát khía cạnh ngôn ngữ học, dân tộc học, khảo cổ học, văn bia… để tìm kiếm phác thảo chi tiết về vương quốc bí ẩn này. Tiếp sau khảo cứu của George Coedès (1944), cuộc khai quật của L.Malleret ở Óc Eo là dấu mốc quan trọng về nhận thức đối với Phù Nam. Các cuộc khai quật khảo cổ quy mô những thập kỷ gần đây ở Việt Nam, từ Nền Chùa (Kiên Giang), Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang), Cây Gáo (Đồng Nai), Lưu Cừ (Trà Vinh), Bình Tả- Gò Xoài (Long An), Gò Thành (Tiền Giang), Phụng Sơn Tự-Chùa Gò (TP.HCM), đến Cát Tiên; và ở Campuchia bởi các nhà khảo cổ học Campuchia, Mỹ, Pháp… như dự án Khảo cổ hạ lưu Mekong- LOMAP của ĐH Hawaii và bộ Văn hóa Nghệ thuật Campuchia, đã gia tăng đáng kể hiểu biết của chúng ta về diện mạo của Phù Nam và các tương tác vùng của nó.
Lịch sử hình thành Phù Nam được trùm phủ bởi các truyền thuyết và huyền thoại. Huyền thoại này được ghi vào bi ký và phản ánh gần như nhau trong các sách cổ Trung Hoa như Tấn thư, Nam Tề thư, Lương thư. Theo đó, thực thể này lần đầu tiên được người Trung Hoa ghi chép ở thế kỷ III, bắt đầu từ chuyến thăm của hai vị sứ thần là Khang Thái và Chu Ứng tới vương quốc họ gọi là Phù Nam. Rằng có một người từ Ấn Độ, Malay hay các vùng biển phía Nam nào đó tên là Hỗn Điền – Kaundinya được thần báo mộng, nhặt được cây cung ở dưới gốc cây và chỉ hướng đi thuyền lớn ra biển. Thuyền đến biển Phù Nam, dưới sự cai trị của một nữ hoàng là Liễu Diệp. Liễu Diệp cho người ra chống lại, Kaundinya giương cung bắn, tên xuyên qua mạn thuyền, Liễu Diệp sợ, xin hàng. Kaundinya cưới Liễu Diệp và cùng trị vì. Bia Champa Mỹ Sơn 3 (năm 658) kể một câu chuyện tương tự, nhưng nhuốm màu sắc huyền thoại hơn, thần thánh hóa ảnh hưởng của Hindu giáo với các tước hiệu, tên các vị thần và dòng dõi các tộc cổ xưa có liên hệ với châu thổ sông Hằng.
a: Hình thần Vishnu trên mảnh vàng, di chỉ Gò Tháp; b: Hình thần khắc trên mảnh vàng, Cát Tiên. (ảnh: Nguyễn Tiến Đông); (Lê Thị Liên, 2011).  
Như vậy, dù câu chuyện về sự lập nước diễn ra như thế nào đi nữa, diễn ngôn của nó phản ánh sự tương tác giữa những người bản địa với những người từ bên ngoài (Ấn Độ), mang theo các yếu tố mà trong nhiều thập kỷ, học giả phương Tây gọi là nhân tố “Ấn Độ hóa” như tôn giáo, thiết chế chính trị, nghệ thuật, luật pháp… Còn Liễu Diệp, vị nữ hoàng bản địa có lẽ là thủ lĩnh của một bộ lạc mà sử Trung Hoa mô tả là “còn trần truồng” (Lương Ninh 2006). Tuy vậy, chắc chắn các nhóm bản địa đã đóng vai trò năng động trong quá trình hình thành nên thực thể chính trị này, chứ không đơn thuần là kết quả của quá trình tương tác ngoại lai. Sự kết hợp này do đó mở đầu cho vương triều Phù Nam, vương quốc mà ngay cả phổ hệ của những người đứng đầu vẫn còn là một thách thức đối với các sử gia.

Hình thần Vishnu trên mảnh vàng, di tích Đá Nổi (ảnh Lê Xuân Diệm). (Lê Thị Liên, 2011)
Khung cảnh của Phù Nam
Lịch sử của Phù Nam có lẽ nên được kể từ 5000-7000 năm trước. Bắt đầu với cuộc di cư của các cư dân nói tiếng Nam Đảo (Austronesians) từ đảo Đài Loan xuống Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Họ mang theo lúa nước, lợn, dừa, khoai lang, và kỹ nghệ làm gốm, đóng tàu… qua các hòn đảo, duyên hải trên Biển Đông (Peter Bellwood 2006, 2007, 2014, 2017; Solheim 2007). Cuộc du hành này là một trong những hiện tượng kỳ vĩ của nhân loại, đưa Austronesians thành nhóm ngôn ngữ trải rộng nhất trong lịch sử thời tiền hiện đại, băng qua 1/3 địa cầu, kết nối hàng chục nghìn hòn đảo trải dài từ Nhật Bản đến đảo Madagascar và quần đảo Tây Thái Bình Dương.

Bản đồ vùng phân bố của dân nói ngôn ngữ Austronesia (Nam Đảo), Peter Bellwood, 1997.
Một trong các nhóm này được cho là đã cập bến vùng duyên hải miền Trung và Nam Việt Nam từ đảo Borneo và quần đảo Philippines (Peter Bellwood 2017). Điều này đã được chứng thực không chỉ qua bằng chứng ngôn ngữ học (Leonard Andaya 2008), mà còn phản ánh qua đường phân bố của nhiều loại hiện vật khảo cổ. Một trong số đó chính là dải phân bố của các vật phẩm ngọc bích, đặc biệt là khuyên tai hai đầu thú từ Đài Loan tới văn hóa Sa Huỳnh, quần đảo Philippines, hạ lưu Mekong và phía Bắc bản đảo Malay.
Vùng phân bố các vật phẩm ngọc bích từ Đài Loan trong vùng Đông Nam Á (Hsiao-Chun Hung, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Berenice Bellina, et al., 2007).
Huyền thoại Phù Nam mang theo những câu hỏi lớn từ tộc người, thể chế chính trị, quan hệ lãnh thổ, phạm vi địa lý, kinh đô, trạng thái kinh tế, và tương tác khu vực. Mỗi khía cạnh của nó đều chứa đựng những diễn dịch lịch sử có tác động trực tiếp đến nhận thức về quá khứ của một vùng đất rộng lớn từ phía Nam biển Hồ xuống hạ lưu Mekong và một phần của Tây Nguyên. Điều càng có ý nghĩa là vùng đất này ngày nay nằm trên hai quốc gia khác nhau: Việt Nam và Campuchia.
Nghiên cứu của nhóm các nhà khoa học (Hsiao-Chun Hung, Yoshiyuki Iizuka, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Bérénice Bellina, et al) đăng trên PNAS (2007) cũng chỉ ra phần lớn các vật phẩm này khá tương đồng trên nhiều phương diện và được làm cùng thời (500 TCN-500 SCN). Điều đó có nghĩa là dải đất và duyên hải kéo dài hơn 3,000 km xung quanh biển Đông đã được kết nối trong những tương tác sôi động ở các thế kỷ tiếp giáp CN. Đó là cơ sở của Óc Eo và Phù Nam.
a. Các vật phẩm ngọc bích: A-Gò Mả Vôi (văn hóa Sa Huỳnh) và các di chỉ ở Phillipines và Đài Loan. (Hsiao-Chun Hung, Peter Bellwood, Kim Dung Nguyen, Berenice Bellina, et al., 2007)
b. Khuyên tai hai đầu thú và vật phẩm đá quý và thủy tinh từ văn hóa Sa Huỳnh
(Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002)
c. Khuyên tai hai đầu thú trên thái dương một di cốt tại di chỉ Giồng Cá Vồ (Cần Giờ)
(Vũ Đức Liêm, Triển lãm khảo cổ học Việt Nam tại bảo tàng Khảo cổ học Herne, Đức).

Khi các nhóm cư dân này bước vào thời kỳ kim khí, nhiều khu định cư đã được xác lập nơi ngày nay là các di chỉ khảo cổ lớn như Nền Chùa (Kiên Giang), Óc Eo (An Giang), Gò Tháp (Đồng Tháp), Đá Nổi (An Giang), Cây Gáo (Đồng Nai), Lưu Cừ (Trà Vinh), Bình Tả- Gò Xoài (Long An), Gò Thành (Tiền Giang), Giồng Cá Vồ, Chùa Gò (TP.HCM), kéo dài lên Cát Tiên ở phía Bắc, khu vực Angkor Borei ở phía Đông, cách Châu Đốc khoảng 50 km. Những trung tâm định cư và hình thái tổ chức xã hội phức tạp này sau đó tiếp xúc với thiết chế chính trị và tư tưởng tôn giáo từ Ấn Độ trong các thế kỷ tiếp giáp công nguyên để từng bước hình thành nên cấu trúc chính trị Phù Nam.
Một vương quốc, một đế quốc, một mandala, một “bá quyền” hay…
Chúng ta biết gì về cấu trúc chính trị và lãnh thổ của Phù Nam? Người Trung Hoa gọi nó là “quốc” (vương quốc, nước) đơn giản vì trong thế giới quan của họ, “quốc” phản ánh tất cả các hình thái tập trung quyền lực xã hội. Đương nhiên người đứng đầu “quốc” sẽ là vương (vua), cũng như người Ấn gọi tất cả những người nắm quyền khác là Raja. Nhưng đó là cách bên ngoài nhìn Phù Nam. Tư liệu Trung Hoa thậm chí còn cung cấp một bảng phổ hệ không đầy đủ về các vương triều Phù Nam. Một vài tấm bia ở vùng hạ lưu Mekong cũng nhắc đến vị hoàng tử hay nhà vua nào đó.
Ngay từ đầu các học giả đã gọi nó là một vương quốc, hay thậm chí là “đế quốc” vì sử nhà Đường nói rằng Chân Lạp (nhà nước sơ kỳ của người Khmer ở phía Bắc) từng lệ thuộc Phù Nam. Những người khác thì gọi nó là nhà nước Ấn Độ hóa, nhà nước sơ kỳ đầu tiên ở Đông Nam Á, hay một “bá quyền” (hegemony, Kenneth R. Hall) cho đến khi Oliver W. Wolters, sử gia ở ĐH Cornell (Mỹ), đề xuất gọi những thể chế sơ kỳ trong khu vực là mandala (1982, 1999). Mandala là khái niệm từ tiếng Sanskrit mà Wolters dùng để chỉ tình trạng chính trị riêng biệt và thường không bền vững, trên phạm vi địa lý xác định một cách mơ hồ, không có biên giới định rõ. Trong hệ thống này, các trung tâm nhỏ có nhu cầu tìm kiếm sự bảo trợ và liên minh chính trị ở khắp nơi. Vì thế, mỗi mandala gồm có tôn chủ và các tiểu thủ lĩnh phụ thuộc; trong khi chỉ có tôn chủ mới được quyền nhận cống nạp và thần phục thì các nhóm lệ thuộc luôn tìm cách tạo lập một hệ thống mandala của riêng mình khi có điều kiện. Điều này xuất phát từ đâu? Wolters giải thích đó là do điều kiện tự nhiên phân tán, chia cắt bởi thung lũng, rừng rậm, đầm lầy, dân cư thưa thớt và các quan hệ quyền lực lỏng lẻo.
Bản đồ phân bố các di chỉ Đá Nổi, Gò Tháp, Cát Tiên (Lê Thị Liên 2011).
Dù nhận được nhiều sự ủng hộ từ các nhà khảo cổ và sử gia về giai đoạn sơ sử Đông Nam Á, quan điểm này vẫn còn là vấn đề tranh luận ở Việt Nam. GS. Lương Ninh không tán đồng với quan điểm cho Phù Nam là một mandala, ít nhất là ở giai đoạn mà ông gọi là thời kỳ “đế quốc” (thế kỷ III – VI CN). Ông cho ở giai đoạn sơ kỳ, có thể tổ chức bộ máy Phù Nam còn lỏng lẻo, phân tán, chưa ổn định, nhưng sau đó, chính quyền được củng cố lại như một quy luật lịch sử (2009: 68-69).
 
Bản đồ kênh cổ kết nối các trung tâm của Phù Nam. Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002.
Cuối cùng, điều mà chúng ta biết được là Phù Nam tồn tại dựa trên các trung tâm chính trị và thương mại như Angkor Borei và Óc Eo. Những trung tâm này kiểm soát, kết nối hệ thống các khu đô thị/ định cư cổ phân bố cả hai bên đường biên giới Việt Nam-Campuchia. Nền chính trị, ý niệm quyền lực, nghi lễ tôn giáo của nó gắn bó chặt chẽ với sự thực hành chính trị và tư tưởng quyền lực Ấn Độ. Họ xây dựng các kênh đào, có các trung tâm sản xuất thủ công như đồ gốm và chế tác đồ trang sức, cũng như một mạng lưới các trung tâm tôn giáo phức tạp. Phạm vi “lãnh thổ” Phù Nam có thể được phác thảo thông qua mạng lưới này. Bản đồ phân bố các di chỉ khảo cổ hạ lưu sông Mekong (Lê Thị Liên 2011) và bản đồ các con kênh cổ kết nối các di chỉ quan trọng của Phù Nam dưới đây (Charles Higham 2002) gợi ý về cấu trúc lãnh thổ và tương tác khu vực của thể chế này.
Phù Nam trong mối giao thương giữa Ấn Độ – Đông Nam Á-Trung Hoa
Bản đồ thương mại Á châu, khoảng năm 600 (James C.M. Khoo. Art & Archaeology of Fu Nan, 2006)
Để hiểu được điều này, chúng ta cần định vị Phù Nam trong khung cảnh rộng lớn hơn của lịch sử toàn cầu, giai đoạn mà nhiều sử gia gọi là thời kỳ “toàn cầu hóa” đầu tiên. Con đường tơ lụa kết nối Trung Hoa với thế giới Địa Trung Hải, nơi mà Viện Nguyên Lão Rome nhiều lần cấm các thành viên mặc lụa bởi vì sản phầm này làm chảy máu vàng và bạc ra khỏi đế chế. Xuôi về phía nam hàng nghìn km, có một tuyến giao thương không kém phần quan trọng nhưng ít được biết đến hơn. Nhà khảo cổ học người Anh, Ian Glover gọi đó là Con đường tơ lụa phương Nam (2000), hình thành do sự gia tăng thương mại của Rome với Ấn Độ, Đông Nam Á, và Trung Hoa. Cuốn sách bàn về chính trị cổ xưa của Ấn Độ là Arthashastra (viết bởi Kautilya, c. 350-275 TCN) đã đề cập đến việc người Ấn đi về phía Đông để tìm vàng. Điểm đến của họ là hòn đảo có tên Suvarnadvipa (Đảo Vàng), mà nhiều khả năng là đảo Java. Các văn bản Phật giáo đề cập đến việc nhà vua Asoka cũng phái các tăng đoàn đến vùng đất được gọi là Suvarnabhumi (Đất Vàng), nơi mà cả Malaysia, Thailand và Myanmar đều cho là thuộc về mình. Bản thân truyền thuyết về sự ra đời của Phù Nam cũng đã phản ánh sự dịch chuyển của những người Ấn Độ này.
Tượng thần Vishnu, niên đại thế kỷ VI, cao 1.6 m, khai quật tại Đồng Tháp năm 1998 (Võ Sĩ Khải 2000)
Tại sao Phù Nam lại quan trọng ở giai đoạn đầu của kết nối trên Biển Đông? Vì nó là trung tâm của một mạng lưới các giao thương ven bờ. Các sử gia về lịch sử thương mại và kỹ thuật hàng hải trong khu vực như Paul Wheatley, Oliver W. Wolters, Kenneth R. Hall, Micheal Jacq-Hergoualc’h, và Pierre-Yves Manguin đều gợi ý rằng cho đến trước thế kỷ VI-VII, giao thương hàng hải giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương được trung chuyển chủ yếu qua eo đất Kra, miền Nam Thailand ngày nay. Hạn chế kỹ thuật hàng hải, tri thức địa lý cùng với nỗi lo cướp biển và các cơn bão đã khiến thủy thủ đoàn không dám mạo hiểm đi qua eo Mallaca. Chuyến đi của nhà sư Pháp Hiển ở thế kỷ thứ V là một ví dụ. Sau khi đi đường bộ đến Ấn Độ, ông quyết định trở về Trung Quốc trên một con tàu thương mại Ba Tư. Chuyến hành trình được Pháp Hiển ghi lại trong cuốn Phật Quốc Ký của mình, đã trở thành một thảm họa thực sự. Con tàu của ông bị bão đánh dạt hơn 1000 km về bờ biển phía Bắc Trung Quốc, thay vì địa điểm hướng đến là Quảng Châu (Tansen Sen 2003). Hơn nữa, việc chuyển hàng qua dải đất Kra cũng sẽ giúp giảm được hơn 1200 km đi lại. Phù Nam vì thế trở thành một đầu mối thương mại trong vùng vịnh Thailand, cùng với vương quốc người Môn là Dvaravati trên lãnh thổ trung tâm Thailand ngày nay.

a: Đồng tiền Roma thời hoàng đế Antonius Pius tìm thấy ở Óc Eo (Charles Higham, Early cultures of mainland Southeast Asia, 2002).
b: Đồng tiền Roma thời hoàng đế Victorius (268-70), được đúc ở Cologne (Đức), được phát hiện tại U-Thong (Thailand). (Ian Glover 1989).

Sự thịnh vượng của Phù Nam được phản ánh qua số lượng phong phú các hiện vật khảo cổ được tìm thấy mà phần lớn trong số chúng là những vật phẩm thương mại giá trị. Rất  nhiều trong số chúng có nguồn gốc ngoại lai từ Rome, Ấn Độ, Trung Hoa và các khu vực thuộc Đông Nam Á: từ các đồng tiền, chuỗi hạt đá quý, thủy tinh, đồ kim loại, đồ trang sức vàng, ngọc, các vật phẩm tôn giáo như lá vàng khắc chữ Sanskrit, hay khối lượng phong phú hình các linga, tượng thờ…
Các đồ trang sức bằng đá quý và thủy tinh cũng gợi ý về các trung tâm chế tác ở vùng châu thổ Mekong và sự gắn bó chặt chẽ với nhiều vùng sản xuất khác trên đất Ấn Độ. Số lượng đồ gốm rất đa dạng tại các di tích này cho thấy sự phát triển của thủ công nghiệp, trong khi các con kênh cổ có thể được dùng cho cả mục đích giao thương và sản xuất nông nghiệp.
a: Tiền Phù Nam và tiền Pegu (Lương Ninh 2009).
b: Tiền bạc tìm thấy tại Ba Thê, giống như những đồng tiền mà L.Malleret khai quật tại Óc Eo. (Bảo tàng An Giang).  (John N. Miksic 2000).

Việc tìm thấy nhiều đồng tiền đúc bằng bạc cho thấy sự phát triển của hoạt động trao đổi. Sự tương đồng của những đồng tiền này với các đồng tiền tìm thấy trên bán đảo Malay, Thailand, và Myanmar cho thấy không gian tương tác khu vực rộng lớn của các cư dân Phù Nam. Chính sức hấp dẫn đó mà ngay từ thế kỷ III, người Trung Hoa đã phái sứ đoàn đến vùng đất này.
Mảnh vàng lá khắc chữ và đồ trang sức bằng vàng khai quật năm 1987 tại Long An (Võ Sĩ Khải 2000).
Trong khi đó số lượng phong phú các tượng Phật và Hindu, nền tháp và di tích các công trình tôn giáo cũng như vật phẩm tôn giáo cho thấy đời sống tinh thần phức tạp và đa dạng của các nhóm cư dân Phù Nam. Nhiều trung tâm tôn giáo được ghi nhận trên vùng hạ lưu Mekong, cùng với đó là sự phát triển của nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc (xem thêm Lê Thị Liên 2006, Nghệ thuật Phật giáo và Hin-du giáo ở ĐBSCL trước thế kỷ X).
Mảnh vỡ tượng đất nung được cho là các vị thần của Rome cùng với tượng phật và một linga nhỏ (Võ Sĩ Khải 2000).
Phù Nam và Chân Lạp
Chân Lạp là tên người Trung Hoa ghi chép về vương quốc sơ kỳ của người Khmer. Theo các văn bia, vương quốc này cũng là một thực thể chính trị chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, thành lập cuối thế kỷ VI ở vùng cao nguyên phía Nam Lào (Vat Phou, Champasak). Sử nhà Đường có chép việc Chân Lạp vốn là thuộc quốc của Phù Nam, đến thế kỷ thứ VII thì lớn mạnh và chinh phục Phù Nam. Sau đó Chân Lạp bị chia rẽ, phân làm Thủy Chân Lạp (ở phía Nam) và Lục Chân Lạp (ở phía Bắc). Campuchia ngày nay nói rằng vì thế mà họ là người kế thừa của Phù Nam!
Tấm bản đồ dưới đây phản ánh thành quả nghiên cứu hơn một thập kỷ của dự án khảo cổ Hạ lưu Mekong-LOMAP trong việc xác định không gian địa lý của hai thực thể: Phù Nam và Chân Lạp. Bản đồ không gian Phù Nam và Chân Lạp (Miriam Stark 2006)
Phù Nam là Phù Nam và Chân Lạp là Chân Lạp. Sử liệu, khảo cổ học, ngôn ngữ học, văn bia, và khảo sát tộc người cho thấy không hề có sự nhập nhằng nào giữa hai thể chế này, cũng như không thể khẳng định Chân Lạp là người kế thừa (không nói là kế thừa toàn bộ) di sản của Phù Nam.
Trước hết, Chân Lạp được tạo dựng bởi người Khmer. Người Khmer nói tiếng Nam Á (Austroasiatic). Địa bàn phân bố của những người tạo dựng nên Chân Lạp trải dài từ khu vực cao nguyên Khorat, dọc lưu vực sông Chi, sông Mun, theo dãy Dangrek về phía đông đến vùng cao nguyên Champassak của Lào. Chân Lạp được thành lập sau Phù Nam và ban đầu còn phải nhận sự lệ thuộc.
Thứ hai là chính Chân Lạp đã tấn công phá hủy Phù Nam, sau đó rút về phía Bắc của Biển Hồ. Lịch sử cư trú của người Khmer ở hạ lưu Mekong sau thời kỳ Phù Nam là hầu như không được đề cập đến. Nhà sử học Nhật Bản Yumio Sakurai nói rằng nhiều vùng đất như Đồng Tháp Mười đã bị bỏ hoang cả nghìn năm sau sự sụp đổ của Phù Nam. Sứ thần nhà Nguyên Chu Đạt Quan đến Angkor vào thế kỷ XIII, ghi chép về vùng đất xung quanh hai bờ sông hầu như bỏ trống, chỉ có trâu hoang và rừng rậm. Nhà khảo cổ người New Zealand, Charles Higham đã lập tấm bản đồ trong đó đánh dấu các địa điểm có văn bia Khmer từ thế kỷ IX đến XIII, cho thấy họ hầu như không có sự hiện diện nào từ khu vực phía Nam Phnom Penh (2002).
Bản đồ phân bố các văn bia Khmer từ triều đại Mahidharpura (c. 802–1219) (Charles Higham 2002)
Cuối cùng, Phù Nam đang dần bước ra khỏi huyền thoại. Càng tách lịch sử ra khỏi huyền thoại thì chủ nghĩa dân tộc càng ít chỗ “ẩn nấp”, đó là lí do chúng ta cần đưa vương quốc này ra ánh sáng khoa học. Điều đó không chỉ giúp quá khứ được hiểu đúng mà quan trọng hơn thực tế lịch sử và các di sản của nó được tôn trọng, trong đó có vấn đề lãnh thổ, biên giới.
Lịch sử Phù Nam và vùng hạ lưu Mekong chắc chắn sẽ là những chủ đề được quan tâm trong tương lai. Hiện tại, các bảo tàng cấp tỉnh ở An Giang, Đồng Tháp, Long An, thành phố Hồ Chí Minh… có rất nhiều các hiện vật được khai quật, đang chờ đợi các nhà nghiên cứu. Chúng sẽ góp phần làm sáng tỏ bức chân dung ẩn giấu của Phù Nam. Thực tế, huyền thoại về Phù Nam là một ẩn dụ cho cách tiếp cận lịch sử của người Việt hiện đại, rằng lịch sử Việt Nam dường như vẫn chủ yếu được viết và nhìn từ châu thổ sông Hồng. Đã đến lúc chúng ta cần những cách thức tiếp cận lịch sử đa dạng, và mở rộng không gian của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bởi vì, dù phía sau Phù Nam là huyền thoại gì đi nữa, nó đã trở thành một phần của Việt Nam, cũng như lịch sử Phù Nam đã là một bộ phận của lịch sử Việt Nam.
Vũ Đức Liêm là giảng viên khoa Lịch sử, ĐH Sư phạm Hà Nội, nghiên cứu Lịch sử tại ĐH Hamburg. Hướng nghiên cứu chính: Lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á cận hiện đại.
Tham khảo
  • Charles Higham. 2002. Early Cultures of Mainland Southeast Asia. Oxford University Press.
  • Ian Glover. 1989. Early trade between India and Southeast Asia : A link in a world trading system, Center for Southeast Asian Studies. University of Hull.
  • Ian Glover and Peter Bellwood. 2004 Southeast Asia from Prehistory to History. Routledge Curzon.
  • James C. M. Khoo. 2000. Art & Archaeology of Fu Nan: Pre-Khmer Kingdom of the Lower Mekong Valley. Bangkok: Orchid Press, Bangkok.
  • Lê Thị Liên. 2006. Nghệ thuật Phật giáo và Hindu giáo ở Đồng bằng sông Cửu Long trước thế kỷ X. HN: Nxb Thế giới.
  • Lê Thị Liên. 2011. Hindu Deities in Southern Vietnam: Images on small archaeological artifacts, in Early Interactions Between South and Southeast Asia, eds., Pierre-Yves Manguin, ‎A. Mani, ‎Geoff Wade, Singapore: ISEAS.
  • Lương Ninh. 2009. Nước Phù Nam. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
  • Oliver W. Wolter. 1999.  History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives. Southeast Asian Program Publications No. 26, Cornell University, Ithaca, New York, 1999.
  • Paul Wheatley.1983. Nagara and Commandry. Origins of Southeast Asian Urban Traditions (Chicago:UC, Dept. of Geography, Research Papers Nos. 207-208, 1983).
  • Peter Bellwood. 2017. First Islanders: Prehistory and Human Migration in Island Southeast As. Wiley Blackwell.
  • Phan Huy Lê. Qua di tích Óc Eo và thư tịch cổ thử nhận diện nước Phù Nam. Nghiên cứu Lịch sử, 11/2007.
  • Viện bảo tàng lịch sử Việt Nam, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh. 1998. Khảo cổ học tiền sử và sơ sử thành phố Hồ Chí Minh. Nxb Trẻ. Thành Phố Hồ Chí Minh.
Nguồn: Tia Sáng
 
Văn hóa Óc Eo huyền thoại đến mức bạn không thể tưởng tượng được


Vương quốc cổ Phù-Nam 
Vùng đất trù phú Nam Bộ của Việt nam ngày nay từ khu vực Ðồng Nai đến Hà Tiên xưa thuộc Vương Quốc Phù Nam. Phù Nam là tên phiên âm tiếng Hán của từ Phnom có nghĩa là núi. Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái thì người Tàu thời xưa gọi tên nước này là ‘Diệu Nghiêm’. Vương quốc Phù Nam là vương quốc đầu tiên hình thành tại Ðông Nam châu Á, tồn tại từ đầu thế kỷ thứ 1 đến thế kỷ thứ 6 sau Công nguyên. Chúng ta có thể khẳng định rằng xã hội văn minh đã hiện hữu tại vùng đất này rất lâu trước khi vương quốc được thành lập.
Lịch sử bắt đầu từ khoảng năm thứ nhứt sau Công nguyên khi tại châu Âu, Ðại Ðế Claudius ra sức chinh phục đất Anh Cát Lợi và tại Trung Hoa là nhà Tây Hán. Theo truyền thuyết thì ngày xưa có một vị giáo sĩ anh hùng (Brahman) người Ấn Độ tên là Kaundinya được thần linh chỉ đường xuống thuyền xuôi về hướng đông. Sau một cuộc hành trình đầy gian truân, thuyền của Kaundinya đến được đất liền của đồng bằng sông Cửu Long. Bỗng từ đất liền xuất hiện một mỹ nhân trên chiếc thuyền nan bơi ra chặn thuyền của Kaundinya lại. Mỹ nữ này là Nữ Chúa Soma, con gái của vua Rắn Hổ mười đầu. Trận thư hùng diễn ra giữa anh hùng và giai nhân. Nhờ phép thuật thần thông nên Kaundinya thắng trận. Nữ chúa Soma cầu hòa. Sau đó không lâu hai người yêu rồi cưới nhau sinh ra một người con trai. Người con trai này trở thành vị vua đầu tiên của Vương quốc Phù-Nam lấy hiệu là Kampu.
Kinh đô trù phú của vương quốc được xây dựng tại thành Vyadhapura. Hầu hết những dữ kiện liên quan đến vương quốc cổ nhất Ðông Nam Á này đều đến từ sử liệu Trung Hoa và di vật khai quật được ở Óc-Eo. Chính vì thế tên các vương triều thường là do phiên âm ra tiếng Hán. Vào năm 245 sau Công nguyên nhà Hán Trung Hoa sai sứ giả là K’ang T’ai đi kinh lý vương quốc Phù Nam. Ông đã mô tả là vương quốc này đã biết cách luyện kim, kinh đô Vyadhapura có xây thành bằng gạch kiên cố chung quanh, có hệ thống kinh đào để thuyền bè có thể đi xuyên qua lãnh thổ. K’ang T’ai cũng nói rằng vương quốc Phù Nam có thư viện với nhiều sách vở chữ Phạn, có luật lệ, hệ thống thâu thuế và nông nghiệp, thương mãi đều phát triển. Thường thì người Hoa có tục lệ khinh khi những dân tộc không phải là Hán tộc. K’ang T’ai đã kết luận rằng người Phù Nam là một dân tộc man di, nước da đen đúa xấu xí, tóc quăn và đa số ở truồng, đi chân không. Ông sứ giả có than phiền điều này với quốc vương Phù Nam là vua Hun Fan Huang. Nhà vua sau đó ra lệnh cho tất cả thần dân của Ngài về sau phải quấn vải vào phần dưới thân thể, tiền thân của chiếc sà-rong mà người Thái, Miên và Mã Lai thường mặc ngày nay.
Những lời kể lại của thương nhân các nơi khác lại tỏ ra thán phục nền văn minh và sự hùng cường của Phù Nam. Họ kể rằng giới quí tộc Phù Nam ăn mặc diêm dúa, ở cung điện nguy nga bật nhất và nước Phù Nam có rất nhiều đồ châu bảo vàng bạc quí giá. Vương quốc sử dụng chữ Phạn cổ Sanscrit của Ấn Ðộ trong công việc hành chánh và thương mãi. Trong vòng 300 năm sau ngày lập quốc, Phù Nam đã có một hạm đội chiến thuyền và quân lực hùng mạnh. Vương quốc Phù Nam đã chinh phục được hầu như toàn thể những khu dân cư của vùng Mã Lai -Thái lan – Miên và nam Miến Ðiện để kiểm soát đường hàng hải của các thương thuyền giữa Trung Hoa và Ấn Ðộ. Hào quang cường thịnh và cách tổ chức hành chánh của Phù Nam đã làm gương mẫu cho những nền văn minh sau này như là tiểu vương quốc Sri Vijaya (Palembang), Sailendra ở Java Indonesia, và Malacca góp phần truyền bá văn minh Ấn Ðộ đến những thành phố, bộ lạc phiên thuộc dưới quyền kiểm soát của Phù Nam. Óc-Eo ngày xưa là một thương cảng trù phú có nhiều thương thuyền ghé lại. Vào thời điểm này thương gia đến Óc-Eo tấp nập từ đông sang tây: Ðế quốc La Mã qua Ấn Ðộ và Trung Hoa. Người ta đã tìm được những đồng tiền cổ của La Mã tại đây. Con của Hun Fan Huang là Fan-Shih-Man lên nối ngôi khoảng đầu thế kỷ thứ 3. Tiếp theo là các vua Hun Tien và Hun Phan Fan cha truyền con nối. Vua Hun Phan Fan là một vị minh quân trị vì từ cuối thế kỷ thứ 3 qua thế kỷ thứ 4. Ông nới rộng lãnh thổ, làm hùng mạnh quốc gia và thọ 90 tuổi, không rõ năm nào. Con của vua Hun Phan Fan là Hun Phan Phan không thích làm vua nên bỏ đi tu, nhường ngôi cho một viên tướng là Seray Mara sử Tàu gọi là Fan Che Man. Vua Fan Che Man nới rộng lãnh thổ Phù Nam ra gấp đôi diện tích cũ. Ông đã băng hà vào khoảng năm 204-210. Sau cái chết của vua Fan Che Man triều đình Phù Nam rơi vào cảnh rối loạn liên tiếp. Người cháu của vua là Fan Chan giết chết thái tử con của vua trước để chiếm ngôi. Hai mươi năm sau một người con của vua Fan Che Man là Asachi lại giết được Fan Chan để lấy lại ngai vàng. Sau đó không lâu Asachi lại bị tướng Siun giết để lên làm vua. Hoàn cảnh nào đưa vua Chandana lên ngôi vương không được sử liệu Trung Hoa nhắc đến. Có những chổ trống trong lịch sử những nước lân bang mà có lẽ vì trùng họp với những biến động chính trị tại triều đình Trung Quốc nên sử gia Trung Hoa đã không thể điều nghiên ghi chép.
Năm 357 Phù Nam dưới triều vua Chandana sang cầu phong Trung Hoa và xin triều cống. Một điều đáng nói là mặc dù những dân tộc tại Ðông Nam châu Á bị ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Ấn Ðộ, nhưng người Ấn Ðộ và lịch sử Ấn Ðộ hoàn toàn không quan tâm đến thế giới phía đông này cho đến mãi thế kỷ 20 chính phủ và nhân dân Ấn Ðộ mới tìm hiểu thêm về một vùng văn minh Ấn Ðộ đã có mặt tại đây từ lâu. Lịch sử Ấn Ðộ không đếm xỉa gì đến vùng Ðông Nam châu Á có ảnh hưởng văn hóa Ấn trong quá khứ. Ngược lại người Trung Hoa từ hơn 2000 năm nay luôn xem vùng biển phương nam thuộc ảnh hưởng của Thiên triều. Họ cho sứ giả đi điều tra và ghi chép cẩn thận những điều mắt thấy tai nghe. Từ lúc ban đầu ấy các nước đông nam Á đều đã có liên hệ ngoại giao với Trung Hoa qua hình thức cống sứ và xin phong. Trong thâm tâm tầng lớp lãnh đạo Trung Hoa, Thiên triều có thẩm quyền và nhiệm vụ can thiệp tại vùng nam châu Á nếu cần. Lịch sử đã chứng minh điều đó và gần đây nhất là Trung quốc đã đánh vào miền Bắc Việt nam năm 1979 vì bất đồng về chủ quyền và ảnh hưởng tại vương quốc Kampuchia. Nhưng cũng nhờ thế mà ta có những sử liệu quí giá từ thời thượng cổ để tìm hiểu lịch sử của những quốc gia phương nam của Trung Quốc trong đó có Việt Nam ngày nay và Phù Nam xưa.
Những thần dân của Phù Nam xưa thuộc giống người thổ da đen Khmer, Môn-Khmer, Miến, và dân đa đảo Malay-indônêsiên. Ngôn ngữ sử dụng thuộc hệ Ấn độ pha trộn với nhiều sắc thái, thổ ngữ địa phương. Người nước Phù Nam theo đạo Bà La Môn và Phật giáo. Vương quốc Phù Nam đạt đến sự cực thịnh dưới triều vua Kaundinya Jajavarman (478-514). Vua Rudravaman (514-539) có sai sứ sang Trung Hoa triều cống và cho biết Ngài có một lọn tóc xá lợi của Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Trong thời gian này các vị cao tăng Phật giáo người Phù Nam đã dịch cuốn Phật Kinh Vimutti Magga sang chữ Hán. Ngày nay cuốn kinh này chỉ tồn tại bằng chữ Hán vì bản chánh chữ Phạn đã bị thất lạc. Thế rồi sau đó vương quốc Phù Nam bị suy tàn bởi nội loạn và sự nổi dậy của dân tộc Khmer (một xứ phiên thuộc của Phù Nam), tràn sang từ vùng đất thuộc nước Lào bây giờ. Một yếu tố khác góp phần vào sự suy tàn của Phù Nam là nền kinh tế của quốc gia đã đi xuống từ sau những tiến bộ về kỹ thuật hàng hải. Thuyền buôn vào thời điểm này đã có thể đi xa bờ và ít có nhu cầu ghé lại Óc-Eo trên đường đi qua Trung Quốc. Năm 539 vương quốc Phù Nam bị buộc phải triều cống cho người Khmer lúc đó là Vương quốc Chân Lạp. Ðến năm 627 Phù Nam bị người Khmer dưới quyền vua Chân Lạp là Bhavavarman xóa hẳn tên trên bản đồ. Những thần dân của Phù Nam bị sát nhập vào vương quốc Khmer. Hoàng gia của Phù Nam dùng đường biển tị nạn sang đảo Java của Nam Dương (Indonesia). Họ sống âm thầm mãi đến gần 200 năm sau, hậu duệ của nhóm người này phát lên để dựng nên triều đại huy hoàng Sailendra. Các ông hoàng bà chúa của dòng họ này lại kết hôn với các lãnh chúa của các tiểu vương lân bang như Mã Lai và nhiều đảo quốc trong vùng. Cho đến ngày nay giới quí tộc, hoàng gia các nước đa đảo như Mã Lai, Nam Dương (Indonesia) đều có liên hệ huyết thống với hoàng tộc nước Phù Nam của miền nam Việt Nam.
Từ năm 550 trở về sau cho đến khi chúa Nguyễn bành trướng thế lực đến miền nam, người Khmer cai tri xứ này theo niên hiệu các vị vua Chân Lạp. Từ khi bị mất nước về tay Chân Lạp người dân Phù Nam trở thành một dân tộc lục địa, mất đi khả năng hàng hải. Ngày nay người Khmer nhìn nhận các vương triều Phù Nam là tổ tiên của dân tộc Khmer và là một phần của lịch sử Khmer. Người Khmer còn được chúng ta biết đến qua nhiều danh xưng Cao Miên, Chân Lạp, Cam bốt và Kampuchia. Vào lúc người Việt di cư đến vùng đất miền Nam vào năm 1800 người ta tìm thấy một pho tượng nữ vương bằng cẩm thạch bị chôn vùi từ thế kỷ thứ 5 hoặc thứ 6 sau Công nguyên. Có thuyết cho rằng đó là tượng quốc mẫu vương quốc Phù Nam là Soma. Người Việt kính cẩn lập đền thờ bà tại núi Sam tỉnh An Giang gọi là đền thờ Bà Chúa Xứ. Hàng năm cư dân Hoa, Việt, Miên lui tới cúng bái, hương khói vô cùng linh thiêng. Sự việc đó cho thấy lòng biết ơn của những người đến sau đối với những đợt người đã khai phá vùng đất này trước dân tộc Việt Nam.
#AV

Bí ẩn vương quốc Phù Nam: Những khám phá bất ngờ

Những cuộc khai quật ở di tích thành trì cổ Óc Eo và chùa Linh Sơn cho thấy nhiều di vật có giá trị lịch sử rất cao, trải dài theo quá trình lập quốc của vương quốc cổ Phù Nam đến sau thế kỷ XII

Theo kết quả khảo sát của các nhà chuyên môn, khu di tích Óc Eo (thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) khá rộng lớn với tổng diện tích khoảng 450 ha. Nó lớn đến nỗi nhà khảo cổ người Pháp Louis Malleret không tin đó là thành trì của một vương quốc có từ 1.900 năm về trước.
Thành trì vương quốc cổ
Khu di tích Óc Eo được xây dựng theo quy hoạch chặt chẽ, có hình chữ nhật với 5-6 bờ thành, hào nước bao quanh, có thủy đạo chạy ngang theo đường trục chính giữa, lại có thêm nhiều đường nước mở ra ở góc Đông Bắc cho ghe thuyền ra vào trú ẩn. Ngoài hệ thống bờ tường, đường hào thì nơi đây còn có nhiều di tồn kiến trúc kiểu nhà sàn dựng trên cột gỗ được phân bố dọc bên hoặc gần bên thủy đạo chính với khoảng 40 phế tích lớn nhỏ được xây bằng gạch, đá, cát, đất sét có liên quan tín ngưỡng tôn giáo Hindu, Phật giáo...
Bí ẩn vương quốc Phù Nam: Những khám phá bất ngờ - Ảnh 1.
Nhiều hiện vật, di chỉ văn hóa Óc Eo được phát hiện tại khu vực khai quật ở Linh Sơn tự
Khu di tích này đã lưu tồn khối lượng và số lượng lớn nhất với đa dạng chủng loại hiện vật, chất liệu liên quan đến nhiều lĩnh vực đời sống của con người trong sinh hoạt vật chất, tinh thần, sản xuất, giao thương… Đó là hàng chục loại đồ gốm lớn nhỏ, thô mịn, bình dân và cao cấp; hàng chục vạn hạt chuỗi thủy tinh nhiều màu sắc; hàng trăm hạt chuỗi, vật đeo bằng đá quý, bán quý (25 loại chất liệu) cùng rất nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc hoặc vàng bạc có gắn đá quý. Bên cạnh đó là nhiều tượng nghệ thuật tôn giáo hoặc thường nhật bằng đá, đồng thau, thiếc, chì, mạ vàng và những sản phẩm mậu dịch biển vùng, quốc gia như loại tiền vàng, tiền bạc, tiền "Phù Nam".
Khu thành trì rộng lớn này đã được người Pháp tên Louis Malleret phát hiện qua ảnh chụp từ máy bay vào năm 1928. Ông Louis Malleret không thể ngờ một vùng đất rộng như vậy lại là địa chỉ của một thành trì đã hoang phế. Nhà khảo cổ học này lý giải sở dĩ vua chúa Phù Nam chọn địa điểm dưới chân núi như thế này để xây dựng thành trì là vì những lý do về tín ngưỡng giống như ở Ấn Độ. Theo quan niệm của người xưa, đỉnh núi được coi là nơi ngự của các thần nên xung quanh núi có rất nhiều di tích kiến trúc và các pho tượng, chủ yếu là hình ảnh của thần Vishnu. Do đó, Ba Thê được chọn như một quả núi trung tâm với một vành đai thiêng liêng về thủy bộ, liên tưởng đến đại dương vũ trụ dựa theo chủ nghĩa tượng trưng đã được sáng tỏ theo đà tiến bộ trong nghiên cứu về Angkor.
Ngoài ra, Louis Malleret còn phát hiện những kiến trúc bằng gạch nung, những ụ đá huyền bí, điêu khắc trang trí, đồ gốm với nhiều hình dạng khác nhau như đầu người, quái vật, khánh thờ bán nguyệt...
Bí ẩn dưới Linh Sơn tự
Theo các nhà nghiên cứu, Linh Sơn tự được xây dựng dưới chân núi Ba Thê cách nay chỉ hơn 100 năm. Tuy nhiên, bên dưới ngôi chùa này vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn cần được khám phá.
Mới đây, vào ngày 3-1 vừa qua, tại thị trấn Óc Eo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp cùng UBND tỉnh An Giang tổ chức hội thảo khoa học, sơ bộ công bố kết quả khai quật nghiên cứu di tích khảo cổ học thuộc nền văn hóa Óc Eo của vương quốc Phù Nam xưa. Theo đó, từ tháng 8-2017 đến nay, viện này đã tiến hành khai quật 2 hố với tổng diện tích hơn 285 m2 trong khuôn viên chùa Linh Sơn. Kết quả đã phát hiện được dấu tích của hơn 30 di tích, trong đó có 5 di tích được hình thành tương ứng 5 thời kỳ phát triển. Các nhà khảo cổ đã thu được số lượng di vật rất lớn trong 2 hố với khoảng 20.000 di vật, gồm vật liệu kiến trúc (gạch ngói các loại), đồ gồm sinh hoạt (nồi, bát đĩa…), di vật đá (mảnh tượng bằng đá sa thạch)... Các di vật có niên đại kéo dài từ khoảng thế kỷ I trước Công nguyên đến sau thế kỷ XII.
Bí ẩn vương quốc Phù Nam: Những khám phá bất ngờ - Ảnh 2.
Nhiều hiện vật cổ được tìm thấy tại khu di tích Óc Eo
Trước đó, vào năm 1998, Viện Khoa học Xã hội tại TP HCM do ông Nguyễn Sĩ Khải làm trưởng đoàn cùng với các nhà khảo cổ thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ và Bảo tàng An Giang tiến hành khai quật khu vực xung quanh Linh Sơn tự trong vòng 42 ngày. Đoàn đã khai quật 2 di tích kiến trúc và 2 mộ táng một cách có hệ thống trong mùa điền dã. Đặc biệt, trong tầng văn hóa sâu nhất và xưa nhất của di tích, đoàn đã phát hiện một chum cải táng bằng gốm thô, xương gốm đen và áo gốm màu đỏ (đường kính 0,67 m, cao 0,4 m) được đậy bằng vung dạng cái tô lớn. Trong chum có vài mảnh nhỏ chất hữu cơ, 5 hạt chuỗi bằng vàng (hạt lớn nhất dài 6 mm) và một hạt chuỗi vỡ bằng mã não. Tại hố khai quật gần đó, đoàn phát hiện có một số đường móng và vách gạch không còn nguyên vẹn được xây chồng lên đường móng cũ. Cách đó khoảng 70 m, đoàn phát hiện có giếng hình vuông ở độ sâu 2,7 m. Tuy nhiên, giếng vuông này đã bị đào phá và lấy đi gần hết gạch cùng các di vật bên trong.
Theo nhận định của đoàn khảo cổ này, khu vực Linh Sơn tự ở sườn đông núi Ba Thê, từ độ cao 16,5 m cho đến chân núi là khu vực dày đặc những dấu vết kiến trúc cổ bằng gạch và đá. Trên lòng đường chạy quanh sườn núi tiếp giáp với khu cư trú và mộ táng trên cánh đồng Óc Eo vẫn còn nhiều điều bí ẩn cần được khám phá để tìm hiểu lịch sử cổ đại của vùng châu thổ sông Cửu Long tại khu di tích rộng lớn này.
Huyền bí tượng Phật 4 tay
Theo tài liệu lưu giữ, khi người Pháp cho xe ủi đất làm đường và xây đồn bót vào năm 1913, người dân phát hiện pho tượng đá 4 tay, cao 1,7 m còn nguyên vẹn, nằm sâu cách mặt đất khoảng 2 m. Cư dân Khmer cho là tượng Thần núi nên tập hợp gần trăm trai làng đến dùng dây kéo về để thờ cúng nhưng không thành. Ngay sau đó, một số người Kinh đến nơi lập bàn hương án cầu nguyện và dùng tre nứa làm con lăn thì pho tượng mới được dịch chuyển dần về chân núi Ba Thê. Tại đây, người dân đặt pho tượng vào giữa 2 bia đá cổ đã được phát hiện trước đó rồi dựng lên ngôi chùa lá và đặt tên Linh Sơn tự để thờ cúng cũng như bảo quản 2 báu vật này.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 27-1
Kỳ tới:

Những cuộc khai quật ở di tích thành trì cổ Óc Eo và chùa Linh Sơn cho thấy nhiều di vật có giá trị lịch sử rất cao, trải dài theo quá trình lập quốc của vương quốc cổ Phù Nam đến sau thế kỷ XII


Theo kết quả khảo sát của các nhà chuyên môn, khu di tích Óc Eo (thị trấn Óc Eo, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) khá rộng lớn với tổng diện tích khoảng 450 ha. Nó lớn đến nỗi nhà khảo cổ người Pháp Louis Malleret không tin đó là thành trì của một vương quốc có từ 1.900 năm về trước.
Thành trì vương quốc cổ
Khu di tích Óc Eo được xây dựng theo quy hoạch chặt chẽ, có hình chữ nhật với 5-6 bờ thành, hào nước bao quanh, có thủy đạo chạy ngang theo đường trục chính giữa, lại có thêm nhiều đường nước mở ra ở góc Đông Bắc cho ghe thuyền ra vào trú ẩn. Ngoài hệ thống bờ tường, đường hào thì nơi đây còn có nhiều di tồn kiến trúc kiểu nhà sàn dựng trên cột gỗ được phân bố dọc bên hoặc gần bên thủy đạo chính với khoảng 40 phế tích lớn nhỏ được xây bằng gạch, đá, cát, đất sét có liên quan tín ngưỡng tôn giáo Hindu, Phật giáo...
Bí ẩn vương quốc Phù Nam: Những khám phá bất ngờ - Ảnh 1.
Nhiều hiện vật, di chỉ văn hóa Óc Eo được phát hiện tại khu vực khai quật ở Linh Sơn tự
Khu di tích này đã lưu tồn khối lượng và số lượng lớn nhất với đa dạng chủng loại hiện vật, chất liệu liên quan đến nhiều lĩnh vực đời sống của con người trong sinh hoạt vật chất, tinh thần, sản xuất, giao thương… Đó là hàng chục loại đồ gốm lớn nhỏ, thô mịn, bình dân và cao cấp; hàng chục vạn hạt chuỗi thủy tinh nhiều màu sắc; hàng trăm hạt chuỗi, vật đeo bằng đá quý, bán quý (25 loại chất liệu) cùng rất nhiều đồ trang sức bằng vàng, bạc hoặc vàng bạc có gắn đá quý. Bên cạnh đó là nhiều tượng nghệ thuật tôn giáo hoặc thường nhật bằng đá, đồng thau, thiếc, chì, mạ vàng và những sản phẩm mậu dịch biển vùng, quốc gia như loại tiền vàng, tiền bạc, tiền "Phù Nam".
Khu thành trì rộng lớn này đã được người Pháp tên Louis Malleret phát hiện qua ảnh chụp từ máy bay vào năm 1928. Ông Louis Malleret không thể ngờ một vùng đất rộng như vậy lại là địa chỉ của một thành trì đã hoang phế. Nhà khảo cổ học này lý giải sở dĩ vua chúa Phù Nam chọn địa điểm dưới chân núi như thế này để xây dựng thành trì là vì những lý do về tín ngưỡng giống như ở Ấn Độ. Theo quan niệm của người xưa, đỉnh núi được coi là nơi ngự của các thần nên xung quanh núi có rất nhiều di tích kiến trúc và các pho tượng, chủ yếu là hình ảnh của thần Vishnu. Do đó, Ba Thê được chọn như một quả núi trung tâm với một vành đai thiêng liêng về thủy bộ, liên tưởng đến đại dương vũ trụ dựa theo chủ nghĩa tượng trưng đã được sáng tỏ theo đà tiến bộ trong nghiên cứu về Angkor.
Ngoài ra, Louis Malleret còn phát hiện những kiến trúc bằng gạch nung, những ụ đá huyền bí, điêu khắc trang trí, đồ gốm với nhiều hình dạng khác nhau như đầu người, quái vật, khánh thờ bán nguyệt...
Bí ẩn dưới Linh Sơn tự
Theo các nhà nghiên cứu, Linh Sơn tự được xây dựng dưới chân núi Ba Thê cách nay chỉ hơn 100 năm. Tuy nhiên, bên dưới ngôi chùa này vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn cần được khám phá.
Mới đây, vào ngày 3-1 vừa qua, tại thị trấn Óc Eo, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam phối hợp cùng UBND tỉnh An Giang tổ chức hội thảo khoa học, sơ bộ công bố kết quả khai quật nghiên cứu di tích khảo cổ học thuộc nền văn hóa Óc Eo của vương quốc Phù Nam xưa. Theo đó, từ tháng 8-2017 đến nay, viện này đã tiến hành khai quật 2 hố với tổng diện tích hơn 285 m2 trong khuôn viên chùa Linh Sơn. Kết quả đã phát hiện được dấu tích của hơn 30 di tích, trong đó có 5 di tích được hình thành tương ứng 5 thời kỳ phát triển. Các nhà khảo cổ đã thu được số lượng di vật rất lớn trong 2 hố với khoảng 20.000 di vật, gồm vật liệu kiến trúc (gạch ngói các loại), đồ gồm sinh hoạt (nồi, bát đĩa…), di vật đá (mảnh tượng bằng đá sa thạch)... Các di vật có niên đại kéo dài từ khoảng thế kỷ I trước Công nguyên đến sau thế kỷ XII.
Bí ẩn vương quốc Phù Nam: Những khám phá bất ngờ - Ảnh 2.
Nhiều hiện vật cổ được tìm thấy tại khu di tích Óc Eo
Trước đó, vào năm 1998, Viện Khoa học Xã hội tại TP HCM do ông Nguyễn Sĩ Khải làm trưởng đoàn cùng với các nhà khảo cổ thuộc Trường Viễn Đông Bác Cổ và Bảo tàng An Giang tiến hành khai quật khu vực xung quanh Linh Sơn tự trong vòng 42 ngày. Đoàn đã khai quật 2 di tích kiến trúc và 2 mộ táng một cách có hệ thống trong mùa điền dã. Đặc biệt, trong tầng văn hóa sâu nhất và xưa nhất của di tích, đoàn đã phát hiện một chum cải táng bằng gốm thô, xương gốm đen và áo gốm màu đỏ (đường kính 0,67 m, cao 0,4 m) được đậy bằng vung dạng cái tô lớn. Trong chum có vài mảnh nhỏ chất hữu cơ, 5 hạt chuỗi bằng vàng (hạt lớn nhất dài 6 mm) và một hạt chuỗi vỡ bằng mã não. Tại hố khai quật gần đó, đoàn phát hiện có một số đường móng và vách gạch không còn nguyên vẹn được xây chồng lên đường móng cũ. Cách đó khoảng 70 m, đoàn phát hiện có giếng hình vuông ở độ sâu 2,7 m. Tuy nhiên, giếng vuông này đã bị đào phá và lấy đi gần hết gạch cùng các di vật bên trong.
Theo nhận định của đoàn khảo cổ này, khu vực Linh Sơn tự ở sườn đông núi Ba Thê, từ độ cao 16,5 m cho đến chân núi là khu vực dày đặc những dấu vết kiến trúc cổ bằng gạch và đá. Trên lòng đường chạy quanh sườn núi tiếp giáp với khu cư trú và mộ táng trên cánh đồng Óc Eo vẫn còn nhiều điều bí ẩn cần được khám phá để tìm hiểu lịch sử cổ đại của vùng châu thổ sông Cửu Long tại khu di tích rộng lớn này.
Huyền bí tượng Phật 4 tay
Theo tài liệu lưu giữ, khi người Pháp cho xe ủi đất làm đường và xây đồn bót vào năm 1913, người dân phát hiện pho tượng đá 4 tay, cao 1,7 m còn nguyên vẹn, nằm sâu cách mặt đất khoảng 2 m. Cư dân Khmer cho là tượng Thần núi nên tập hợp gần trăm trai làng đến dùng dây kéo về để thờ cúng nhưng không thành. Ngay sau đó, một số người Kinh đến nơi lập bàn hương án cầu nguyện và dùng tre nứa làm con lăn thì pho tượng mới được dịch chuyển dần về chân núi Ba Thê. Tại đây, người dân đặt pho tượng vào giữa 2 bia đá cổ đã được phát hiện trước đó rồi dựng lên ngôi chùa lá và đặt tên Linh Sơn tự để thờ cúng cũng như bảo quản 2 báu vật này.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 27-1

Bài và ảnh: THỐT NỐT

"Chảy máu" cổ vật Óc Eo

Trong những năm qua, việc mua bán cổ vật Óc Eo diễn ra nhiều cho thấy nguồn lợi rất lớn đã vuột khỏi tầm kiểm soát của nhà nước

Cổ vật Óc Eo được người dân vùng Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên phát hiện từ trước khi ông Louis Malleret đến khám phá và khai quật. Chính vì vậy mà nhiều di tích đã bị đào bới để săn tìm cổ vật.
Săn lùng, mua bán trôi nổi
Theo các nhà nghiên cứu, cho dù chưa có thống kê một cách đầy đủ nhưng những gì đã phát hiện cũng có thể khẳng định rằng Phù Nam - Óc Eo vô cùng đa dạng và phong phú. Nó không chỉ thể hiện qua chất liệu, loại hình mà còn về nguồn gốc xuất xứ. Trong đó, nhiều di vật đến từ vùng Tây Á, Ấn Độ, Đông Nam Á, Trung Quốc và cả khu vực Địa Trung Hải.
Chảy máu cổ vật Óc Eo - Ảnh 1.
Nhiều trường thường xuyên đưa học sinh tham quan các điểm khai quật văn hóa Óc Eo
Chảy máu cổ vật Óc Eo - Ảnh 2.
Nhiều cổ vật văn hóa Óc Eo được tìm thấy có từ thời vương quốc cổ Phù Nam
Mãi đến thế kỷ XIX, người dân vùng Đồng Tháp Mười nhặt được nhiều hiện vật chất liệu bằng vàng, bạc sau mùa nước nổi. Đến cuối những năm 30 của thế kỷ XX, sau khi một tờ báo đăng phóng sự nói về việc nhặt được rất nhiều vàng ở vùng Óc Eo - Ba Thê (huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang), hàng trăm, hàng ngàn người đổ xô về khu vực này để đào bới. Từ đó hình thành nên một khu vực buôn bán cổ vật hết sức bát nháo. Hậu quả nặng nề là nhiều khu di tích bị biến dạng do các nhóm săn lùng cổ vật gây ra. Đến khi chính quyền địa phương dẹp được tình trạng này thì ông Louis Malleret mới có điều kiện tiến hành các cuộc khai quật quy mô đầu tiên và phát hiện cả một thành trì với rất nhiều cổ vật, di chỉ của nền văn hóa Óc Eo.
Sau ngày 30-4-1975, hiện vật văn hóa Óc Eo ngày càng được phát hiện nhiều với địa bàn rộng khắp các tỉnh, thành phía Nam. Theo nhà khảo cổ học Phạm Hữu Công, hiện vật được tìm thấy khá đa dạng, như các loại ấm đất nung có vòi cong, nồi nấu kim loại, chai, ly chân cao, đầu tượng, chày, bàn nghiền, khuôn đúc nữ trang, linga, yoni, tượng Phật, trục bánh xe, cọc nhà sàn được làm bằng gốm, gỗ, kim loại và con dấu bằng đá quý... Ngoài khai quật của nhà nước, không ít hiện vật quý này tìm thấy ngẫu nhiên trong nhà dân, người đi săn đồ cổ. Trong khi đó, do còn nhiều hạn chế về kinh phí, nhân sự, trình độ nên các bảo tàng không thể sưu tầm được hết những hiện vật trôi nổi.
Đáng lo ngại hơn, có trường hợp người dân phát hiện vài kg tiền cổ có hình mặt trời rồi mang đi rao bán khắp nơi hoặc được các chủ tiệm vàng mua lại. Các hiện vật quý này bị phá hủy để chế tác lại theo ý muốn của người sở hữu.
Núp bóng "hội cổ vật"
Cũng theo nhà khảo cổ học Phạm Hữu Công, từ nhiều năm qua, ở các tỉnh, thành phía Nam xuất hiện tình trạng thu mua cổ vật, thậm chí hình thành các điểm kinh doanh đồ xưa. Có điểm chứa đến hàng ngàn món đồ, trong đó có nhiều hiện vật thuộc văn hóa Óc Eo - Phù Nam. Hầu như các điểm này không có giấy phép kinh doanh, mua bán cổ vật lén lút. Thậm chí có người còn núp bóng một "hội cổ vật" nào đó. Nhờ có "lá bùa" là chiếc thẻ hội viên của các hội này, họ dễ dàng qua mặt cơ quan thẩm quyền.
Ông Công cho rằng trong nhiều năm qua, việc mua bán cổ vật Óc Eo diễn ra nhiều trong những năm trước đây, cho thấy nguồn lợi rất lớn đã vuột khỏi tầm kiểm soát của nhà nước. Một người chuyên săn đồ cổ tên M. ở thị trấn Óc Eo thừa nhận nạn săn lùng, mua bán trôi nổi vẫn cứ tái diễn là do những lỗ hổng từ quản lý nhà nước. Trong tình trạng mua bán cổ vật Óc Eo bị thả nổi, những hiện vật có giá trị cao được người dân tìm thấy như các loại chuỗi ngọc, đá quý, chày tiêu, các loại tượng bằng đá, đồng và vàng... đã đi thẳng vào các điểm kinh doanh đồ xưa chứ không vào các khu di tích, nhà trưng bày cổ vật.
"Tình trạng này hiện nay đã được hạn chế hơn trước. Một số người dân cũng có ý thức hơn về cổ vật nên đã giao nộp lại cho Nhà Trưng bày Văn hóa Óc Eo tại thị trấn Óc Eo. Bản thân tôi hiện chỉ còn chơi đồ xưa và một số tác phẩm điêu khắc hiện đại chứ đồ cổ Óc Eo ở đây đã được nhà nước thu gom hết rồi" - ông M. khẳng định.
(*) Xem Báo Người Lao Động từ số ra ngày 27-1
Tràn lan cổ vật giả
Theo các nhà khảo cổ, điều đáng lo là tình trạng làm giả hiện vật văn hóa Óc Eo - Phù Nam. Những cổ vật giả chủ yếu là tượng Phật gỗ, tượng đá, tượng đồng, một số đồ gốm men niên đại sau Phù Nam. Đồ giả có xuất xứ ngay tại Việt Nam hoặc nhập lậu từ Thái Lan, Campuchia.
"Phải tăng cường quản lý nhà nước về di sản. Có lẽ cũng phải đưa các nhà sưu tập tư nhân vào diện kinh doanh di sản để quản lý vì hầu như 100% họ đang là người mua và bán cổ vật trái phép. Khu di tích Óc Eo cần phải được khoanh vùng bảo vệ, tôn tạo và đưa vào danh mục đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới" - ông Công đề xuất.

Bài và ảnh: THỐT NỐT
18/09/2012 16:09 6867
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Vương quốc Phù Nam được xác định là một quốc gia cổ đại - Nhà nước đầu tiên có nền chính trị- kinh tế hùng mạnh ở Đông Nam Á trong 6 thế kỷ đầu Công nguyên.
Quốc gia này để lại cho chúng ta nền Văn hóa Óc Eo. Đây là một nền văn hóa, văn minh cổ đại xuất hiện sớm nhất vùng Đông Nam Á. Phù Nam đã có một thời kỳ hình thành, phát triển vô cùng mạnh mẽ, nhưng về sau gặp biến cố nên đã bị suy vong và biến mất. Tất cả đền đài, thành quách đều bị chôn vùi trong lòng đất suốt hàng nghìn năm. Về sau người ta chỉ biết đến Vương quốc Phù Nam qua sự phát hiện ra nền văn hóa Óc Eo từ cuộc khai quật đầu tiên của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret tại gò Óc Eo (xã Vọng Khê, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang) vào năm 1944. Với những gì Louis Malleret phát hiện, cùng với những kết quả khảo cổ của các đồng nghiệp Việt Nam sau này đã vẽ nên một cách sống động về nền văn hóa cổ từng tồn tại và phát triển rực rỡ ở đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VII sau Công Nguyên.

Bản đồ vùng Óc Eo năm 1944 của học giả người Pháp Louis Malleret
Về nguồn gốc ra đời của của Nhà nước Phù Nam và vương triều Hindu giáo đầu tiên, sách “Nam tề thư” của Trung Quốc có ghi: “Nước Phù Nam thuộc hướng Nam, phía Tây là biển lớn và phía Nam là quận Nhật Nam (Trung Quốc) có diện tích rộng hơn 3000 dặm. Nước ấy có một con sông lớn chảy theo hướng Tây ra biển. Trước đây nước này do một vị Nữ vương tên là Liễu Diệp (Lưu Yi) cai trị. Tục nước này vốn khỏa thân, vẽ mình, xõa tóc, không biết may quần áo, phụ nữ làm vua. Phía Nam nước ấy có một nước Khích, quốc vương là Hỗn Điền (Kaundinia). Hỗn Điền là người rất chăm thờ thần linh. Theo chiêm bao và theo lời chỉ dẫn của các vị thần, Hỗn Điền cưỡi thuyền ra biển đi theo hướng về đất Phù Nam. Thấy thuyền lạ xâm phạm vào lãnh thổ, Liễu Diệp mang quân ra tấn công, một cuộc chạm trán nổ ra và Liễu Diệp xin hàng. Hỗn Điền đã cưới Liễu Diệp làm vợ vì đây là mối “nhân duyên kỳ ngộ” đã được thần linh mách bảo từ trước. Từ đó Hỗn Điền cai trị Phù Nam, thay đổi một số tập tục ở nước này, lệnh cho phụ nữ phải dùng vải quấn hoặc may quần áo mặc, bỏ tục khỏa thân. Hỗn Điền cùng Liễu Diệp sinh được 7 người con nên chia nước làm 7 ấp (tương đương với thành- phủ), giao cho các con cai trị, mỗi người giữ 1 ấp gọi là “Tiểu vương”, còn một phần lớn diện tích trong hoàng cung do nhà vua hay còn gọi là “Đại vương” quản lý và quản lý cả các “Tiểu vương”. Mỗi thành của các “Tiểu vương” quản lý một khu vực dân cư đông đúc từ 2-5 km2 và hàng trăm bàu nước (mỗi bàu nước dùng cho hàng chục hộ dân sinh hoạt”.
Vương quốc Phù Nam đặt Thủ đô tại Lò Gò (cách thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang ngày nay khoảng 30 km về phía Tây Nam). Quân đội có các lực lượng thủy- tượng- bộ binh làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội và bờ cõi biên cương. Vì thế vào lúc cực thịnh, vương quốc Phù Nam đã kiểm soát về phía Đông đến tận cùng phía Nam Trung Bộ thuộc Việt Nam ngày nay, về phía Tây đến thung lũng sông Mê Nam của Thái Lan. Dân chúng Phù Nam, cũng như nhà vua đều tôn thờ tín ngưỡng tâm linh, nhất là tôn kính thờ phụng các vị thần của đạo Bà La Môn và Phật giáo. Do đó giới tăng lữ, đạo sĩ được trọng dụng và nắm thần quyền - vương quyền. Kế đến là các nhà sư, hòa thượng nắm độc quyền bang giao. Giới đại thương gia, đại điền chủ là nền tảng xã hội, chi phối nền kinh tế- nông nghiệp lẫn thương mại. Pháp luật của Phù Nam là “ luật pháp Thiên Chúc” do nhà vua thực thi theo “ thần linh chiêm nghiệm”- “ thần linh mách bảo”. Vua cho xây dựng đền đài khắp nơi để thờ cúng thần linh. Phần đông dân chúng đều tôn thờ Phật pháp và tuân theo đạo sĩ Bà La Môn. Xã hội Phù Nam cũng có kết cấu tổ chức như các chế độ xã hội hiện đại hiện nay. Bộ máy nắm quyền quản lý xã hội với người đứng đầu là vua, kế đến là các hoàng thân, các lãnh chúa và giới tăng lữ. Ở thời đại của quốc gia cổ đầu tiên này cũng có đội ngũ những người làm khoa học, người dạy học nhưng là các thầy tu dạy chữ Phạn. Cũng có người đi lính tham gia vào quân đội; cũng có người hoạt động nghệ thuật - văn nghệ như đào kép, vũ công ca múa nhạc phục vụ cho giới quan lại cung đình. Ở thời đại Phù Nam, nghề luyện kim, đúc khuôn rất phát triển với số lượng lớn phường thợ kim hoàn, thợ rèn. Các ngành nghề khác như nghề dệt, nghề mộc, xây dựng, khai thác lâm hải sản cũng phát triển và có cả đội ngũ chuyên môn. Vương quốc Phù Nam còn có một nền nông nghiệp khá phát triển với nghề trồng lúa nước, trồng mía đường; một bộ phận nông dân trồng vườn, chăn nuôi, đánh bắt thủy sản. Song giàu có nhất là tầng lớp thương nhân. Một tầng lớp thương gia buôn bán tại chỗ và thương nhân vãng lai từ một số vùng đất trong khu vực, thậm chí từ Trung Hoa, Địa Trung Hải, Vịnh Ba Tư gồm nhiều sắc tộc và tôn giáo khác nhau thường xuyên đến trao đổi mua bán với Phù Nam.

Hệ thống kênh rạch cổ vùng Óc Eo (1944)
Người Phù Nam có cuộc sống rất thực tế. Sống trên vùng ngập nước, họ đã tận dụng địa hình để đào những con kênh thoát nước, dẫn nước và để giao thông đi lại. Con kênh Kiên Giang- Minh Hải (nay là Bạc Liêu) chạy qua các khu di tích Núi Sam, Bảy Núi, Óc Eo (An Giang) hay Giếng Đá từ di chỉ Tráp Đá (An Giang) chạy dài hơn 30km đến khu di tích Nền Chùa (Kiên Giang). Kênh số Một chạy từ Đông sang Tây của huyện Tri Tôn (An Giang) với khoảng 16km. Ngay ở khu di tích Óc Eo - Núi Sập - Định Mỹ (An Giang) có những con kênh cổ tạo thành một mạng lưới chằng chịt tỏa như nan quạt nối liền các di chỉ Óc Eo. Theo các nhà khảo cổ học, quan sát thực tế cho thấy tại Đá Nổi (nay thuộc Cần Thơ) là điểm hội tụ của 11 đoạn kênh đào cổ. Cư dân cổ của Vương quốc Phù Nam ở vùng châu thổ sông Cửu Long không trị thủy bằng đê mà bằng cách đào kênh, dẫn nước vào ruộng, khai thác lợi thế từ nguồn nước, sông rạch. Một số người còn sống bằng nghề cá. Người dân sống trên nhà sàn vì đó vốn sình lầy, là vùng đồng bằng thấp ngập nước. Các đền đài, mộ táng thì được xây dựng trên các gò đất đắp hoặc đồi núi cao. Có đền đài dài đến 25m rộng 16m, kè móng đá cao 2m. Điều này cho thấy Phù Nam là một xã hội thượng tôn tín ngưỡng tôn giáo hết sức mạnh mẽ.
Trong quá trình phát triển, Vương quốc Phù Nam đã chú trọng đến việc hình thành các thương cảng phục vụ cho việc giao thương với các xứ khác. Bởi vậy trong giai đoạn phát triển cực thịnh của mình, Phù Nam không chỉ có một thương cảng Óc Eo (An Giang) và một tiền cảng Nền Chùa (Kiên Giang), mà còn có các thương điếm từ Óc Eo qua Đá Nổi đến Phú Long (Sa Đéc), Gò Thành (Vĩnh Long) rồi các trung tâm ở vùng Mỹ Tho - Gò Công trước khi đến Cần Giờ đổ ra Biển Đông. Vùng vịnh cổ này chạy theo hướng Đông - Tây từ mũi Vũng Tàu đến cửa sông cổ ở Thoại Giang, Thoại Sơn, An Giang “phải đi qua hàng trăm dặm dọc theo con sông trong vùng rừng sác (người Nam Bộ gọi cây mắm là cây sác) để đến kinh đô Phù Nam. Sự vận hành hai con đường mậu dịch lớn nhất hành tinh: “Con đường tơ lụa” và “Con đường hương liệu”, trong vài thế kỷ đầu và trước CN đã tạo điều kiện hình thành, phát triển một loạt các quốc gia Trung Á và Đông Nam Á. Phù Nam là một “quốc gia - đô thị” sớm nhất ở đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, cũng là quốc gia thế lực nhất vùng Đông Nam Á kiểm soát con đường hương liệu. Khi đế quốc La Mã mở rộng giao thương với người Ấn qua biển Ả Rập thì con đường thương thuyền Ấn Độ - Trung Hoa được nối dài từ Đông sang Tây Ấn Độ đến các thương cảng trong vịnh Ba Tư hay trên bờ Biển Đỏ. Sự nối dài này làm cho giao thương đường biển trở nên nhộn nhịp, các quốc gia trở nên năng động và nhanh chóng giàu có; chủng loại và số lượng hàng hóa lưu thông ngày một lớn. Trong số hàng hóa như tơ lụa, kim loại, đồ gốm sứ, trang sức, đá quí, ngọc trai, gỗ… thì các loại gia vị và hương liệu đặc sản vùng Đông Nam Á trở thành đối tượng giao thương toàn cầu. Với sức mạnh kinh tế và quân sự của mình, Phù Nam đã chi phối, kiểm soát “con đường hương liệu” trong khu vực. Việc buôn bán hương liệu bắt đầu bằng khai thác các loại trầm hương, quế, đậu khấu, tiêu sọ. Các chuyến tàu của Phù Nam từ Óc Eo sẽ ghé qua các cảng quế ở Hội An, Hải Phòng, đợi đến mùa gió Đông Bắc đến các quần đảo gia vị trong biển Celebes, Moluccas và Bandas (thuộc In-đô-nê-xia ngày nay) rồi quay trở lại đảo Trường Sa. Tại đây các sản vật, nhất là hương liệu và gia vị được đưa lên tàu hàng xuất khẩu đến Trung Hoa, Nhật Bản hay qua Ấn Độ đến các kho chứa trên bờ biển Đỏ hoặc trong vịnh Ba Tư. Tại đó hương liệu Phù Nam và hàng hóa theo đường bộ La Mã tiếp tục đến các nước châu Âu. Dựa vào sức mạnh thương mại trên biển, Vương quốc Phù Nam lấn sang và chi phối hệ thống tài chính trong khu vực, trong đó có hệ thống thanh toán tiền tệ. Tiền của Phù Nam được sử dụng từ Miama, Philippin, các đảo vùng Đông Nam Á…

Hình ảnh cuộc khai quật năm 1944 của Louis Malleret
Nếu ai qua các di chỉ Óc Eo ngày nay, chắc hẳn đều đặt câu hỏi nghi vấn, hiện tại nơi đây là một vùng đồng bằng cạn, xung quanh là núi và cách xa biển. Vậy vì sao lại có thương cảng Óc Eo? Qua nhiều lần khảo cứu, các nhà khoa học, khảo cổ học trong nước và quốc tế đã nhận định rằng: hàng nghìn năm trước đây, thềm lục địa biển Đông Việt Nam, mực nước biển vẫn còn nằm ở đường đẳng sâu hơn hiện tại 100-200m, phần lớn đồng bằng sông Cửu Long chìm trong nước biển. Đến khoảng 2.500 năm trước, nước biển lại dâng lên 2- 2,5m so với hiện tại. Một lần nữa, đồng bằng sông Cửu Long lại bị thu hẹp, nhiều cánh đồng trở thành biển nông ven bờ, những vùng đất thấp trở thành bãi lầy ven biển. Khi đó, Ba Thê (An Giang) là một eo biển với địa hình tránh bão, là nơi neo đậu, dừng chân lý tưởng của thương thuyền các nước. Về sau, do hiện tượng biển lùi, nơi đây chỉ còn lại là những cánh đồng quanh sườn núi. Ngày xưa, nơi này nổi tiếng có nhiều ốc biển. Đến bây giờ, khi đào nền móng xây dựng một số công trình ở quanh vùng Ba Thê người ta vẫn bắt gặp những “mỏ” vỏ ốc khổng lồ trong lòng đất. Có thể tên gọi Óc Eo cũng bắt nguồn từ đó. Do có địa thế thuận lợi như thế nên thương cảng Óc Eo trở thành một điểm đến, điểm dừng chân tránh bão, đợi mùa gió thuận và trao đổi mua bán hết sức lý tưởng và quan trọng của giới thương buôn các nước. Thương cảng Óc Eo chia làm hai khu vực: Khu phía Đông kinh thành giống như khu “chợ nổi”, tại đây các ghe tàu lui tới trao đổi hàng hóa với cư dân tại chỗ, là nơi cung cấp lương thực cho cư dân nội thành gồm vua, đạo sĩ, quan lại, quân lính; khu vực phía Nam là khu neo đậu của các tàu hàng viễn dương để tiếp nhận hàng hóa, sản vật từ các tàu khác trong vùng. Nơi đây cũng là điểm trao đổi hàng hóa giữa các con tàu đến từ nước khác, khiến nơi này trở thành điểm hội tụ các đoàn tàu trên “con đường hương liệu”. Thương cảng Óc Eo trở thành nơi hoạt động nhộn nhịp nhất vùng suốt nhiều thế kỷ đầu Công nguyên.

Hoàng Ngọc Chính (tổng hợp)
27/09/2012 16:53 11068
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Giàu lên nhanh chóng, cường quốc thương nghiệp - đế quốc Phù Nam có thừa tiền bạc để xây dựng quân đội hùng mạnh nhằm bảo vệ kinh đô, quản lý trật tự xã hội và giữ yên bờ cõi.
Như đã nói ở trên, quân đội Phù Nam có đủ các loại thủy - tượng - bộ binh, trong đó thủy binh được xem là đội quân tinh nhuệ nhất mang tầm chiến lược của quốc gia cổ đại này. Hàng chục chiến thuyền được đầu tư đóng to, trang bị vũ khí đầy đủ. Trong tập ký sự “Chuyện lạ ở phương Nam” của hai sứ thần Trung Hoa là Chu Ứng và Khang Thái đã mô tả những con tàu Phù Nam đủ lớn để chở 600-700 người với 40-50 mái chèo. Tàu dài 20 bộ (48m), nổi cao lên mặt nước khoảng 3 bộ, có 4 cột buồm với các cánh buồm nằm nghiêng rộng khoảng 10 bộ. Với sức mạnh của thủy binh, Vương quốc Phù Nam đã bành trướng thương nghiệp biển và lãnh thổ. Thực tế các chiến thuyền của Phù Nam đã Nam chinh, Tây phạt bắt hơn 10 vương quốc thần phục làm chư hầu, phải cống nạp thuế hàng năm dưới sự bảo hộ của vua Phù Nam. Từ địa bàn chính là đồng bằng sông Cửu Long, sau khi chinh phạt thu phục 10 nước chư hầu, Vương quốc Phù Nam kiểm soát một vùng rộng lớn từ Nha Trang đến thung lũng Mê Nam, gồm một phần đảo Mã Lai và vùng ven vịnh Thái Lan. Từ giữa thế kỷ thứ III - IV, Phù Nam chinh phục quân sự vùng Bắc bán đảo Mã Lai nhằm đảm bảo kiểm soát giao thương trên biển Đông - Ấn Độ Dương, trong số hơn chục nước chư hầu bị Phù Nam thuần phục có cả Chân Lạp (Khơ me cổ hay Campuchia ngày nay). Đây chính là một mầm mống, một thế lực có ảnh hưởng lớn đến sự suy vong của Vương quốc Phù Nam sau này.

Khu di tích Óc Eo
Với vai trò nổi bật trở thành trung tâm thương mại sớm nhất trong khu vực Đông Nam Á, Vương quốc Phù Nam mặc sức lấn át các tiểu quốc phụ thuộc vào kinh tế, thậm chí bắt các nước phải thần phục làm chư hầu. Song, cho đến giữa thế kỷ thứ VI, châu thổ này bị thu hẹp bởi đỉnh cao của các đợt hải xâm (biển lấn), đã dẫn đến các cuộc nổi dậy về kinh tế và chính trị của một số nước chư hầu. Và một tiến trình “vương quốc hóa” của các quốc gia trong vùng bắt đầu nhen nhóm. Đầu thế kỷ thứ VII ưu thế thương mại của Phù Nam giảm đi nhanh chóng. Đã có sự dịch chuyển hoạt động thương mại từ trọng tâm là thương cảng Óc Eo ven bờ biển Tây Nam cổ xuống khu vực Malacca và Xumatơra (Inđônêxia). Người ta nhận ra rằng từ khi xuất hiện nhà nước Srivigiaya (một phần đất thuộc Mã lai và đảo Java xưa kia) và nhất là khi nó đóng vai trò đế chế hải thương của cả khu vực thì tên tuổi Phù Nam bị lu mờ và biến mất. Triều đại cuối cùng của Phù Nam không chăm lo phát triển sản xuất, đáp ứng nhu cầu nguồn hàng cũng như củng cố hệ thống cảng biển, trong khi các đế vương, tiểu quốc trên quần đảo In đô nê xia rất thành công trong lĩnh vực này. Sự chuyển hướng buôn bán, giao thương của hai thị trường lớn là Trung Quốc và Ấn Độ cũng góp phần tạo nên biến đổi trên. Theo thư tịch cổ của Trung Quốc thì sự chuyển dịch này đã bắt đầu diễn ra từ nửa sau thế kỷ II và cho đến cuối thế kỷ III. Cùng với vai trò mới nổi của một số tiểu quốc như Java, Xumatơra… đã bắt đầu có những dấu hiệu của sự chuyển hướng địa bàn buôn bán. Thương cảng có tên Koying (Inđônêxia) được nhắc đến như một hải cảng trung chuyển hàng hóa của quốc gia này ở đường bờ biển Đông Nam Xumatơra. Khi đó, Vương quốc Phù Nam vẫn là một quốc gia hùng mạnh với thế lực kinh tế mang tầm khu vực, liên châu lục nên đã phớt lờ và chủ quan với những thế lực kinh tế mới quanh mình. Chính tư tưởng trọng thương và bành trướng lãnh thổ một thời đã đưa Vương quốc Phù Nam trở thành đế chế thương mại biển, một đế quốc hùng mạnh nhất Đông Nam Á, song cũng chính điều này làm nên sự suy yếu về kinh tế và đẩy quốc gia cổ đại này đến con đường diệt vong.

Cổ vật Óc Eo
Cùng với việc mất vị trí về thương cảng, hai nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp và thủ công nghiệp có dấu hiệu suy sụp thì một yếu tố mang tính quan trọng làm cho vương quốc Phù Nam sụp đổ là các cuộc tranh ngôi trong vương triều của các hoàng thân dẫn đến triều đình Trung ương bị chia rẽ suy yếu, bỏ mặc nền kinh tế đang trên đà tuột dốc. Chính nguyên nhân này cùng với sự lớn mạnh của các nước chư hầu xung quanh cũng là yếu tố tiên quyết làm suy vong nhanh vương quốc này. Trong số các tiểu quốc chư hầu đó, Chân Lạp (hay Khơ me cổ, Cămpuchia ngày nay) đã trở nên vô cùng nguy hiểm vì vốn đã có mầm mống muốn lật đổ triều đình trung ương Phù Nam từ lâu. Chân Lạp ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ V, đầu thế kỷ thứ VI. Chân Lạp nằm ở phía Tây Nam nước Lâm Ấp (Chiêm Thành - tiền thân của Chăm Pa). Thủ đô của Chân Lạp có tên là Linkiapơpơ hay Lingaparvata. Chân Lạp được hình thành như một tiểu quốc chư hầu mới nhất của Vương quốc Phù Nam ở cuối thế kỷ thứ V, được vua Phù Nam tin tưởng giao cho một hoàng thân cai trị. Một trong những nhân vật làm nên cuộc biến loạn và làm suy vong Vương quốc Phù Nam là Bhavavarman - vốn là một trong những người thuộc Hoàng tộc của Phù Nam. Vào thế kỷ VI (khoảng năm 540- 550) vua Chân Lạp đem quân đánh chiếm vương quốc Phù Nam. Vua Phù Nam Rudruvarman (vị vua thứ 13 và là vị vua cuối cùng của vương quốc Phù Nam) thất bại chạy về Na Phất Na (một kinh thành cổ nằm tại vùng Óc Eo - Ba Thê) và định đô ở đó một thời gian. Mặc dù đã cử nhiều đoàn sứ thần đi sứ sang Trung Quốc cầu cứu nhưng Phù Nam chỉ nhận được sự thờ ơ của Hoàng đế Trung Hoa và sự quay lưng của các nước có thế lực xung quanh. Cho đến năm 627, dưới triều đại của vua Chân Lạp mới là Isanavarman thì việc thôn tính vương quốc Phù Nam cơ bản hoàn thành. Phù Nam bị sáp nhập hoàn toàn vào Chân Lạp. Do không quen với cuộc sống sông nước và thậm chí không cần cuộc sống sông nước nên người Chân lạp đã tàn phá hải cảng Óc Eo. Sau đó, Chân Lạp chuyển kinh đô lên vùng đất cao Angko Borei (Cămpuchia ngày nay). Vì thế kinh thành và thương cảng Óc Eo rơi vào cảnh đìu hiu, hoang tàn. Không chỉ tàn phá cuộc sống vùng sông nước mà Chân Lạp còn hủy diệt hoàn toàn những vùng cao khác thuộc Vương quốc Phù Nam. Chính vì khả năng thích ứng kém của cư dân Khơ Me cổ đã đẩy Vương quốc Phù Nam đến cảnh hủy diệt và biến mất hoàn toàn sau những đợt sóng biển dâng trào. Ngày nay, những đền đài, thành phố, kinh đô xưa của Phù Nam chỉ còn là phế tích nằm trong lòng đất ở khắp đồng bằng và những triền núi cao ở miền Tây Nam Bộ.

Đồng tiền vàng La Mã
Vương quốc Phù Nam tồn tại hơn 6 thế kỷ, trải qua liên tục 13 đời vua, thời gian của nó có thể sánh với độ dài của mọi triều đại phong kiến tập quyền ở Đông Nam Á những thế kỷ tiếp sau đó. Trong suốt quá trình tồn tại, với những thành quả xây dựng được về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, Phù Nam đã khẳng định vị trí quan trọng của mình như là đầu mối buôn bán Đông - Tây, giữ vững sự ổn định trong các mối quan hệ quốc tế, xứng đáng là một “Trung tâm liên kết thế giới” như lời nhận xét của một học giả Nhật Bản. “Với những thành tựu, biểu hiện đó, quốc gia Phù Nam đã vượt qua trình độ cơ sở để trở thành một vương quốc phát triển cao nhất Đông Nam Á về mọi mặt trong thiên niên kỷ và nó xứng đáng có một vị trí quan trọng trong lịch sử thế giới” ( Lương Ninh- Nhà nước Phù Nam. NXB ĐHQG T/p Hồ Chí Minh, tr. 31).
Hoàng Ngọc Chính (Tổng hợp)
baotanglichsuquocgia

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét