Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2019

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 266

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Phạm Ngọc Thảo huyền thoại tình báo Việt Nam


Tình báo Trung Quốc còn bí mật hơn cả tình báo Mỹ và Anh

VOV.VN - Không chỉ bí mật hơn, tình báo Trung Quốc còn có nhiều phương diện tỏ ra nguy hiểm hơn tình báo phương Tây.
Tình báo Trung Quốc có quy mô lớn chỉ sau tình báo Mỹ và Nga. Nhưng về mức độ bí hiểm, cơ quan tình báo đối ngoại Trung Quốc có thể hơn hẳn phương Tây. Không như CIA (Mỹ) và MI6 (Anh), Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc không có website chính thức nào.
tinh bao trung quoc nguy hiem va bi mat nhu the nao? hinh 1
Tòa nhà được cho là 1 trụ sở của Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc. Ảnh: SCMP.
Bộ an ninh nói trên (gọi tắt là Bộ Quốc an – MSS) duy trì mức độ lộ diện rất thấp. Bộ Quốc an Trung Quốc chỉ bắt đầu được dư luận thế giới để ý đến nhiều vào cuối năm 2018 khi Bộ Tư pháp Mỹ buộc tội 2 tin tặc (hacker) Trung Quốc đã đánh cắp bí mật thương mại và công nghệ từ hàng chục nước.
Bộ Quốc an Trung Quốc lại một lần nữa được đề cập trên báo chí khi Trung Quốc bắt giữ 2 công dân Canada vào đầu tháng 12/2018 – động thái được cho là để trả đũa việc Canada bắt giữ giám đốc tài chính hãng công nghệ Trung Quốc Huawei Mạnh Vãn Chu theo đề nghị của Mỹ.
Các cơ quan tình báo về bản chất là mang tính chất mật nhưng Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc được bao bọc nhiều hơn trong các lớp màn bí mật. Bộ này của Trung Quốc không có phát ngôn viên.
Phương Tây ít biết về MSS. Họ biết rằng MSS ở một chừng mực nào đó tương đương với cả CIA và FBI của Mỹ (tức là làm đồng thời cả nhiệm vụ tình báo và phản gián).
Theo SCMP, Bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc hiện nay là Trần Văn Thanh – người có 2 thập kỷ trong ngành an ninh ở tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc).
VOV.VN - So với CIA (Mỹ), cơ quan tình báo đối ngoại Trung Quốc ít được công chúng biết đến hơn. Họ có những phương thức khiến phản gián Mỹ khó xử lý.
Theo Luật Tình báo Quốc gia được ban hành ở Trung Quốc vào năm 2017, MSS có quyền thực hiện các hoạt động gián điệp cả ở Trung Quốc và hải ngoại, theo dõi và điều tra các cá nhân, thể chế trong và ngoài nước.
MSS cũng có quyền tạm giữ những người cản trở hoặc làm rò rỉ thông tin về công tác tình báo tới 15 ngày.
Theo luật Hình sự Trung Quốc, đối với các tội liên quan đến an ninh quốc gia, Bộ Quốc an nước này có cùng thẩm quyền bắt giữ người như cảnh sát thông thường./.
Nguồn: South China Morning Post

Bí mật cơ quan tình báo Trung Quốc

VOV.VN - Là nền kinh tế số 2 thế giới và nước đông dân nhất quả đất, không phải ngẫu nhiên Trung Quốc sở hữu một hệ thống tình báo đồ sộ chỉ sau Nga và Mỹ.
Vài nét về tình báo đối ngoại và phản gián Trung Quốc
Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc (MSS) là cơ quan tình báo của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cơ quan này chịu trách nhiệm về cả hoạt động tình báo đối ngoại lẫn phản gián.
Ngoài Bộ An ninh Quốc gia (Trung Quốc gọi tắt là Quốc An Bộ), Cục 2 và Cục 3 của Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc cũng tham gia hoạt động tình báo và phản gián, trong lĩnh vực quân sự. Hạ tầng tình báo của Trung Quốc là lớn thứ 3 trên thế giới, chỉ sau Mỹ và Nga.
Cấu trúc tổ chức của Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc có hơi hướng của cơ quan KGB thời Liên Xô. Bộ này chịu trách nhiệm trước Thủ tướng và Quốc vụ viện Trung Quốc (tức chính phủ Trung Quốc). Ban Chính trị học và Pháp luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc giám sát hoạt động của bộ này.
bi mat co quan tinh bao trung quoc hinh 1
Một trụ sở ở địa phương của Bộ An ninh Trung Quốc. Ảnh: izzati-moffet.
Về mặt nhân sự, MSS ưa dùng các điệp viên phi chuyên nghiệp, như là du khách, doanh nhân, viện sĩ, đặc biệt là sinh viên Trung Quốc học ở nước ngoài, và các chuyên gia Trung Quốc công nghệ cao làm việc ở hải ngoại và được tiếp cận các thiết bị công nghệ nhạy cảm.
Trên phương diện tình báo đối nội, MSS chịu trách nhiệm theo dõi và tuyển dụng các doanh nhân, nhà nghiên cứu và các quan chức đến từ nước ngoài. Có nhiều dấu hiệu cho thấy MSS chủ yếu dùng các biện pháp theo dõi đối với các phần tử bất đồng chính kiến và các nhà báo nước ngoài. Tuy nhiên ở các bộ ngành, viện nghiên cứu và cơ sở quân sự-công nghiệp lớn đều có một mạng lưới theo dõi ngầm rất tinh vi. Người ta phát hiện có những thiết bị theo dõi, cả ghi hình và nghe lén, được gắn bí mật bên trong các khách sạn có đông người nước ngoài lui tới. Hoạt động tình báo bao gồm việc nói chuyện trực tiếp với các học giả nước ngoài sang Trung Quốc, thu thập thông tin trong một lĩnh vực cụ thể nào đó, và tuyển điệp viên.
Tiền thân cơ quan tình báo dân sự Trung Quốc
Trước năm 1949, trong cuộc nội chiến giữa Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng, thể chế trung ương của tình báo Trung Quốc trong Đảng Cộng sản Trung Quốc là Ban Các vấn đề xã hội Trung ương, mà về sau trở thành Ban Điều tra Trung ương. Mãi đến năm 1983, cơ quan này được thay thế bằng Bộ An ninh Quốc gia.
Trong thời kỳ Diên An, Ban Các vấn đề xã hội Trung ương báo cáo với lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc về tình hình thế giới và các sự kiện lớn diễn ra ở nước ngoài. Các báo cáo này dựa trên tin tức từ thông tấn, báo chí và sách nước ngoài. Trong cuộc nội chiến Quốc-Cộng giai đoạn 1946-1949, thông tin tình báo do Ban Các vấn đề xã hội Trung ương cung cấp đã góp phần hữu hiệu vào các chiến thắng trên chiến trường của phe cộng sản Trung Quốc.
Sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc củng cố chính quyền ở đại lục Trung Hoa vào năm 1949, hệ thống tình báo đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong nhà nước này.
Trong thập niên 1950, mọi đại sứ quán Trung Quốc đều có một phòng điều tra-nghiên cứu chuyên thu thập tình báo, với nhân viên là người của Ban Điều tra Trung ương. Nhiệm vụ phân tích là trách nhiệm của Vụ 8 thuộc Ban này. Vào năm 1978, Vụ 8 này được biết đến công khai với cái tên “Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại”.
Trong thời kỳ “Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản”, Ban Điều tra Trung ương bị giải thể - đa phần các cán bộ cấp cao của Ban này đã bị đưa về nông thôn để chịu sự cải tạo. Cục 2 của Bộ Tổng thâm mưu quân đội Trung Quốc đã tiếp quản hầu hết các hoạt động và tài sản của Ban Điều tra Trung ương.
“Tổ Trung ương về Kiểm tra các Vụ án”, chủ yếu bao gồm các cán bộ của Ban Điều tra Trung ương hành động theo lệnh của Kang Sheng (một trong những quan chức quyền lực nhất thời kỳ cách mạng văn hóa), đóng vai trò quan trọng trong việc hạ bệ nhiều cá nhân lúc đó như ông Đặng Tiểu Bình.
Chuẩn bị cho sự ra đời của cơ quan tình báo quy mô lớn
Với việc nhân vật Lâm Bưu tử vong vào thập niên 1970, Ban Điều tra Trung ương được tái lập. Khi Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng nắm lại quyền bính vào năm 1977 (từ tay “Tứ nhân Bang” hay còn gọi là “Bè lũ 4 tên” – ND), họ nỗ lực mở rộng Ban Điều tra Trung ương và mạng lưới tình báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từ đó tăng cường thêm quyền lực của mình. Tuy nhiên động thái này vấp phải sự phản đối của ông Đặng Tiểu Bình, người đã khôi phục lại được vị thế của mình (sau cơn lũ “Cách mạng Văn hóa” – ND). Ông Đặng cho rằng hệ thống tình báo không nên sử dụng các đại sứ quán Trung Quốc làm bình phong và rằng nhân viên tình báo nên được cử ra nước ngoài dưới vỏ bọc phóng viên và doanh nhân. Do vậy, Ban Điều tra Trung ương đã rút lại người của mình từ các đại sứ quán Trung Quốc ở nước ngoài, ngoại trừ một bộ phận nhỏ các đặc vụ chìm.

VOV.VN - Cơ quan tình báo Israel đã tung người đi khắp nơi trên thế giới sau Thế chiến 2 để truy bắt các cựu trùm phát xít Đức gây ra họa diệt chủng Do Thái.
Zhou Shaozheng, một cán bộ kỳ cựu của hệ thống Điều tra Trung ương, trở thành Vụ trưởng Vụ Tổng hợp của Ban Điều tra Trung ương vào năm 1976. Trong Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 12 vào năm 1982, một trưởng chi nhánh thuộc Vụ Các vấn đề Đài Loan Trung ương đưa ra thông tin bất lợi cho Zhou Shaozheng. Đơn vị này thông báo rằng trong thời gian để tang sau cái chết của Thủ tướng Chu Ân Lai, ông Zhou Shaozheng bị tố là trước đó đã có những hoạt động chống phá vị Thủ tướng. Kết quả điều tra sau đó cho thấy Zhou Shaozheng vô tội, tuy nhiên “được vạ thì má đã sưng”, Zhou Shaozheng đã mất cơ hội được cất nhắc lên vị trị Bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia.
Năm 1983, Liu Fuzhi - ủy viên Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bộ trưởng Bộ Công an Trung Quốc, đề xuất thành lập một Bộ An ninh Quốc gia trên cơ sở sáp nhập toàn bộ Ban Điều tra Trung ương với các bộ phận phản gián của Bộ Công an. Đề xuất này được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc chấp thuận.
Vào tháng 6/1983, Quốc hội Trung Quốc sau khi nhận thấy có mối đe dọa lật đổ và phá hoại ngầm đã lập ra Bộ An ninh Quốc gia trực thuộc Quốc vụ viện (tức chính phủ Trung Quốc). Bộ mới ra đời này được trao nhiệm vụ bảo đảm “an ninh quốc gia” thông qua các biện pháp hiệu quả chống lại đặc vụ, gián điệp của đối phương và các hoạt động phản cách mạng nhằm phá hoại và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa tại Trung Quốc.
Vào lúc thành lập, Bộ này cam kết tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, kêu gọi người dân hợp tác, nhắc nhở họ về nghĩa vụ “giữ gìn bí mật quốc gia” và “bảo vệ an ninh” Tổ quốc./.
Nguồn: Global Security

Phương thức hoạt động của tình báo đối ngoại Trung Quốc

Nhân sự cấp cao của Bộ An ninh Trung Quốc giai đoạn đầu
Thứ trưởng Bộ Công an Trung Quốc Lin Yun được bổ nhiệm làm vị Bộ trưởng đầu tiên của Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc (MSS). Tuy nhiên vào năm 1985 một lãnh đạo của Cục Phản gián thuộc Bộ Công an Trung Quốc là Yu Qiangsheng đào tẩu sang Mỹ. Sau sự cố này, cả Lin Yun và cục trưởng Phản gián đều bị cách chức.
Năm 1985 Jia Chunwang được bổ nhiệm làm Bộ trưởng An ninh Quốc gia thay cho Lin Yun. Giai đoạn đó trong nội bộ Bộ An ninh, cả người gốc Bộ Công an và người gốc Ban Điều tra Trung ương đều muốn đưa người trong hàng ngũ mình lên thay thế Lin Yun. Để giải quyết xung đột này, lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bổ nhiệm Jia Chunwang là người ngoài cuộc, không dính dáng đến phe nào, vào vị trí Bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia (Bộ Quốc an).
phuong thuc hoat dong cua tinh bao doi ngoai trung quoc hinh 1
Hình ảnh minh họa về ngành tình báo đối ngoại Trung Quốc. Ảnh: ZDNet.
Dưới thời Jia Chunwang, MSS đạt được các thành công đáng kể trong việc thu thập các thông tin nhạy cảm về hạt nhân và các công nghệ khác từ Mỹ. Đến năm 1998, Jia Chunwang được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công an thay Tao Siju. Ông này cũng đóng vai trò bí thư thứ nhất của Đảng ủy Lực lượng Cảnh sát Vũ trang Nhân dân Trung Quốc.
Năm 1998, Xu Yongyue người tỉnh Hà Nam (Trung Quốc) được bổ nhiệm vào vị trí Bộ trưởng An ninh Quốc gia, thay thế Jia Chunwang được chuyển sang nhiệm vụ khác. Xu Yongyue là người trợ lý tin cậy cho Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân.
Ông Xu cổ xúy việc chấm dứt các tiêu cực trong Bộ An ninh này, như là tệ bán giấy thông hành một chiều sang Hong Kong – loại giấy tờ này thường được cấp cho các nhân viên tình báo. Tham nhũng khi đó khá lan tràn trong ngành tình báo Trung Quốc do các đơn vị của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trung Quốc chưa được giám sát hoạt động của Bộ An ninh Quốc gia.
Năm 2002, ông Xu được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 3/2003, ông được tái bổ nhiệm làm người đứng đầu MSS.
Mục tiêu đối ngoại
Theo hồ sơ DEBKA - một nguồn tin trực tuyến Israel, sau sự kiện tấn công khủng bố 11/9/2001, Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc đã thông báo cho Bộ Quốc phòng Trung Quốc thông tin nói rằng Mỹ sẽ liên minh với Nga để lật đổ chế độ Taliban ở Afghanistan. Một liên minh như vậy sẽ làm thay đổi các tính toán của Trung Quốc liên quan đến các chính sách trong khu vực.
Vào ngày 12/10/2004, Xu Yongyue gặp gỡ với Nartai Dutbaev, Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia Kazakhstan. Hai bên tham vấn về hợp tác song phương và khẳng định các nỗ lực chung trong việc “chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, chủ nghĩa cực đoan, tội phạm có tổ chức, và vấn đề ma túy”.
Vào tháng 2/2006, ông Xu dẫn một phái đoàn sang Singapore để gặp gỡ Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Cố vấn của nước này.
Một thông cáo ngày 20/5/1998 trước Ủy ban Kinh tế Hỗn hợp của Quốc hội Mỹ nêu rằng 50% trong số 900 vụ việc được điều tra ở vùng Bờ biển phía Tây liên quan đến công nghệ có dính dáng đến Trung Quốc. Báo cáo cho rằng FBI ước tính các vụ gián điệp của Trung Quốc ở Thung lũng Silicon đã tăng 20-30% mỗi năm. Ngoài Mỹ, các đặc vụ của Trung Quốc còn quan tâm đến Anh, Pháp, Hà Lan và Đức.
Mạng lưới điệp viên và nghệ thuật bòn rút thông tin từng tí một
Các nhân viên tình báo chuyên nghiệp của Trung Quốc thường được cử ra nước ngoài đảm nhiệm công việc trong nhiệm kỳ 6 năm, 10 năm hoặc cư trú dài hạn, tùy thuộc vào bản chất nhiệm vụ hoặc thành tích hoạt động.
MSS không phải là cơ quan chính phủ duy nhất thực hiện hoạt động tình báo. Ngoài ra điệp viên của MSS còn thường đáp ứng cả nhu cầu thông tin tình báo của các cơ quan khác của chính phủ Trung Quốc. Ở Mỹ, Trung Quốc có 7 cơ quan ngoại giao thường trực được cho là có nhân viên tình báo nằm bên trong đội ngũ của họ.
Vào giữa tháng 9/1996, Quân ủy Trung ương và Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn báo cáo kế hoạch do Bộ Tổng tham mưu và Bộ An ninh Quốc gia soạn về việc củng cố, điều chỉnh, và tăng cường hoạt động tình báo ở Hong Kong, Macau và nước ngoài. Gần 120 nhân viên tình báo hoạt động ở Mỹ, Canada, Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản trong vai nhà công nghiệp, doanh nhân, chủ ngân hàng, học giả và nhà báo đã được triệu về nước.
VOV.VN - Là nền kinh tế số 2 thế giới và nước đông dân nhất quả đất, không phải ngẫu nhiên Trung Quốc sở hữu một hệ thống tình báo đồ sộ chỉ sau Nga và Mỹ.
Ngoài các điệp báo viên chuyên nghiệp, MSS còn sử dụng thêm các công dân Trung Quốc hoặc người Mỹ gốc Hoa để tìm lấy các công nghệ và dữ liệu bậc trung.
Các du khách, doanh nhân, sinh viên và nhà nghiên cứu Trung Quốc hình thành nên một kho lớn các điệp viên tiềm năng cho tình báo Trung Quốc. “Quốc an Bộ” (MSS) kiểm soát nhóm này thông qua lợi ích vật chất và các mối quan hệ cá nhân cùng một số “biện pháp” nghiệp vụ khác. Các điệp viên dạng này sẽ tập hợp những mẩu nhỏ thông tin để rồi sau đó tình báo Trung Quốc sẽ từ từ ráp nối lại thành bức tranh tổng thể.
Theo một phiên điều trần trước ủy ban Quốc hội Mỹ năm 1999, Trung Quốc mất tới 2 thập kỷ để thu thập thông tin tình báo về các thiết kế đầu đạn hạt nhân WW-88 từ phòng thí nghiệm vũ khí hạt nhân quốc gia của Mỹ.
Một báo cáo của Thượng nghị sĩ Mỹ Rudman vào năm 1999 đã đánh giá bộ máy thu thập tình báo của Trung Quốc là “rất thành thục trong nghệ thuật bòn rút thông tin tưởng như là vô hại”. Bản chất thu thập thông tin một cách phân tán như vậy khiến giới chức phản gián Mỹ gặp khó khăn lớn trong việc truy tố các điệp viên Trung Quốc.
Đối với hoạt động tình báo kinh tế, Globald Security cho rằng MSS có 3 phương pháp. Mô hình thứ nhất là tuyển các đặc vụ, đặc biệt là học giả và nhà khoa học, ở ngay Trung Quốc trước khi họ được gửi ra nước ngoài để lấy được thông tin. Phương thức thứ 2 là sử dụng các hãng Trung Quốc để mua các công ty Mỹ sở hữu các công nghệ mà Trung Quốc khát khao. Phương pháp thứ 3 là tậu công nghệ thông qua các công ty bình phong của Trung Quốc. Mô hình thứ 3 này là được sử dụng phổ biến hơn cả. FBI ước tính có hơn 3.000 công ty là bình phong do điệp viên Trung Quốc lập ra..../.
Nguồn: Global Security

Nữ điệp viên giúp quân Đồng minh chặn đứng chương trình tên lửa của Hitler

09:01 22/09/2017

Người nữ điệp viên có nhan sắc, giàu lòng can đảm và nhanh trí ấy là một người Pháp, tên Jeannie Rousseau de Clarens.

Nữ điệp viên chặn đứng chương trình tên lửa của Hitler (Kỳ cuối)

Bản báo cáo tình báo mà Jeannie Rousseau gửi về cho London được gọi tên là 'Báo cáo Wachtel', được hoàn tất và chuyển về vào tháng 9.1943. Jeannie không hiểu gì về khoa học kỹ thuật, nhưng bà có thứ đặc biệt: Một bộ nhớ cực tốt, có khả năng ghi nhớ mọi thứ chỉ qua một lần tiếp xúc, như một chiếc máy điện tử.
Bài cuối: Trở về từ cõi chết
Bản báo cáo tình báo mà Jeannie Rousseau gửi về cho London được gọi tên là "Báo cáo Wachtel", được hoàn tất và chuyển về vào tháng 9.1943. Jeannie không hiểu gì về khoa học kỹ thuật, nhưng bà có thứ đặc biệt: Một bộ nhớ cực tốt, có khả năng ghi nhớ mọi thứ chỉ qua một lần tiếp xúc, như một chiếc máy điện tử.
Báo cáo xác định người sĩ quan phụ trách chương trình tên lửa của Đức là Đại tá Max Wachtel; cung cấp các chi tiết chính xác về hoạt động tại khu thử nghiệm tên lửa Peenemunde trên bờ biển Baltic. Báo cáo cũng cung cấp thông tin đầy đủ về các địa điểm dự kiến làm bãi phóng tên lửa tấn công nằm dọc ven biển từ vùng Brittany đến Hà Lan.
Nội dung bản báo cáo tình báo đã được ghi chép lại đầy đủ trong quyển sách nhan đề "The Wizard War" của tác giả Reginald V. Jones, sếp tình báo khoa học của Anh trong Chiến tranh thế giới lần II. Một đoạn báo cáo ghi như sau: "Có vẻ như việc phát triển quả bom kiểu mới đã đạt đến giai đoạn cuối. Quả bom này được cho là có thể tích 10 mét khối và chứa đầy chất nổ. Nó sẽ được phóng gần như thẳng đứng để đạt độ cao ở tầng khí quyển bình lưu khoảng thời gian ngắn nhất có thể... tốc độ ban đầu được duy trì bởi việc kích nổ liên tục... Các vụ thử đã cho kết quả xuất sắc... Và Hitler đã nói đến việc sử dụng chúng để làm thay đổi cục diện chiến tranh". Theo bản báo cáo, ước tính khoảng từ 50 đến 100 quả bom là có thể đủ để hủy diệt thành London.
Jeannie và chồng, Henri de Clarens.
Jeannie băn khoăn không biết các quan chức cao cấp ở Anh có nhận được thông tin tình báo của bà hay không, hoặc nếu có nhận được thì liệu họ có hiểu được tầm quan trọng của nó hay không. Nhưng đấy là Jeannie quá lo xa.
Ngay khi nhận được bản báo cáo tình báo của Jeannie do Lamarque chuyển về, Jones - sếp tình báo khoa học lập tức nhận ra tính chất phức tạp của thứ mà người "điệp viên vô danh" (tức Jeannie) đã phát hiện, do đó, chỉ vài ngày sau bản báo cáo đã được đặt trên bàn làm việc của Thủ tướng Anh Winston Churchill. Bản báo cáo đã góp phần làm gia tăng tính thuyết phục của thông tin tình báo về chương trình tên lửa V-1 và V-2 của Đức, từ đó thuyết phục quân Đồng minh ném bom cơ sở tên lửa ở Peenermunde và chuẩn bị các phương án để đối phó các mối đe dọa từ Đức.
Thế là các báo cáo tình báo của Jeannie tiếp tục được gửi về London đều đặn. Bước vào năm 1944, thêm nhiều chi tiết mới về chương trình tên lửa ở Peenemunde được Jeannie thu thập và gửi về London. Cùng với đoàn các nhà công thương nghiệp Pháp, cô bắt đầu đi sâu vào trong lòng nước Đức, báo cáo về cho London chính xác những gì cô thấy và nghe được.
Người Anh rất ấn tượng với thông tin báo cáo của Jeannie, đến nỗi vào mùa xuân năm 1944, họ quyết định điều cô sang London để trực tiếp báo cáo cho lãnh đạo. Một cuộc không vận được tổ chức để "đón rước" Jeannie nhưng bất thành vì trời hôm ấy không trăng nên viên phi công không thể điều khiển máy bay vào ban đêm, vì thế phương án đi bằng đường biển được triển khai ngay trước khi diễn ra cuộc đổ bộ D-Day ở Normandy.
Tên lửa V-2 tại một bãi phóng tên lửa của phát xít Đức.
Địa điểm xuất phát là thị trấn ven biển Treguier ở Brittany. Thế nhưng, người điệp viên Pháp lĩnh nhiệm vụ dẫn đường để mọi người vượt qua bãi mìn đến điểm xuất hành đã bị lính Đức bắt, vì thế chuyến đi phải hủy. Jeannie đến điểm hẹn trước tiên và phát hiện ngôi nhà điểm hẹn đã bị lính Đức bao vây.
Cô liều mạng cảnh báo cho các điệp viên Pháp khác biết để tránh cho họ bị rơi vào bẫy, nhưng rốt cuộc 4 người đã bị bắt, trong đó có Jeannie. Bọn Đức ngay sau đó đưa cô đến giam tại nhà tù ở Rennes, nơi cô từng bị bắt giam vào năm 1940. Lần này, giấy tờ thể hiện cô tên là Madeleine Chaufeur. Đáng ngạc nhiên là không ai ở nhà tù này nhận ra cô gái mà cách đấy 4 năm họ từng giam giữ và thả ra.
Jeannie la hét, kêu gào mình vô tội với bất cứ ai chịu nghe mình. Jeannie mang theo hơn hai chục đôi tất nilon định làm quà tặng cho các lãnh đạo tình báo khi cô gặp họ. Rơi vào tình huống này, cô nảy ra ý bảo với bọn lính Đức rằng, cô chỉ là người mang tất đi bán chợ đen, tình cờ đi chung với đoàn người bị bắt, chứ không có tội tình gì. Thật may, cuộc thẩm cung diễn ra chóng vánh, và Jeannie được chuyển đến tạm giam ở một nhà tù lớn hơn ở ngoại ô Paris trước khi được chuyển đến trại tập trung dành cho nữ tù Ravensbruck.
Ngày 15.4.1944, Jeannie được chuyển đến Ravensbruck. Hồ sơ của lính Đức ghi "có bằng chứng tham gia một đường dây gián điệp". Jeannie lại chơi trò "mèo vờn chuột". Khi bọn Gestapo hỏi tên họ, Jeannie khai tên thật là Jeannie Rousseau. Tuy nhiên, bọn cai ngục phát xít tỏ ra mù mờ, không đối chiếu thông tin tù nhân với hồ sơ tiền án. Trại tập trung là một nơi cực kỳ tồi tệ.
Một số tù nhân đã bị giam cầm ở đây hơn một năm, và một số người trong tình trạng dở sống dở chết. Jeannie hạ quyết tâm: người mới đến có nhiệm vụ mang lại hy vọng sống cho những người đang dở sống dở chết ấy. Thế là Jeannie cùng với hai người bạn Pháp cùng là kháng chiến quân là nữ bá tước Germaine de Renty và đảng viên Cộng sản Marinette Curateau cùng nhau phản kháng, không làm những việc ủng hộ guồng máy phát xít. Nếu bị chuyển đến trại lao động, họ sẽ tổ chức phản đối.
Bà Jeannie de Clarens bên cạnh ông Reginald V. Jones khi nhận Huy chương R.V. Jones Intelligence Award.
Jeannie cùng 500 phụ nữ Pháp khác bị chuyển đến trại lao động ở Torgau và bị ép tham gia sản xuất đạn dược. Và Jeannie thực hiện đúng như đã cam kết, từ chối làm việc. Jeannie đến gặp tên trưởng trại, đó là một gã đàn ông Đức có khuôn mặt núng nính, và xổ một tràng tiếng Đức hoàn hảo với hắn. Jeannie lập luận rằng, đám người phụ nữ này là tù nhân chiến tranh, mà theo Công ước Geneva, Gestapo không có quyền ép buộc họ sản xuất đạn dược. Các nữ tù nhân khác cũng theo gương Jeannie, ùn ùn phản đối, không chịu làm việc. Đó là một hành động phản đối điên rồ, nhưng nhờ thế mà nó đã giúp nâng cao tinh thần đấu tranh của các tù nhân trong trại.
Sau vụ phản đối, Jeannie bị đưa trở lại trại tập trung Ravensbruck để khảo cung. Jeannie chắc mẩm "lần này chết thật rồi". Tuy nhiên, bọn Đức đã không thể tìm thấy hồ sơ giấy tờ nào mang tên Jeannie Rousseau - bởi có đâu mà tìm. Nhưng bọn Gestapo lại kết luận rằng, cho dù là ai thì cô cũng là một "kẻ gây rối". Vì thế, bất kể là có giấy tờ hay không, bọn chúng vẫn chuyển Jeannie và hai người bạn (Germaine de Renty và Marinette Curateau) đến trại trừng phạt Konigsberg ở miền Đông nước Đức.
Đó là một nơi vô cùng tồi tệ. Những người phụ nữ phải làm việc ở ngoài trời trong điều kiện tuyết rơi lạnh giá. Họ phải khuân và đổ đá, sỏi để xây dựng đường băng cất - hạ cánh máy bay. Khi màn đêm buông xuống, họ mới được lê bước trong trời lạnh buốt trở về trại để dùng bát súp loãng. Jeannie quả quyết rằng, các tù nhân ở đây sẽ có nhiều cơ hội sống sót hơn nếu những người ở bên ngoài biết họ còn sống.
Vì thế, Jeannie tổ chức vận động sự đồng thuận chung trong cả trại, thu thập họ tên của hơn 400 nữ tù nhân rồi viết chúng lên những mảnh giấy nhỏ để tuồn qua hàng rào kẽm gai cho các tù nhân ở trại giam kế bên. Rồi bằng cách nào đó, các nam tù nhân Pháp đã chuyển những mảnh giấy ghi tên nữ tù nhân đến được Hội Chữ thập đỏ Quốc tế ở Thụy Sĩ.
Bị hành hạ dã man, tình trạng sức khỏe của Jeannie ngày càng sa sút. Mùa đông 1944-1945, bọn Đức đã dùng vòi nước phun ướt cả người các nữ tù nhân vào mỗi buổi sáng, sau đó bắt họ đứng trần truồng bên ngoài trời giá rét cho đến khi chịu hết nổi mới cho vào bên trong. Jeannie biết rằng, nếu tiếp tục ở lại trại Konigsberg, bà sẽ không sống sót nổi. Thế là bà nảy ra một kế hoạch trốn trại kỳ lạ.
Do bị hành hạ trong giá rét nên một số nữ tù nhân bị bệnh sốt thương hàn. Bọn Đức lấy xe tải chở họ đến các phòng hơi ngạt ở trại Ravensbruck để thủ tiêu họ. Jeannie và hai người bạn Pháp đã trốn vào trong xe tải để đi hai ngày đường mà không có gì ăn.
Khi chiếc xe tải đến cổng trại Ravensbruck, nó dừng lại ít phút trước khi lăn bánh đến các phòng hơi ngạt. Jeannie và hai người bạn lợi dụng lúc tên lính gác cổng quay đi chỗ khác đã lẻn ra khỏi chiếc xe. Khi đã vào được bên trong, cả ba lại gặp rắc rối. Do trốn vào trại, không có số tù nên không được phát khẩu phần ăn, Jeannie và hai người bạn lại phải đi từ khu Pháp đến khu Ba Lan để xin ăn nhờ các tù nhân. Bị phát hiện, Jeannie và hai người bạn bị tra tấn dã man.
Khi cơ hội sống sót của Jeannie cạn dần, một ngày kia một phái đoàn Chữ thập đỏ Quốc tế đến thăm trại Ravensbruck. Một quan chức người Thụy Sĩ đọc to danh sách tù nhân được thả vì lý do nhân đạo. Từ buồng giam của mình, Jeannie lắng tai và nghe gọi tên mình. Bà chạy ngay đến cửa buồng giam để đáp lại lời gọi nhưng bọn gác ngục ra sức ngăn bà lại. Khi đoàn Chữ thập đỏ Quốc tế đi rồi, Jeannie biết rằng bà chỉ còn sống sót được vài tuần nữa thôi. Nhưng số phận đã ban cho Jeannie cơ hội thứ hai.
Vài ngày sau, một phái đoàn Chữ thập đỏ Thụy Điển lại đến thăm trại. Lại một danh sách tù nhân được đọc lên. Jeannie lại bị giam hãm, không cho tiếp cận phái đoàn Chữ thập đỏ. Lần này, bất chấp bệnh tật và sức khỏe yếu, Jeannie thu hết sức lực, la hét, gào thét dữ dội khiến bọn gác ngục phát hoảng và buông bà ra. Thế là Jeannie chạy theo phái đoàn Chử thập đỏ để thoát thân. Jeannie được dẫn ra khỏi khu trại tập trung, được đưa lên một chiếc xe buýt để đi đến biên giới Đan Mạch, rồi từ đó lên một chuyến tàu hỏa để đến Copenhagen, thủ đô Đan Mạch.
Khi đến nơi an toàn rồi, Jeannie đổ ụp xuống vì kiệt sức. Việc đầu tiên Jeannie yêu cầu các bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho bà là đánh điện báo cho cha mẹ biết bà còn sống. Jeannie được các bác sĩ mổ để điều trị căn bệnh lao phổi, và phải trải qua thời gian dài hồi phục tại một khu điều dưỡng trên vùng núi của nước Pháp.
Tại đó, định mệnh lại đến với Jeannie: bà gặp gỡ Henri de Clarens, người cũng vừa sống sót qua hai trại tập trung khủng khiếp là Buchenwald và Auschwitz. Hai người sau đó kết hôn, thành vợ chồng. Jeannie đã nỗ lực rất nhiều để trở lại với cuộc sống sau chiến tranh. Bà xin vào làm phiên dịch cho cơ quan Liên Hiệp Quốc và một số tổ chức quốc tế khác.
Với những công trạng trong chiến tranh, năm 1955, Jeannie được Chính phủ Pháp tặng thưởng Bắc đẩu bội tinh và gia nhập Quân đoàn danh dự của nước Pháp, đến năm 2009 được thăng lên cấp Đại sĩ quan (bậc 4 trên 5 bậc của Bắc đẩu bội tinh). Tiếp sau đó, bà tiếp tục được tặng thưởng Huân chương Kháng chiến và Huân chương Thập tự chinh. Ngoài ra, bà còn được Cục Tình báo trung ương Mỹ tặng thưởng các huân, huy chương Seal và R.V. Jones Intelligence Award dành cho những điệp viên có thành tích tình báo xuất sắc.
Jeannie Rousseau de Clarens vừa qua đời ngày 23.8.2017 tại Montaigu, Nantes, Pháp, thọ 98 tuổi.

Những nữ điệp viên nổi tiếng trong lịch sử tình báo Nga

Hồng Sơn |
Những nữ điệp viên nổi tiếng trong lịch sử tình báo Nga

Lịch sử tình báo Nga đã ghi nhận không ít những tên tuổi của phái đẹp. Những điệp viên nữ nổi tiếng có thể là nhà văn tài năng, là phiên dịch viên xuất sắc, nữ diễn viên tuyệt vời hay những nữ doanh nhân v.v…

Nữ điệp viên – Những thách thức nghiệt ngã Số phận kỳ lạ của một nữ điệp viên huyền thoại Nữ điệp viên giúp quân Đồng minh chặn đứng chương trình tên lửa của Hitler (bài cuối)
Không phải tất cả họ đều được mô tả là những sắc đẹp; nhưng trong tình yêu, hôn nhân, ngoại giao, hoạt động tình báo và cả khả năng sáng tạo, những nhân vật này được đánh giá cao hơn hẳn so với các đại diện thông thường khác của phái đẹp.
Họ có thể sống vào nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử, có nhiều số phận và kết quả hoạt động khác nhau; nhưng điểm chung duy nhất của những con người này là tình yêu Tổ quốc…
Catherine Bagration
Theo lời kể của những người cùng thời, hầu tước phu nhân Catherine Bagration (1783-1857) chính là nguyên mẫu của nhân vật nữ bá tước Helene Kuragina trong cuốn tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”. Bà được mô tả là một người đẹp có mái tóc vàng rất dài, thân hình mảnh khảnh, bờ vai trắng trẻo và mịn như thạch cao.
Nhà sử học Pháp nổi tiếng Albert Vandal đã khẳng định rằng, Catherine đã tham gia hoạt động tình báo ngoại giao rất hiệu quả cho nước Nga.
Có không ít bằng chứng gián tiếp khẳng định về giả thuyết này. Chẳng hạn như lễ hội đầu tiên mà Sa hoàng Aleksandr I đặt chân tới tại thành phố Vienna sau khi bị quân Nga chiếm đóng chính là buổi lễ hội do nữ hầu tước phu nhân này tổ chức.
Những nữ điệp viên nổi tiếng trong lịch sử tình báo Nga - Ảnh 1.
Là vợ của tướng Bagration, Catherine thừa hưởng từ mẹ sắc đẹp và sự điệu đà, còn từ cha là tính cách có phần nổi loạn và hoang phí. Không lâu trước trận đánh Austerlitz, Catherine chuyển tới sống tại Vienna. Căn nhà của bà nhanh chóng trở thành nơi tụ tập của đông đảo những nhân vật thuộc tầng lớp thượng lưu tại đây – như hoàng tử De Ligne, nhà thơ vĩ đại Johann Wolfgang Goethe.
Ngoài việc thu thập những thông tin quan trọng, tầm ảnh hưởng của Catherine đã khiến giới thượng lưu Áo bắt đầu tẩy chay đại sứ quán Pháp, khiến cho Napoleon phải coi bà là một đối thủ chính trị thực sự. Ngoài ra, nhờ quan hệ gần gũi với hoàng thân Von Metternich, Catherine về sau đã thuyết phục ông này đưa nước Áo tham gia liên minh với Nga chống lại Napoleon.
Moura Budberg
Moura Budberg - còn được gọi là Nữ bá tước Benckendorff, Nam tước Budberg - sinh ra ở Poltava, là con gái của một nhà ngoại giao Nga. Bà là một điệp viên hai mang của OGPU (cơ quan mật vụ của Liên Xô thời kỳ đầu cách mạng) và Cơ quan Tình báo Anh. Phương Tây vẫn gọi Moura là “quý bà từ nước Nga” hay “Mata Hari của nước Nga”.
Những nữ điệp viên nổi tiếng trong lịch sử tình báo Nga - Ảnh 2.
Người chồng đầu tiên của bà là nhà ngoại giao Ivan Benckendorff, thư ký thứ hai của đại sứ quán Nga tại Berlin. Nhờ khả năng nói thành thạo tiếng Anh và tiếng Đức, nên bà có thời gian cùng làm việc với chồng tại đây.
Sau khi chồng bị xử bắn vào năm 1918, Budberg quay trở lại Petrograd, là nơi bà bắt đầu có mối tình mới với nhà ngoại giao Anh Robert Lockhart, khi đó đang đứng đầu bộ phận tình báo Anh tại Nga.
Chính vì mối quan hệ này, bà cũng bị cơ quan an ninh Cheka bắt giữ, sau khi Lockhart bị sa lưới sau một âm mưu chống phá chính quyền Xôviết. Tuy nhiên chỉ một tuần sau, Budberg đã được trả tự do và được cho phép vào thăm Lockhart cùng với Yakov Peters, một nhà lãnh đạo của Cheka. Theo các nhà sử học, có lẽ đây là thời điểm Budberg chính thức đồng ý hợp tác với tình báo Xôviết.
Budberg còn có mối quan hệ đặc biệt thân thiết với đại văn hào Maxim Gorky, từng nhiều lần sống tại nhà của ông trong khoảng thời gian từ 1920-1933. Bà cũng là người trực tiếp dịch nhiều tác phẩm của Gorky và nhiều nhà văn hiện đại khác của Nga ra tiếng Anh.
Chính Gorky đã đề tặng cho bà cuốn tiểu thuyết “The Life of Klim Samgin”, được coi là tác phẩm lớn cuối cùng của ông. Không có được nhiều thông tin liên quan đến hoạt động tình báo của Budberg, nhưng có nhiều lý giải về việc bà trở thành một điệp viên hai mang.
Một mặt, Budberg đã từng học tại Cambridge, từng yêu tới hai người đàn ông Anh quốc. Mặt khác, bà vẫn luôn coi nước Nga là quê hương của mình và được đánh giá là một người yêu nước chân chính.
Anna Revelskaya
Tại thành phố cảng Libav (ngày nay là Liepaj) vùng Baltic bị quân Đức chiếm đóng, các thủy thủ thường ưa thích ghé thăm cửa hàng bánh kẹo của cô chủ Clara Izelgof. Họ không thể ngờ rằng, đó chính là một nữ điệp viên huyền thoại trong lịch sử tình báo Nga.
Trong suốt cuộc đời hoạt động, bà đã sử dụng rất nhiều cái tên. Nhà sử học người Anh Hector Bywater gọi bà là Katrina Izelman, còn đạo diễn Valentin Pikul trong tiểu thuyết Moonzund thì sử dụng cái tên thật Anna Revelskaya.
Những nữ điệp viên nổi tiếng trong lịch sử tình báo Nga - Ảnh 3.
Khi nói về nữ điệp viên này, không thể không kể tới 3 chiến công hàng đầu của bà. Tháng 11-1916, thông tin của bà đã giúp quân Nga chỉ trong một đêm tiêu diệt tới 1/8 tổng số chiến hạm mà quân Đức đã thiệt hại trong toàn bộ cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tương tự như vậy, vào ngày 12-10-1917, hải đoàn Đức bị phục kích và phải chịu thiệt hại nặng nề với tổng số 10 chiến hạm và 6 chiếc tàu rà quét thủy lôi ngay tại khu vực quần đảo Moonzund, ở lối ra vùng vịnh Riga, khiến cho kế hoạch đánh chiếm Petrograd của quân Đức bị phá sản.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, thông tin nhận được từ Anna đã giúp cứu bảo đảm an toàn cho lực lượng hải quân Xôviết trong những ngày đầu tiên.
Trong chiến công đầu tiên, Anna đã tận dụng nhan sắc của mình để mê hoặc viên trung úy Fon Kempka, chỉ huy tuần dương hạm Tetes, cung cấp cho anh ta thông tin giả về các bãi thủy lôi của quân Nga tại vùng vịnh Phần Lan. Kết quả là quân Đức bị mất tới 8 trên tổng số 11 chiến hạm mới nhất vừa được hạ thủy.
Với tổn thất được đánh giá là không thể phục hồi này, mối đe dọa từ phía biển đối với nước Nga đã được trì hoãn thêm một thời gian đáng kể nữa. Một năm sau, thông tin quý giá của nữ điệp viên này lại giúp cứu cho thành phố Petrograd, lúc này đã nằm trong tay của chính phủ lâm thời.
Suốt cả ¼ thế kỷ sau đó, Anna đã im hơi lặng tiếng cho đến ngay trước thời điểm bắt đầu Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Vào ngày 17-6-1941, một người phụ nữ tầm 40-45 tuổi tự xưng là Anna Revelskaya đã xuất hiện tại Đại sứ quán Xôviết tại Berlin, đề nghị được gặp tùy viên hải quân. Bà khẳng định quân Đức sẽ nổ súng tấn công Liên Xô vào đêm ngày 22-6-1941.
Cần nói thêm, chỉ trong vài ngày đầu của cuộc chiến, các lực lượng không quân và lục quân Xôviết đã phải chịu những tổn thất khá nặng nề vì những đòn không kích phủ đầu của quân Đức.
Trong khi đó, phía hải quân lại không phải chịu một thiệt hại đáng kể nào. Nguyên nhân không phải là các căn cứ hải quân nằm ngoài tầm với của máy bay ném bom Đức. Trong cuộc gặp với tùy viên hải quân tại Berlin, Anna đã cung cấp chi tiết về kế hoạch triệt hạ lực lượng hải quân Xôviết của Berlin.
Đô đốc Kuznesov, người đứng đầu lực lượng hải quân Xôviết vào thời điểm đó, đã rất tin tưởng các thông tin của Anna, cho triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa bổ sung.
Khoảng 3 ngày trước khi chiến dịch Barbarossa nổ ra; các hạm đội Baltic, Biển Bắc và Biển Đen của hải quân Xôviết đã được lệnh phân tán và chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Từ sau thời điểm năm 1941, Anna không còn thấy xuất hiện thêm một lần nào nữa. Cũng không một ai biết rõ số phận của bà về sau này.
Olga Chekhov
Nhan sắc của nữ điệp viên này được công chúng biết nhiều hơn so với cuộc đời của chính bà. Tính ra, bà đã tham gia diễn xuất trong 145 bộ phim, cũng như biểu diễn trên sân khấu của nhiều nước châu Âu.
Dì của bà là vợ của đại văn hào Anton Chekhov, còn chồng bà cũng chính là cháu của ông - Mikhail Chekhov, về sau cũng nổi tiếng là một chuyên gia sư phạm, cũng như đạo diễn tại Hollywood.
Những nữ điệp viên nổi tiếng trong lịch sử tình báo Nga - Ảnh 4.
Sau khi ly hôn, năm 1920, Olga chuyển tới Đức để tiếp tục học tập. Viên tướng tình báo Xôviết Pavel Sudoplatov trong hồi ký của mình đã khẳng định việc Olga được tuyển mộ từ vài năm trước khi sang Đức.
Trong giai đoạn khó khăn ban đầu, bà đã phải làm nhiều việc để lấy tiền kiếm sống. Về sau, bà được một quý tộc gốc Nga giúp đỡ xin cho vào làm việc tại một xưởng phim ở Berlin. Đến năm 1928, Olga được nhận quốc tịch Đức.
Trong thời gian này, Olga rất tích cực học tiếng Anh. Thành công của những minh tinh thời đó như Greta Garbo và Marlene Dietrich đã khích lệ bà rất nhiều, khiến bà đặt quyết tâm phải gia nhập vào giới thượng lưu nghệ sĩ.
Sau khi Hitler lên nắm quyền, Olga được mời tới một buổi tiệc chiêu đãi không chính thức do bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels tổ chức. Quốc trưởng ngay lần gặp đầu tiên đã rất ấn tượng bởi sắc đẹp và trí thông minh của bà, tặng bà một bức ảnh có chữ ký của mình.
Do cả Hitler và Goebbels cũng đều rất say mê điện ảnh, cánh cửa vào những văn phòng của đế chế phát xít Đức gần như đã mở rộng trước mắt Olga. Quốc trưởng thường so sánh Olga Chekhova với nữ diễn viên Thụy Điển mà mình rất yêu thích là Zarah Leander, người trên thực tế cũng hợp tác với cơ quan tình báo Xôviết.
Với mật danh là Rosemary, Olga thường gặp gỡ và chuyển những thông tin mật khai thác được cho người liên lạc viên của mình là điệp viên Zoya Rybkina.
Sau khi kết thúc chiến tranh, người đứng đầu cơ quan mật vụ khi đó của Liên Xô là Beria vào năm 1953 cũng chính thức giao cho bà Zoya vai trò làm liên lạc viên riêng cho Olga Chekhova. Nữ điệp viên này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, thường xuyên chuyển những thông tin giá trị về Moskva qua tài xế riêng của mình.
Có giả thuyết cho biết, trùm mật vụ phát xít là Himmler vào năm 1945 đã bắt đầu nghi ngờ Olga, ra lệnh bắt giữ bà. Nhưng khi các nhân viên Gestapo tới căn hộ của bà đã bắt gặp quốc trưởng đang ngồi tại đây, khiến kế hoạch không thể được thực hiện.
Còn trong trận đánh chiếm Berlin, Olga lại bị các nhân viên phản gián Xôviết bắt giữ. Sau quá trình thẩm vấn, bà đã được đưa ngay về Moscow trên một chuyên cơ riêng. Theo một số dữ liệu chưa được kiểm chứng, đích thân Stalin đã trao tặng cho Olga Chekhova huân chương Lênin.
Ba tháng sau, Olga quay trở lại Berlin, tới sống tại một biệt thự sang trọng tại phía đông thành phố theo chỉ thị của Beria. Trong giai đoạn tình hình còn nhiều hỗn loạn, căn biệt thự còn được 3 binh sĩ trực tiếp đảm nhiệm việc canh gác bảo vệ.
Tại nước Đức sau chiến tranh, Olga tiếp tục tham gia vào nhiều bộ phim sản xuất tại Đông Đức. Năm 1955, bà khai trương hãng mỹ phẩm mang tên “Olga Chekhova Cosmetics” tại thành phố Munich.
Theo đánh giá của nhà nghiên cứu về hoạt động tình báo Anatoli Sudoplatov, hãng mỹ phẩm trên được thành lập nhờ hoàn toàn vào số tiền do Moscow cung cấp với mục đích tiếp cận với vợ của các sĩ quan trong khối NATO tại đây.
Nhiều người tới lúc đó còn nhớ tới dự đoán trước đây của Stalin khi cho rằng, “nữ diễn viên Olga Chekhova sẽ vẫn còn giá trị kể cả sau chiến tranh”.
Liên quan đến tên tuổi của Olga, vẫn còn nhiều giả thuyết bí ẩn khác. Chẳng hạn như có tin đồn rằng, bà còn nhờ cậy tới sự giúp đỡ của trùm tình báo phát xít là Walter Schellenberg để tìm cách giải cứu Yakov Dzhugashvili, con trai cả của Stalin khi đó đang nằm trong trại tập trung của quân Đức.
Còn cố tổng thống Boris Eltsin của Nga từng tuyên bố, Olga Chekhova biết đến dấu tích của “Căn phòng hổ phách”, một kho báu vô giá của nước Nga từng bị phát xít Đức cướp đi trong chiến tranh.
theo An Ninh Thế giới

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét