Tình báo Trung Quốc còn bí mật hơn cả tình báo Mỹ và Anh
VOV.VN - Không chỉ bí mật hơn, tình báo Trung Quốc còn có nhiều phương diện tỏ ra nguy hiểm hơn tình báo phương Tây.
Tình báo
Trung Quốc có quy mô lớn chỉ sau tình báo Mỹ và Nga. Nhưng về mức độ bí
hiểm, cơ quan tình báo đối ngoại Trung Quốc có thể hơn hẳn phương Tây.
Không như CIA (Mỹ) và MI6 (Anh), Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc không có
website chính thức nào.
Tòa nhà được cho là 1 trụ sở của Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc. Ảnh: SCMP.
Bộ an ninh
nói trên (gọi tắt là Bộ Quốc an – MSS) duy trì mức độ lộ diện rất thấp.
Bộ Quốc an Trung Quốc chỉ bắt đầu được dư luận thế giới để ý đến nhiều
vào cuối năm 2018 khi Bộ Tư pháp Mỹ buộc tội 2 tin tặc (hacker) Trung
Quốc đã đánh cắp bí mật thương mại và công nghệ từ hàng chục nước.
Bộ Quốc an Trung Quốc lại một lần nữa được
đề cập trên báo chí khi Trung Quốc bắt giữ 2 công dân Canada vào đầu
tháng 12/2018 – động thái được cho là để trả đũa việc Canada bắt giữ
giám đốc tài chính hãng công nghệ Trung Quốc Huawei Mạnh Vãn Chu theo đề
nghị của Mỹ.
Các cơ quan tình báo
về bản chất là mang tính chất mật nhưng Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc
được bao bọc nhiều hơn trong các lớp màn bí mật. Bộ này của Trung Quốc
không có phát ngôn viên.
Phương Tây ít biết về MSS. Họ biết rằng
MSS ở một chừng mực nào đó tương đương với cả CIA và FBI của Mỹ (tức là
làm đồng thời cả nhiệm vụ tình báo và phản gián).
Theo SCMP, Bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia
Trung Quốc hiện nay là Trần Văn Thanh – người có 2 thập kỷ trong ngành
an ninh ở tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc).
VOV.VN - So với CIA (Mỹ), cơ
quan tình báo đối ngoại Trung Quốc ít được công chúng biết đến hơn. Họ
có những phương thức khiến phản gián Mỹ khó xử lý.
Theo Luật Tình báo Quốc gia được ban hành ở
Trung Quốc vào năm 2017, MSS có quyền thực hiện các hoạt động gián điệp
cả ở Trung Quốc và hải ngoại, theo dõi và điều tra các cá nhân, thể chế
trong và ngoài nước.
MSS cũng có quyền tạm giữ những người cản trở hoặc làm rò rỉ thông tin về công tác tình báo tới 15 ngày.
Theo luật Hình sự Trung Quốc, đối với các tội liên quan đến an ninh quốc gia, Bộ Quốc an nước này có cùng thẩm quyền bắt giữ người như cảnh sát thông thường./.
Trung Hiếu/VOV.VN biên dịch
Nguồn: South China Morning Post
Bí mật cơ quan tình báo Trung Quốc
VOV.VN - Là nền kinh tế số 2 thế giới và nước đông dân nhất quả đất,
không phải ngẫu nhiên Trung Quốc sở hữu một hệ thống tình báo đồ sộ chỉ
sau Nga và Mỹ.
Vài nét về tình báo đối ngoại và phản gián Trung Quốc
Bộ An ninh Quốc gia Trung Quốc (MSS) là cơ
quan tình báo của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cơ quan này
chịu trách nhiệm về cả hoạt động tình báo đối ngoại lẫn phản gián.
Ngoài Bộ An ninh Quốc gia (Trung Quốc gọi
tắt là Quốc An Bộ), Cục 2 và Cục 3 của Quân giải phóng Nhân dân Trung
Quốc cũng tham gia hoạt động tình báo và phản gián, trong lĩnh vực quân
sự. Hạ tầng tình báo của Trung Quốc là lớn thứ 3 trên thế giới, chỉ sau
Mỹ và Nga.
Cấu trúc tổ chức của Bộ An ninh Quốc gia
Trung Quốc có hơi hướng của cơ quan KGB thời Liên Xô. Bộ này chịu trách
nhiệm trước Thủ tướng và Quốc vụ viện Trung Quốc (tức chính phủ Trung
Quốc). Ban Chính trị học và Pháp luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc giám
sát hoạt động của bộ này.
Một trụ sở ở địa phương của Bộ An ninh Trung Quốc. Ảnh: izzati-moffet.
Về mặt nhân
sự, MSS ưa dùng các điệp viên phi chuyên nghiệp, như là du khách, doanh
nhân, viện sĩ, đặc biệt là sinh viên Trung Quốc học ở nước ngoài, và
các chuyên gia Trung Quốc công nghệ cao làm việc ở hải ngoại và được
tiếp cận các thiết bị công nghệ nhạy cảm.
Trên phương diện tình báo đối nội, MSS
chịu trách nhiệm theo dõi và tuyển dụng các doanh nhân, nhà nghiên cứu
và các quan chức đến từ nước ngoài. Có nhiều dấu hiệu cho thấy MSS chủ
yếu dùng các biện pháp theo dõi đối với các phần tử bất đồng chính kiến
và các nhà báo nước ngoài. Tuy nhiên ở các bộ ngành, viện nghiên cứu và
cơ sở quân sự-công nghiệp lớn đều có một mạng lưới theo dõi ngầm rất
tinh vi. Người ta phát hiện có những thiết bị theo dõi, cả ghi hình và
nghe lén, được gắn bí mật bên trong các khách sạn có đông người nước
ngoài lui tới. Hoạt động tình báo bao gồm việc nói chuyện trực tiếp với
các học giả nước ngoài sang Trung Quốc, thu thập thông tin trong một
lĩnh vực cụ thể nào đó, và tuyển điệp viên.
Tiền thân cơ quan tình báo dân sự Trung Quốc
Trước năm 1949, trong cuộc nội chiến giữa
Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng, thể chế trung ương của tình báo Trung
Quốc trong Đảng Cộng sản Trung Quốc là Ban Các vấn đề xã hội Trung ương,
mà về sau trở thành Ban Điều tra Trung ương. Mãi đến năm 1983, cơ quan
này được thay thế bằng Bộ An ninh Quốc gia.
Trong thời kỳ Diên An, Ban Các vấn đề xã
hội Trung ương báo cáo với lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc về tình
hình thế giới và các sự kiện lớn diễn ra ở nước ngoài. Các báo cáo này
dựa trên tin tức từ thông tấn, báo chí và sách nước ngoài. Trong cuộc
nội chiến Quốc-Cộng giai đoạn 1946-1949, thông tin tình báo do Ban Các
vấn đề xã hội Trung ương cung cấp đã góp phần hữu hiệu vào các chiến
thắng trên chiến trường của phe cộng sản Trung Quốc.
Sau khi Đảng Cộng sản Trung Quốc củng cố
chính quyền ở đại lục Trung Hoa vào năm 1949, hệ thống tình báo đóng một
vai trò ngày càng quan trọng trong nhà nước này.
Trong thập niên 1950, mọi đại sứ quán
Trung Quốc đều có một phòng điều tra-nghiên cứu chuyên thu thập tình
báo, với nhân viên là người của Ban Điều tra Trung ương. Nhiệm vụ phân
tích là trách nhiệm của Vụ 8 thuộc Ban này. Vào năm 1978, Vụ 8 này được
biết đến công khai với cái tên “Viện Quan hệ Quốc tế Đương đại”.
Trong thời kỳ “Đại Cách mạng Văn hóa Vô
sản”, Ban Điều tra Trung ương bị giải thể - đa phần các cán bộ cấp cao
của Ban này đã bị đưa về nông thôn để chịu sự cải tạo. Cục 2 của Bộ Tổng
thâm mưu quân đội Trung Quốc đã tiếp quản hầu hết các hoạt động và tài
sản của Ban Điều tra Trung ương.
“Tổ Trung ương về Kiểm tra các Vụ án”, chủ
yếu bao gồm các cán bộ của Ban Điều tra Trung ương hành động theo lệnh
của Kang Sheng (một trong những quan chức quyền lực nhất thời kỳ cách
mạng văn hóa), đóng vai trò quan trọng trong việc hạ bệ nhiều cá nhân
lúc đó như ông Đặng Tiểu Bình.
Chuẩn bị cho sự ra đời của cơ quan tình báo quy mô lớn
Với việc nhân vật Lâm Bưu tử vong vào thập
niên 1970, Ban Điều tra Trung ương được tái lập. Khi Hoa Quốc Phong và
Uông Đông Hưng nắm lại quyền bính vào năm 1977 (từ tay “Tứ nhân Bang”
hay còn gọi là “Bè lũ 4 tên” – ND), họ nỗ lực mở rộng Ban Điều tra Trung
ương và mạng lưới tình báo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, từ đó tăng
cường thêm quyền lực của mình. Tuy nhiên động thái này vấp phải sự phản
đối của ông Đặng Tiểu Bình, người đã khôi phục lại được vị thế của mình
(sau cơn lũ “Cách mạng Văn hóa” – ND). Ông Đặng cho rằng hệ thống tình
báo không nên sử dụng các đại sứ quán Trung Quốc làm bình phong và rằng
nhân viên tình báo
nên được cử ra nước ngoài dưới vỏ bọc phóng viên và doanh nhân. Do vậy,
Ban Điều tra Trung ương đã rút lại người của mình từ các đại sứ quán
Trung Quốc ở nước ngoài, ngoại trừ một bộ phận nhỏ các đặc vụ chìm.
VOV.VN - Cơ quan tình báo Israel
đã tung người đi khắp nơi trên thế giới sau Thế chiến 2 để truy bắt các
cựu trùm phát xít Đức gây ra họa diệt chủng Do Thái.
Zhou Shaozheng, một cán bộ kỳ cựu của hệ
thống Điều tra Trung ương, trở thành Vụ trưởng Vụ Tổng hợp của Ban Điều
tra Trung ương vào năm 1976. Trong Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần
thứ 12 vào năm 1982, một trưởng chi nhánh thuộc Vụ Các vấn đề Đài Loan
Trung ương đưa ra thông tin bất lợi cho Zhou Shaozheng. Đơn vị này thông
báo rằng trong thời gian để tang sau cái chết của Thủ tướng Chu Ân Lai,
ông Zhou Shaozheng bị tố là trước đó đã có những hoạt động chống phá vị
Thủ tướng. Kết quả điều tra sau đó cho thấy Zhou Shaozheng vô tội, tuy
nhiên “được vạ thì má đã sưng”, Zhou Shaozheng đã mất cơ hội được cất
nhắc lên vị trị Bộ trưởng Bộ An ninh Quốc gia.
Năm 1983, Liu Fuzhi - ủy viên Bộ Chính trị
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Bộ trưởng Bộ Công
an Trung Quốc, đề xuất thành lập một Bộ An ninh Quốc gia trên cơ sở sáp
nhập toàn bộ Ban Điều tra Trung ương với các bộ phận phản gián của Bộ
Công an. Đề xuất này được Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc chấp
thuận.
Vào tháng 6/1983, Quốc hội Trung Quốc sau
khi nhận thấy có mối đe dọa lật đổ và phá hoại ngầm đã lập ra Bộ An ninh
Quốc gia trực thuộc Quốc vụ viện (tức chính phủ Trung Quốc). Bộ mới ra
đời này được trao nhiệm vụ bảo đảm “an ninh quốc gia” thông qua các biện
pháp hiệu quả chống lại đặc vụ, gián điệp của đối phương và các hoạt
động phản cách mạng nhằm phá hoại và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa tại
Trung Quốc.
Vào lúc thành lập, Bộ này cam kết tuân thủ
Hiến pháp và pháp luật, kêu gọi người dân hợp tác, nhắc nhở họ về nghĩa
vụ “giữ gìn bí mật quốc gia” và “bảo vệ an ninh” Tổ quốc./.
Trung Hiếu/VOV.VN biên dịch
Nguồn: Global Security
Phương thức hoạt động của tình báo đối ngoại Trung Quốc
Nhân sự cấp cao của Bộ An ninh Trung Quốc giai đoạn đầu
Thứ trưởng Bộ Công an Trung Quốc Lin Yun
được bổ nhiệm làm vị Bộ trưởng đầu tiên của Bộ An ninh Quốc gia Trung
Quốc (MSS). Tuy nhiên vào năm 1985 một lãnh đạo của Cục Phản gián thuộc
Bộ Công an Trung Quốc là Yu Qiangsheng đào tẩu sang Mỹ. Sau sự cố này,
cả Lin Yun và cục trưởng Phản gián đều bị cách chức.
Năm 1985 Jia Chunwang được bổ nhiệm làm Bộ
trưởng An ninh Quốc gia thay cho Lin Yun. Giai đoạn đó trong nội bộ Bộ
An ninh, cả người gốc Bộ Công an và người gốc Ban Điều tra Trung ương
đều muốn đưa người trong hàng ngũ mình lên thay thế Lin Yun. Để giải
quyết xung đột này, lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc đã bổ nhiệm Jia
Chunwang là người ngoài cuộc, không dính dáng đến phe nào, vào vị trí Bộ
trưởng Bộ An ninh Quốc gia (Bộ Quốc an).
Hình ảnh minh họa về ngành tình báo đối ngoại Trung Quốc. Ảnh: ZDNet.
Dưới thời
Jia Chunwang, MSS đạt được các thành công đáng kể trong việc thu thập
các thông tin nhạy cảm về hạt nhân và các công nghệ khác từ Mỹ. Đến năm
1998, Jia Chunwang được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Công an thay Tao Siju.
Ông này cũng đóng vai trò bí thư thứ nhất của Đảng ủy Lực lượng Cảnh sát
Vũ trang Nhân dân Trung Quốc.
Năm 1998, Xu Yongyue người tỉnh Hà Nam
(Trung Quốc) được bổ nhiệm vào vị trí Bộ trưởng An ninh Quốc gia, thay
thế Jia Chunwang được chuyển sang nhiệm vụ khác. Xu Yongyue là người trợ
lý tin cậy cho Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân.
Ông Xu cổ xúy việc chấm dứt các tiêu cực
trong Bộ An ninh này, như là tệ bán giấy thông hành một chiều sang Hong
Kong – loại giấy tờ này thường được cấp cho các nhân viên tình báo. Tham
nhũng khi đó khá lan tràn trong ngành tình báo Trung Quốc do các đơn vị
của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Trung Quốc chưa được giám sát hoạt động
của Bộ An ninh Quốc gia.
Năm 2002, ông Xu được bầu vào Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 3/2003, ông được tái bổ
nhiệm làm người đứng đầu MSS.
Mục tiêu đối ngoại
Theo hồ sơ DEBKA - một nguồn tin trực
tuyến Israel, sau sự kiện tấn công khủng bố 11/9/2001, Bộ An ninh Quốc
gia Trung Quốc đã thông báo cho Bộ Quốc phòng Trung Quốc thông tin nói
rằng Mỹ sẽ liên minh với Nga để lật đổ chế độ Taliban ở Afghanistan. Một
liên minh như vậy sẽ làm thay đổi các tính toán của Trung Quốc liên
quan đến các chính sách trong khu vực.
Vào ngày 12/10/2004, Xu Yongyue gặp gỡ với
Nartai Dutbaev, Chủ tịch Ủy ban An ninh Quốc gia Kazakhstan. Hai bên
tham vấn về hợp tác song phương và khẳng định các nỗ lực chung trong
việc “chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế, chủ nghĩa cực đoan, tội phạm có
tổ chức, và vấn đề ma túy”.
Vào tháng 2/2006, ông Xu dẫn một phái đoàn sang Singapore để gặp gỡ Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Cố vấn của nước này.
Một thông cáo ngày 20/5/1998 trước Ủy ban
Kinh tế Hỗn hợp của Quốc hội Mỹ nêu rằng 50% trong số 900 vụ việc được
điều tra ở vùng Bờ biển phía Tây liên quan đến công nghệ có dính dáng
đến Trung Quốc. Báo cáo cho rằng FBI ước tính các vụ gián điệp của Trung
Quốc ở Thung lũng Silicon đã tăng 20-30% mỗi năm. Ngoài Mỹ, các đặc vụ
của Trung Quốc còn quan tâm đến Anh, Pháp, Hà Lan và Đức.
Mạng lưới điệp viên và nghệ thuật bòn rút thông tin từng tí một
Các nhân viên tình báo chuyên nghiệp của
Trung Quốc thường được cử ra nước ngoài đảm nhiệm công việc trong nhiệm
kỳ 6 năm, 10 năm hoặc cư trú dài hạn, tùy thuộc vào bản chất nhiệm vụ
hoặc thành tích hoạt động.
MSS không phải là cơ quan chính phủ duy
nhất thực hiện hoạt động tình báo. Ngoài ra điệp viên của MSS còn thường
đáp ứng cả nhu cầu thông tin tình báo của các cơ quan khác của chính
phủ Trung Quốc. Ở Mỹ, Trung Quốc có 7 cơ quan ngoại giao thường trực
được cho là có nhân viên tình báo nằm bên trong đội ngũ của họ.
Vào giữa tháng 9/1996, Quân ủy Trung ương
và Quốc vụ viện Trung Quốc phê chuẩn báo cáo kế hoạch do Bộ Tổng tham
mưu và Bộ An ninh Quốc gia soạn về việc củng cố, điều chỉnh, và tăng
cường hoạt động tình báo ở Hong Kong, Macau và nước ngoài. Gần 120 nhân
viên tình báo hoạt động ở Mỹ, Canada, Tây Âu, Bắc Âu và Nhật Bản trong
vai nhà công nghiệp, doanh nhân, chủ ngân hàng, học giả và nhà báo đã
được triệu về nước.
VOV.VN - Là nền kinh tế số 2 thế
giới và nước đông dân nhất quả đất, không phải ngẫu nhiên Trung Quốc sở
hữu một hệ thống tình báo đồ sộ chỉ sau Nga và Mỹ.
Ngoài các điệp báo viên chuyên nghiệp, MSS
còn sử dụng thêm các công dân Trung Quốc hoặc người Mỹ gốc Hoa để tìm
lấy các công nghệ và dữ liệu bậc trung.
Các du khách, doanh nhân, sinh viên và nhà
nghiên cứu Trung Quốc hình thành nên một kho lớn các điệp viên tiềm
năng cho tình báo Trung Quốc. “Quốc an Bộ” (MSS) kiểm soát nhóm này
thông qua lợi ích vật chất và các mối quan hệ cá nhân cùng một số “biện
pháp” nghiệp vụ khác. Các điệp viên dạng này sẽ tập hợp những mẩu nhỏ
thông tin để rồi sau đó tình báo Trung Quốc sẽ từ từ ráp nối lại thành
bức tranh tổng thể.
Theo một phiên điều trần trước ủy ban Quốc
hội Mỹ năm 1999, Trung Quốc mất tới 2 thập kỷ để thu thập thông tin
tình báo về các thiết kế đầu đạn hạt nhân WW-88 từ phòng thí nghiệm vũ
khí hạt nhân quốc gia của Mỹ.
Một báo cáo của Thượng nghị sĩ Mỹ Rudman
vào năm 1999 đã đánh giá bộ máy thu thập tình báo của Trung Quốc là “rất
thành thục trong nghệ thuật bòn rút thông tin tưởng như là vô hại”. Bản
chất thu thập thông tin một cách phân tán như vậy khiến giới chức phản
gián Mỹ gặp khó khăn lớn trong việc truy tố các điệp viên Trung Quốc.
Đối với hoạt động tình báo kinh tế, Globald Security
cho rằng MSS có 3 phương pháp. Mô hình thứ nhất là tuyển các đặc vụ,
đặc biệt là học giả và nhà khoa học, ở ngay Trung Quốc trước khi họ được
gửi ra nước ngoài để lấy được thông tin. Phương thức thứ 2 là sử dụng
các hãng Trung Quốc để mua các công ty Mỹ sở hữu các công nghệ mà Trung
Quốc khát khao. Phương pháp thứ 3 là tậu công nghệ thông qua các công ty
bình phong của Trung Quốc. Mô hình thứ 3 này là được sử dụng phổ biến
hơn cả. FBI ước tính có hơn 3.000 công ty là bình phong do điệp viên
Trung Quốc lập ra..../.
Trung Hiếu/VOV.VN biên dịch
Nguồn: Global Security
Nữ điệp viên giúp quân Đồng minh chặn đứng chương trình tên lửa của Hitler
09:01 22/09/2017
Người nữ điệp viên có nhan sắc, giàu lòng can đảm và nhanh trí ấy là một người Pháp, tên Jeannie Rousseau de Clarens.
Nhan sắc của bà đã khiến cho đám lính Đức chiếm đóng nước Pháp bị mê
hoặc và cung cấp những thông tin quan trọng về chương trình phát triển
tên lửa V-2 của phát xít Đức trong Chiến tranh Thế giới lần II, từ đó
giúp quân Đồng minh phá tan tham vọng lật ngược tình thế chiến tranh của
trùm phát xít Hitler.
Kỳ 1: Định mệnh trên chuyến tàu đêm
Câu chuyện về hành trình dấn thân vào nghề điệp viên của Jeannie
Rousseau de Clarens cũng tình cờ như bao sự tình cờ, ngẫu nhiên vốn có
của cuộc sống. Đó là vào một đêm thu trời se lạnh năm 1941, cô gái trẻ
Jeannie, 21 tuổi, bắt chuyến tàu đêm từ Paris xuôi phương Nam đến vùng
Vichy.
Trên chuyến tàu định mệnh ấy, bà tình cờ gặp lại người bạn học cũ -
George Lamarque. Trên tàu không còn chỗ để ngồi, vì thế hai người đành
đứng ở hành lang. Dưới ánh đèn màu xanh lơ mờ ảo của toa tàu, họ rù rì
tâm sự, kể nhau nghe những sự việc đã xảy ra trong thời gian xa cách.
Câu chuyện của họ nếu để người khác nghe được sẽ rất nguy hiểm cho bản
thân họ, cho nên hai người nói rất nhỏ và thận trọng.
Thời điểm đó, nước Anh đã bị tàn phá bởi The Blitz - chiến dịch ném
bom kinh hoàng của phát xít Đức vào cuối năm 1940 đầu năm 1941, còn Đệ
tam Đế chế thì đang rất hùng mạnh. Jeannie lúc ấy mới 21 tuổi, trông nhỏ
nhắn và non trẻ hơn độ tuổi của bà. Nhưng nếu nhìn kỹ thì sẽ không khó
để nhận ra nét tinh anh trong đôi mắt "biết cười" của bà. Chính cuộc hội
ngộ tình cờ trong đêm định mệnh ấy đã đưa đẩy Jeannie đến với một cuộc
phiêu lưu tình báo khiến bà trở nên nổi tiếng như một người hùng của
Chiến tranh Thế giới lần II.
Jeannie de Clarens năm 1939.
Jeannie Yvonne Ghislaine Rousseau sinh vào tháng 4-1919 tại
Saint-Brieuc thuộc vùng Brittany, cực Tây nước Pháp. Bà là con gái duy
nhất của ông Jean Rousseau, một cựu binh thời Chiến tranh thế giới lần
I, sau chiến tranh là một quan chức trong Bộ Ngoại giao Pháp. Tuy không
có công trạng gì lớn lao, nhưng ông Rousseau là một quan chức ngoại giao
mẫn cán, đi nhiều và hiểu biết rộng.
Sau khi nghỉ việc ở Bộ Ngoại giao, ông về làm Quận trưởng Quận 17
Paris, nằm bên hữu ngạn sông Seine. Thời gian làm việc trong Bộ Ngoại
giao và cả khi làm Quận trưởng, ông Rousseau chưa nói chuyện với con gái
về các vấn đề thời cuộc, vì khi đó Jeannie còn bé, chưa đủ trí khôn để
có thể lĩnh hội được những gì ông truyền đạt. Chỉ đến khi Jeannie lớn
hơn, bước vào tuổi trưởng thành, ông Rousseau mới bắt đầu từng bước
truyền đạt những kiến thức về thời cuộc cho con gái, để cô có thể nhận
thức được mình nên làm gì trong cuộc sống này.
Jeannie học rất giỏi, tốt nghiệp đứng đầu lớp tại trường chính trị
danh tiếng Sciences Po vào năm 1939. Vốn có năng khiếu về ngôn ngữ, bà
cũng mau chóng học và nói thông thạo tiếng Đức. Bà nói tiếng Đức hay đến
nỗi người ta cứ nhầm tưởng bà là người Đức.
Chiến tranh thế giới lần II nổ ra, quân Đức chiếm đóng nước Pháp vào
mùa hè năm 1940, ông Rousseau đưa cả gia đình tản cư lên vùng duyên hải
cực Tây nước Pháp. Nơi họ đến trú ngụ là thị trấn Dinard, một thị trấn
nhỏ ven biển, cũng thuộc vùng Brittany. Ông Rousseau hy vọng nơi đây là
vùng hẻo lánh nên bọn Đức sẽ không truy tìm đến. Nhưng ông đã nhầm, chưa
được bao lâu sau thì quân Đức đã kéo đến hàng ngàn tên.
Ông thị trưởng Dinard cuống cuồng đi tìm người biết tiếng Đức để giúp
làm phiên dịch cho dân trong thị trấn nói chuyện với bọn lính Đức. Ông
Rousseau đưa con gái ra giới thiệu với ông thị trưởng Dinard. Sáng sớm
hôm sau, Jeannies ăn mặc chỉnh tề, vận bộ trang phục đẹp nhất, với quần
xanh da trời và áo sơ-mi trắng đến gặp các sĩ quan Đức. Ngay lập tức, cả
bọn vừa lính vừa sĩ quan vui nhộn hẳn lên, đề nghị tặng quà cho cô gái
và đưa cô đi dạo trên bãi biển, nhưng Jeannie từ chối tất.
Chân dung Georges Lamarque.
Sau này, trong một dịp trò chuyện với báo chí thập niên 90 thế kỷ XX,
bà Jeannie de Clarens cho rằng, bọn lính Đức thời đó rất vui khi có
được người biết nói tiếng Đức để trò chuyện và lại rất muốn được mọi
người xung quanh tỏ lòng ưa thích chúng. Thời đó, Jeannie mới 21 tuổi,
nét trẻ trung và xinh đẹp đã hút hồn người đối diện ngay lần gặp đầu
tiên, khiến những tên lính Đức yên tâm, tin tưởng rằng người đẹp như cô
không thể làm điều gì xấu xa.
Rồi một ngày tháng 9-1940, một người đàn ông từ thị trấn Saint-Brieuc
đến thăm gia đình Jeannie. Ông ta yêu cầu cô kể lại những thông tin cô
nghe được trong lúc trò chuyện với bọn lính Đức.
Jeannie mau mắn hỏi lại ngay: "Thế nghe xong rồi mà không truyền đạt
lại thì có ý nghĩa gì chứ?". Thế là chẳng mấy chốc, người Anh đã nhận
được rất nhiều thông tin tình báo về các hoạt động của bọn lính Đức ở
khu vực Dinard. Thông tin tình báo được truyền về nhiều đến mức bọn gián
điệp phát xít Đức ở London đánh hơi biết được có nguồn rò rỉ thông tin,
và chúng nghi ngờ có gián điệp trà trộn trong nội bộ quân Đức ở Dinard.
Không lâu sau, Jeannie bị Gestapo bắt vào tháng 1-1941 và bị giam tại
một nhà tù ở Rennes. Quân phát xít Đức mở một phiên tòa án binh để xét
xử Jeannie, nhưng bọn lính ở Dinard cứ khăng khăng bảo đảm rằng, cô
phiên dịch xinh đẹp của chúng không đời nào là một điệp viên. Thế là
Jeannie được trả tự do, nhưng phải nhận hình phạt là buộc rời khỏi vùng
duyên hải Dinard.
Jeannie giấu kín, không để cho cha mẹ biết chuyện vừa xảy ra giữa cô
với bọn lính Đức, âm thầm khăn gói rời khỏi nhà, tức tốc lên Paris.
Jeannie vừa nghe được thông tin ở Paris có mở một lớp học căn bản về
nghề gián điệp, lại còn được trả tiền để theo học nữa. Trong khi đó, sau
khi bị trục xuất khỏi thị trấn Dinard, Jeannie hiện cũng đang cần tìm
một việc làm mới có thể tạo điều kiện cho cô tiếp cận được với thông tin
nhạy cảm thật sự. Đó không phải là một công việc thông thường, mà là
công việc "vào hang hùm".
Chẳng bao lâu sau, Jeannie đã tìm được cho mình một công việc mà cô
cho là thú vị. Hội sở các nhà công thương nghiệp Pháp (ngày nay là Phòng
Thương mại và công nghiệp) cần tìm một phiên dịch tiếng Đức làm việc
tại văn phòng nằm trên phố St. Augustin. Jeannie nhận làm việc ngay, rồi
không lâu sau trở thành nhân sự lãnh đạo cao cấp của tổ chức này. Điều
này có ý nghĩa rất quan trọng là Jeannie có điều kiện thường xuyên gặp
gỡ, tiếp xúc với các chỉ huy quân đội Đức trú đóng tại Khách sạn
Majestic.
Jeannie đến gặp gỡ bọn sĩ quan Đức hầu như hàng ngày để thảo luận các
vấn đề về kinh doanh thương mại. Cô giả vờ than phiền với bọn chỉ huy
về tình trạng bị bọn lính Đức canh gác kho hàng hóa quá nghiêm ngặt,
đồng thời chào mời bán cho bọn Đức những lô hàng sắt thép và cao su mà
bọn chúng rấn cần mua để chế tạo vũ khí.
Thông qua những câu chuyện làm ăn hàng ngày đó, Jeannie đã thu thập
và tích lũy được khá nhiều thông tin tình báo. Nhưng khối lượng thông
tin tình báo đó có nguy cơ bị bỏ phí vì Jeannie chẳng tìm được ai để mà
chuyển đi.
Và định mệnh đã cho Jeannie một cơ hội tình cờ - đó là lần gặp tình
cờ giữa cô và người bạn cũ Lamarque trên chuyến tàu đêm mùa thu năm
1941. Lamarque năm đó khoảng 28-29 tuổi, vóc người to lớn đầy đặn, không
điển trai nhưng cương nghị, quả quyết và thông minh.
Còn Jeannie 23 tuổi, nhỏ nhắn và yểu điệu, nhưng tinh ranh, hoạt bát,
táo bạo và dám mạo hiểm. Trong câu chuyện thì thầm của hai người trên
chuyến tàu đêm đó, Jeannie kể cho Lamarque nghe về công việc của cô, về
bọn lính Đức và những thông tin mà bọn chúng cung cấp cho cô thông qua
những cuộc trò chuyện phiếm hàng ngày của chúng. Lamarque cũng kể cho
Jeannie nghe về việc anh đang làm là xây dựng một "tụ điểm nhỏ" để thu
thập thông tin tình báo. "Cô có muốn làm việc cho tôi không?" - Lamarque
hỏi.
Không một chút do dự, Jeannie nhận lời ngay. Jeannie kể cho Lamarque
nghe về một số văn phòng và cơ quan của bọn Đức đóng tại Khách sạn
Majestic, và dường như bọn Đức đang nghiên cứu về những dự án vũ khí đặc
biệt nào đó. Jeannie nghĩ mình cần tìm cách để vào bên trong nơi được
canh gác nghiêm ngặt đó.
Vậy là mọi chuyện đã bắt đầu. Lamarque đưa Jeannie vào mạng lưới tình
báo nhỏ của anh, được biết với tên gọi là "Druids", và đặt cho thành
viên mới mật danh "Amniarix". Mọi việc diễn ra hết sức dễ dàng cho
Jeannie. Vận dụng trí nhớ cực tốt, cô nhớ tất cả các chi tiết về các nhà
máy và hàng hóa của bọn Đức. Nhiệm vụ của cô và mạng lưới tình báo của
Lamarque là nghiên cứu, tìm hiểu để biết càng nhiều càng tốt những gì
bọn Đức đang có, những gì chúng đang thực hiện.
May mắn dường như luôn mỉm cười với Jeannie vì cô gặp ngay những sĩ
quan Đức từng quen biết, kết bạn với cô thời còn ở Dinard. Những sĩ quan
Đức đó giờ được chuyển đến làm việc cho một dự án bí mật, và họ lại
giới thiệu cô với những "người bạn" của họ. Đến năm 1943, Jeannie đã có
thể nghe ngóng được những thông tin nhạy cảm nhất - đó là những câu
chuyện về các vũ khí đặc biệt đang được chế tạo ở miền Đông nước Đức. Cả
Jeannie và Lamarque đều hiểu rằng, mình đang tiếp cận những bí mật lớn
nhất của cuộc chiến.
Nhưng làm thế nào để khiến bọn lính Đức chịu nói ra hết sự thật? Một
câu hỏi hóc búa bật ra trong suy nghĩ: Tại sao bọn sĩ quan cao cấp chịu
trách nhiệm phát triển một loại vũ khí có thể làm thay đổi cục diện
chiến tranh có thể chuyển giao bí mật cho một cô gái 23 tuổi được chứ?
Thế nhưng điều "không thể" ấy đã trở thành "có thể" với một cô gái
thông minh, lém lỉnh và cả liều lĩnh nữa. Jeannie khẳng định, mình không
moi móc thông tin tình báo theo kiểu "Mata Hari" - nghĩa là dùng mỹ
nhân kế, đổi thân xác lấy thông tin tình báo. Jeannie chỉ dựa chủ yếu
vào tài giảo hoạt của bản thân và cả sự ngu ngốc của bọn lính Đức.
Bọn sĩ quan Đức có kỷ luật nghiêm và đoàn kết chặt chẽ. Bọn chúng
thường tụ tập tại một căn nhà trên đại lộ Hoche, ăn uống, nhậu nhẹt và
nói chuyện. Thường thì bọn chúng thích sự có mặt của "người bạn Pháp"
xinh đẹp nói tiếng Đức sành sỏi - người mà cả bọn đều muốn lên giường
nhưng luôn luôn bị người đẹp từ chối, bởi thế mà cả bọn càng thấy hứng
thú. Bọn chúng thoải mái nói chuyện về công việc trước sự có mặt của
Jeannie mà không e ngại, đề phòng gì cả.
Nhưng bọn chúng cũng chẳng để ý gì đến Jeannie, không nói những điều
mà cô muốn nghe để ghi nhớ vào bộ nhớ siêu việt của mình. Vậy làm sao
đây? Jeannie bắt đầu dùng kế "khích" để chúng nói. Cô giả vờ ngây ngô
không hiểu, bảo rằng chúng "điên mới có thể chế tạo thứ vũ khí có thể
bay xa hàng trăm dặm và bay nhanh hơn máy bay". Rồi Jeannie cứ liên tục
nhắc đi nhắc lại nhiều lần câu nói: "Điều các vị nói không thể có thật
được". "Tôi sẽ cho cô xem" - tên sĩ quan Đức mất kiên nhẫn, lên tiếng.
"Bằng cách nào?" - Jeannie hỏi khích.
Thế là tên sĩ quan Đức lấy tài liệu trải ra và giải thích cho bà hiểu
làm cách nào để đi vào khu vực thử bom ở Peenemunde, những cung đường
đèo dốc hiểm trở, còn giải thích cho Jeannie biết các màu vẽ trên bản
tài liệu đó có ý nghĩa là gì. Jeannie dùng bộ nhớ siêu đẳng của mình ghi
lại hết những hình ảnh và lời nói của tên sĩ quan Đức. Để gây ấn tượng
với người đẹp, bọn chúng thậm chí còn đưa cho cô xem cả bản vẽ quả tên
lửa.
Sau cuộc nói chuyện đó, Jeannie tìm đến căn nhà an toàn nơi Lamarque
đang chờ sẵn ở phố Fabert. Jeannie ghi chép lại và chuyển giao cho
Lamarque tất cả những gì cô ghi nhớ được từ bọn sĩ quan Đức. Sau đó,
Lamarque truyền thông tin về cho cơ quan tình báo Anh kèm theo lời xác
nhận "nguồn tin đáng tin cậy". Và mọi việc cứ diễn ra như cứ thế, đến
tháng 9-1943, Jeannie hầu như đã thu thập đầy đủ thông tin về quả tên
lửa V-2 và làm một báo cáo gửi về London. Nguyên Khang (theo Washington Post)
Nữ điệp viên chặn đứng chương trình tên lửa của Hitler (Kỳ cuối)
Bản báo cáo tình báo mà Jeannie Rousseau gửi về cho London
được gọi tên là 'Báo cáo Wachtel', được hoàn tất và chuyển về vào tháng
9.1943. Jeannie không hiểu gì về khoa học kỹ thuật, nhưng bà có thứ đặc
biệt: Một bộ nhớ cực tốt, có khả năng ghi nhớ mọi thứ chỉ qua một lần
tiếp xúc, như một chiếc máy điện tử.
Bài cuối: Trở về từ cõi chết
Bản
báo cáo tình báo mà Jeannie Rousseau gửi về cho London được gọi tên là
"Báo cáo Wachtel", được hoàn tất và chuyển về vào tháng 9.1943. Jeannie
không hiểu gì về khoa học kỹ thuật, nhưng bà có thứ đặc biệt: Một bộ nhớ
cực tốt, có khả năng ghi nhớ mọi thứ chỉ qua một lần tiếp xúc, như một
chiếc máy điện tử.
Báo cáo xác định người sĩ
quan phụ trách chương trình tên lửa của Đức là Đại tá Max Wachtel; cung
cấp các chi tiết chính xác về hoạt động tại khu thử nghiệm tên lửa
Peenemunde trên bờ biển Baltic. Báo cáo cũng cung cấp thông tin đầy đủ
về các địa điểm dự kiến làm bãi phóng tên lửa tấn công nằm dọc ven biển
từ vùng Brittany đến Hà Lan.
Nội dung bản báo
cáo tình báo đã được ghi chép lại đầy đủ trong quyển sách nhan đề "The
Wizard War" của tác giả Reginald V. Jones, sếp tình báo khoa học của Anh
trong Chiến tranh thế giới lần II. Một đoạn báo cáo ghi như sau: "Có vẻ
như việc phát triển quả bom kiểu mới đã đạt đến giai đoạn cuối. Quả bom
này được cho là có thể tích 10 mét khối và chứa đầy chất nổ. Nó sẽ được
phóng gần như thẳng đứng để đạt độ cao ở tầng khí quyển bình lưu khoảng
thời gian ngắn nhất có thể... tốc độ ban đầu được duy trì bởi việc kích
nổ liên tục... Các vụ thử đã cho kết quả xuất sắc... Và Hitler đã nói
đến việc sử dụng chúng để làm thay đổi cục diện chiến tranh". Theo bản
báo cáo, ước tính khoảng từ 50 đến 100 quả bom là có thể đủ để hủy diệt
thành London.
Jeannie và chồng, Henri de Clarens.
Jeannie
băn khoăn không biết các quan chức cao cấp ở Anh có nhận được thông tin
tình báo của bà hay không, hoặc nếu có nhận được thì liệu họ có hiểu
được tầm quan trọng của nó hay không. Nhưng đấy là Jeannie quá lo xa.
Ngay
khi nhận được bản báo cáo tình báo của Jeannie do Lamarque chuyển về,
Jones - sếp tình báo khoa học lập tức nhận ra tính chất phức tạp của thứ
mà người "điệp viên vô danh" (tức Jeannie) đã phát hiện, do đó, chỉ vài
ngày sau bản báo cáo đã được đặt trên bàn làm việc của Thủ tướng Anh
Winston Churchill. Bản báo cáo đã góp phần làm gia tăng tính thuyết phục
của thông tin tình báo về chương trình tên lửa V-1 và V-2 của Đức, từ
đó thuyết phục quân Đồng minh ném bom cơ sở tên lửa ở Peenermunde và
chuẩn bị các phương án để đối phó các mối đe dọa từ Đức.
Thế
là các báo cáo tình báo của Jeannie tiếp tục được gửi về London đều
đặn. Bước vào năm 1944, thêm nhiều chi tiết mới về chương trình tên lửa ở
Peenemunde được Jeannie thu thập và gửi về London. Cùng với đoàn các
nhà công thương nghiệp Pháp, cô bắt đầu đi sâu vào trong lòng nước Đức,
báo cáo về cho London chính xác những gì cô thấy và nghe được.
Người
Anh rất ấn tượng với thông tin báo cáo của Jeannie, đến nỗi vào mùa
xuân năm 1944, họ quyết định điều cô sang London để trực tiếp báo cáo
cho lãnh đạo. Một cuộc không vận được tổ chức để "đón rước" Jeannie
nhưng bất thành vì trời hôm ấy không trăng nên viên phi công không thể
điều khiển máy bay vào ban đêm, vì thế phương án đi bằng đường biển được
triển khai ngay trước khi diễn ra cuộc đổ bộ D-Day ở Normandy.
Tên lửa V-2 tại một bãi phóng tên lửa của phát xít Đức.
Địa
điểm xuất phát là thị trấn ven biển Treguier ở Brittany. Thế nhưng,
người điệp viên Pháp lĩnh nhiệm vụ dẫn đường để mọi người vượt qua bãi
mìn đến điểm xuất hành đã bị lính Đức bắt, vì thế chuyến đi phải hủy.
Jeannie đến điểm hẹn trước tiên và phát hiện ngôi nhà điểm hẹn đã bị
lính Đức bao vây.
Cô liều mạng cảnh báo cho các
điệp viên Pháp khác biết để tránh cho họ bị rơi vào bẫy, nhưng rốt cuộc 4
người đã bị bắt, trong đó có Jeannie. Bọn Đức ngay sau đó đưa cô đến
giam tại nhà tù ở Rennes, nơi cô từng bị bắt giam vào năm 1940. Lần này,
giấy tờ thể hiện cô tên là Madeleine Chaufeur. Đáng ngạc nhiên là không
ai ở nhà tù này nhận ra cô gái mà cách đấy 4 năm họ từng giam giữ và
thả ra.
Jeannie la hét, kêu gào mình vô tội với
bất cứ ai chịu nghe mình. Jeannie mang theo hơn hai chục đôi tất nilon
định làm quà tặng cho các lãnh đạo tình báo khi cô gặp họ. Rơi vào tình
huống này, cô nảy ra ý bảo với bọn lính Đức rằng, cô chỉ là người mang
tất đi bán chợ đen, tình cờ đi chung với đoàn người bị bắt, chứ không có
tội tình gì. Thật may, cuộc thẩm cung diễn ra chóng vánh, và Jeannie
được chuyển đến tạm giam ở một nhà tù lớn hơn ở ngoại ô Paris trước khi
được chuyển đến trại tập trung dành cho nữ tù Ravensbruck.
Ngày
15.4.1944, Jeannie được chuyển đến Ravensbruck. Hồ sơ của lính Đức ghi
"có bằng chứng tham gia một đường dây gián điệp". Jeannie lại chơi trò
"mèo vờn chuột". Khi bọn Gestapo hỏi tên họ, Jeannie khai tên thật là
Jeannie Rousseau. Tuy nhiên, bọn cai ngục phát xít tỏ ra mù mờ, không
đối chiếu thông tin tù nhân với hồ sơ tiền án. Trại tập trung là một nơi
cực kỳ tồi tệ.
Một số tù nhân đã bị giam cầm ở
đây hơn một năm, và một số người trong tình trạng dở sống dở chết.
Jeannie hạ quyết tâm: người mới đến có nhiệm vụ mang lại hy vọng sống
cho những người đang dở sống dở chết ấy. Thế là Jeannie cùng với hai
người bạn Pháp cùng là kháng chiến quân là nữ bá tước Germaine de Renty
và đảng viên Cộng sản Marinette Curateau cùng nhau phản kháng, không làm
những việc ủng hộ guồng máy phát xít. Nếu bị chuyển đến trại lao động,
họ sẽ tổ chức phản đối.
Bà Jeannie de Clarens bên cạnh ông Reginald V. Jones khi nhận Huy chương R.V. Jones Intelligence Award.
Jeannie
cùng 500 phụ nữ Pháp khác bị chuyển đến trại lao động ở Torgau và bị ép
tham gia sản xuất đạn dược. Và Jeannie thực hiện đúng như đã cam kết,
từ chối làm việc. Jeannie đến gặp tên trưởng trại, đó là một gã đàn ông
Đức có khuôn mặt núng nính, và xổ một tràng tiếng Đức hoàn hảo với hắn.
Jeannie lập luận rằng, đám người phụ nữ này là tù nhân chiến tranh, mà
theo Công ước Geneva, Gestapo không có quyền ép buộc họ sản xuất đạn
dược. Các nữ tù nhân khác cũng theo gương Jeannie, ùn ùn phản đối, không
chịu làm việc. Đó là một hành động phản đối điên rồ, nhưng nhờ thế mà
nó đã giúp nâng cao tinh thần đấu tranh của các tù nhân trong trại.
Sau
vụ phản đối, Jeannie bị đưa trở lại trại tập trung Ravensbruck để khảo
cung. Jeannie chắc mẩm "lần này chết thật rồi". Tuy nhiên, bọn Đức đã
không thể tìm thấy hồ sơ giấy tờ nào mang tên Jeannie Rousseau - bởi có
đâu mà tìm. Nhưng bọn Gestapo lại kết luận rằng, cho dù là ai thì cô
cũng là một "kẻ gây rối". Vì thế, bất kể là có giấy tờ hay không, bọn
chúng vẫn chuyển Jeannie và hai người bạn (Germaine de Renty và
Marinette Curateau) đến trại trừng phạt Konigsberg ở miền Đông nước Đức.
Đó
là một nơi vô cùng tồi tệ. Những người phụ nữ phải làm việc ở ngoài
trời trong điều kiện tuyết rơi lạnh giá. Họ phải khuân và đổ đá, sỏi để
xây dựng đường băng cất - hạ cánh máy bay. Khi màn đêm buông xuống, họ
mới được lê bước trong trời lạnh buốt trở về trại để dùng bát súp loãng.
Jeannie quả quyết rằng, các tù nhân ở đây sẽ có nhiều cơ hội sống sót
hơn nếu những người ở bên ngoài biết họ còn sống.
Vì
thế, Jeannie tổ chức vận động sự đồng thuận chung trong cả trại, thu
thập họ tên của hơn 400 nữ tù nhân rồi viết chúng lên những mảnh giấy
nhỏ để tuồn qua hàng rào kẽm gai cho các tù nhân ở trại giam kế bên. Rồi
bằng cách nào đó, các nam tù nhân Pháp đã chuyển những mảnh giấy ghi
tên nữ tù nhân đến được Hội Chữ thập đỏ Quốc tế ở Thụy Sĩ.
Bị
hành hạ dã man, tình trạng sức khỏe của Jeannie ngày càng sa sút. Mùa
đông 1944-1945, bọn Đức đã dùng vòi nước phun ướt cả người các nữ tù
nhân vào mỗi buổi sáng, sau đó bắt họ đứng trần truồng bên ngoài trời
giá rét cho đến khi chịu hết nổi mới cho vào bên trong. Jeannie biết
rằng, nếu tiếp tục ở lại trại Konigsberg, bà sẽ không sống sót nổi. Thế
là bà nảy ra một kế hoạch trốn trại kỳ lạ.
Do bị
hành hạ trong giá rét nên một số nữ tù nhân bị bệnh sốt thương hàn. Bọn
Đức lấy xe tải chở họ đến các phòng hơi ngạt ở trại Ravensbruck để thủ
tiêu họ. Jeannie và hai người bạn Pháp đã trốn vào trong xe tải để đi
hai ngày đường mà không có gì ăn.
Khi chiếc xe
tải đến cổng trại Ravensbruck, nó dừng lại ít phút trước khi lăn bánh
đến các phòng hơi ngạt. Jeannie và hai người bạn lợi dụng lúc tên lính
gác cổng quay đi chỗ khác đã lẻn ra khỏi chiếc xe. Khi đã vào được bên
trong, cả ba lại gặp rắc rối. Do trốn vào trại, không có số tù nên không
được phát khẩu phần ăn, Jeannie và hai người bạn lại phải đi từ khu
Pháp đến khu Ba Lan để xin ăn nhờ các tù nhân. Bị phát hiện, Jeannie và
hai người bạn bị tra tấn dã man.
Khi cơ hội sống
sót của Jeannie cạn dần, một ngày kia một phái đoàn Chữ thập đỏ Quốc tế
đến thăm trại Ravensbruck. Một quan chức người Thụy Sĩ đọc to danh sách
tù nhân được thả vì lý do nhân đạo. Từ buồng giam của mình, Jeannie
lắng tai và nghe gọi tên mình. Bà chạy ngay đến cửa buồng giam để đáp
lại lời gọi nhưng bọn gác ngục ra sức ngăn bà lại. Khi đoàn Chữ thập đỏ
Quốc tế đi rồi, Jeannie biết rằng bà chỉ còn sống sót được vài tuần nữa
thôi. Nhưng số phận đã ban cho Jeannie cơ hội thứ hai.
Vài
ngày sau, một phái đoàn Chữ thập đỏ Thụy Điển lại đến thăm trại. Lại
một danh sách tù nhân được đọc lên. Jeannie lại bị giam hãm, không cho
tiếp cận phái đoàn Chữ thập đỏ. Lần này, bất chấp bệnh tật và sức khỏe
yếu, Jeannie thu hết sức lực, la hét, gào thét dữ dội khiến bọn gác ngục
phát hoảng và buông bà ra. Thế là Jeannie chạy theo phái đoàn Chử thập
đỏ để thoát thân. Jeannie được dẫn ra khỏi khu trại tập trung, được đưa
lên một chiếc xe buýt để đi đến biên giới Đan Mạch, rồi từ đó lên một
chuyến tàu hỏa để đến Copenhagen, thủ đô Đan Mạch.
Khi
đến nơi an toàn rồi, Jeannie đổ ụp xuống vì kiệt sức. Việc đầu tiên
Jeannie yêu cầu các bác sĩ chăm sóc sức khỏe cho bà là đánh điện báo cho
cha mẹ biết bà còn sống. Jeannie được các bác sĩ mổ để điều trị căn
bệnh lao phổi, và phải trải qua thời gian dài hồi phục tại một khu điều
dưỡng trên vùng núi của nước Pháp.
Tại đó, định
mệnh lại đến với Jeannie: bà gặp gỡ Henri de Clarens, người cũng vừa
sống sót qua hai trại tập trung khủng khiếp là Buchenwald và Auschwitz.
Hai người sau đó kết hôn, thành vợ chồng. Jeannie đã nỗ lực rất nhiều để
trở lại với cuộc sống sau chiến tranh. Bà xin vào làm phiên dịch cho cơ
quan Liên Hiệp Quốc và một số tổ chức quốc tế khác.
Với
những công trạng trong chiến tranh, năm 1955, Jeannie được Chính phủ
Pháp tặng thưởng Bắc đẩu bội tinh và gia nhập Quân đoàn danh dự của nước
Pháp, đến năm 2009 được thăng lên cấp Đại sĩ quan (bậc 4 trên 5 bậc của
Bắc đẩu bội tinh). Tiếp sau đó, bà tiếp tục được tặng thưởng Huân
chương Kháng chiến và Huân chương Thập tự chinh. Ngoài ra, bà còn được
Cục Tình báo trung ương Mỹ tặng thưởng các huân, huy chương Seal và R.V.
Jones Intelligence Award dành cho những điệp viên có thành tích tình
báo xuất sắc.
Jeannie Rousseau de Clarens vừa qua đời ngày 23.8.2017 tại Montaigu, Nantes, Pháp, thọ 98 tuổi.
Những nữ điệp viên nổi tiếng trong lịch sử tình báo Nga
Hồng Sơn |
0
Lịch sử tình báo Nga đã ghi nhận không ít những tên tuổi của
phái đẹp. Những điệp viên nữ nổi tiếng có thể là nhà văn tài năng, là
phiên dịch viên xuất sắc, nữ diễn viên tuyệt vời hay những nữ doanh nhân
v.v…
Nữ điệp viên
– Những thách thức nghiệt ngã Số phận kỳ lạ của một nữ điệp viên huyền
thoại Nữ điệp viên giúp quân Đồng minh chặn đứng chương trình tên lửa
của Hitler (bài cuối)
Không phải tất cả họ đều được mô tả là
những sắc đẹp; nhưng trong tình yêu, hôn nhân, ngoại giao, hoạt động
tình báo và cả khả năng sáng tạo, những nhân vật này được đánh giá cao
hơn hẳn so với các đại diện thông thường khác của phái đẹp.
Họ có
thể sống vào nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử, có nhiều số phận và
kết quả hoạt động khác nhau; nhưng điểm chung duy nhất của những con
người này là tình yêu Tổ quốc… Catherine Bagration
Theo
lời kể của những người cùng thời, hầu tước phu nhân Catherine Bagration
(1783-1857) chính là nguyên mẫu của nhân vật nữ bá tước Helene Kuragina
trong cuốn tiểu thuyết “Chiến tranh và hòa bình”. Bà được mô tả là một
người đẹp có mái tóc vàng rất dài, thân hình mảnh khảnh, bờ vai trắng
trẻo và mịn như thạch cao.
Nhà sử học Pháp nổi tiếng Albert Vandal
đã khẳng định rằng, Catherine đã tham gia hoạt động tình báo ngoại giao
rất hiệu quả cho nước Nga.
Có không ít bằng chứng gián tiếp khẳng
định về giả thuyết này. Chẳng hạn như lễ hội đầu tiên mà Sa hoàng
Aleksandr I đặt chân tới tại thành phố Vienna sau khi bị quân Nga chiếm
đóng chính là buổi lễ hội do nữ hầu tước phu nhân này tổ chức.
Là
vợ của tướng Bagration, Catherine thừa hưởng từ mẹ sắc đẹp và sự điệu
đà, còn từ cha là tính cách có phần nổi loạn và hoang phí. Không lâu
trước trận đánh Austerlitz, Catherine chuyển tới sống tại Vienna. Căn
nhà của bà nhanh chóng trở thành nơi tụ tập của đông đảo những nhân vật
thuộc tầng lớp thượng lưu tại đây – như hoàng tử De Ligne, nhà thơ vĩ
đại Johann Wolfgang Goethe.
Ngoài việc thu thập những thông tin
quan trọng, tầm ảnh hưởng của Catherine đã khiến giới thượng lưu Áo bắt
đầu tẩy chay đại sứ quán Pháp, khiến cho Napoleon phải coi bà là một đối
thủ chính trị thực sự. Ngoài ra, nhờ quan hệ gần gũi với hoàng thân Von
Metternich, Catherine về sau đã thuyết phục ông này đưa nước Áo tham
gia liên minh với Nga chống lại Napoleon. Moura Budberg
Moura
Budberg - còn được gọi là Nữ bá tước Benckendorff, Nam tước Budberg -
sinh ra ở Poltava, là con gái của một nhà ngoại giao Nga. Bà là một điệp
viên hai mang của OGPU (cơ quan mật vụ của Liên Xô thời kỳ đầu cách
mạng) và Cơ quan Tình báo Anh. Phương Tây vẫn gọi Moura là “quý bà từ
nước Nga” hay “Mata Hari của nước Nga”.
Người
chồng đầu tiên của bà là nhà ngoại giao Ivan Benckendorff, thư ký thứ
hai của đại sứ quán Nga tại Berlin. Nhờ khả năng nói thành thạo tiếng
Anh và tiếng Đức, nên bà có thời gian cùng làm việc với chồng tại đây.
Sau
khi chồng bị xử bắn vào năm 1918, Budberg quay trở lại Petrograd, là
nơi bà bắt đầu có mối tình mới với nhà ngoại giao Anh Robert Lockhart,
khi đó đang đứng đầu bộ phận tình báo Anh tại Nga.
Chính vì mối
quan hệ này, bà cũng bị cơ quan an ninh Cheka bắt giữ, sau khi Lockhart
bị sa lưới sau một âm mưu chống phá chính quyền Xôviết. Tuy nhiên chỉ
một tuần sau, Budberg đã được trả tự do và được cho phép vào thăm
Lockhart cùng với Yakov Peters, một nhà lãnh đạo của Cheka. Theo các nhà
sử học, có lẽ đây là thời điểm Budberg chính thức đồng ý hợp tác với
tình báo Xôviết.
Budberg còn có mối quan hệ đặc biệt thân thiết
với đại văn hào Maxim Gorky, từng nhiều lần sống tại nhà của ông trong
khoảng thời gian từ 1920-1933. Bà cũng là người trực tiếp dịch nhiều tác
phẩm của Gorky và nhiều nhà văn hiện đại khác của Nga ra tiếng Anh.
Chính
Gorky đã đề tặng cho bà cuốn tiểu thuyết “The Life of Klim Samgin”,
được coi là tác phẩm lớn cuối cùng của ông. Không có được nhiều thông
tin liên quan đến hoạt động tình báo của Budberg, nhưng có nhiều lý giải
về việc bà trở thành một điệp viên hai mang.
Một mặt, Budberg đã
từng học tại Cambridge, từng yêu tới hai người đàn ông Anh quốc. Mặt
khác, bà vẫn luôn coi nước Nga là quê hương của mình và được đánh giá là
một người yêu nước chân chính. Anna Revelskaya
Tại
thành phố cảng Libav (ngày nay là Liepaj) vùng Baltic bị quân Đức chiếm
đóng, các thủy thủ thường ưa thích ghé thăm cửa hàng bánh kẹo của cô chủ
Clara Izelgof. Họ không thể ngờ rằng, đó chính là một nữ điệp viên
huyền thoại trong lịch sử tình báo Nga.
Trong suốt cuộc đời hoạt
động, bà đã sử dụng rất nhiều cái tên. Nhà sử học người Anh Hector
Bywater gọi bà là Katrina Izelman, còn đạo diễn Valentin Pikul trong
tiểu thuyết Moonzund thì sử dụng cái tên thật Anna Revelskaya.
Khi
nói về nữ điệp viên này, không thể không kể tới 3 chiến công hàng đầu
của bà. Tháng 11-1916, thông tin của bà đã giúp quân Nga chỉ trong một
đêm tiêu diệt tới 1/8 tổng số chiến hạm mà quân Đức đã thiệt hại trong
toàn bộ cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất.
Tương
tự như vậy, vào ngày 12-10-1917, hải đoàn Đức bị phục kích và phải chịu
thiệt hại nặng nề với tổng số 10 chiến hạm và 6 chiếc tàu rà quét thủy
lôi ngay tại khu vực quần đảo Moonzund, ở lối ra vùng vịnh Riga, khiến
cho kế hoạch đánh chiếm Petrograd của quân Đức bị phá sản.
Trong
Chiến tranh thế giới thứ hai, thông tin nhận được từ Anna đã giúp cứu
bảo đảm an toàn cho lực lượng hải quân Xôviết trong những ngày đầu tiên.
Trong
chiến công đầu tiên, Anna đã tận dụng nhan sắc của mình để mê hoặc viên
trung úy Fon Kempka, chỉ huy tuần dương hạm Tetes, cung cấp cho anh ta
thông tin giả về các bãi thủy lôi của quân Nga tại vùng vịnh Phần Lan.
Kết quả là quân Đức bị mất tới 8 trên tổng số 11 chiến hạm mới nhất vừa
được hạ thủy.
Với tổn thất được đánh giá là không thể phục hồi
này, mối đe dọa từ phía biển đối với nước Nga đã được trì hoãn thêm một
thời gian đáng kể nữa. Một năm sau, thông tin quý giá của nữ điệp viên
này lại giúp cứu cho thành phố Petrograd, lúc này đã nằm trong tay của
chính phủ lâm thời.
Suốt cả ¼ thế kỷ sau đó, Anna đã im hơi lặng tiếng cho đến ngay trước thời điểm bắt đầu Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.
Vào
ngày 17-6-1941, một người phụ nữ tầm 40-45 tuổi tự xưng là Anna
Revelskaya đã xuất hiện tại Đại sứ quán Xôviết tại Berlin, đề nghị được
gặp tùy viên hải quân. Bà khẳng định quân Đức sẽ nổ súng tấn công Liên
Xô vào đêm ngày 22-6-1941.
Cần nói thêm, chỉ trong vài ngày đầu
của cuộc chiến, các lực lượng không quân và lục quân Xôviết đã phải chịu
những tổn thất khá nặng nề vì những đòn không kích phủ đầu của quân
Đức.
Trong khi đó, phía hải quân lại không phải chịu một thiệt hại
đáng kể nào. Nguyên nhân không phải là các căn cứ hải quân nằm ngoài
tầm với của máy bay ném bom Đức. Trong cuộc gặp với tùy viên hải quân
tại Berlin, Anna đã cung cấp chi tiết về kế hoạch triệt hạ lực lượng hải
quân Xôviết của Berlin.
Đô đốc Kuznesov, người đứng đầu lực lượng
hải quân Xôviết vào thời điểm đó, đã rất tin tưởng các thông tin của
Anna, cho triển khai ngay các biện pháp phòng ngừa bổ sung.
Khoảng
3 ngày trước khi chiến dịch Barbarossa nổ ra; các hạm đội Baltic, Biển
Bắc và Biển Đen của hải quân Xôviết đã được lệnh phân tán và chuyển sang
trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Từ sau thời điểm năm 1941, Anna
không còn thấy xuất hiện thêm một lần nào nữa. Cũng không một ai biết rõ
số phận của bà về sau này. Olga Chekhov
Nhan sắc
của nữ điệp viên này được công chúng biết nhiều hơn so với cuộc đời của
chính bà. Tính ra, bà đã tham gia diễn xuất trong 145 bộ phim, cũng như
biểu diễn trên sân khấu của nhiều nước châu Âu.
Dì của bà là vợ
của đại văn hào Anton Chekhov, còn chồng bà cũng chính là cháu của ông -
Mikhail Chekhov, về sau cũng nổi tiếng là một chuyên gia sư phạm, cũng
như đạo diễn tại Hollywood.
Sau
khi ly hôn, năm 1920, Olga chuyển tới Đức để tiếp tục học tập. Viên
tướng tình báo Xôviết Pavel Sudoplatov trong hồi ký của mình đã khẳng
định việc Olga được tuyển mộ từ vài năm trước khi sang Đức.
Trong
giai đoạn khó khăn ban đầu, bà đã phải làm nhiều việc để lấy tiền kiếm
sống. Về sau, bà được một quý tộc gốc Nga giúp đỡ xin cho vào làm việc
tại một xưởng phim ở Berlin. Đến năm 1928, Olga được nhận quốc tịch Đức.
Trong
thời gian này, Olga rất tích cực học tiếng Anh. Thành công của những
minh tinh thời đó như Greta Garbo và Marlene Dietrich đã khích lệ bà rất
nhiều, khiến bà đặt quyết tâm phải gia nhập vào giới thượng lưu nghệ
sĩ.
Sau khi Hitler lên nắm quyền, Olga được mời tới một buổi tiệc
chiêu đãi không chính thức do bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels tổ
chức. Quốc trưởng ngay lần gặp đầu tiên đã rất ấn tượng bởi sắc đẹp và
trí thông minh của bà, tặng bà một bức ảnh có chữ ký của mình.
Do
cả Hitler và Goebbels cũng đều rất say mê điện ảnh, cánh cửa vào những
văn phòng của đế chế phát xít Đức gần như đã mở rộng trước mắt Olga.
Quốc trưởng thường so sánh Olga Chekhova với nữ diễn viên Thụy Điển mà
mình rất yêu thích là Zarah Leander, người trên thực tế cũng hợp tác với
cơ quan tình báo Xôviết.
Với mật danh là Rosemary, Olga thường
gặp gỡ và chuyển những thông tin mật khai thác được cho người liên lạc
viên của mình là điệp viên Zoya Rybkina.
Sau khi kết thúc chiến
tranh, người đứng đầu cơ quan mật vụ khi đó của Liên Xô là Beria vào năm
1953 cũng chính thức giao cho bà Zoya vai trò làm liên lạc viên riêng
cho Olga Chekhova. Nữ điệp viên này đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ,
thường xuyên chuyển những thông tin giá trị về Moskva qua tài xế riêng
của mình.
Có giả thuyết cho biết, trùm mật vụ phát xít là Himmler
vào năm 1945 đã bắt đầu nghi ngờ Olga, ra lệnh bắt giữ bà. Nhưng khi các
nhân viên Gestapo tới căn hộ của bà đã bắt gặp quốc trưởng đang ngồi
tại đây, khiến kế hoạch không thể được thực hiện.
Còn trong trận
đánh chiếm Berlin, Olga lại bị các nhân viên phản gián Xôviết bắt giữ.
Sau quá trình thẩm vấn, bà đã được đưa ngay về Moscow trên một chuyên cơ
riêng. Theo một số dữ liệu chưa được kiểm chứng, đích thân Stalin đã
trao tặng cho Olga Chekhova huân chương Lênin.
Ba tháng sau, Olga
quay trở lại Berlin, tới sống tại một biệt thự sang trọng tại phía đông
thành phố theo chỉ thị của Beria. Trong giai đoạn tình hình còn nhiều
hỗn loạn, căn biệt thự còn được 3 binh sĩ trực tiếp đảm nhiệm việc canh
gác bảo vệ.
Tại nước Đức sau chiến tranh, Olga tiếp tục tham gia
vào nhiều bộ phim sản xuất tại Đông Đức. Năm 1955, bà khai trương hãng
mỹ phẩm mang tên “Olga Chekhova Cosmetics” tại thành phố Munich.
Theo
đánh giá của nhà nghiên cứu về hoạt động tình báo Anatoli Sudoplatov,
hãng mỹ phẩm trên được thành lập nhờ hoàn toàn vào số tiền do Moscow
cung cấp với mục đích tiếp cận với vợ của các sĩ quan trong khối NATO
tại đây.
Nhiều
người tới lúc đó còn nhớ tới dự đoán trước đây của Stalin khi cho rằng,
“nữ diễn viên Olga Chekhova sẽ vẫn còn giá trị kể cả sau chiến tranh”.
Liên
quan đến tên tuổi của Olga, vẫn còn nhiều giả thuyết bí ẩn khác. Chẳng
hạn như có tin đồn rằng, bà còn nhờ cậy tới sự giúp đỡ của trùm tình báo
phát xít là Walter Schellenberg để tìm cách giải cứu Yakov
Dzhugashvili, con trai cả của Stalin khi đó đang nằm trong trại tập
trung của quân Đức.
Còn cố tổng thống Boris Eltsin của Nga từng
tuyên bố, Olga Chekhova biết đến dấu tích của “Căn phòng hổ phách”, một
kho báu vô giá của nước Nga từng bị phát xít Đức cướp đi trong chiến
tranh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét