Kể
từ khi Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh Xuân - Hè 1968 kết thúc
đến nay, tại Mỹ và một số nước phương Tây đã xuất bản nhiều ấn phẩm,
công trình nghiên cứu cùng nhiều bài báo, tạp chí bình luận của các nhà
nghiên cứu, học giả, trong đó có các tướng lĩnh Mỹ trực tiếp tham
chiến. Tuy nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng phần lớn đều cho
rằng, Mỹ đã thất bại thảm hại trong Chiến dịch có một không hai
này.
Khe Sanh địa bàn có vị trí chiến
lược đối với cả hai bên tham chiến. Với Quân Giải phóng miền
Nam Việt Nam, đây là cầu nối giữa hậu phương lớn miền Bắc xã
hội chủ nghĩa với tiền tuyến lớn miền Nam. Còn đối với quân
Mỹ, đây là tuyến phòng ngự chiến lược, ngăn chặn mọi cuộc
tiến công, chi viện của quân Bắc Việt, bảo vệ chế độ Việt Nam
cộng hòa ở miền Nam Việt Nam; bởi thế, cả hai bên đều quyết tâm
chiếm, giữ bằng được. Xuất phát từ vị trí đó, hai bên theo
dõi nhất cử, nhất động của nhau để hoạch định chiến lược của
mình. Từ nửa cuối năm 1967, khi phát hiện nhiều đơn vị chủ lực Quân
Giải phóng miền Nam di chuyển khắp chiến trường, Lầu Năm Góc phán đoán
sẽ có một kế hoạch quân sự rất lớn của Bắc Việt.
Trước tình hình đó, từ Nhà trắng
đến Sài Gòn đã tổ chức nhiều cuộc họp bất thường, các quan
chức, tướng lĩnh, sĩ quan Mỹ bàn luận, phán đoán, tranh cãi: Bắc Việt
muốn lập một “Trận Điện Biên Phủ” đối với quân Mỹ tại Đường 9 -
Khe Sanh. Quá lo ngại sự việc trên, Tổng thống Mỹ Lin-đơn B.
Giôn-xơn (Lyndon B. Johnson) yêu cầu các tướng lĩnh “ký tên bằng máu”
cam kết rằng, Khe Sanh sẽ không sụp đổ”1. Theo đó, tướng
Uy-li-am C. Oét-mo-len (William C.Westmoreland) - Tổng chỉ huy quân Mỹ
tại Việt Nam lập tức điều động gần 03 sư đoàn quân Mỹ ra phía Bắc của
Nam Việt Nam. Mặc dù đã coi hành động của Quân giải phóng miền Nam tại
Khe Sanh là “một sự kiện chính yếu của cuộc tấn công từ phe cộng sản”2,
nhưng tướng Oét-mo-len vẫn “tự tin” tuyên bố rằng, với lối đánh, vũ
khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, hỏa lực mạnh và đặc biệt là căn
cứ được xây dựng kiên cố, vững chắc thì “Khe Sanh sẽ mang lại một
chiến thắng của Hoa Kỳ”. Nhận định về sự kiện này, tác giả Neil Sheehan
đã viết “Những người cộng sản Việt Nam không hề có ý định làm một “Điện
Biên Phủ thứ hai” ở đấy. Mục tiêu của họ là Uy-li-am C. Oét-mô-len chứ
không phải là pháo đài bị bao vây. Chỗ ấy chỉ là một cái bẫy làm viên
tướng tổng chỉ huy không ngờ đến mục đích thật sự”3. Đúng
như vậy, Bộ Quốc phòng Việt Nam chủ động mở Chiến dịch tiến
công Đường 9 - Khe Sanh nghi binh chiến lược, nhưng cũng vừa là
chiến dịch tiến công thực hiện quyết tâm đánh chiếm bằng được
địa bàn này nhằm nối thông tuyến vận tải chiến lược từ miền
Bắc vào miền Nam Việt Nam.
Là người theo dõi sát hoạt động của
hai bên trong suốt chiến sự diễn ra tại khu vực Đường 9 - Khe Sanh,
nhà sử học Mai-cơn Mác-lia (Maicol Maclia) đã mô tả tính chất ác liệt
của trận đánh ngay từ ngày đầu tiên: “Rạng sáng ngày 21-01-1968, pháo
tầm xa của Bắc Việt mở màn cuộc bao vây Khe Sanh với sự chính xác tai
hại”4. Còn báo chí Pháp, nhất là các tờ nhật báo đều đăng tải
chiến sự tại Khe Sanh và cho rằng, Mỹ gặp rất nhiều khó khăn về việc
bảo đảm: “Ở những ngọn đồi cứ điểm xung quanh Khe Sanh, nạn thiếu thực
phẩm và nước uống đã trở nên nghiêm trọng. Cơn đói, khát, cảnh rách rưới
đã giày vò những người lính Mỹ bảo vệ Đồi 881 và 861”5. Còn Tập san Quốc tế
thì thẳng thắn: “Nhìn vào thực tế của Mỹ và chính quyền Sài Gòn thì
tình hình xấu đi về mọi mặt, không hiểu số phận của cuộc chiến đi đến
đâu, nhân dân yêu chuộng tự do và hòa bình ở các nước phương Tây đều bất
bình. Bản thân cuộc chiến có lẽ sắp đến hồi kết”6.
Qua khối tài liệu mật được giải mã cho
thấy, lời thú nhận của tướng lĩnh Mỹ được thể hiện qua các báo cáo
gửi về bộ phận an ninh Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn thời điểm tháng 6-1968,
ghi rõ: “Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên quân đội Mỹ phải
rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương”7. Báo Tia sáng
tại Sài Gòn số ra ngày 27-6 đã miêu tả chi tiết: “Các cuộc rút quân của
Mỹ tại Khe Sanh rất bài bản, nhưng vẫn bị đối phương phát hiện và nỗ
lực chặn đánh,…”. Tờ Baltimore (Mặt trời) tại Pháp số ra ngày
28-6-1968 cũng đồng tình việc “Mỹ vừa buộc phải rút khỏi Khe Sanh, một
căn cứ quân sự được phòng thủ với giá đắt, kết cục thật bi thảm”.
Sau khi quyết định rút quân, Mỹ lo lắng
phải đối mặt với các phương tiện truyền thông trong nước. Vì, trước đó 4
tháng, Tổng thống Lin-đơn B. Giôn- xơn đã tuyên bố “sẽ giữ Khe Sanh
bằng mọi giá”, thậm chí, phát ngôn viên của Chính phủ Mỹ còn tuyên bố
“chiến thắng” và “Khe Sanh đã được giải vây”. Thực tế, phóng viên Giôn
Ca-rôn (John Carol) của tờ Mặt trời Ban-ti-mo (Baltimore) đã phơi bày sự
thật này, ngày 24-6, quân Mỹ “vừa buộc phải rút bỏ Khe Sanh”. Bộ chỉ
huy Mỹ lập tức phản bác tin này, nhưng Giôn Ca-rôn khẳng định, “Các thủy
quân lục chiến biết việc này, người Bắc Việt Nam biết việc này”. Sự
che đậy vụng về của Nhà Trắng đã bị lật tẩy, làn sóng đấu tranh
của nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa bình ở cả Mỹ và các nước trên thế
giới tăng cao. Như vậy, mọi toan tính của Mỹ hòng cắt đứt tuyến chi
viện chiến lược của Bắc Việt Nam từ các căn cứ quân sự vùng giới tuyến
không thực hiện được. “Phán quyết của lịch sử về Khe Sanh cho là Mỹ đã
thua và buộc tội Tướng Uy-li-am C. Oét-mô-len hơn là công nhận một sự
thực về bản hùng ca đã bảo vệ được cả quốc gia đứng vững trong thời gian
tổng công kích từ tháng Giêng đến tháng Tư năm 1968”8.
Tựu trung lại, tuy còn có sự nhận thức
chưa đồng thuận xung quanh một số vấn đề liên quan đến chiến sự tại
Đường 9 - Khe Sanh; song, về phía Quân Giải phóng miền Nam, thắng lợi
của Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh Xuân - Hè 1968 đã góp phần
giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chính quyền
của Tổng thống B. Giôn-xơn phải xuống thang chiến tranh, ngừng ném
bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, cử đại diện đàm phán với Hà Nội
tại Hội nghị Pa-ri (Paris). Còn về phía Hoa Kỳ, thất bại ở Đường 9 -
Khe Sanh làm sâu sắc thêm sự phân hóa, chia rẽ nội bộ Mỹ; thúc đẩy phong
trào phản chiến trong các tầng lớp nhân dân. Đúng như nhà sử học Ronald
Spector nhận xét: “Không có lý do nào hợp lý để coi trận đánh Khe Sanh
là một chiến thắng của Hoa Kỳ như họ đã tuyên bố. Với việc rút bỏ căn cứ
Khe Sanh đã khắc sâu trong tâm trí của nhiều người Mỹ như là một biểu
tượng của sự hy sinh vô nghĩa và những chiến thuật lộn xộn đã khiến cuộc
chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam đi đến thất bại”9.
Từ khi chiến sự Đường 9 - Khe Sanh kết
thúc cho đến nay, các nhà hoạch định chiến lược, nhiều tướng
lĩnh và các nhà báo, phóng viên các tạp chí lớn của Mỹ và một
số nước phương Tây tập trung nghiên cứu phân tích, đánh giá và
thống nhất đưa ra một số nguyên nhân thất bại của Mỹ.
Một là, Hoa Kỳ thua vì không
đảm bảo được vật chất phục vụ sinh hoạt của binh lính Mỹ ở Khe Sanh. Số
phận của hơn 6.000 lính Mỹ trong căn cứ Khe Sanh hoang mang, dao động
và nỗi ám ảnh nhất là cái chết đang cận kề. Đến tận bây giờ,
cựu binh Mỹ John Scott Jones vẫn không thôi bị ám ảnh và than thở rằng:
“Chúng tôi đã ở dưới những căn hầm trú ẩn nhỏ, có rất nhiều bom đạn thả
xuống, rất nhiều người chết và bị thương”. Chia sẻ với binh lính Mỹ,
Hãng tin AP đưa ra bình luận rằng, “Sống ở Khe Sanh nào khác gì kẻ bị
kết án ngồi trên ghế điện”.
Hai là, Quân Giải phóng miền
Nam đã thiết lập hệ thống công sự, trận địa vây, lấn được kiểm
nghiệm trong chiến dịch Điện Biên Phủ (năm 1954) để đối phó với vũ
khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại, hỏa lực mạnh của Mỹ. Để lý
giải cho điều này, Tư lệnh quân chiến đấu Mỹ tại Khe Sanh viết trong
báo cáo rằng, chúng phải sử dụng đến 1.000 viên đạn pháo chỉ để phá hủy
30 mét đường hào cùng một vài người lính của Quân Giải phóng miền Nam.
Ba là, Quân Giải phóng miền
Nam vừa thực hiện được đòn nghi binh chiến lược, vừa quyết tâm chiếm giữ
Đường 9 - Khe Sanh. Đúng như tác giả Mai-cơn Mác-lia trong cuốn “Việt
Nam cuộc chiến tranh mười nghìn ngày” đã nhận xét: “Các trận đánh trong
Tết Mậu Thân làm cho người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là
cuộc bao vây để đấy mà thôi. Nếu vậy, thì Bắc Việt Nam là bậc thầy
trong việc nghi binh”10. Điều này còn được khẳng định trong
chuyến thăm Việt Nam tháng 9-1994 của đại tá Hoa Kỳ khi ông phỏng vấn
đại tướng Võ Nguyên Giáp về cuộc tiến công Đường 9 - Khe Sanh năm 1968.
Đại tướng cho biết: “ông biết khả năng không quân của Mỹ là cực mạnh
khiến việc lặp lại Điện Biên Phủ là không thể, mục tiêu thực tế mà ông
theo đuổi là gây cho quân Mỹ thương vong lớn khiến họ phải sa lầy, nhụt
chí và cuối cùng phải tự rút khỏi đó. Thực tế ông đã đạt được mục tiêu
đó sau 6 tháng giao chiến khiến quân Mỹ liên tục bị tiêu hao sinh mạng ở
mức độ cao”.
Bốn là, Quân Giải phóng miền
Nam có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy tài giỏi, cùng với tất cả cán
bộ, chiến sĩ và các lực lượng khác đã kiên quyết, liên tục tiến công đối
phương (quân Mỹ) là một yếu tố quan trọng tạo sức đột phá mạnh, giành
thắng lợi nhanh, hạn chế thương vong, tổn thất. Đặc biệt là, công tác
xây dựng yếu tố chính trị, tinh thần và nhiệm vụ tác chiến của
từng đơn vị, từng hướng, từng mũi, góp phần củng cố ý chí quyết tâm,
tinh thần dũng cảm chiến đấu, giành thắng lợi.
Tuy nhiên, cũng có một số sách, báo được
phát hành tại Mỹ đã cố tình bào chữa cho những sai lầm của Mỹ kể từ khi
họ tính toán để thiết lập tuyến phòng thủ Khe Sanh (từ năm 1962)
cho đến khi chiến sự Đường 9 - Khe Sanh kết thúc. Dù thế nào đi chăng
nữa thì thất bại thảm hại tại Khe Sanh là không thể đảo ngược. Tờ Thời báo New York
đưa tin từ Hồng Công cũng nhấn mạnh rằng: “70% người Châu Á tin rằng lý
do Mỹ phải bỏ Khe Sanh là bởi họ đã bị đối phương đánh bại”.
Đại tá, TS. TRƯƠNG MAI HƯƠNG, Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam
________________
1 - Mai-cơn Mác-lia, Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nxb Sự thật, H. 1990, tr. 149.
2 - Theo Tài liệu Mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, lưu Cục Lưu trữ Văn phòng Trung ương Đảng.
3 - Neil Sheehan - Sự lừa dối hào nhoáng, Nxb CAND, H. 2003, tr. 844.
4 - Mai-cơn Mác-lia - Việt Nam - Cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nxb. Sự thật, H. 1990, tr. 148.
5 - Báo Pháp Paris Pret (Paris X.press), số ra ngày 10-3-1968.
6 - Sđd, số ra ngày 02-3-1968.
7 - Theo Tài liệu Mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, lưu Thư viện Quân đội.
8 - Trần Hồng Tâm dịch từ “5 điều bạn chưa biết về Khe Sanh” của Thomas E.Ricks, FP, May 5, 2014; điểm cuốn “Gian hàng cuối cùng tại Khe Sanh” của Gnegg Jones.
9 - Tài liệu Mật Bộ Quốc phòng Mỹ, lưu tại Thư viện Trung ương Quân đội.
10 - Mai-cơn Mác-lia - Việt Nam - cuộc chiến tranh mười nghìn ngày, Nxb Sự thật, H. 1990, tr. 149.
Khe Sanh - Điện Biên phủ thứ 2 (Kỳ 1): Cân nhắc sử dụng vũ khí hạt nhân
Cả Hoa Kỳ và Bắc Việt đều khát khao giành chiến thắng trong năm 1968 và Khe Sanh đã nổi bật trong kế hoạch của cả hai bên.
Trong chiến tranh Việt Nam, khu vực Đường 9 - Khe Sanh có
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với cả Mỹ, chính quyền Sài Gòn
và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khe Sanh là nơi có thể chia cắt và ngăn
chặn tuyến chi viện chiến lược của miền Bắc cho miền Nam, nhưng lại là
nơi hạn chế khả năng Mỹ tiến công ra miền Bắc và là lá chắn để bảo vệ
tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn. Hai bên đã có 66 ngày đêm quyết
chiến chiến lược tại đây. Vào đầu năm 1968, cuộc bao vây căn cứ thủy quân lục chiến hẻo lánh
tại Khe Sanh đã tràn ngập trên các kênh tin tức về cuộc chiến ở Việt Nam
của Hoa Kỳ. Tướng William Westmoreland, chỉ huy tối cao của quân đội
Hoa Kỳ tại Sài Gòn, gọi hành động của quân đội Bắc Việt Nam tại Khe Sanh
là một “sự kiện chính yếu” của cuộc tấn công từ Bắc Việt.
Các bản tin đồng loạt so sánh cuộc tấn công với trận Điện Biên Phủ,
một cứ điểm quân sự xa xôi của người Pháp bị bao vây và buộc phải đầu
hàng trước lực lượng Quân đội Việt Nam năm 1954. Vào ngày 18.2, ngay cả
khi cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân đang diễn ra trên khắp cả nước, tờ
New York Times đã gọi cuộc đụng độ đang diễn ra tại Khe Sanh là một trận
đánh lớn của Chiến tranh Việt Nam. Trận đánh diễn ra hơn 66 ngày với các diễn biến chính đầy căng thẳng
được phát hàng đêm trên các kênh truyền hình. Bốn tuần sau khi cuộc bao
vây diễn ra, Tổng thống Lyndon B. Johnson và các chỉ huy quân đội của
ông đã cân nhắc sử dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật để giải cứu Khe
Sanh.
Lính Mỹ đã phải gánh chịu các cuộc pháo kích, đạn bắn tỉa, các cuộc
tấn công thăm dò và tấn công trên mặt đất. Tuy nhiên, cuối cùng Khe Sanh
đã không trở thành một thảm kịch kiểu Alamo như người ta e ngại lúc
đầu. Qua thời gian, các sự kiện diễn ra tại Khe Sanh năm 1968 không còn
thu hút được nhiều sự chú ý bằng việc diễn giải những gì đã diễn ra. Một
quan điểm lịch sử xét lại đã đã trở nên thịnh hành trong những năm 1980
và Khe Sanh trở thành phép ẩn dụ cho sự quản lý cuộc chiến yếu kém của
tướng Westmoreland.
Gần đây hơn, cuộc bao vây đã được coi như là một phương pháp xuất sắc
của Bắc Việt nhằm đánh lạc hướng cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân sắp
sửa diễn ra. Cách diễn giải này đã tràn ngập trong các sách lịch sử hiện
thời cũng như trong bộ phim tài liệu mới đây của Ken Burns và Lynn
Novick về Chiến tranh Việt Nam.
Trong thực tế, có rất ít chứng cứ về các ý định của Bắc Việt tại Khe Sanh và cuộc tranh luận còn lâu mới kết thúc. Khi năm 1968 bắt đầu, cả Hoa Kỳ và Bắc Việt đều khát khao giành chiến
thắng trong năm đó. Khe Sanh đã nổi bật trong kế hoạch của cả hai bên.
Mỏ neo của Mỹ tại Khe Sanh là một căn cứ thủy quân lục chiến đóng tại
một vùng đồi núi nằm giữa một cung đường cũ của người Pháp, Đường 9, và
sông Rào Quán, cách biên giới với Lào khoảng 7 dặm và nằm cách Khu phi
quân sự chia cắt Bắc và Nam Việt Nam 15 dặm.
Một loạt các cứ điểm hình quạt, bao gồm một căn cứ lực lượng Biệt
kích Lục quân Hoa Kỳ, đã giúp bảo vệ các cung đường tiếp cận tới căn cứ
từ hướng Bắc và hướng Tây. Vào tháng Giêng năm 1968, hai sư đoàn Bắc Việt gồm khoảng 20 nghìn
lính đã tiếp cận Khe Sanh từ hướng Tây, một sư đoàn khác di chuyển tới
một vị trí phía Đông Bắc Khe Sanh.
Giai đoạn đầu tiên trong kế hoạch của Bắc Việt dành cho cuộc tổng
tiến công và nổi dậy là kêu gọi binh lính tiến hành một loạt các trận
đánh ở bên trong nội địa nhằm kéo giãn lực lượng Mỹ ra khỏi các khu vực
duyên hải đông dân cư. Một trong những trận đánh đó sẽ diễn ra tại Khe
Sanh. Các cuộc tấn công vào các đô thị miền Nam diễn ra khi Việt Nam đang chào mừng Tết Nguyên Đán vào cuối tháng Giêng năm 1968.
Theo PV (Khám Phá)
Khe Sanh - Điện Biên phủ thứ 2 (Kỳ cuối): Địa ngục của lính Mỹ
Tại Sài Gòn, tướng Westmoreland đã đợi
sẵn cuộc tấn công của quân đội miền Bắc ở Khe Sanh. Tại Washington,
tướng về hưu Maxwell Taylor đã khuyên Tổng thống Johnson từ bỏ Khe Sanh.
Trong chiến tranh Việt Nam, khu vực Đường 9 - Khe Sanh có
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với cả Mỹ, chính quyền Sài Gòn
và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Khe Sanh là nơi có thể chia cắt và ngăn
chặn tuyến chi viện chiến lược của miền Bắc cho miền Nam, nhưng lại là
nơi hạn chế khả năng Mỹ tiến công ra miền Bắc và là lá chắn để bảo vệ
tuyến chi viện chiến lược Trường Sơn. Hai bên đã có 66 ngày đêm quyết
chiến chiến lược tại đây. Tại Sài Gòn, tướng Westmoreland đã đợi sẵn cuộc tấn công của quân đội
miền Bắc tại Khe Sanh. Ông đã lên kế hoạch tiến hành các cuộc pháo kích
và không kích chưa từng có để làm tê liệt các đối thủ trong một cuộc
đối đầu sử dụng vũ khí truyền thông hiếm có từ trước tới nay.
Tướng Westmoreland.
Vở bi kịch tại Khe Sanh đã diễn ra với một loạt các cuộc tấn công của
quân đội miền Bắc vào rạng sáng Chủ nhật ngày 21 tháng Giêng. Một cuộc
tấn công của bộ binh miền Bắc đã thâm nhập vào cứ điểm Thủy quân lục
chiến tại đồi 861 trước khi thất bại. Pháo binh đã dội vào căn cứ tác
chiến Khe Sanh, làm nổ một kho đạn lớn. Các nhóm bộ đội miền Bắc khác đã
tấn công sở chỉ huy căn cứ tại làng Khe Sanh gần đó.
Trong vòng hai tuần tiếp theo, căn cứ Khe Sanh cũng như các tiền đồn
của nó phải gánh chịu các đợt tấn công bằng pháo và súng bắn tỉa hàng
ngày. Vào ban đêm, các binh lính của quân đội miền Bắc cũng tìm cách
thăm dò khả năng phòng thủ của Khe Sanh. Các lo ngại về một cuộc tấn công bộ binh quy mô lớn vào Khe Sanh đã
gia tăng sau khi các cuộc tấn công của lực lượng quân đội miền Bắc vào
các khu vực đô thị bắt đầu vào ngày 31 tháng Giêng. Ngày hôm sau, Tổng thống Johnson, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu Trưởng
Liên quân, Tướng Earle Wheeler, đã hỏi Tướng Westmoreland liệu có cần sử
dụng vũ khí hạt nhân chiến thuật nhằm giải cứu Khe Sanh hay không. Westmoreland đã nói nước đôi về lựa chọn của mình. Ông nói trong một
bức điện mật rằng trong trường hợp xấu nhất “tôi nghĩ cả vũ khí hạt nhân
chiến thuật hoặc vũ khí hóa học có thể là những vũ khí được ưu tiên
triển khai”.
Vào ngày 5.2 khi giao tranh vẫn tiếp diễn tại Sài Gòn, Huế và các đô
thị khác, quân đội miền Bắc đã tấn công vào cứ điểm chính của Khe Sanh
tại đồi 861A. Các lực lượng miền Bắc đã xuyên thủng hàng rào phòng thủ của lực
lượng thủy quân lục chiến, nhưng cuộc tấn công cuối cùng đã bị bẻ gãy
bởi một cuộc phản kích lớn được hỗ trợ bởi các cảm biến điện tử và kết
thúc với một cuộc phản công bằng bộ binh. Đêm hôm sau, doanh trại đơn vị Đặc nhiệm Mỹ nằm ở phía Tây Nam căn cứ
đã bị san phẳng trong một cuộc tấn công bộ binh được hỗ trợ bởi 11 xe
tăng hạng nhẹ PT-76 do Liên Xô sản xuất. Vào ngày mùng 8.2, các chiến sĩ
Bắc Việt đã tấn công vào một tiền đồn thủy quân lục chiến nhỏ nằm cách
căn cứ chưa đầy một dặm về phía Tây Nam.
Quân đội miền Bắc tìm cách bao vây căn cứ với các đường hào và các vị
trí pháo được ngụy trang cẩn thận, đe dọa con đường tiếp tế bằng đường
không của căn cứ. Tại Washington, tướng về hưu Maxwell Taylor, một cựu
binh Thế chiến II được kính trọng và là cựu đại sứ của Mỹ tại Nam Việt
Nam, đã khuyên Tổng thống Johnson từ bỏ Khe Sanh. Binh lính Mỹ phải chia nhau từng khẩu phần nước và lương thực tại các
cứ điểm và binh lính bị thương đôi khi tử vong trong lúc chờ các chuyến
bay sơ tán bằng trực thăng. Cảm giác khủng hoảng càng gia tăng vào ngày
10.2 khi một máy bay vận tải C-130 của Thủy quân lục chiến bị trúng đạn
và buộc phải hạ cánh khẩn cấp tại Khe Sanh làm chết 8 lính Mỹ.
Cũng trong tuần đó, Tướng Westmoreland và lực lượng Thủy quân lục
chiến không hề biết rằng các chỉ huy cộng sản đã điều chuyển 1/3 lực
lượng bao vây từ Khe Sanh tới Huế nằm cách căn cứ khoảng 50 dặm về phía
Đông Nam. Nhiều năm sau cuộc chiến, chỉ huy tình báo của Westmoreland,
Trung tướng Phillip B. Davidson, vẫn còn bị bối rối trước quyết định
này. Miền Bắc đã “giữ quá nhiều lính tại Khe Sanh nếu chỉ muốn đe dọa nó,
nhưng quá ít để có thể giành được nó”. Đây vẫn là một trong những bí ẩn
bao quanh trận Khe Sanh mà chưa được làm sáng tỏ.
Cuộc bao vây đạt tới đỉnh điểm vào tuần cuối cùng của tháng 2.1968, mặc dù mãi sau này điều đó mới trở nên rõ ràng.
Theo PV (Khám Phá)
“Nghi binh” Đường 9 - Khe Sanh để đánh thẳng vào đô thị miền Nam
08/07/2018 - 6:41
Biên phòng - Ngày
9-7-2018, Bộ Quốc phòng sẽ tổ chức Hội thảo "Chiến thắng Đường 9 - Khe
Sanh 1968: Tầm vóc và bài học lịch sử” nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng
lịch sử Đường 9 - Khe Sanh. Phóng viên (PV) báo Biên phòng đã phỏng vấn
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, nguyên Tư lệnh Bộ đội Trường Sơn, Phó Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ).
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên mở đầu câu
chuyện: Đường 9 (Quảng Trị) là tuyến đường chiến lược quan trọng vận
chuyển súng đạn, lương thực, thực phẩm... cho toàn bộ chiến trường miền
Nam. Mỹ sử dụng không quân ngăn chặn, ta không sợ. Nhưng âm mưu của địch
sử dụng bộ binh để cắt đứt tuyến đường chiến lược và lập bức tường chắn
ngang rừng Trường Sơn, đây mới là vấn đề ta quan tâm nhất.
Nếu như quân ta không đập tan “hàng rào
bộ binh” ở đây thì không thể nào có những cuộc đánh lớn ở miền Nam được.
Đây là bước phiêu lưu đầy chủ quan của các chiến lược gia Hoa Kỳ. Vùng
này là chiến trường có địa hình rừng núi hiểm trở, không phải đất “dụng
võ” của lính Mỹ lẫn ngụy. Từ lâu trong tầm nhìn Bộ Chính trị, xác định
đây là chính diện rộng nhất của tuyến chi viện bao gồm cả hành lang Đông
- Tây Trường Sơn, một cửa mở quyết định nhất cho các chiến trường. Do
vậy, ta tập trung lực lượng chủ lực tinh nhuệ nhất, đặc biệt lực lượng
dự bị chiến lược ở miền Bắc sẽ không buông tha trước mọi thái độ của
địch.
“Đòn” lừa địch
PV: Ý đồ, âm mưu của địch đổ quân ra Đường 9 - Khe Sanh với mục đích gì?
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên:
Mỹ - ngụy đã đổ quân ra khu vực Đường 9 - Khe Sanh nhằm cắt đứt tuyến
chi viện chiến lược, cả Đông và Tây Trường Sơn ngang khu vực Đường 9,
bằng sức mạnh quân sự của không quân, bộ binh với sự tham gia các sư
đoàn thiện chiến.
Theo công thức: Bộ binh, cộng với chỉ
huy, hỏa lực và hậu cần của Mỹ. Mưu đồ “chặt đầu, khóa đuôi” tuyến chi
viện chiến lược của ta đã được Mỹ thực thi ở tầm chiến lược. Cuộc chiến
đấu của các lực lượng trên tuyến chi viện chiến lược luôn đối mặt với
thực tế: Cuộc chiến tranh ngăn chặn và chống ngăn chặn nơi đây đan cài
vào nhau. Địch đánh, ta đánh trả và khắc phục tổn thất, hư hại; địch lại
đánh và ta lại khắc phục. Vòng quay cứ lặp đi lặp lại gần như quy luật.
Ngày nối ngày, tháng nối tháng, năm nối năm...
PV: Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh có ý nghĩa như thế nào?
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên:
Trong đỉnh cao nghệ thuật quân sự của ta có hoạt động nghi binh lừa
địch. Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh mở màn trước Tết Mậu Thân (1968) 10
ngày, đã làm cho Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở Sài Gòn và những kẻ đứng đầu
Nhà Trắng bị lạc hướng, trúng “đòn” nghi binh của ta. Trong khi chúng
dồn cả tâm trí và huy động lực lượng ra Đường 9 - Khe Sanh, hòng giữ
bằng được Khe Sanh, đừng để nơi này thành một “Điện Biên Phủ mới”.
Ta bất ngờ Tổng tiến công và nổi dậy đồng
loạt trên khắp các chiến trường miền Nam. Vào thời điểm đêm giao thừa
Tết Mậu Thân, ta bất ngờ đánh thẳng vào các đô thị, trung tâm quân sự,
chính trị, kinh tế của Mỹ - ngụy. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng ta đã tạo được bất ngờ lớn về chiến lược chiến tranh, đồng thời
“giải quyết” xong tuyến phòng ngự bộ binh khét tiếng cắt ngang đường
Trường Sơn.
PV: Tập đoàn quân sự
Đường 9 - Khe Sanh của địch bị đập tan, sau đó địch có “bày trò” nào để
ngăn chặn bước tiến trên đường chi viện?
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên:
Bộ Tổng tư lệnh đã thông báo với chúng tôi, địch có khả năng mở một
cuộc hành quân chiến thuật “trực thăng vận” ra khu vực Đường 9. Cuộc
hành quân này mang tên “Lam Sơn - 719”. Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đường 9 -
Khe Sanh họp bàn và triển khai nhiệm vụ ngay. Tập trung vận chuyển chi
viện chiến lược, tranh thủ dồn nhanh hàng vào phía Nam Đường 9, phòng
khi địch đánh tràn lên, chốt chặn dọc con đường này, dẫn đến “tắc đường”
chi viện vào miền Nam.
Ý đồ của Mỹ lập “hàng rào bộ binh” cắt
ngang đường chi viện của ta tiếp theo. Bộ Tư lệnh nhanh chóng tổ chức
vận chuyển bảo đảm hậu cần trực tiếp cho mặt trận Đường 9, trước khi
chiến sự xảy ra ở đây. Hơn nửa tháng phát lệnh “hỏa tốc”, bất chấp máy
bay địch ném bom đánh phá, chúng tôi đã đưa 15.000 tấn hàng từ miền Bắc
vượt qua Đường 9. Riêng mặt trận Đường 9, chúng tôi giao 2.000 tấn. Đúng
là một kết quả phi thường.
Trận đánh “đẹp” của thế giới
PV: Ngoài nhiệm vụ vận tải, Bộ đội Trường Sơn đã sử dụng các đơn vị chiến đấu tham gia “mở cửa” Đường 9 như thế nào?
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên:
Bộ Tư lệnh Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh đã sử dụng những đơn vị đánh
công kiên thọc thẳng vào đội hình của địch, kết hợp nghi binh lừa địch
vào đúng “túi lửa” phòng không mạnh nhất của Bộ đội Trường Sơn. Lúc đầu
pháo phòng không, tên lửa của ta vẫn nằm im lìm dưới những tán cây rừng
già, chỉ cho các loại súng đại liên, súng bộ binh ra đánh “kéo” máy bay
đến.
Nhận được Chỉ thị của Bộ Tư lệnh chiến
dịch và của đồng chí Văn Tiến Dũng, cuộc hành quân “Lam Sơn - 719” của
địch đã bắt đầu, tôi điện ngay cho các đơn vị, binh trạm: “Phải nhử máy
bay địch vào thật sâu, đúng vòng vây, sẵn sàng chủ động tiến công nhanh
nhất vào đội hình trực thăng của chúng.
Sử dụng tất cả các vũ khí, phát huy mọi
tầm hỏa lực, kiên quyết tiêu diệt, với khẩu hiệu: “Cứ cho nó đến, quyết
không cho về”. Chờ khi nào có trên 30 chiếc bay vào “túi lửa” phòng
không mới xả đạn”. Bộ đội kiên trì nhử đến ngày thứ 6, địch đi một đoàn
50 trực thăng ào ào đổ quân xuống. Lập tức ta phụt “túi lửa” ra tiêu
diệt, chỉ 2 ngày quét sạch hơn 100 máy trực thăng. Đây là trận đánh
“đẹp” hiếm có trên thế giới.
Cuộc hành quân “Lam Sơn – 719” là cố gắng
cuối cùng trong cơn “giẫy chết” của cuộc chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” thất bại thảm hại của Mỹ - ngụy. Âm mưu cắt đứt tuyến đường
Trường Sơn bằng sức mạnh tổng lực trong tổng thể chiến lược chiến tranh
ngăn chặn tuyến chi viện chiến lược của địch đã hoàn toàn thất bại.
PV: Đập tan toàn bộ
phòng tuyến bộ binh Đường 9 của địch, Bộ đội Trường Sơn có những thay
đổi gì để đáp ứng với sự phát triển lớn mạnh ở các chiến trường miền
Nam?
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên:
Cánh “cửa chốt” chiến trường Trường Sơn dọc Đường 9 được mở vĩnh viễn.
Bộ đội Trường Sơn bắt đầu nâng cấp, mở rộng nhiều tuyến đường, cơ cấu
lại tổ chức để ngang tầm với nhiệm vụ và đáp ứng sự lớn mạnh ở các chiến
trường miền Nam. Lúc đó tôi có suy nghĩ, thắng lợi Đường 9 là thời cơ
đến rồi, chúng ta phải có những bước chuẩn bị trước khi ký Hiệp định
Paris về lập lại hòa bình ở Việt Nam. Vì muốn đánh lớn ở miền Nam, các
lực lượng vận tải phải ngang tầm, nhưng Bộ đội Trường Sơn của chúng ta
đã làm vượt tầm.
Theo quy định của Bộ Quốc phòng, chỉ cần
sử dụng trung đoàn xe vận tải là ngang tầm rồi, bây giờ tôi cho thành
lập hai sư đoàn xe độc lập. Sau đó, Tổng Bí thư Lê Duẩn, Tổng Tư lệnh Võ
Nguyên Giáp rất ủng hộ và phê chuẩn sư đoàn xe vận tải. Nắm trong tay
nhiều sư đoàn binh chủng hợp thành, Bộ đội Trường Sơn bỏ cách hoạt động
đi theo từng cung đường, từng binh trạm. Nhằm rút ngắn thời gian tối đa
công tác vận tải, Bộ đội Trường Sơn tổ chức hành quân, vận chuyển theo
đội hình các đơn vị xe chạy thẳng vào chiến trường miền Nam.
PV: Xin cảm ơn Trung tướng!
Hải Luận (thực hiện)
50 năm chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh: Biểu tượng sáng ngời của ý chí kiên cường
- Hội
thảo khoa học với chủ đề “Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh 1968: Tầm vóc
và bài học lịch sử” do Bộ Quốc phòng tổ chức hôm nay tại Nghệ An. Phát
biểu khai mạc, Thứ trưởng Quốc phòng, thượng tướng Lê Chiêm nhấn mạnh, 5
thập niên trôi qua, nhưng chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh vẫn mãi là
biểu tượng sáng ngời của ý chí kiên cường, tinh thần quật khởi, quyết
tâm chiến đấu hy sinh vì nền độc lập, tự do của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thiếu tướng
Nguyễn Hoàng Nhiên - Viện trưởng Viện lịch sử quân sự cho biết, ban tổ
chức hội thảo đã nhận được gần 80 bài tham luận của các lãnh đạo Bộ Quốc
phòng, Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, các quân khu, bộ ban
ngành, địa phương…
Thượng tướng Lê Chiêm phát biểu khai mạc hội thảo
Đánh dấu bước phát triển về nghệ thuật quân sự Các
tham luận tập trung làm rõ: Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh 1968 thể
hiện thành công xuất sắc trong chỉ đạo chiến lược của Ban chấp hành TƯ
Đảng Lao động VN đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; là dấu ấn đặc biệt
quan trọng trong quá trình lãnh đạo, điều hành chiến tranh cách mạng của
Đảng. Đường 9 - Khe Sanh là nơi đấu trí, đấu lực quyết liệt giữa
ta và địch. Thất bại của Mỹ tại đây là sự thất bại trước ý chí, quyết
tâm chiến đấu, mưu trí sáng tạo của cán bộ chiến sĩ ta; Thể hiện tư thế
chủ động của quân và dân trong lựa chọn cách đánh, thực hiện thành công
vây hãm, tập kích, truy kích tiêu hao, tiêu diệt và đẩy quân Mỹ, quân
đội Sài Gòn vào tình thế khốn quẫn, buộc phải rút khỏi Khe Sanh. Chiến
dịch Đường 9 - Khe Sanh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghi binh chiến
lược, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Tổng tiến công và nổi dậy
Mậu Thân 1968. Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh 1968 đánh dấu bước phát triển về nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Nhiều
tác giả có tham luận tại hội thảo đã khẳng định, chiến thắng Đường 9 -
Khe Sanh thể hiện tinh thần quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta. Thượng
tướng Nguyễn Trọng Nghĩa - Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị đánh giá,
chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh viết nên “câu chuyện thần kỳ”, góp phần
làm đảo lộn thế chiến lược của địch trên chiến trường, trở thành biểu
tượng sức mạnh, ý chí quyết tâm và lòng tự hào của quân và dân trong
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Theo thượng tướng, hội thảo góp
phần giáo dục truyền thống cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân,
đặc biệt là thế hệ trẻ; xây dựng quân đội ngày càng vững mạnh, tăng
cường quốc phòng an ninh trong thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh 1968 góp phần đưa kháng chiến sang giai đoạn mới
(PLO) - Trải qua hơn 170 ngày đêm chiến đấu gian khổ, quyết liệt,
ngày 15/7/1968, Chiến dịch kết thúc thắng lợi; ta đã phá tan hệ thống
phòng thủ chiến lược của Mỹ trên Đường 9, tiêu diệt một bộ phận quan
trọng sinh lực địch, giải phóng huyện Hướng Hóa (Quảng Trị), giữ vững
tuyến đường chi viện Bắc - Nam; tạo điều kiện cho hướng tiến công chiến
lược chủ yếu đánh vào các thành phố, thị xã trên toàn miền Nam.
Quân Giải phóng xung phong chiếm các mục tiêu của địch tại Khe Sanh.
Kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Đường 9 - Khe
Sanh, ngày 9/7, tại tỉnh Nghệ An, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội thảo khoa
học “Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh 1968 - Tầm vóc và bài học lịch
sử”.
Sau 177 ngày đêm (20/1 đến 15/7/1968) chiến đấu liên tục, chiến
dịch kết thúc. Kết quả, Quân đội nhân dân Việt Nam đã loại khỏi vòng
chiến đấu gần 12 nghìn quân địch (chủ yếu là Mỹ), bắn rơi và phá hủy
hàng trăm máy bay cùng nhiều vũ khí.Trong tham luận về chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh, Thiếu tướng
Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Lịch sử quân sự Việt Nam cho rằng, các
đơn vị tham gia đã thực hành nhiều hình thức chiến thuật để đạt được mục
tiêu lớn. Nổi bật là dùng phương pháp tiến công hiệp đồng binh chủng để
tiêu diệt cứ điểm riêng lẻ trong thời gian ngắn, hay như chiến thuật vây
hãm, vây lấn, xây dựng trận địa bám trụ dài ngày dưới hỏa lực máy bay
Mỹ. Bộ đội cũng sử dụng chiến thuật chốt kết hợp vận động tiến công để
đánh quân Mỹ đổ bộ đường không ngay khi họ tiếp đất…
Cách đây tròn 50 năm, thực hiện chủ
trương của Bộ Chính trị; Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết
định mở Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh, nhằm nghi binh chiến
lược, thu hút, giam chân, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân
Mỹ - Ngụy. Đòn nghi binh chiến lược này đã giành thắng lợi to lớn, cả về
chính trị và quân sự; góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, làm thay đổi cục diện chiến trường,
đập tan ý chí xâm lược của Mỹ, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu
nước của nhân dân Việt Nam sang giai đoạn mới.
Báo cáo đề dẫn tại hội thảo, Thượng
tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng
cục Chính trị khẳng định: “Chiến thắng này là kết quả của đường lối lãnh
đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh;
tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần chiến đấu kiên cường, anh
dũng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, đặc biệt là các lực lượng
trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong suốt chiến dịch; thể hiện
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa
hậu phương với tiền tuyến; đồng thời, đánh dấu sự phát triển vượt bậc
của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Chiến thắng mang tầm vóc và ý nghĩa
chiến lược quan trọng, gây chấn động nội tình nước Mỹ và thế giới, viết
nên “một câu chuyện thần kỳ”, góp phần đảo lộn thế chiến lược của địch
trên chiến trường, giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của giới cầm
quyền Nhà Trắng, trở thành biểu tượng sức mạnh, ý chí quyết tâm và lòng
tự hào của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.
Ban Tổ chức hội thảo đã nhận được gần 80
báo cáo, tham luận của các cơ quan Trung ương, các đồng chí lãnh đạo,
nguyên lãnh đạo Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, các địa phương, các
tướng lĩnh, sĩ quan, nhân chứng lịch sử, các nhà khoa học trong và ngoài
Quân đội. Các tham luận khoa học đã đề cập một cách toàn diện, phong
phú, sâu sắc xoay quanh chủ đề Hội thảo, tiếp tục khẳng định và làm rõ
sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung
ương, sự kịp thời linh hoạt và kiên quyết trong chỉ đạo, điều hành chiến
dịch, nghệ thuật chỉ huy tác chiến của các lực lượng vũ trang, tinh
thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, mưu trí sáng tạo của các lực lượng
tham gia chiến dịch.
Hội thảo cũng làm rõ âm mưu, thủ đoạn
xảo quyệt, bản chất hiếu chiến ngoan cố của Mỹ và chính quyền Sài Gòn
trong việc thiết lập phòng tuyến Đường 9 - Khe Sanh nhằm ngăn chặn nguồn
chi viện chiến lược từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn miền
Nam qua tuyến vận tải Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước.
Quân Mỹ tháo chạy trước hỏa lực của Quân Giải phóng tại Khe Sanh.
Trong bản tham luận “Chiến thắng Đường 9
- Khe Sanh 1968 với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa (XHCN) trong giai đoạn hiện nay”, Đại tướng Ngô Xuân Lịch,
Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: “Đây là dịp để
chúng ta ôn lại truyền thống của dân tộc, về những ngày tháng hào hùng
của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước; đồng thời, nhận thức sâu
sắc hơn về những bài học kinh nghiệm đã làm nên thắng lợi của chiến
dịch để tiếp tục nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, có hiệu quả vào quá
trình xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng; thực hiện thắng lợi sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN”.
Theo ông Lịch, thắng lợi của Chiến dịch
không chỉ có ý nghĩa chiến lược trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước
mà còn để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, cần được tiếp tục
nghiên cứu, vận dụng sáng tạo, hiệu quả vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã nêu 5 bài
học kinh nghiệm từ thắng lợi của Chiến dịch gồm: Một là, bài học về sự
lãnh đạo, chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo, chủ động nắm vững tình
hình, lựa chọn chính xác mục tiêu, địa bàn chiến dịch và khu vực (hướng)
tác chiến chủ yếu; Hai là, bài học về quán triệt tư tưởng liên tục tiến
công, nêu cao ý chí quyết tâm chiến đấu, xây dựng quân đội vững mạnh về
chính trị; Ba là, bài học về xác định chính xác phương châm chỉ đạo tác
chiến, vận dụng linh hoạt các hình thức chiến thuật để giành thắng lợi;
Bốn là, bài học về tổ chức sử dụng lực lượng, phối hợp chặt chẽ giữa
các chiến trường; Năm là, bài học về phát huy vai trò hậu phương chiến
tranh nhân dân và công tác bảo đảm hậu cần chiến dịch.
Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch khẳng định: “Để
phát huy sức mạnh của hậu phương chiến tranh nhân dân, cả hệ thống chính
trị, các cấp, các ngành, các đoàn thể, trong đó lực lượng vũ trang nhân
dân là nòng cốt phải thấm nhuần đường lối, chủ trương của Đảng; phải
coi trọng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm
vụ quân sự, quốc phòng ở các bộ, ngành Trung ương và địa phương, tạo sự
chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức của cán bộ, đảng viên và toàn dân đối
với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tập trung xây dựng nền quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, xây dựng
tiềm lực và thế trận khu vực phòng thủ ngày càng vững chắc trên từng địa
bàn chiến lược, xây dựng “thế trận lòng dân”, nhằm huy động và phát huy
cao độ sức mạnh toàn dân trong bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh toàn
dân, toàn xã hội, với thế trận quốc phòng toàn dân phải được chuẩn bị từ
thời bình, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi
có chiến tranh xảy ra, bảo đảm giành thắng lợi trong mọi tình huống”.
Tối 8/7, tại thị trấn Khe Sanh,
huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị cũng đã diễn ra Lễ kỷ niệm 50 năm chiến
thắng Đường 9- Khe Sanh. Đây là dịp tôn vinh những chiến công hào hùng
của quân và dân ta, đồng thời tưởng nhớ, tri ân sâu sắc những anh hùng
liệt sỹ đã ngã xuống vì độc lập, tự do của Tổ quốc.“50 năm, sau ngày giải phóng, từ trong hoang tàn đổ nát do hậu
quả chiến tranh để lại, Hướng Hóa đã đoàn kết, nỗ lực phấn đấu vươn lên,
khắc phục khó khăn nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh, ra sức
kiến thiết, xây dựng và phát triển quê hương khá toàn diện, nhờ vậy mà
đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện.
Đường 9 - Khe Sanh một thời hoa lửa, giờ đây đã trở thành con đường của
hội nhập và phát triển trên tuyến Hành lang kinh tế Đông-Tây”- ông
Nguyễn Văn Hùng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị nhấn mạnh tại buổi lễ.
Lam Hạnh
Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh: Tầm vóc và bài học lịch sử
(ĐCSVN) - Ngày 9/7, tại Nghệ An, Bộ Quốc phòng đã tổ
chức hội thảo khoa học “Chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh: Tầm vóc và bài
học lịch sử”.
Các đồng chí chủ trì Hội thảo.
Thượng
tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương,
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung
ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm tổng cục Chính
trị; Trung tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân
ủy Trung ương, Tư lệnh Quân khu 4; đồng chí Phạm Đức Châu, Phó Bí thư
Thường trực Tỉnh ủy tỉnh Quảng Trị; Thiếu tướng Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện
trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam chủ trì hội thảo.
Tham
dự có các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Bộ Quốc phòng; đại diện
lãnh đạo các bộ, ngành, Trung ương, các đồng chí lão thành cách mạng,
tướng lĩnh, sỹ quan, các nhà khoa học; lãnh đạo các tỉnh thành phố; các
đơn vị trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Phát
biểu khai mạc Hội thảo, Thượng tướng Lê Chiêm, Ủy viên Trung ương Đảng,
Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh, trên cơ
sở của quá trình nghiên cứu trước đây, hội thảo lần này nhằm tiếp tục
khẳng định tầm vóc, ý nghĩa to lớn, nguyên nhân thắng lợi, những bài học
kinh nghiệm của chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh Xuân Hè 1968, đồng thời
làm sáng tỏ hơn một số vấn đề cơ bản: Sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của
Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, sự chủ động, sáng tạo của
các cơ quan trong chỉ đạo, điều hành chiến dịch; tinh thần chiến đấu
ngoan cường, dũng cảm, mưu trí của các lực lượng tham gia chiến dịch; âm
mưu, thủ đoạn xảo quyệt, bản chất hiếu chiến, ngoan cố của đế quốc Mỹ
và chính quyền Sài Gòn trong việc thiết lập phòng tuyến Đường 9 – Khe
Sanh để ngăn chặn nguồn chi viện chiến lược từ hậu phương lớn miền Bắc
cho tiền tuyến miền Nam qua tuyến vận tải Trường Sơn – Đường Hồ Chí
Minh.
Hội thảo “Chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh: Tầm vóc và bài học lịch sử”.
Báo
cáo đề dẫn tại hội thảo, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa, Ủy viên Trung
ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam khẳng định, chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh
là biểu tượng sáng ngời của ý chí kiên cường, tinh thần quật khởi, quyết
tâm chiến đấu, hy sinh vì nền độc lập, tự do của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với chiến dịch
Đường 9 – Khe Sanh, lần đầu tiên trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, quân dân ta mở chiến dịch tiến công hiệp đồng quân binh chủng, đột
phá trực tiếp vào tuyến phòng ngự mạnh của quân Mỹ, đánh bại các sư
đoàn thủy quân lục chiến, kỵ binh không vận của quân đội viễn chinh Mỹ,
buộc chúng phải tháo chạy khỏi Khe Sanh.
Gần
80 tham luận gửi tới hội thảo của các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng,
Tổng cục Chính trị, Bộ Tổng tham mưu, các địa phương, quân khu, quân
đoàn, các học viện nhà trường, viện nghiên cứu, nhân chứng lịch sử, các
nhà khoa học trong và ngoài quân đội thể hiện rõ sự kế thừa kết quả
nghiên cứu về cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mậu Thân 1968, nói chung,
Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh nói riêng.
Các
tham luận tập trung luận giải 5 vấn đề chủ yếu như: “Chiến thắng Đường
9- Khe Sanh 1968 - thành công xuất sắc trong chỉ đạo chiến lược, của Bộ
Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”; “Đường 9 –
Khe sanh – nơi đấu trí, đấu lực quyết liệt giữa ta và địch”; “Chiến
thắng Đường 9 – Khe Sanh hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ nghi binh chiến
lược, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi
dậy Mậu Thân 1968”; “Chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh 1968, đánh dấu bước
phát triển về nghệ thuật quân sự trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước”; “Chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh 1968 thể hiện tinh thần quyết
chiến, quyết thắng của quân và dân ta”.
Các
tham luận tại Hội thảo đã tập trung phân tích tình hình, bối cảnh trong
nước và quốc tế khi diễn ra chiến dịch, quá trình chuẩn bị, đảm bảo tác
chiến hiệp đồng quân binh chủng của các lực lượng, sự chi viện của hậu
phương miền Bắc, đóng góp của quân, dân trên địa bàn chiến dịch; nét đặc
sắc của nghệ thuật tổ chức, điều hành chiến dịch, ảnh hưởng của chiến
thắng Đường 9 – Khe Sanh 1968 đến thế và lực của ta trong Cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy Mậu Thân 1968, qua đó tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm
những kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn từ thành công của
chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh; nhận định chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh
là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố cơ bản, trong đó nghệ thuật chỉ
đạo, điều hành chiến tranh độc lập, sáng tạo của Đảng giữ vai trò quyết
định.
Các
tham luận cũng đã thể hiện rõ sự kết thừa kết quả nghiên cứu về cuộc
Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 nói chung, chiến dịch Đường 9 –
Khe Sanh nói riêng, đồng thời đi sâu luận giải những vấn đề về nguyên
nhân thắng lợi, diễn biến, ý nghĩa to lớn của chiến dịch.
Thiếu
tướng Nguyễn Hoàng Nhiên, Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam cho
rằng, với độ lùi 50 năm, sự kiện chiến thắng Đường 9 – Khe Sanh đã được
nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc hơn, đặc biệt về tầm vóc, bài học
lịch sử để làm cơ sở vận dụng trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc
hiện nay. Đặc biệt, nhiều kinh nghiệm, bài học được đúc rút ra từ sự
kiện lịch sử này thực sự là những bổ sung quan trọng cho lý luận nghệ
thuật quân sự Việt Nam; còn nguyên giá trị nghiên cứu, vận dụng vào sự
nghiệp xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Tin, ảnh: Mạnh Hùng
Khẳng định tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của Chiến thắng Đường 9-Khe Sanh
(Chinhphu.vn) – Chiến thắng
Đường 9-Khe Sanh (1968-2018) có ý nghĩa lịch sử to lớn cả về chính trị
và quân sự; góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Mậu Thân 1968, làm thay đổi cục diện chiến trường, đập tan ý
chí xâm lược của Mỹ, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
nhân dân ta bước sang giai đoạn mới.
Toàn cảnh họp báo. Ảnh VGP/Nguyễn Hoàng
Bộ Quốc phòng tổ chức họp báo giới thiệu về Hội thảo khoa học cấp Bộ
Quốc phòng “Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh 1968 – Tầm vóc và bài học
lịch sử” vào sáng 4/7.
Hội thảo khoa học này sẽ được diễn ra
vào sáng 9/7 tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An với sự tham dự của các đại
biểu là lãnh đạo, đại diện Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu, Tổng cục
Chính trị, Tổng cục Hậu Cần, Tổng cục Kỹ thuật; Viện lịch sử Đảng; Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; tỉnh ủy các tỉnh: Quảng Trị, Thừa
Thiên - Huế, Quảng Bình; các nhân chứng lịch sử, tướng lĩnh quân đội,
các nhà khoa học;…
Hội thảo được tổ chức nhân kỷ niệm 50
năm Chiến thắng Đường 9-Khe Sanh (1968-2018) với mục đích tiếp tục khẳng
định và làm rõ: Sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và
Quân ủy Trung ương; sự kịp thời, linh hoạt và kiên quyết trong chỉ đạo,
điều hành chiến dịch; nghệ thuật chỉ huy tác chiến của các lực lượng vũ
trang; tinh thần chiến đấu ngoan cường, dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của
các lực lượng tham gia chiến dịch.
Đồng thời làm rõ âm mưu, thủ đoạn xảo
quyệt, bản chất hiếu chiến, ngoan cố của đế quốc Mỹ và Ngụy quyền Sài
Gòn trong việc thiết lập phòng tuyến Đường 9-Khe Sanh nhằm ngăn chặn
nguồn chi viện chiến lược từ hậu phương lớn miền Bắc cho tiền tuyến lớn
miền Nam qua tuyến vận tải Trường Sơn – đường Hồ Chí Minh trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Hội thảo cũng nhằm khẳng định tầm vóc, ý
nghĩa, nguyên nhân thắng lợi, đúc rút những bài học kinh nghiệm về lãnh
đạo, chỉ đạo chiến lược, sự phát triển của nghệ thuật quân sự; phát
huy, vận dụng sáng tạo vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Từ mục đích nêu trên, nội dung Hội thảo
sẽ tập trung vào các nhóm vấn đền lớn là: Bối cảnh diễn ra Chiến dịch
Đường 9-Khe Sanh 1968. Chủ trương chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí
Minh – nhân tố quyết định thắng lợi của Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh;
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy, Bộ Quốc phòng, các cấp ủy địa
phương trên địa bàn chiến dịch.
Diễn biến, nghệ thuật chỉ đạo, điều
hành, phối hợp hiệp đồng chiến đấu của các lực lượng, công tác tổ chức,
bảo đảm tạo sức mạnh tổng hợp trong Chiến dịch Đường 9-Khe Sanh.
Bước phát triển mới của nghệ thuật quân
sự Việt Nam trong chiến dịch. Đánh giá tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi của
Chiến dịch đối với sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; chỉ ra
nguyên nhân, bài học kinh nghiệm vận dụng vào thực tiễn xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc hiện nay…
Các tham luận tại hội thảo, bài viết của
các nhân chứng lịch sử sẽ được biên tập, in thành sách; đây là nguồn
tài liệu tuyên truyền, học tập, giáo dục, nghiên cứu về lịch sử có giá
trị, bổ ích, thiết thực đối với lực lượng vũ trang và nhân dân.
Cách đây tròn 50 năm, thực hiện chủ
trương của Đảng; Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh đã quyết định mở
Chiến dịch tiến công Đường 9-Khe Sanh, nhằm nghi binh chiến lược, thu
hút, giam chân, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận chủ lực quân Mỹ-Ngụy.
Đòn nghi binh chiến lược Đường 9-Khe
Sanh đã giành thắng lợi to lớn, cả về chính trị và quân sự; góp phần
quan trọng vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân
1968, làm thay đổi cục diện chiến trường, đập tan ý chí xâm lược của Mỹ,
đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam bước
sang giai đoạn mới.
Chiến thắng Đường 9-Khe Sanh 1968 là kết
quả của đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, đứng đầu là
Chủ tịch Hồ Chí Minh; tiêu biểu cho trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần chiến
đấu kiên cường, anh dũng của toàn Đảng, toàn dân toàn quân ta, đặc biệt
là các lực lượng trực tiếp chiến đấu, phục vụ chiến đấu trong suốt quá
trình chiến dịch; thể hiện sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, sự phối
hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa hậu phương với tiền tuyến; đồng thời đánh
dấu sự phát triển vượt bậc của nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời
đại Hồ Chí Minh./.
Nguyễn Hoàng
Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh gây chấn động thế giới tròn 50 năm
(Baonghean.vn) - Sáng 9/7, tại TP Vinh (Nghệ
An), Bộ Quốc phòng tổ chức Hội thảo khoa học “Chiến thắng Đường 9 - Khe
Sanh 1968, tầm vóc và bài học lịch sử".
Dự hội thảo có Thượng tướng Lê Chiêm - Ủy
viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Nguyễn
Trọng Nghĩa - Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị;
Trung tướng Nguyễn Tân Cương - Ủy viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Quân
khu 4.
Từ
phải qua: Đại tướng Phùng Quang Thanh, Thượng tướng Phạm Thanh Ngân và
Trung tướng Nguyễn Tân Cương tại hội thảo. Ảnh: Tiến Hùng
Cùng dự hội thảo còn có Đại tướng Phùng Quang Thanh - nguyên Ủy viên
Bộ Chính trị, nguyên Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Phạm Thanh
Ngân - nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.
Ngoài ra, còn có đại diện Tỉnh ủy các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế; các tướng lĩnh, sỹ quan cao
cấp đang là lãnh đạo, nguyên lãnh đạo các đơn vị quân đội. Cách đây tròn 50 năm, các đơn vị chủ công của Quân đội nhân dân Việt
Nam đã mở Chiến dịch tiến công Đường 9 - Khe Sanh, nhằm mục đích nghi
binh chiến lược, thu hút, giam chân, tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận
sinh lực quân Mỹ. Đòn nghi binh này đã giành thắng lợi to lớn cả về
chính trị lẫn quân sự, góp phần vào thành quả của cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Mậu Thân 1968; làm thay đổi cục diện chiến trường, đập tan ý
chí xâm lược của Mỹ, đưa sự nghiệp kháng chiến bước sang giai đoạn mới.
Quang cảnh hội thảo. Ảnh: Tiến Hùng
Điểm lại cục diện chiến trường thời điểm đó, Thượng tướng Nguyễn
Trọng Nghĩa cho hay, đầu năm 1965, trước sự phá sản của chiến lược
“Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ nhanh chóng triển khai chiến lược “Chiến
tranh cục bộ”, ồ ạt đưa lính Mỹ cùng quân đồng minh vào miền Nam. Tuy
nhiên, Mỹ đã không những không thực hiện được âm mưu phá hoại, kết thúc
chiến tranh bằng quân sự của mình mà ngày càng sa lầy trong cuộc chiến…. “Nhận thấy sự lúng túng, bế tắc của Mỹ, Bộ Chính trị đã quyết định mở
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, dùng đòn tiến công của
bộ đội chủ lực vào hệ thống phòng thủ của Mỹ ở Đường 9 - Khe Sanh, kết
hợp với đòn tiến công chiến lược chủ yếu đánh vào thị xã, thành phố
trọng điểm là Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng đồng thời phát động người dân nổi
dậy”, Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa nói.
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Lê Chiêm phát biểu khai mạc hội thảo. Ảnh: Tiến Hùng
Từ đêm 20/1/1968, quân và dân ta bắt đầu tổ chức tiến công tập đoàn
phòng ngự Đường 9 - Khe Sanh của Mỹ. Trải qua hơn 170 ngày đêm chiến đấu
gian khổ, ngày 15/7/1968, Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh kết thúc thắng
lợi. “Chiến thắng Đường 9 - Khe Sanh mang tầm vóc và ý nghĩa chiến lược
quan trọng, gây chấn động nội tình nước Mỹ và thế giới, viết nên một
“câu chuyện thần kỳ”. Góp phần đảo lộn thế chiến lược trên chiến trường,
giáng đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của giới cầm quyền Nhà Trắng…”,
Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa nhấn mạnh.
Các tướng lĩnh quân đội trao đổi bên lề hội thảo. Ảnh: Tiến Hùng
Hội thảo lần này, Ban Tổ chức đã nhận được gần 80 báo cáo, bài tham
luận khoa học của một số cơ quan Trung ương, các đồng chí lãnh đạo,
nguyên lãnh đạo Quân ủy Trung ương…. Tham luận tại hội thảo, các đại
biểu đã tập trung đi sâu, luận giải những vấn đề như chiến thắng gắn
liền với dấu ấn chỉ đạo chiến lược của Bộ Chính trị; phân tích đặc điểm,
tính chất của cuộc đối đầu giữa ta và địch tại Đường 9- Khe Sanh….
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét